2020-03-02, 07:46 AM
Sư Toại Khanh giảng Đại Kinh Sư Tử Hống (Trung Bộ Kinh - MN12) và Tăng Chi Bộ Kinh 6.64 (1-3)
https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/Youtube%202019/20190603.KTC.6.64%20S%C6%B0%20T%E1%BB%AD%20H%E1%BB%91ng
MN12 - Đại Kinh Sư Tử Hống (# 92-95), p 7:
https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung12.htm
KTC.6.64 Sư Tử Hống (#180), p.12
14/09/2019 - 07:52 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Kính thưa đại chúng, hôm nay các vị có nghe rõ không? Chúng tôi ôn lại một tí cái bài hôm qua vì hôm qua chúng ta bị trục trặc về kỹ thuật cũng uổng, phải ôn lại thôi, nhưng mà dĩ nhiên ôn lại chút xíu chớ không có nói nhiều như hôm qua được.
Các vị vào ở trong Trung bộ kinh, cái bài Đại kinh Sư tử hống trong đó Đức Phật Ngài có dạy về 10 cái sức mạnh của một vị Phật gọi là thập lực, 10 sức mạnh tinh thần của Đức Phật. Với 10 sức mạnh đó, giống như một người có đầy đủ tiền bạc, sức khỏe, uy tín đi vào một hội chúng nào thì cũng cảm thấy tự tại, an tâm, không có e dè, khiếp sợ.
Có sức khỏe, có tiền bạc, có học vị, có uy tín, có chức vụ có quyền lực, có năm cái này thì đi vào bất cứ một cái hội chúng nào cũng cảm thấy an lòng, cảm thấy tự tin. Ở đây một vị Chánh đẳng chánh giác khi Ngài hội đủ 10 cái sức mạnh tinh thần, Ngài có thể có mặt ở vô lượng vũ trụ, ở tất cả các hội chúng, chư thiên, ma vương, phạm thiên, rồi sa môn, bà la môn, những đại gia, tướng lãnh, triều thần, vua chúa, công hầu, khanh tướng đối với Ngài chuyện đó không thành vấn đề.
Hoằng pháp là lấy cái trí, cái đức của mình đi dạy đời thì đâu có cần cái này cái kia, đúng không? Nhưng mà nó kẹt ở chỗ này: Không đủ đức độ thì làm sao đi vào được trong các hội chúng? Mà có những người trí tuệ rất nhiều, phước báu rất nhiều, quyền lực rất nhiều họ sẽ khó có cái lòng kính tin lắm. Cho nên một vị Phật là hội đủ tất cả những điều kiện để làm cha lành của ba cõi, làm thầy dạy cho chư thiên và loài người.
Trong Đại kinh Sư tử hống thì Đức Phật kể đến 10 cái trí riêng của Đức Như Lai, nhưng mà riêng về ở trong cái kinh này (KTC 6.64 Sư Tử Hống) thì Ngài kể có 6 thôi, nhưng mà 6 cái này bao trùm luôn cả 10 cái kia và 10 cái kia có cả 6 cái này. Chênh lệch 6, 10 nhưng mà nội dung thì không có khác nhau.
1/ Thị xứ phi xứ lực
Cái trí thứ nhất trong bài kinh này là thị xứ phi xứ lực, có nghĩa là Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni nói riêng và tất cả Chư Phật ba đời mười phương nói chung, các Ngài có cái trí đầu tiên đó là thị xứ phi xứ lực, có nghĩa là các Ngài biết rất rõ cái gì hợp lý, cái gì vô lý, cái gì có thể xảy ra và cái gì không thể xảy ra.
Như hôm qua tôi có giải thích, đó là ở vị thinh văn, ở vị La hán bình thường, vô danh các Ngài cũng biết rất là nhiều chuyện, cái gì là có thể xảy ra và cái gì không thể. Thí dụ như các Ngài biết vạn hữu ở đời do duyên mà có, có rồi phải bị mất. Các Ngài biết rằng làm lành luôn dẫn đến quả vui, hỷ lạc; làm ác luôn dẫn đến quả khổ, ưu; các Ngài biết rất rõ chuyện đó. Các Ngài biết rất rõ là có chứng đắc thiền định thì mới có thể về Phạm thiên, chỉ tu thập thiện mà cấp thấp thì về các cõi dục thiên hoặc là loài người. Phải tu đúng Bát Chánh Đạo thì mới chứng được thánh quả giải thoát. Đây là những cái rất là căn bản.
Nhưng mà ngoài những cái này ra thì các vị cũng đồng ý với tôi, đó là cái chuyện hợp lý và cái chuyện vô lý trong đầu của một ông tiến sĩ không giống như một anh tú tài, hoặc nó càng không giống trong đầu của một anh mù chữ. Đối với anh mù chữ, cái chuyện mà ảnh cho là hợp lý hoặc là cái chuyện mà ảnh cho là vô lý nó chỉ là một phần nhỏ so với cái biết của ông tiến sĩ. Thí dụ một cái anh mà không biết chữ làm sao mà ảnh có thể hình dung được cái chuyện mà trong tíc tắc người bên kia đại dương có thể nói chuyện và nhìn mặt người bên đây đại dương, chuyện đó rất khó, trừ phi trên tay ảnh cầm cái phone, ảnh cầm trên tay cái ipad, chứ nếu mà không có hai cái đó thì làm sao mà ảnh có thể ngồi ảnh hình dung, tưởng tượng ra được. Mặc dù cái đó là chuyện hợp lý, chuyện có thể xảy ra nhưng mà nó quá cái mức tưởng tượng của ảnh, quá cái tầm hiểu biết của anh.
Ở đây cũng vậy, cái tầm hiểu biết của vị thanh văn kể cả vị độc giác bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thời gian là gì? Thời gian là vị độc giác tối đa biết về quá khứ, biết về tương lai gói gọn trong 2 A tăng kỳ 100 ngàn đại kiếp. Hai vị thượng thủ thinh văn là Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên thì cái biết về quá khứ, cái biết về tương lai cũng gói gọn trong 1 A tăng kỳ 100 ngàn đại kiếp. 80 vị đại đệ tử thì cái biết cũng chỉ gói gọn trong 100 ngàn đại kiếp. Rồi còn dưới mức đó thì bất định, là chênh lệch ít hơn v v...Đó là giới hạn về thời gian.
Còn cái giới hạn về không gian là một vị đệ nhất thiên nhãn như là Ngài Anuruddha, đệ nhất hàng đầu về thiên nhãn thì cái tầm nhìn của vị này không vượt khỏi 10 ngàn thế giới, 10 ngàn vũ trụ. Tức là mỗi vũ trụ như vậy có 1 mặt trăng, 1 mặt trời thì Ngài không có thể nhìn qua khỏi cái ranh giới đó. Nhưng mà riêng vị Chánh đẳng giác thì sao? Unlimit, ... Thatagato… Đức Như Lai hướng tâm tới cái gì thì lập tức biết ngay cái đó, là điểm đặc biệt của vị Chánh đẳng chánh giác. Cho nên từ chỗ đó cái chuyện mà vị thinh văn biết có thể xảy ra, cái chuyện đó chỉ là một phần rất là nhỏ so với cái chuyện mà vị Chánh đẳng giác biết có thể xảy ra, đại khái như vậy.
06:01
25/09/2019 - 08:22 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Như hôm qua tôi có nói các vị Thinh văn nếu không học giáo lý, không học trực tiếp từ Đức Phật thì vị đó làm sao có thể hình dung được cái phép song thông một lúc mà có thể nhập vào hai cái đề mục lửa và nước để mà biến hiện gọi là thủy hỏa mà cùng một lúc thì rất là khó, là quả tam muội, cái chuyện đó ngoài cái tầm, ngoài cái khả năng của vị Thinh văn nhưng đối với vị Chánh đẳng giác cái chuyện đó bình thường, nha. Hôm qua tôi kể về một loạt những cái chuyện đặc biệt, thí dụ như từ cái thiên nhãn, thiên nhĩ cho tới cái trí quá khứ, trí vị lai, ngay cả cái ý hóa thông, cái khả năng biến hiện ra nhiều người của vị Thinh văn chỉ là một phần rất là nhỏ so với vị Chánh đẳng giác.
Cho nên cái trí đầu tiên của Đức Phật là biết rõ cái gì có thể và không có thể, cái phần này của Ngài là không có giới hạn bởi không gian và thời gian. Các Ngài không có bị giới hạn bởi một tỷ vũ trụ, hai tỷ, một ngàn tỷ, không có. Vị Chánh đẳng giác không có bị giới hạn cái đó. Dĩ nhiên trong đầu của nhiều người trong room mình thì các vị nghe cái đó cái vị thấy nó hơi phong thần nhưng mà giờ tôi biết làm sao đây?
2/ Biết rõ về cái nghiệp của chúng sanh, nghiệp lý
Tiếp theo là Đức Như Lai biết rất rõ vấn đề nghiệp lý tới nơi tới chốn bởi vì chúng ta biết rằng khi nói tới nghiệp có hai khía cạnh đó là tổng nghiệp và biệt nghiệp.
Tổng nghiệp là sao? Tức là chung chung và đại khái, như hồi nãy tôi nói đó, tổng nghiệp thí dụ như mình biết rằng hễ bố thí thì kiếp sau sanh ra thoải mái về vật chất; hiếu học Phật Pháp, siêng học Phật Pháp đời sau sanh ra có nhiều trí tuệ; có nhiều từ tâm thì đời sau sanh ra được tuổi thọ, được nhan sắc, được nhiều người mến thương; tu tập về thiền định thì kiếp sau dễ đắc thiền, tu chánh niệm thì kiếp sau sanh ra có trí nhớ tốt và cuối cùng dễ dàng tu tứ niệm xứ, đại khái như vậy. Đó là tổng nghiệp.
Biệt nghiệp là sao? Biệt nghiệp có nghĩa là hai người cùng lúc làm một việc bố thí cho cùng một đối tượng, cùng bỏ tiền ra, cùng mua một dĩa cơm, cùng quì xuống, cùng lúc cúng dường cho một đối tượng nhưng mà cái công đức ở hai người này hoàn toàn khác nhau và khác nhau ở mức độ nào, khác như thế nào với những chi tiết gì thì vị Thinh văn chỉ biết được một phần thôi, chớ còn vị Chánh đẳng giác các Ngài biết còn nhiều nhiều nhiều hơn như vậy, biết cho đến tận cùng như là Ngài muốn, nha. Hiểu biết về nghiệp lý là như vậy.
Như ngày hôm qua tôi nói học về sáu cái trí này của Đức Thế Tôn không phải là mình học về cái chuyện của Ngài, hỏng phải, học chuyện của Ngài là một nửa và một nửa là mình học cho mình. Chẳng hạn như cái trí thứ nhất Đức Như Lai biết rất rõ chuyện gì có thể và không có thể, chuyện gì là vô lý, chuyện gì là hợp lý, thì qua cái trí đó của Ngài mình rút được bài học gì? Thì ra, thì ra cái biết của mình hạn chế như vậy, mà mình biết mình hạn chế có nghĩa là mình đã đi một bước rất là xa.
Cái biết cần thiết nhất, hay nhất mà con người cần phải có trước nhất đó chính là biết được cái chỗ khuyết, chỗ thiếu của mình, xin thưa quí vị. Xin các vị nhớ dùm cái này, cái này quan trọng lắm nha. Biết được mình biết cái gì nó không có bằng biết được, chú ý được, phát hiện được cái mà mình không biết, cái đó nó mới hay, các vị nghe hiểu không? Có nghe tôi nói kịp không?
Biết được cái sở đoản của mình nó rất là quan trọng và có nhiều trường hợp nó còn quan trọng hơn cái sở trường của mình nữa. Bởi vì cái sở trường của mình mình không biết tới nó thì nó vẫn là cái ruột của mình, nhưng mà cái sở đoản nếu mà mình không lưu ý tới nó là mình sẽ chết như chơi, trong room có hiểu cái này không?
Thí dụ như con nhà võ, mình biết mình xài bộ tay rất là giỏi nhưng mà mình biết bộ chân mình xài dở ẹc hà, hoặc mình giỏi bộ chân mà bộ tay mình dở. Cái chuyện mà bộ chân mình giỏi đó, mình có thể quên nó hỏng sao hết nhưng mà cái bộ tay mình mà mình không có giỏi chơi bộ tay, mình giỏi về cước, về thối, thối thì bắt chân, nhưng quyền mình dở, thì mình phải nhớ rõ cái đó, mình phải biết cái nhược của mình, mình chết là chết cái chỗ mình không biết cái nhược của mình đó.
Cho nên cái chuyện mà ta biết cái điều ta hiểu, mình biết bao nhiêu nó cũng hay, cũng quan trọng đó; nhưng mà nó không có quan trọng bằng chuyện ta biết mình dốt. Luôn biết được mình dốt rất là quan trọng.
Ở đây cũng vậy, khi mà mình học về chuyện mà các Đức Như Lai biết rõ cái gì vô lý, cái gì hợp lý, cái gì có thể và không có thể, thì mình mới nghĩ về mình, mình nói "Ồ thì ra, cái biết của mình còn quá hạn chế". Có nhiều cái mình tưởng nó đúng nhưng mà chưa chắc, có nhiều cái mình tưởng nó hay nhưng mà chưa chắc.
Như ngày hôm qua tôi nói, ở ngoài đời tôi làm sao tôi có nhiều tiền, tôi làm sao tôi có được mái ấm gia đình ngon lành, vậy là xong, tôi tưởng vậy là nhất rồi. Cả đời tôi cứ cắm đầu gục mặt ở trong cái mái ấm gia đình, trong cái đống tiền, ăn rồi cứ le lưỡi đếm từng đồng, từng đồng, đối với tôi là số một. Nhưng mà có những cái nó còn hơn cái đó nữa, đó là khi mà mình có được đời sống tinh thần của một người Phật tử, mình biết giữ giới, mình biết tu thiền, mình biết bố thí, mình biết từ tâm, mình biết chánh niệm, đủ chưa? Chưa đủ.
Vấn đề ở chỗ là mình biết mình chưa đủ, chứ khi mà các vị không biết được là mình còn có điểm khiếm khuyết, còn có điểm bổ xung, còn có điểm chỉnh sửa, khi mà các vị không có để ý cái mặt đó mà cứ để ý mình đã làm được gì thì coi chừng chết, coi chừng chết nha.
Cho nên nhớ cái câu này: "Học về Phật, học về Thánh hiền nói chung là không phải để mình học mình coi mình có cái gì không, mà mình còn phải biết rõ, nhớ chừng là mình đang thiếu cái gì?" Tôi e rằng cái phần mà biết mình thiếu đó, cái phần đó tôi e là nó quan trọng hơn, nha.
Tôi có thể quên ở nhà tôi có cái gì, cái đó tôi quên, cái đó hỏng chết, nhưng mà tôi phải nhớ nhà tôi thiếu cái gì. Sức khỏe tôi, tôi ngon lành cái mặt nào, cái phần đó tôi quên hỏng sao hết, nhưng mà tôi biết sức khỏe tôi cần phải bổ xung, cần phải điều chỉnh chỗ nào, cái đó mới là quan trọng. Còn cái chuyện các vị không đồng ý thì mặc xác, tôi chỉ nói vắn tắt, tôi đẹp trai, tôi có sức khỏe, tôi có thể quên hai cái đó không sao, nhưng mà tôi bị sạn thận nè, tôi bị tiểu đường, tôi bị cao máu nè, tôi bị tim thòng nè, cái đó tôi phải nhớ, mấy cái đó mà hỏng nhớ là chết dịch đó. Còn cái chuyện mà tôi đẹp trai, cái chuyện mà tôi khỏe mạnh, tôi cơ bắp, tôi cao ráo v v… cái đó tôi quên hỏng sao hết, nhưng mà mấy cái nhược của tôi tôi phải nhớ, tôi coi như là mất ngủ, suy nhược thần kinh, tôi bị tim thòng nè, tôi bị sạn thận nè, rồi tôi bị bao tử loét nè, tôi bị bác sĩ nghi ngờ cái này cái kia, đó, cái đó là cái tôi phải nhớ, cái đó quan trọng lắm.
12:39
Tiếp theo về nghiệp cũng vậy, mình đã tưởng mình đã hiểu rồi. Không, không đủ đâu quí vị, mình chỉ biết nhiều lắm là mình chỉ biết một mảnh vụn nhỏ xíu xìu xiu của cái gọi là tổng nghiệp thôi. Mình biết là làm cái đó được cái đó, làm cái đó được cái đó, làm cái đó được cái đó, nhưng mà mình quên nghĩ một chuyện đó là ngay trong lúc mà mình làm thiện đó, cái ác nó pha vô mà mình hỏng biết. Yah, bố thí mà bằng cái tâm ganh tỵ, bố thí mà bằng cái tâm tiếc của; bố thí mà bằng cái tâm bực mình, sân hận, hiềm khích; bố thí mà để cầu danh, để cầu lợi, chỉ riêng bố thí không mà nó kéo theo những phiền não nó chen vô mà mình hỏng có ngờ.
Cả buổi sáng, sắp tới mùa dâng y, còn 5 tháng nữa dâng y nè, các vị coi kỹ coi, ai mà làm thí chủ, nắng nôi thấy bà nội, nó nóng nó nực, người đông rần rần, khói nhang nghi ngút, tiếng ồn om sòm, rồi đã vậy mình nghe lời ong tiếng ve là bực mình, mà hôm đó mình là thí chủ lớn, đại thí chủ trong một ngôi chùa lớn, dâng y, thì mình phải coi cái khả năng buông bỏ của mình nó được bao nhiêu? Hôm nay mình không có còn nhớ bao nhiêu cái tỵ hiềm, bao nhiêu cái bực mình, sáng giờ mình gặp cái bản mặt nào mình không thèm màng, mình chỉ nghĩ đến một việc mình đang gieo cái duyên lành giải thoát, mình đang cúng dường vô thượng phước điền y cho chúng tăng, vậy là đủ rồi, còn cái chuyện gì ngoài ra bỏ. Còn không, nếu mà mình không có kiểm soát, thì ngay trong cái mà mình tưởng mình hiểu được cái nghiệp đó, còn rất là sơ sài.
Cho nên mình học ở đây mình thấy Đức Như Lai biết rất rõ về các nghiệp thì học cái đó để nhớ lại mình, mình tự xét mình đã hiểu được gì về nghiệp? Mình cứ tưởng là cúng dường trai tăng là có phước nhưng mà mình quên là mình đã cúng dường bằng cái tâm lý như thế nào? Kể cả mình đi vào thiền viện cũng vậy, mình cứ tưởng mình vào thiền viện là mình thành hành giả, sai, vào thiền viện mà có bao nhiêu phần trăm mỗi ngày anh sống chánh niệm? Và trong những giây phút anh sống chánh niệm ấy, cái mục đích, cái lý tưởng, cái cứu cánh cao nhất của anh là giải thoát hay anh còn tơ tưởng đến chuyện gì khác?
14:43
26/09/2019 - 09:02 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Ngay cả giữ giới cũng vậy, anh đừng có nói với tôi là anh không phạm giới là anh giữ giới. Tôi đã nói không biết là bao nhiêu lần, anh đừng có tưởng anh quăng ra là anh bố thí, bởi vì cái đó là to give chứ chưa chắc là give up, có nghĩa là mới cho nhưng chưa có buông, nha.
Giữ giới cũng vậy, không phạm giới chưa chắc là giữ giới bởi vì anh phải có những yếu tố tâm lý như thế nào đó mới gọi là giữ giới. Thí dụ, nếu anh nói với tôi không phạm giới là giữ giới vậy có một anh đang nằm ngủ thì ảnh đâu có phạm đâu, vậy là anh giữ giới à? Một đứa bé nằm nôi bú bình nó đang giữ giới à, bởi nó đâu có phạm gì đâu? Một người hôn mê liệt giường là đang giữ giới à? Một người đang nằm ngủ mê là đang giữ giới? Một đứa bé khù khờ, một người đang hôn mê lú lẫn là đang giữ giới bởi họ đâu có phạm gì đâu? Cho nên mình phải nói rõ giữ giới ở đây là ý thức kiêng tránh điều tội lỗi qua tam nghiệp, là ý thức intentionally một cách cố ý kiêng tránh điều xấu trong tam nghiệp thì cái đó mới gọi là giới. (LTP: Tam nghiệp là hành động tạo tác của thân, miệng, ý )
Còn cái chuyện mà anh ngủ khì cái lúc đó đâu gọi là giữ giới tại vì anh không có phạm, nhớ nha. Phải biết mấy cái này nè mình mới không có tiếp tục tu hành trong cái sự yên tâm không có tu hành trong cái kiểu cách trùm mền ngủ. Thường mình hay tu kiểu trùm mền ngủ lắm, có nghĩa là tự cho mình hiểu như vậy là được rồi, mình tu như vậy là được rồi. Nhưng mà nên nhớ cái này, chiếc xe bò không chạy thì mình đánh con bò chớ hỏng ai đánh cái thùng xe. Tu là mình đánh cái tâm của mình, tâm mình là con bò, tâm mình là con ngựa, tâm mình là con khỉ, mình phải dạy con bò, con ngựa, con khỉ đó chứ còn cái thân này nó là cái thùng xe, nhớ nha. Xe bò không chạy là đánh con bò chớ hỏng ai mà đánh cái thùng xe, đánh cái bánh xe, đánh cái căm xe, đánh cái trục, đánh cái ách, cái đồ ràng, dây buộc. Không có, nhớ cái đó.
3/ Biết rõ về thiền định
Tiếp theo Đức Như Lai biết rất rõ mọi chuyện, mọi chi tiết về thiền định, về thần thông. Các vị biết rồi mỗi vũ trụ, mỗi thế giới có ba cấp.
Vũ trụ có ba cái cảnh giới, tôi không kêu là cõi mà có ba cái cảnh giới tâm linh.
Một trăm năm ở cõi người mình tưởng nó lâu nhưng mà nó chỉ là một cái nháy mắt của chư thiên thôi, của phạm thiên thôi, và chúng ta cũng đồng ý là thời gian nó có hai thứ thời gian là thời gian địa quyển, là geological time, còn thời gian thứ hai gọi là mental time là thời gian tâm lý.
Thời gian geological time là sao? Đó là thời gian của địa hình, địa chất thí dụ biển xanh biến thành ruộng dâu rồi cái thời gian để mà núi lở sông bồi, hồi xưa chỗ này là đồi bây giờ nó là hồ, chỗ này hồi xưa là biển bây giờ nó thành cái hang. Thí dụ cái hang Huyền Không ở Đà nẵng, mình vô mình nhìn lên cái trần hang mấy vỏ ốc dầy đặc ở trển, ngày xưa nó ở dưới biển bây giờ nó trồi lên từ từ. Thời gian đủ để cho mấy cái lớp trầm tích, lớp vỏ trái đất hình thành nên những thay đổi như vậy cần đến hàng triệu năm và đó là thời gian lâu nhất. Thời gian thứ hai là thời gian của vật chất, là thời gian của một kiếp người. Thời gian của một kiếp người nó chỉ là một phần triệu, một phần tỷ của thời gian geological time.
Nhưng mà riêng thời gian mental time là thời gian tâm lý, có nghĩa là khi mà mình muốn cái gì đó lâu thì mình thấy nó ngắn, khi mà mình muốn cái gì đó ngắn thì mình sẽ thấy nó lâu, thời gian đó là thời gian tâm lý. Thì cái trăm năm, ngàn năm mình muốn nó dài hay ngắn thì khó nói lắm, thí dụ thời gian bị đọa thì ngàn năm nó lâu thiệt, nhưng mà nếu ngàn năm trên cõi trời thì nó ngắn lắm. Ngắn là do cái tâm tưởng của mình thôi chứ còn biết dựa vào đâu mà nói ngắn nói dài.
20:37
27/09/2019 - 01:02 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Cho nên khi mà tán thán Đức Như Lai hiểu rõ về thiền định thì mình phải nhớ cái này, thì ra cái mà Đức Như Lai lìa bỏ trước khi thành Phật là Ngài lìa bỏ thiền định chứ không phải lìa bỏ dục, dục là Ngài đã lìa bỏ trước đó rồi, nhớ nha. Cái mà Phật bỏ để thành đạo là các thiền chứ không phải dục nữa vì Ngài đã ly dục rồi mới đắc thiền. Nói vậy các vị có hiểu không?
Cái mà Phật bỏ để mà thành đạo là các thiền chứ không phải dục, có nghĩa là Ngài đã xa cảnh dục từ lâu rồi. Coi kỹ lại coi, trong cái đêm mà cuối cùng thành đạo là đầu hôm Ngài sống với túc mạng minh, canh giữa là sanh tử minh, canh cuối là lậu tận minh, có nghĩa là lúc đó dục nó đã cách Ngài ngàn trùng rồi.
Cho nên mình mới thấy là "Ồ thì ra cái cảnh giới của Đức Phật cách mình xa lắm, khoan nói đến cái trí tuệ, cái đức hạnh của Ngài. Chỉ nói đến cái khoản mà hành trình Ngài đi cách mình xa lắm. Ngài ly dục đợt một là sao ta?
Ly dục đợt một là bỏ ngôi vua mà đi, bỏ vợ đẹp con ngoan mà đi, bỏ hoàng cung sự nghiệp đế vương mà đi, đó gọi là ly dục đợt một. Ly dục đợt hai là khi Ngài vào trong rừng không màng đến chuyện ăn mặc và buông hết, sống lỏa thể trần truồng trong rừng sâu núi thẳm đó là ly dục đợt hai. Chớ không phải như mình, mình bỏ cái nhà là mình tưởng mình hay rồi, tới hồi đắp y sống sung sướng như một ông hoàng như vậy, đó là chưa.
Còn Ngài là Ngài làm từng đợt, từng đợt. Đợt một là Ngài bỏ hoàng cung, ngai vua; đợt hai là Ngài có thể sống một đời sống tu sĩ tiện nghi nhưng mà cũng không, Ngài bỏ hết. Mở dùm tôi bài kinh Đại kinh sư tử hống trong Trung bộ coi Ngài nói như thế nào về Ngài? Trong thời gian mà Ngài khổ tu 6 năm trời mình mẩy trần truồng bò lết vô trong cái chuồng bò, ăn phân bò rồi mới đi vệ sinh ra rồi ăn cái mà mình mới vừa bài tiết ăn ngược trở vô. Ngài làm đủ cách gọi là khó khăn cùng cực để chi? Bởi vì theo niềm tin của người thời đó là phải tự đày đọa như vậy để trục, để đuổi, để xua, để tống khứ cái trược phiền não của mình.
Hồi đó giờ do có thích mới có ghét, thích cái này mới có ghét cái kia, mà hễ có thích có ghét là phiền não, bây giờ mình dẹp hết mình không còn sống trong cái thích nữa thì như vậy mình sẽ không còn ghét, nghĩa là không còn khổ. Có nghĩa là mai này đã lên đến mức trần truồng ăn phân thì các vị tưởng tượng người đó nó còn cái gì nữa hả? Các vị có dám làm cái đó không? Trần truồng rồi ăn phân, phân của mình. Mình ăn phân bò xong mình đi ra rồi mình mới móc cái của mình mới vừa đi đó ăn ngược trở vô. Thì Ngài tính là Ngài thử qua tất cả các cái pháp khổ tu nhưng cuối cùng Ngài thấy không xong, Ngài thấy rằng khổ phải được thấy mới dẫn đến thoát khổ, chứ không phải là chịu khổ để thoát khổ.
Làm ơn nhớ cái câu này: "Phải thấy khổ để hiểu nó mới thoát khổ chớ không phải gồng mình chịu khổ rồi thoát khổ". Trong room này tôi nghĩ các vị có thấy cái đó, thí dụ như bây giờ mình bị nhức răng đi, ông nha sĩ ổng biết rất rõ vì đâu mà cái răng nó bị nhức, phải thấy rõ cái đó, phải thấy rõ cái chuyện nhức răng nó đến từ đâu, cái đau này đau chỗ nào và vì sao nó đau? Phải hiểu rất rõ đau răng hiểu tới nơi tới chốn rồi nha sĩ họ mới giải quyết cái nguồn cội của cái đau răng đó thì mình mới hết. Chứ còn mà quí vị ôm một họng sưng như là mõm lợn vậy làm sao mà cứ ôm vậy thì làm sao mà hết. Trong thời gian làm răng phải uống trụ sinh nè, phải ngậm muối nè, rồi phải ăn cháo, ăn súp, thậm chí là húp nước nữa kìa, ở Mỹ là ngậm nước súc miệng Listerine, giữ sạch nó xong rồi là đừng có để cho nó bị nhiễm trùng bằng cách là uống trụ sinh. Rồi nha sĩ coi cái nào phải nhổ thì nhổ, rút gân máu thì rút, nói chung là họ phải biết rất rõ mình đau chỗ nào và vì đâu mình bị đau họ mới giải quyết được.
Cái khổ chỉ có thể được giải thoát bằng cách là nhận thức, cho nên 4 việc phải làm đối với 4 đế là gì? Khổ đế cần được hiểu, tập đế cần được trừ, diệt đế cần được chứng, đạo đế cần được hành. Chớ khổ đế không phải là để mình gồng mình chịu, hổng phải.
Cho nên Ngài ly dục là bỏ hoàng cung là đợt một, ly dục đợt hai là Ngài từ chối luôn cả sự dễ chịu tối thiểu của một con người. Cái đợt một là từ bỏ cái nhu cầu tào lao của con người, danh lợi, tình yêu Ngài bỏ đó là đợt một. Bước hai ly dục của Ngài là từ bỏ nhu cầu thiết yếu của một con người là ăn, mặc, ở dẹp luôn; nhưng mà Ngài thấy coi bộ cái này hỏng xong, nó hơi bị cực đoan.
Bởi vì bửa hổm tôi nói nhiều lần khi mà mình tu là mình đi theo cái hành trình như sau: Lúc chưa biết gì thì chỉ chạy theo cái thích, biết tu ba mớ hạn chế cái thích quan tâm tới cái cần, tu thêm một bước nữa thì mất luôn cái thích chỉ giữ lại cái cần và cuối cùng chỉ giữ lại cái tối cần. Đây là công thức tu hành, không có chi pháp, không có chữ Pali, không có cái chữ gì chuyên môn hết, chỉ toàn là có hai chữ thích và chữ cần.
Ngày chưa biết gì ta cắm đầu chạy theo cái thích như là một con chó, như là một con heo, chỉ chạy theo cái thích và trốn cái ghét thôi. Bước hai, khi biết Phật Pháp rồi giảm cái thích chỉ còn lại cái cần. Bước ba, bỏ hẳn cái thích chỉ còn giữ lại cái cần. Và bước bốn, chỉ còn giữ lại cái tối cần. Mới nghe qua thì thấy lời Phật tu khó quá, nhưng mà không. Khi mà các vị hiểu đạo, hành đạo các vị mới ngộ ra cái điều thú vị này: Anh càng nhiều nhu cầu thì đời sống của anh sẽ càng nhiều bất tiện. Không biết trong room có hiểu câu này không ta?
Càng nhiều nhu cầu thì càng nhiều bất tiện. Thí dụ như bây giờ nè, tôi ngồi là cái chỗ đó phải sạch tôi mới ngồi được, mà sạch bằng cách nào? Là phải có tấm trải tôi mới ngồi được, mà cái đó ngồi phải êm chứ còn mà tấm trải chỉ là tấm vải ngồi nó đau dữ lắm, cho nên tôi ngồi ở đâu là chỗ đó phải sạch mà phải êm. Nước tôi uống là tôi phải biết gốc tích đó là nước suối, nước có hiệu đàng hoàng chớ tự nhiên đưa một cái ly ba xàm ở đâu, đưa cái ly không biết gốc tích nước đó múc ở đâu, mà cái ly này sạch dơ hỏng biết múc đưa tôi uống, tôi uống hỏng được. Ăn cũng vậy, tôi phải ăn đồ nóng, chút xíu tanh hoặc là hơi mặn quá, hơi nhạt quá, hơi chua quá, hơi ngọt quá tôi ăn không có được. Thuốc men phải là đồ hiệu, thí dụ thuốc Mỹ, thuốc Châu Âu tôi mới uống. Tôi ngủ tôi cần cái đồng hồ reo mà nó kêu lớn quá tôi ngủ không có được cho nên tôi phải xài đồng hồ pin, mà lỡ bửa nào nó hết pin nó bị trời ẩm nó bị mát điện là cái đồng hồ đó xài hỏng có được là tôi phải xoay sở để có đồng hồ reo tôi xài; còn bây giờ nó có cái phone rồi thì tôi hỏng có xài đông hồ reo nhưng phải có cái phone. Rồi cái giường tôi nằm cái nệm nó phải làm sao, ba cái dép tôi mang, tôi đi ra khỏi nhà tôi phải mang loại dép gì? Tôi về tới nhà cái dép tôi mang trong phòng phải loại dép gì? Cái nón tôi xài là loại nón sao chứ không phải nón nào chụp trên đầu tôi tôi cũng đội, rồi bóp đầm, xách tay, mắt kính, đồng hồ, dây nịch mọi thứ tất cả tôi xài đều phải có lý do hết. Váy rồi đầm rồi khẩu trang tất cả đều là đồ hiệu hết.
Thì khi mà tôi có quá nhiều cái nhu cầu như vậy thì các vị phải đồng ý với tôi là tôi càng nhiều nhu cầu là sẽ càng nhiều bất tiện, là sao? Có nghĩa là tôi đi đâu tôi cũng thấy thiếu hết trơn á. Yah, tôi đi đâu tôi cũng thấy thiếu hết, tôi đi về Tàu, qua Nhật, đi Mỹ, về Châu Âu, trở lại Việt Nam, đi qua Thái, qua Miến đi đâu tôi cũng thấy nó thiếu điều kiện, là vì sao? Vì nhu cầu của tôi nhiều quá.
Cho nên ở đây khi nói đến thiền định là mình phải nhớ cái đó, chuyện đầu tiên là phải ly dục, người ly dục là người không còn cái nhu cầu vật chất mà tùm lum nữa, chỉ còn giữ lại cái tối cần thôi, đó là khi họ còn mang thân nhân loại. Khi mà họ đã làm phạm thiên thì họ không còn nhu cầu vật chất nữa và nói theo thánh kinh, thánh kinh không có câu này nhưng mà tôi thích cái giọng của thánh kinh thì "Phúc thay cho cái kẻ nào mà có ít hoặc không còn cái nhu cầu vật chất". Bởi vì nếu mà nói cho rốt ráo tại sao ta có nhu cầu vật chất? Một là lòng ta muốn thế, hai là thân ta muốn thế. Cả hai cái này đều khổ.
Lý do ta có nhu cầu vật chất vì lòng ta muốn thế hay thân ta đòi hỏi vậy. Các vị nghe cái này là đã có vấn đề rồi. Khổ quá, khổ quá, nha. Các vị nghĩ kỹ lại đi có đúng vậy không? Lý do ta có nhu cầu vật chất vì hai điều thôi, một là vì lòng ta muốn thế, hai là thân của ta nó đòi thế.
Thí dụ như bây giờ mình già, mình đi phải có cây gậy, già rồi lưng còng, đau mỏi phải nằm nệm chứ đâu có nằm cái chõng gỗ, chõng tre được, rồi ngồi cũng phải ngồi ghế làm sao, có cái gì lót, cái gì bọc; đi đâu phải có đồ quấn, đồ choàng không thôi nó lạnh. Người già nó kỳ lắm, xứ nóng chứ người già phải mang vớ, người già phải có khăn quàng, người già phải có dầu gió, người già phải có hai ba lớp áo, thí dụ như vậy thì những nhu cầu đó do cái thân ta đòi thế. Còn khi ta còn trẻ mà ta có nhu cầu này, nhu cầu kia thì đó là do lòng ta muốn thế. Các vị thấy rõ ràng chỉ cần nghe hai cái lý do này, bắt đầu một người có lòng tu là họ đã oải rồi, chỉ cần họ đọc cái câu này "Ta có nhu cầu vật chất là vì lòng ta muốn thế hoặc thân ta nó đòi hỏi vậy".
Cho nên Đức Thế Tôn biết rất rõ những cái gì về thiền định và thần thông là chỗ đó. Chuyện đầu tiên là Ngài biết rất rõ rằng muốn đắc thiền là anh phải ly dục. Cho nên ở đoạn sau của bài kinh Ngài dạy rất rõ, Ngài dạy là tất cả sáu trí này chỉ có ở người thành tựu thiền định.
(còn tiếp)
https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/Youtube%202019/20190603.KTC.6.64%20S%C6%B0%20T%E1%BB%AD%20H%E1%BB%91ng
MN12 - Đại Kinh Sư Tử Hống (# 92-95), p 7:
https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung12.htm
KTC.6.64 Sư Tử Hống (#180), p.12
Quote:Kalama xin tri ân bạn elteetee ghi chép.
14/09/2019 - 07:52 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Kính thưa đại chúng, hôm nay các vị có nghe rõ không? Chúng tôi ôn lại một tí cái bài hôm qua vì hôm qua chúng ta bị trục trặc về kỹ thuật cũng uổng, phải ôn lại thôi, nhưng mà dĩ nhiên ôn lại chút xíu chớ không có nói nhiều như hôm qua được.
Các vị vào ở trong Trung bộ kinh, cái bài Đại kinh Sư tử hống trong đó Đức Phật Ngài có dạy về 10 cái sức mạnh của một vị Phật gọi là thập lực, 10 sức mạnh tinh thần của Đức Phật. Với 10 sức mạnh đó, giống như một người có đầy đủ tiền bạc, sức khỏe, uy tín đi vào một hội chúng nào thì cũng cảm thấy tự tại, an tâm, không có e dè, khiếp sợ.
Có sức khỏe, có tiền bạc, có học vị, có uy tín, có chức vụ có quyền lực, có năm cái này thì đi vào bất cứ một cái hội chúng nào cũng cảm thấy an lòng, cảm thấy tự tin. Ở đây một vị Chánh đẳng chánh giác khi Ngài hội đủ 10 cái sức mạnh tinh thần, Ngài có thể có mặt ở vô lượng vũ trụ, ở tất cả các hội chúng, chư thiên, ma vương, phạm thiên, rồi sa môn, bà la môn, những đại gia, tướng lãnh, triều thần, vua chúa, công hầu, khanh tướng đối với Ngài chuyện đó không thành vấn đề.
Hoằng pháp là lấy cái trí, cái đức của mình đi dạy đời thì đâu có cần cái này cái kia, đúng không? Nhưng mà nó kẹt ở chỗ này: Không đủ đức độ thì làm sao đi vào được trong các hội chúng? Mà có những người trí tuệ rất nhiều, phước báu rất nhiều, quyền lực rất nhiều họ sẽ khó có cái lòng kính tin lắm. Cho nên một vị Phật là hội đủ tất cả những điều kiện để làm cha lành của ba cõi, làm thầy dạy cho chư thiên và loài người.
Trong Đại kinh Sư tử hống thì Đức Phật kể đến 10 cái trí riêng của Đức Như Lai, nhưng mà riêng về ở trong cái kinh này (KTC 6.64 Sư Tử Hống) thì Ngài kể có 6 thôi, nhưng mà 6 cái này bao trùm luôn cả 10 cái kia và 10 cái kia có cả 6 cái này. Chênh lệch 6, 10 nhưng mà nội dung thì không có khác nhau.
1/ Thị xứ phi xứ lực
Cái trí thứ nhất trong bài kinh này là thị xứ phi xứ lực, có nghĩa là Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni nói riêng và tất cả Chư Phật ba đời mười phương nói chung, các Ngài có cái trí đầu tiên đó là thị xứ phi xứ lực, có nghĩa là các Ngài biết rất rõ cái gì hợp lý, cái gì vô lý, cái gì có thể xảy ra và cái gì không thể xảy ra.
Như hôm qua tôi có giải thích, đó là ở vị thinh văn, ở vị La hán bình thường, vô danh các Ngài cũng biết rất là nhiều chuyện, cái gì là có thể xảy ra và cái gì không thể. Thí dụ như các Ngài biết vạn hữu ở đời do duyên mà có, có rồi phải bị mất. Các Ngài biết rằng làm lành luôn dẫn đến quả vui, hỷ lạc; làm ác luôn dẫn đến quả khổ, ưu; các Ngài biết rất rõ chuyện đó. Các Ngài biết rất rõ là có chứng đắc thiền định thì mới có thể về Phạm thiên, chỉ tu thập thiện mà cấp thấp thì về các cõi dục thiên hoặc là loài người. Phải tu đúng Bát Chánh Đạo thì mới chứng được thánh quả giải thoát. Đây là những cái rất là căn bản.
Nhưng mà ngoài những cái này ra thì các vị cũng đồng ý với tôi, đó là cái chuyện hợp lý và cái chuyện vô lý trong đầu của một ông tiến sĩ không giống như một anh tú tài, hoặc nó càng không giống trong đầu của một anh mù chữ. Đối với anh mù chữ, cái chuyện mà ảnh cho là hợp lý hoặc là cái chuyện mà ảnh cho là vô lý nó chỉ là một phần nhỏ so với cái biết của ông tiến sĩ. Thí dụ một cái anh mà không biết chữ làm sao mà ảnh có thể hình dung được cái chuyện mà trong tíc tắc người bên kia đại dương có thể nói chuyện và nhìn mặt người bên đây đại dương, chuyện đó rất khó, trừ phi trên tay ảnh cầm cái phone, ảnh cầm trên tay cái ipad, chứ nếu mà không có hai cái đó thì làm sao mà ảnh có thể ngồi ảnh hình dung, tưởng tượng ra được. Mặc dù cái đó là chuyện hợp lý, chuyện có thể xảy ra nhưng mà nó quá cái mức tưởng tượng của ảnh, quá cái tầm hiểu biết của anh.
Ở đây cũng vậy, cái tầm hiểu biết của vị thanh văn kể cả vị độc giác bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thời gian là gì? Thời gian là vị độc giác tối đa biết về quá khứ, biết về tương lai gói gọn trong 2 A tăng kỳ 100 ngàn đại kiếp. Hai vị thượng thủ thinh văn là Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên thì cái biết về quá khứ, cái biết về tương lai cũng gói gọn trong 1 A tăng kỳ 100 ngàn đại kiếp. 80 vị đại đệ tử thì cái biết cũng chỉ gói gọn trong 100 ngàn đại kiếp. Rồi còn dưới mức đó thì bất định, là chênh lệch ít hơn v v...Đó là giới hạn về thời gian.
Còn cái giới hạn về không gian là một vị đệ nhất thiên nhãn như là Ngài Anuruddha, đệ nhất hàng đầu về thiên nhãn thì cái tầm nhìn của vị này không vượt khỏi 10 ngàn thế giới, 10 ngàn vũ trụ. Tức là mỗi vũ trụ như vậy có 1 mặt trăng, 1 mặt trời thì Ngài không có thể nhìn qua khỏi cái ranh giới đó. Nhưng mà riêng vị Chánh đẳng giác thì sao? Unlimit, ... Thatagato… Đức Như Lai hướng tâm tới cái gì thì lập tức biết ngay cái đó, là điểm đặc biệt của vị Chánh đẳng chánh giác. Cho nên từ chỗ đó cái chuyện mà vị thinh văn biết có thể xảy ra, cái chuyện đó chỉ là một phần rất là nhỏ so với cái chuyện mà vị Chánh đẳng giác biết có thể xảy ra, đại khái như vậy.
06:01
25/09/2019 - 08:22 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Như hôm qua tôi có nói các vị Thinh văn nếu không học giáo lý, không học trực tiếp từ Đức Phật thì vị đó làm sao có thể hình dung được cái phép song thông một lúc mà có thể nhập vào hai cái đề mục lửa và nước để mà biến hiện gọi là thủy hỏa mà cùng một lúc thì rất là khó, là quả tam muội, cái chuyện đó ngoài cái tầm, ngoài cái khả năng của vị Thinh văn nhưng đối với vị Chánh đẳng giác cái chuyện đó bình thường, nha. Hôm qua tôi kể về một loạt những cái chuyện đặc biệt, thí dụ như từ cái thiên nhãn, thiên nhĩ cho tới cái trí quá khứ, trí vị lai, ngay cả cái ý hóa thông, cái khả năng biến hiện ra nhiều người của vị Thinh văn chỉ là một phần rất là nhỏ so với vị Chánh đẳng giác.
Cho nên cái trí đầu tiên của Đức Phật là biết rõ cái gì có thể và không có thể, cái phần này của Ngài là không có giới hạn bởi không gian và thời gian. Các Ngài không có bị giới hạn bởi một tỷ vũ trụ, hai tỷ, một ngàn tỷ, không có. Vị Chánh đẳng giác không có bị giới hạn cái đó. Dĩ nhiên trong đầu của nhiều người trong room mình thì các vị nghe cái đó cái vị thấy nó hơi phong thần nhưng mà giờ tôi biết làm sao đây?
2/ Biết rõ về cái nghiệp của chúng sanh, nghiệp lý
Tiếp theo là Đức Như Lai biết rất rõ vấn đề nghiệp lý tới nơi tới chốn bởi vì chúng ta biết rằng khi nói tới nghiệp có hai khía cạnh đó là tổng nghiệp và biệt nghiệp.
Tổng nghiệp là sao? Tức là chung chung và đại khái, như hồi nãy tôi nói đó, tổng nghiệp thí dụ như mình biết rằng hễ bố thí thì kiếp sau sanh ra thoải mái về vật chất; hiếu học Phật Pháp, siêng học Phật Pháp đời sau sanh ra có nhiều trí tuệ; có nhiều từ tâm thì đời sau sanh ra được tuổi thọ, được nhan sắc, được nhiều người mến thương; tu tập về thiền định thì kiếp sau dễ đắc thiền, tu chánh niệm thì kiếp sau sanh ra có trí nhớ tốt và cuối cùng dễ dàng tu tứ niệm xứ, đại khái như vậy. Đó là tổng nghiệp.
Biệt nghiệp là sao? Biệt nghiệp có nghĩa là hai người cùng lúc làm một việc bố thí cho cùng một đối tượng, cùng bỏ tiền ra, cùng mua một dĩa cơm, cùng quì xuống, cùng lúc cúng dường cho một đối tượng nhưng mà cái công đức ở hai người này hoàn toàn khác nhau và khác nhau ở mức độ nào, khác như thế nào với những chi tiết gì thì vị Thinh văn chỉ biết được một phần thôi, chớ còn vị Chánh đẳng giác các Ngài biết còn nhiều nhiều nhiều hơn như vậy, biết cho đến tận cùng như là Ngài muốn, nha. Hiểu biết về nghiệp lý là như vậy.
Như ngày hôm qua tôi nói học về sáu cái trí này của Đức Thế Tôn không phải là mình học về cái chuyện của Ngài, hỏng phải, học chuyện của Ngài là một nửa và một nửa là mình học cho mình. Chẳng hạn như cái trí thứ nhất Đức Như Lai biết rất rõ chuyện gì có thể và không có thể, chuyện gì là vô lý, chuyện gì là hợp lý, thì qua cái trí đó của Ngài mình rút được bài học gì? Thì ra, thì ra cái biết của mình hạn chế như vậy, mà mình biết mình hạn chế có nghĩa là mình đã đi một bước rất là xa.
Cái biết cần thiết nhất, hay nhất mà con người cần phải có trước nhất đó chính là biết được cái chỗ khuyết, chỗ thiếu của mình, xin thưa quí vị. Xin các vị nhớ dùm cái này, cái này quan trọng lắm nha. Biết được mình biết cái gì nó không có bằng biết được, chú ý được, phát hiện được cái mà mình không biết, cái đó nó mới hay, các vị nghe hiểu không? Có nghe tôi nói kịp không?
Biết được cái sở đoản của mình nó rất là quan trọng và có nhiều trường hợp nó còn quan trọng hơn cái sở trường của mình nữa. Bởi vì cái sở trường của mình mình không biết tới nó thì nó vẫn là cái ruột của mình, nhưng mà cái sở đoản nếu mà mình không lưu ý tới nó là mình sẽ chết như chơi, trong room có hiểu cái này không?
Thí dụ như con nhà võ, mình biết mình xài bộ tay rất là giỏi nhưng mà mình biết bộ chân mình xài dở ẹc hà, hoặc mình giỏi bộ chân mà bộ tay mình dở. Cái chuyện mà bộ chân mình giỏi đó, mình có thể quên nó hỏng sao hết nhưng mà cái bộ tay mình mà mình không có giỏi chơi bộ tay, mình giỏi về cước, về thối, thối thì bắt chân, nhưng quyền mình dở, thì mình phải nhớ rõ cái đó, mình phải biết cái nhược của mình, mình chết là chết cái chỗ mình không biết cái nhược của mình đó.
Cho nên cái chuyện mà ta biết cái điều ta hiểu, mình biết bao nhiêu nó cũng hay, cũng quan trọng đó; nhưng mà nó không có quan trọng bằng chuyện ta biết mình dốt. Luôn biết được mình dốt rất là quan trọng.
Ở đây cũng vậy, khi mà mình học về chuyện mà các Đức Như Lai biết rõ cái gì vô lý, cái gì hợp lý, cái gì có thể và không có thể, thì mình mới nghĩ về mình, mình nói "Ồ thì ra, cái biết của mình còn quá hạn chế". Có nhiều cái mình tưởng nó đúng nhưng mà chưa chắc, có nhiều cái mình tưởng nó hay nhưng mà chưa chắc.
Như ngày hôm qua tôi nói, ở ngoài đời tôi làm sao tôi có nhiều tiền, tôi làm sao tôi có được mái ấm gia đình ngon lành, vậy là xong, tôi tưởng vậy là nhất rồi. Cả đời tôi cứ cắm đầu gục mặt ở trong cái mái ấm gia đình, trong cái đống tiền, ăn rồi cứ le lưỡi đếm từng đồng, từng đồng, đối với tôi là số một. Nhưng mà có những cái nó còn hơn cái đó nữa, đó là khi mà mình có được đời sống tinh thần của một người Phật tử, mình biết giữ giới, mình biết tu thiền, mình biết bố thí, mình biết từ tâm, mình biết chánh niệm, đủ chưa? Chưa đủ.
Vấn đề ở chỗ là mình biết mình chưa đủ, chứ khi mà các vị không biết được là mình còn có điểm khiếm khuyết, còn có điểm bổ xung, còn có điểm chỉnh sửa, khi mà các vị không có để ý cái mặt đó mà cứ để ý mình đã làm được gì thì coi chừng chết, coi chừng chết nha.
Cho nên nhớ cái câu này: "Học về Phật, học về Thánh hiền nói chung là không phải để mình học mình coi mình có cái gì không, mà mình còn phải biết rõ, nhớ chừng là mình đang thiếu cái gì?" Tôi e rằng cái phần mà biết mình thiếu đó, cái phần đó tôi e là nó quan trọng hơn, nha.
Tôi có thể quên ở nhà tôi có cái gì, cái đó tôi quên, cái đó hỏng chết, nhưng mà tôi phải nhớ nhà tôi thiếu cái gì. Sức khỏe tôi, tôi ngon lành cái mặt nào, cái phần đó tôi quên hỏng sao hết, nhưng mà tôi biết sức khỏe tôi cần phải bổ xung, cần phải điều chỉnh chỗ nào, cái đó mới là quan trọng. Còn cái chuyện các vị không đồng ý thì mặc xác, tôi chỉ nói vắn tắt, tôi đẹp trai, tôi có sức khỏe, tôi có thể quên hai cái đó không sao, nhưng mà tôi bị sạn thận nè, tôi bị tiểu đường, tôi bị cao máu nè, tôi bị tim thòng nè, cái đó tôi phải nhớ, mấy cái đó mà hỏng nhớ là chết dịch đó. Còn cái chuyện mà tôi đẹp trai, cái chuyện mà tôi khỏe mạnh, tôi cơ bắp, tôi cao ráo v v… cái đó tôi quên hỏng sao hết, nhưng mà mấy cái nhược của tôi tôi phải nhớ, tôi coi như là mất ngủ, suy nhược thần kinh, tôi bị tim thòng nè, tôi bị sạn thận nè, rồi tôi bị bao tử loét nè, tôi bị bác sĩ nghi ngờ cái này cái kia, đó, cái đó là cái tôi phải nhớ, cái đó quan trọng lắm.
12:39
Tiếp theo về nghiệp cũng vậy, mình đã tưởng mình đã hiểu rồi. Không, không đủ đâu quí vị, mình chỉ biết nhiều lắm là mình chỉ biết một mảnh vụn nhỏ xíu xìu xiu của cái gọi là tổng nghiệp thôi. Mình biết là làm cái đó được cái đó, làm cái đó được cái đó, làm cái đó được cái đó, nhưng mà mình quên nghĩ một chuyện đó là ngay trong lúc mà mình làm thiện đó, cái ác nó pha vô mà mình hỏng biết. Yah, bố thí mà bằng cái tâm ganh tỵ, bố thí mà bằng cái tâm tiếc của; bố thí mà bằng cái tâm bực mình, sân hận, hiềm khích; bố thí mà để cầu danh, để cầu lợi, chỉ riêng bố thí không mà nó kéo theo những phiền não nó chen vô mà mình hỏng có ngờ.
Cả buổi sáng, sắp tới mùa dâng y, còn 5 tháng nữa dâng y nè, các vị coi kỹ coi, ai mà làm thí chủ, nắng nôi thấy bà nội, nó nóng nó nực, người đông rần rần, khói nhang nghi ngút, tiếng ồn om sòm, rồi đã vậy mình nghe lời ong tiếng ve là bực mình, mà hôm đó mình là thí chủ lớn, đại thí chủ trong một ngôi chùa lớn, dâng y, thì mình phải coi cái khả năng buông bỏ của mình nó được bao nhiêu? Hôm nay mình không có còn nhớ bao nhiêu cái tỵ hiềm, bao nhiêu cái bực mình, sáng giờ mình gặp cái bản mặt nào mình không thèm màng, mình chỉ nghĩ đến một việc mình đang gieo cái duyên lành giải thoát, mình đang cúng dường vô thượng phước điền y cho chúng tăng, vậy là đủ rồi, còn cái chuyện gì ngoài ra bỏ. Còn không, nếu mà mình không có kiểm soát, thì ngay trong cái mà mình tưởng mình hiểu được cái nghiệp đó, còn rất là sơ sài.
Cho nên mình học ở đây mình thấy Đức Như Lai biết rất rõ về các nghiệp thì học cái đó để nhớ lại mình, mình tự xét mình đã hiểu được gì về nghiệp? Mình cứ tưởng là cúng dường trai tăng là có phước nhưng mà mình quên là mình đã cúng dường bằng cái tâm lý như thế nào? Kể cả mình đi vào thiền viện cũng vậy, mình cứ tưởng mình vào thiền viện là mình thành hành giả, sai, vào thiền viện mà có bao nhiêu phần trăm mỗi ngày anh sống chánh niệm? Và trong những giây phút anh sống chánh niệm ấy, cái mục đích, cái lý tưởng, cái cứu cánh cao nhất của anh là giải thoát hay anh còn tơ tưởng đến chuyện gì khác?
14:43
26/09/2019 - 09:02 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Ngay cả giữ giới cũng vậy, anh đừng có nói với tôi là anh không phạm giới là anh giữ giới. Tôi đã nói không biết là bao nhiêu lần, anh đừng có tưởng anh quăng ra là anh bố thí, bởi vì cái đó là to give chứ chưa chắc là give up, có nghĩa là mới cho nhưng chưa có buông, nha.
Giữ giới cũng vậy, không phạm giới chưa chắc là giữ giới bởi vì anh phải có những yếu tố tâm lý như thế nào đó mới gọi là giữ giới. Thí dụ, nếu anh nói với tôi không phạm giới là giữ giới vậy có một anh đang nằm ngủ thì ảnh đâu có phạm đâu, vậy là anh giữ giới à? Một đứa bé nằm nôi bú bình nó đang giữ giới à, bởi nó đâu có phạm gì đâu? Một người hôn mê liệt giường là đang giữ giới à? Một người đang nằm ngủ mê là đang giữ giới? Một đứa bé khù khờ, một người đang hôn mê lú lẫn là đang giữ giới bởi họ đâu có phạm gì đâu? Cho nên mình phải nói rõ giữ giới ở đây là ý thức kiêng tránh điều tội lỗi qua tam nghiệp, là ý thức intentionally một cách cố ý kiêng tránh điều xấu trong tam nghiệp thì cái đó mới gọi là giới. (LTP: Tam nghiệp là hành động tạo tác của thân, miệng, ý )
Còn cái chuyện mà anh ngủ khì cái lúc đó đâu gọi là giữ giới tại vì anh không có phạm, nhớ nha. Phải biết mấy cái này nè mình mới không có tiếp tục tu hành trong cái sự yên tâm không có tu hành trong cái kiểu cách trùm mền ngủ. Thường mình hay tu kiểu trùm mền ngủ lắm, có nghĩa là tự cho mình hiểu như vậy là được rồi, mình tu như vậy là được rồi. Nhưng mà nên nhớ cái này, chiếc xe bò không chạy thì mình đánh con bò chớ hỏng ai đánh cái thùng xe. Tu là mình đánh cái tâm của mình, tâm mình là con bò, tâm mình là con ngựa, tâm mình là con khỉ, mình phải dạy con bò, con ngựa, con khỉ đó chứ còn cái thân này nó là cái thùng xe, nhớ nha. Xe bò không chạy là đánh con bò chớ hỏng ai mà đánh cái thùng xe, đánh cái bánh xe, đánh cái căm xe, đánh cái trục, đánh cái ách, cái đồ ràng, dây buộc. Không có, nhớ cái đó.
3/ Biết rõ về thiền định
Tiếp theo Đức Như Lai biết rất rõ mọi chuyện, mọi chi tiết về thiền định, về thần thông. Các vị biết rồi mỗi vũ trụ, mỗi thế giới có ba cấp.
- Cấp một của những người hưởng dục, đam mê, vùi đầu, gục mặt ở trong 5 dục vật chất: sắc thinh khí vị xúc.
- Cấp hai là thế giới của những người mà ly dục sống trong thiền sắc và vô sắc, họ chỉ sống trong thiền định thôi, sống chuyên tâm trong đề mục rồi từ đó đắc thiền sanh về các cõi phạm thiên.
- Nhưng mà đó là hai tầng, tầng thứ ba là lâu lâu mới có. Còn bình thường khi không có thánh nhân ra đời, không có Chánh đẳng giác, không có Độc giác ra đời thì cái tầng thứ ba coi như không có người. Nhớ nha, gớm như vậy đó.
Vũ trụ có ba cái cảnh giới, tôi không kêu là cõi mà có ba cái cảnh giới tâm linh.
- Cảnh một dành cho những người hưởng dục vật chất,
- cảnh giới hai là dành cho những người chìm sâu trong các tầng thiền sắc và vô sắc;
- nhưng mà cảnh giới ba, cảnh giới tâm linh là của mấy người chán sợ mọi hiện hữu. Cảnh giới thứ ba này là mình chỉ biết tới khi có Chư Phật ra đời mà thôi.
Một trăm năm ở cõi người mình tưởng nó lâu nhưng mà nó chỉ là một cái nháy mắt của chư thiên thôi, của phạm thiên thôi, và chúng ta cũng đồng ý là thời gian nó có hai thứ thời gian là thời gian địa quyển, là geological time, còn thời gian thứ hai gọi là mental time là thời gian tâm lý.
Thời gian geological time là sao? Đó là thời gian của địa hình, địa chất thí dụ biển xanh biến thành ruộng dâu rồi cái thời gian để mà núi lở sông bồi, hồi xưa chỗ này là đồi bây giờ nó là hồ, chỗ này hồi xưa là biển bây giờ nó thành cái hang. Thí dụ cái hang Huyền Không ở Đà nẵng, mình vô mình nhìn lên cái trần hang mấy vỏ ốc dầy đặc ở trển, ngày xưa nó ở dưới biển bây giờ nó trồi lên từ từ. Thời gian đủ để cho mấy cái lớp trầm tích, lớp vỏ trái đất hình thành nên những thay đổi như vậy cần đến hàng triệu năm và đó là thời gian lâu nhất. Thời gian thứ hai là thời gian của vật chất, là thời gian của một kiếp người. Thời gian của một kiếp người nó chỉ là một phần triệu, một phần tỷ của thời gian geological time.
Nhưng mà riêng thời gian mental time là thời gian tâm lý, có nghĩa là khi mà mình muốn cái gì đó lâu thì mình thấy nó ngắn, khi mà mình muốn cái gì đó ngắn thì mình sẽ thấy nó lâu, thời gian đó là thời gian tâm lý. Thì cái trăm năm, ngàn năm mình muốn nó dài hay ngắn thì khó nói lắm, thí dụ thời gian bị đọa thì ngàn năm nó lâu thiệt, nhưng mà nếu ngàn năm trên cõi trời thì nó ngắn lắm. Ngắn là do cái tâm tưởng của mình thôi chứ còn biết dựa vào đâu mà nói ngắn nói dài.
20:37
27/09/2019 - 01:02 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Cho nên khi mà tán thán Đức Như Lai hiểu rõ về thiền định thì mình phải nhớ cái này, thì ra cái mà Đức Như Lai lìa bỏ trước khi thành Phật là Ngài lìa bỏ thiền định chứ không phải lìa bỏ dục, dục là Ngài đã lìa bỏ trước đó rồi, nhớ nha. Cái mà Phật bỏ để thành đạo là các thiền chứ không phải dục nữa vì Ngài đã ly dục rồi mới đắc thiền. Nói vậy các vị có hiểu không?
Cái mà Phật bỏ để mà thành đạo là các thiền chứ không phải dục, có nghĩa là Ngài đã xa cảnh dục từ lâu rồi. Coi kỹ lại coi, trong cái đêm mà cuối cùng thành đạo là đầu hôm Ngài sống với túc mạng minh, canh giữa là sanh tử minh, canh cuối là lậu tận minh, có nghĩa là lúc đó dục nó đã cách Ngài ngàn trùng rồi.
Cho nên mình mới thấy là "Ồ thì ra cái cảnh giới của Đức Phật cách mình xa lắm, khoan nói đến cái trí tuệ, cái đức hạnh của Ngài. Chỉ nói đến cái khoản mà hành trình Ngài đi cách mình xa lắm. Ngài ly dục đợt một là sao ta?
Ly dục đợt một là bỏ ngôi vua mà đi, bỏ vợ đẹp con ngoan mà đi, bỏ hoàng cung sự nghiệp đế vương mà đi, đó gọi là ly dục đợt một. Ly dục đợt hai là khi Ngài vào trong rừng không màng đến chuyện ăn mặc và buông hết, sống lỏa thể trần truồng trong rừng sâu núi thẳm đó là ly dục đợt hai. Chớ không phải như mình, mình bỏ cái nhà là mình tưởng mình hay rồi, tới hồi đắp y sống sung sướng như một ông hoàng như vậy, đó là chưa.
Còn Ngài là Ngài làm từng đợt, từng đợt. Đợt một là Ngài bỏ hoàng cung, ngai vua; đợt hai là Ngài có thể sống một đời sống tu sĩ tiện nghi nhưng mà cũng không, Ngài bỏ hết. Mở dùm tôi bài kinh Đại kinh sư tử hống trong Trung bộ coi Ngài nói như thế nào về Ngài? Trong thời gian mà Ngài khổ tu 6 năm trời mình mẩy trần truồng bò lết vô trong cái chuồng bò, ăn phân bò rồi mới đi vệ sinh ra rồi ăn cái mà mình mới vừa bài tiết ăn ngược trở vô. Ngài làm đủ cách gọi là khó khăn cùng cực để chi? Bởi vì theo niềm tin của người thời đó là phải tự đày đọa như vậy để trục, để đuổi, để xua, để tống khứ cái trược phiền não của mình.
Hồi đó giờ do có thích mới có ghét, thích cái này mới có ghét cái kia, mà hễ có thích có ghét là phiền não, bây giờ mình dẹp hết mình không còn sống trong cái thích nữa thì như vậy mình sẽ không còn ghét, nghĩa là không còn khổ. Có nghĩa là mai này đã lên đến mức trần truồng ăn phân thì các vị tưởng tượng người đó nó còn cái gì nữa hả? Các vị có dám làm cái đó không? Trần truồng rồi ăn phân, phân của mình. Mình ăn phân bò xong mình đi ra rồi mình mới móc cái của mình mới vừa đi đó ăn ngược trở vô. Thì Ngài tính là Ngài thử qua tất cả các cái pháp khổ tu nhưng cuối cùng Ngài thấy không xong, Ngài thấy rằng khổ phải được thấy mới dẫn đến thoát khổ, chứ không phải là chịu khổ để thoát khổ.
Làm ơn nhớ cái câu này: "Phải thấy khổ để hiểu nó mới thoát khổ chớ không phải gồng mình chịu khổ rồi thoát khổ". Trong room này tôi nghĩ các vị có thấy cái đó, thí dụ như bây giờ mình bị nhức răng đi, ông nha sĩ ổng biết rất rõ vì đâu mà cái răng nó bị nhức, phải thấy rõ cái đó, phải thấy rõ cái chuyện nhức răng nó đến từ đâu, cái đau này đau chỗ nào và vì sao nó đau? Phải hiểu rất rõ đau răng hiểu tới nơi tới chốn rồi nha sĩ họ mới giải quyết cái nguồn cội của cái đau răng đó thì mình mới hết. Chứ còn mà quí vị ôm một họng sưng như là mõm lợn vậy làm sao mà cứ ôm vậy thì làm sao mà hết. Trong thời gian làm răng phải uống trụ sinh nè, phải ngậm muối nè, rồi phải ăn cháo, ăn súp, thậm chí là húp nước nữa kìa, ở Mỹ là ngậm nước súc miệng Listerine, giữ sạch nó xong rồi là đừng có để cho nó bị nhiễm trùng bằng cách là uống trụ sinh. Rồi nha sĩ coi cái nào phải nhổ thì nhổ, rút gân máu thì rút, nói chung là họ phải biết rất rõ mình đau chỗ nào và vì đâu mình bị đau họ mới giải quyết được.
Cái khổ chỉ có thể được giải thoát bằng cách là nhận thức, cho nên 4 việc phải làm đối với 4 đế là gì? Khổ đế cần được hiểu, tập đế cần được trừ, diệt đế cần được chứng, đạo đế cần được hành. Chớ khổ đế không phải là để mình gồng mình chịu, hổng phải.
Cho nên Ngài ly dục là bỏ hoàng cung là đợt một, ly dục đợt hai là Ngài từ chối luôn cả sự dễ chịu tối thiểu của một con người. Cái đợt một là từ bỏ cái nhu cầu tào lao của con người, danh lợi, tình yêu Ngài bỏ đó là đợt một. Bước hai ly dục của Ngài là từ bỏ nhu cầu thiết yếu của một con người là ăn, mặc, ở dẹp luôn; nhưng mà Ngài thấy coi bộ cái này hỏng xong, nó hơi bị cực đoan.
Bởi vì bửa hổm tôi nói nhiều lần khi mà mình tu là mình đi theo cái hành trình như sau: Lúc chưa biết gì thì chỉ chạy theo cái thích, biết tu ba mớ hạn chế cái thích quan tâm tới cái cần, tu thêm một bước nữa thì mất luôn cái thích chỉ giữ lại cái cần và cuối cùng chỉ giữ lại cái tối cần. Đây là công thức tu hành, không có chi pháp, không có chữ Pali, không có cái chữ gì chuyên môn hết, chỉ toàn là có hai chữ thích và chữ cần.
Ngày chưa biết gì ta cắm đầu chạy theo cái thích như là một con chó, như là một con heo, chỉ chạy theo cái thích và trốn cái ghét thôi. Bước hai, khi biết Phật Pháp rồi giảm cái thích chỉ còn lại cái cần. Bước ba, bỏ hẳn cái thích chỉ còn giữ lại cái cần. Và bước bốn, chỉ còn giữ lại cái tối cần. Mới nghe qua thì thấy lời Phật tu khó quá, nhưng mà không. Khi mà các vị hiểu đạo, hành đạo các vị mới ngộ ra cái điều thú vị này: Anh càng nhiều nhu cầu thì đời sống của anh sẽ càng nhiều bất tiện. Không biết trong room có hiểu câu này không ta?
Càng nhiều nhu cầu thì càng nhiều bất tiện. Thí dụ như bây giờ nè, tôi ngồi là cái chỗ đó phải sạch tôi mới ngồi được, mà sạch bằng cách nào? Là phải có tấm trải tôi mới ngồi được, mà cái đó ngồi phải êm chứ còn mà tấm trải chỉ là tấm vải ngồi nó đau dữ lắm, cho nên tôi ngồi ở đâu là chỗ đó phải sạch mà phải êm. Nước tôi uống là tôi phải biết gốc tích đó là nước suối, nước có hiệu đàng hoàng chớ tự nhiên đưa một cái ly ba xàm ở đâu, đưa cái ly không biết gốc tích nước đó múc ở đâu, mà cái ly này sạch dơ hỏng biết múc đưa tôi uống, tôi uống hỏng được. Ăn cũng vậy, tôi phải ăn đồ nóng, chút xíu tanh hoặc là hơi mặn quá, hơi nhạt quá, hơi chua quá, hơi ngọt quá tôi ăn không có được. Thuốc men phải là đồ hiệu, thí dụ thuốc Mỹ, thuốc Châu Âu tôi mới uống. Tôi ngủ tôi cần cái đồng hồ reo mà nó kêu lớn quá tôi ngủ không có được cho nên tôi phải xài đồng hồ pin, mà lỡ bửa nào nó hết pin nó bị trời ẩm nó bị mát điện là cái đồng hồ đó xài hỏng có được là tôi phải xoay sở để có đồng hồ reo tôi xài; còn bây giờ nó có cái phone rồi thì tôi hỏng có xài đông hồ reo nhưng phải có cái phone. Rồi cái giường tôi nằm cái nệm nó phải làm sao, ba cái dép tôi mang, tôi đi ra khỏi nhà tôi phải mang loại dép gì? Tôi về tới nhà cái dép tôi mang trong phòng phải loại dép gì? Cái nón tôi xài là loại nón sao chứ không phải nón nào chụp trên đầu tôi tôi cũng đội, rồi bóp đầm, xách tay, mắt kính, đồng hồ, dây nịch mọi thứ tất cả tôi xài đều phải có lý do hết. Váy rồi đầm rồi khẩu trang tất cả đều là đồ hiệu hết.
Thì khi mà tôi có quá nhiều cái nhu cầu như vậy thì các vị phải đồng ý với tôi là tôi càng nhiều nhu cầu là sẽ càng nhiều bất tiện, là sao? Có nghĩa là tôi đi đâu tôi cũng thấy thiếu hết trơn á. Yah, tôi đi đâu tôi cũng thấy thiếu hết, tôi đi về Tàu, qua Nhật, đi Mỹ, về Châu Âu, trở lại Việt Nam, đi qua Thái, qua Miến đi đâu tôi cũng thấy nó thiếu điều kiện, là vì sao? Vì nhu cầu của tôi nhiều quá.
Cho nên ở đây khi nói đến thiền định là mình phải nhớ cái đó, chuyện đầu tiên là phải ly dục, người ly dục là người không còn cái nhu cầu vật chất mà tùm lum nữa, chỉ còn giữ lại cái tối cần thôi, đó là khi họ còn mang thân nhân loại. Khi mà họ đã làm phạm thiên thì họ không còn nhu cầu vật chất nữa và nói theo thánh kinh, thánh kinh không có câu này nhưng mà tôi thích cái giọng của thánh kinh thì "Phúc thay cho cái kẻ nào mà có ít hoặc không còn cái nhu cầu vật chất". Bởi vì nếu mà nói cho rốt ráo tại sao ta có nhu cầu vật chất? Một là lòng ta muốn thế, hai là thân ta muốn thế. Cả hai cái này đều khổ.
Lý do ta có nhu cầu vật chất vì lòng ta muốn thế hay thân ta đòi hỏi vậy. Các vị nghe cái này là đã có vấn đề rồi. Khổ quá, khổ quá, nha. Các vị nghĩ kỹ lại đi có đúng vậy không? Lý do ta có nhu cầu vật chất vì hai điều thôi, một là vì lòng ta muốn thế, hai là thân của ta nó đòi thế.
Thí dụ như bây giờ mình già, mình đi phải có cây gậy, già rồi lưng còng, đau mỏi phải nằm nệm chứ đâu có nằm cái chõng gỗ, chõng tre được, rồi ngồi cũng phải ngồi ghế làm sao, có cái gì lót, cái gì bọc; đi đâu phải có đồ quấn, đồ choàng không thôi nó lạnh. Người già nó kỳ lắm, xứ nóng chứ người già phải mang vớ, người già phải có khăn quàng, người già phải có dầu gió, người già phải có hai ba lớp áo, thí dụ như vậy thì những nhu cầu đó do cái thân ta đòi thế. Còn khi ta còn trẻ mà ta có nhu cầu này, nhu cầu kia thì đó là do lòng ta muốn thế. Các vị thấy rõ ràng chỉ cần nghe hai cái lý do này, bắt đầu một người có lòng tu là họ đã oải rồi, chỉ cần họ đọc cái câu này "Ta có nhu cầu vật chất là vì lòng ta muốn thế hoặc thân ta nó đòi hỏi vậy".
Cho nên Đức Thế Tôn biết rất rõ những cái gì về thiền định và thần thông là chỗ đó. Chuyện đầu tiên là Ngài biết rất rõ rằng muốn đắc thiền là anh phải ly dục. Cho nên ở đoạn sau của bài kinh Ngài dạy rất rõ, Ngài dạy là tất cả sáu trí này chỉ có ở người thành tựu thiền định.
(còn tiếp)