2022-05-24, 07:29 PM
Tương Ưng Bộ - Samyutta Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Tập I - Thiên Có Kệ
[01] Chương I
Tương Ưng Chư Thiên
-ooOoo-
II. Phẩm Vườn Hoan Hỷ
I. Vườn Hoan Hỷ (Tạp 22.1, Ðại 2,153c) (S.i,5) (Tăng 31.9. Tứ Lạc, Ðại 2,672b) (Biệt Tạp 9.1, Ðại 2,435a)
Như vậy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc). Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo" -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
-- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có vị Thiên thuộc cõi trời Ba mươi ba, với chúng Thiên nữ vây quanh, du hí ở vườn Hoan Hỷ, thọ hưởng năm thiên dục công đức. Bây giờ, vị Thiên ấy nói lên bài kệ này:
Chúng không biết đến lạc,
Nếu không thấy Hoan Hỷ,
Chỗ trú cả Trời, Người,
Cõi ba mươi lừng danh.
Nếu không thấy Hoan Hỷ,
Chỗ trú cả Trời, Người,
Cõi ba mươi lừng danh.
Ðược nghe nói vậy, này các Tỷ-kheo, một vị Thiên khác đáp vị Thiên ấy với bài kệ:
Kẻ ngu, sao không biết,
Vị Ứng cúng đã nói:
"Mọi hành là vô thường,
Tự tánh phải sanh diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc."
Vị Ứng cúng đã nói:
"Mọi hành là vô thường,
Tự tánh phải sanh diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc."
Bài giảng ngày 28-5-2014: VƯỜN HOAN HỶ (1-2)
#NhậtKýChépBằngKinh; #NhịTường; #SưGiácNguyên
I. Vườn Hoan Hỷ (Tạp 22.1, Ðại 2,153c) (S.i,5) (Tăng 31.9. Tứ Lạc, Ðại 2,672b) (Biệt Tạp 9.1, Ðại 2,435a)
VƯỜN HOAN HỶ (Nandanasutta)
Trước hết xin nói sơ qua về tựa kinh “Vườn Hoan Hỷ” (Nandavana). Sáng nay chúng ta chịu khó sống trong không khí hơi cổ tích một chút. Theo trong chú giải, trái đất chúng ta chỉ là một phần nhỏ trong cái gọi là “một thế giới”, theo định nghĩa của PG truyền thống.
Theo kinh điển truyền thống thì có vô lượng vô số thế giới, mỗi thế giới gồm rất nhiều cảnh giới của các loài chúng sinh.
Ví dụ cõi Dục Giới là thế giới dành cho những chúng sinh sống chết buồn vui trong năm cảnh dục, mắt thích nhìn, tai thích nghe, mũi thích ngửi, lưỡi thích nếm, thân thích xúc chạm v.v...
Cõi Dục giới gồm 4 cảnh giới sa đọa, và 7 cảnh giới thiện thú (gồm 1 cõi người và 6 cõi Dục Thiên).
- 11 cõi này gọi là tầng Dục giới.
- Tầng Sắc giới gồm 16 cõi dành cho các vị Phạm thiên hữu sắc, những người sống trong thiền định có đủ danh, đủ sắc, đủ tâm và hình dáng.
- Bốn cõi Vô sắc thì gọi là cõi cho vui, chứ chúng sinh ở đó không có hình tướng làm gì có cõi.
Cứ 31 cõi như vậy theo mô tả trong kinh giống như một trái lựu có 31 hạt nằm bên trong. Mỗi thế giới (trái lựu) có 31 cõi, giống như một khối cầu, một trái lựu. Cõi Đao Lợi là một trong 31 hạt đó và có vô số vô lượng trái lựu như vậy chứ không phải chỉ có một trái.
Cõi.
Theo trong kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật dạy có 3 khettatạm gọi là 3 khu vực:
1/ Jātikhetta (sinh vức): Khi một vị Chánh Đẳng Giác ra đời, trong phạm vi 10 nghìn thế giới chung quanh (31 cõi) phải không có vị Phật nào ra đời ngoài Ngài hết. Ví dụ khi Đức Phật Thích Ca ra đời thì trong khắp phạm vi 10 ngàn thái dương hệ như vậy không có vị Phật nào ra đời chung trong một khu vực (Jātikhetta) này hết.
2/ Ānakhetta. (uy vức): Gồm 1000 tỉ (trillion) thế giới nằm trong vùng chấn động của lời Phật đây là khu vực thuyết giảng của một Đức Phật, chẳng hạn như khi Ngài thuyết các kinh quan trọng. Phạm vi hoạt động của một vị Phật là 1000 tỉ galaxy vũ trụ thì không có vị thứ hai có mặt trong đó. Sự chấn động, lan tỏa một ngàn tỉ thế giới.
3/ Visāyakhetta (tuệ vức), khu vực (zone) phạm vi hiểu biết của một vị Chánh Đẳng Chánh Giác không giới hạn. Ngài Anuruddha, đệ nhất thiên nhãn cũng chỉ nhìn thấy một ngàn vũ trụ mà thôi. Trong kinh có câu thế này: Yam yam tathāgato ākankhati tam tam tathāgato pajanati (Đức Như Lai hướng tâm đến đâu thì Ngài lập tức hiểu biết đến đó về cả không gian lẫn thời gian trong ba đời mười phương). Ví dụ Ngài muốn biết trong bán kính là 1 tỉ năm ánh sáng có chuyện gì nổi bật, đang xảy ra, có ảnh hưởng gì đến việc Ngài đang làm đang nói,… và Ngài muốn biết đời trước của một chúng sinh cách đây 8 ngàn tỷ a-tăng-kỳ hoặc tương lai của một chúng sinh cách 15 ngàn a-tăng-kỳ thì cũng không giới hạn.
Những khái niệm bắt buộc phải biết
Quí vị có nghĩ tôi đi quá xa so với chánh kinh? Tôi muốn nhân lớp học này có những khái niệm mà quí vị bắt buộc phải biết.
1/ 2 nghĩa của a-tăng-kỳ:
Ví dụ, a-tăng-kỳ (asaṃkhyeya) có nhiều nghĩa, đó là
- tên gọi của một con số, cũng là
- tên gọi của một đơn vị thời gian.
Trong tiếng Việt có chữ “năm”, có nghĩa là một đơn vị thời gian gồm 12 tháng hoặc 365 ngày, và nó có nghĩa là tên gọi của một con số có giá trị là 4+1, 3+2, 8-3 v.v...
Chữ ‘asaṃkhyeya’ a-tăng-kỳ cũng vậy, có hai nghĩa,
- nghĩa đen là không thể đếm được (vô số),
- nhưng nghĩa chuyên môn của nó là tên một con số bằng 10 lũy thừa 140, (có nghĩa là được viết 1 và 140 con số zero).
Trình độ toán học ngày xưa của Ấn Độ cách đây mấy ngàn năm đã có con số asaṃkhyeya rồi.
1b/ Tên gọi một đơn vị thời gian:
Nghĩa thứ hai của asaṃkhyeya, theo như giả dụ trong kinh là có một cái thùng hình vuông, mỗi cạnh của nó là 1 do-tuần (Yojanna); có chỗ nói một do-tuần tương đương 16km, có chỗ nói 9km, có chỗ nói là 11km; trong thùng đó đựng đầy hột cải. Cứ 100 năm như vậy lấy ra một hột, lấy chừng nào hết thùng đó thì được gọi là một đơn vị thời gian a-tăng-kỳ:
- Một a-tăng-kỳ kiếp là một con số,
- một đại kiếp là tuổi thọ của một trái đất.
Khi nói Bồ tát tu 20 a-tăng-kỳ đại kiếp thì phải hiểu rằng đây là kiếp của trái đất.
Vì sao không phải là kiếp người ? Vì kiếp người có dài có ngắn . Còn kiếp của trái đất thì tối thiểu có 4 giai đoạn: thành, trụ, hoại, không.
Giai đoạn hình thành của một thái dương hệ theo trong kinh mô tả là trước hết có một đám mưa rất lớn. Đám mưa này không do hơi nước mà do quy luật vận hành của các pháp hữu vi cộng với duyên nghiệp của chúng sinh mà có đám mưa như vậy. Đây là một khối nước nằm từ một điểm A nào đó rơi xuống điểm B trong không gian vô tận. Nước mưa ngưng tụ thành một khối, đặc dần và kết lại thành ra một trái cầu, đây là giai đoạn thành.
Giai đoạn trụ là sau khi có đủ mặt trăng, mặt trời, cây cỏ đất đá sông hồ kinh rạch chim muông kéo dài được bao lâu, tạm gọi thời gian đó là X. Sau khi hoàn chỉnh thì sẽ kéo dài một giai đoạn tương đương giai đoạn thành
Giai đoạn hoại:
Giai đoạn trụ kết thúc thì đến giai đoạn hoại.
Có 3 cách hoại:
- hoại bằng lửa,
- hoại bằng nước,
- hoại bằng gió.
- Hoại bằng lửa thì cháy lên cõi Sơ thiền.
- Hoại bằng nước thì có lượng nước từ không gian ập xuống, cuốn phăng 100 ngàn tỉ thế giới từ cõi Địa ngục lên cõi Nhị thiền.
- Hoại bằng gió thì cuốn lên cõi Tam thiền.
Giai đoạn không:
Các pháp đều vô thường là như vậy. Chúng sinh trên đó tái sanh về cõi khác, ai đủ phước thì sanh về cõi Quang Âm Thiên, ai vô phước thì sanh vào những vũ trụ nằm ngoài phạm vi đang tiêu hoại để tiếp tục làm kiến, làm con mối cho đến bao giờ hết nghiệp thì thôi.
Trong kinh điển Bắc Tông không nhìn nhận chuyện từ vật vô tri tạo ra con kiến con mối, rồi tu hành từ từ thành con lớn hơn như con chim sẻ con tôm, và từ con khỉ con mèo tu từ từ rồi cuối cùng thành con người.
Trong kinh điển Nam Tông thì một con mối nhỏ xíu trước đây rất có thể là Tần Thủy Hoàng, Caesar đại đế, Napoléon v.v... cũng là chuyện bình thường.
Tiền tiền vô thủy, hậu hậu vô chung . Vòng luẩn quẩn này cứ lặp đi lặp lại vô số lần trong suốt dòng sanh tử, bốn giai đoạn thành- trụ - hoại - không đó có thời gian tương đương với nhau.
Chỗ trước đây là một hành tinh có thể trở thành một khoảng không. Một trái đất có bốn giai đoạn thành- trụ - hoại - không .
- Một vị Bồ tát tu tập Ba-la-mật để thành vị Phật hạnh trí tuệ thì phải trải qua 20 a-tăng-kỳ, 100 nghìn đại kiếp.
- Muốn trở hành vị toàn giác hạnh đức tin thì lâu gấp đôi: 40 a-tăng-kỳ và 100 nghìn đại kiếp.
- Người mà đức tin và trí tuệ đều kém nhưng chỉ có hạnh tinh tấn thì phải trải qua 80 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp (như Phật Di Lặc chẳng hạn) để huân tập công đức, không chùn bước trước bất cứ một khó khăn, hoặc không chạy theo bất cứ cám dỗ nào trong suốt thời gian đó để huân tập pháp lành loại bỏ ác pháp, nên khi thành Phật thì trí tuệ và phước báu không có giới hạn.
Chư Phật hiếm hoi vì theo như trong kinh có một thời gian cả a-tăng-kỳ đại kiếp không có một vị Phật nào. Trong kinh nói rõ thế này:
- Đại Kiếp Khánh Tài (sārakappa): trái đất có một vị Phật. (Tài ở đây là lõi cây, vị Phật duy nhất ấy được ví như phần lõi của một thân cây).
- Đại Kiếp Tinh Ba (māndakappa): trái đất có hai vị Phật ra đời. Tinh Ba ở đây là tinh chất.
- Đại Kiếp Tài Ba (sāramaṇḍakappa): trái đất có 3 vị Phật ra đời. Tài Ba là Khánh Tài và Tinh Ba ghép lại.
- Đại Kiếp Thù Thắng (vārakappa): trái đất có 4 vị Phật ra đời
- Đại Hiền Kiếp (Bhāddakappa:) trái đất có 5 vị Phật ra đời
- Đại Không Kiếp (suññakappa): trái đất không có Phật nào ra đời.
Chuyện trái đất không có Phật ra đời đôi khi nhiều đến một a-tăng-kỳ đại kiếp, vì khó quá và cơ hội làm người cũng vô cùng hiếm hoi. Theo trong kinh, có một miếng ván có một lỗ rộng đủ con rùa đút đầu vào đó, miếng ván này trôi dập dềnh từ bờ biển này sang bờ biển kia, 100 năm mới có một con rùa mù dưới biển trồi lên một lần, xác suất con rùa đút đầu ngay vào lỗ ván đó thì thấp biết bao nhiêu, bằng một sự may mắn, phép lạ nào đó thì con rùa mới đút được đầu vào lỗ ván, cơ hội làm người còn thấp hơn cơ hội đó nữa.
Nếu được làm người, được gặp Chánh pháp, được gặp Phật, không phải câm mù, điếc, khùng điên bẩm sinh, không phải tà kiến, quá khích. Cơ hội gặp chánh pháp như vậy khó vô cùng.
Ngay cả những người tự nhận mình là tăng ni, thiện nam, tín nữ thì chuyện siêng năng yêu thích, nghiên cứu, chìm sâu trong Phật pháp cũng không nhiều.
--ooOoo--
Trên đây là những khái niệm cần biết để học những bài kinh về sau, bây giờ trở lại bài kinh Vườn Hoan hỷ.
Cõi Đao Lợi là một hạt trong 31 hạt của trái lựu, có vô số trái lựu trôi bồng bềnh trong không gian vô cùng vô tận này . Có một vị Phật ra đời trong một trái lựu nào đó để hoằng pháp thì cực kỳ hiếm hoi, mỗi trái lựu đều có một mặt trăng, một mặt trời. Cõi Đao Lợi, cõi Dạ ma Đâu Suất, Hóa Lạc thiên, Tha Hóa tự tại đều giống nhau như vậy.
Trong bài kinh này đề cập đến một hạt Đao Lợi trong trái lựu đó. Trong kinh nói cõi Đao Lợi là tầng Dục Thiên thứ hai, tầng thấp nhất là Tứ Đại Thiên Vương.
Cõi Tứ Thiên Vương
Năm mươi năm cõi người thì tuổi thọ tương đương một ngày đêm ở cõi Tứ thiên vương. Năm trăm tuổi ở cõi Tứ Thiên Vương tương đương 9 triệu năm ở cõi nhân loại.
Ở cõi Tứ Thiên Vương đó gồm nhiều chúng sinh phức tạp, có
- noãn thai (sanh từ trứng ra con),
- thấp sanh (sanh do môi trường ẩm ướt của thiên nhiên),
- hóa sanh (tự động xuất hiện, tự động biến mất như làn khói).
- Và cũng có mang bầu, có kinh nguyệt, yêu hận, tình thù như nhân loại.
Cõi Đao Lợi
Cõi Đao Lợi cao hơn, một ngày đêm ở đó tương đương 100 năm ở cõi Người. Từ cõi Đao Lợi, thiên nam thiên nữ thương mến nhau, sinh hoạt tình dục với nhau như cõi người.
Cõi Dạ Ma cao hơn thì chỉ ôm nhau.
Cõi Đâu Suất thì chỉ nắm tay nhau.
Cõi Hóa Lạc Thiên chỉ mỉm cười với nhau.
Cõi Tha Hóa Tự Tại chỉ nhìn nhau bằng tâm ái nhiễm là đủ rồi.
Riêng cõi Đao Lợi sinh hoạt gần giống nhân loại dưới này, ở đó có một Chánh Pháp Đường, để chư thiên mỗi nửa tháng tụ tập với nhau bàn bạc giải quyết chuyện rắc rối ở Cõi Đao Lợi; cõi Tứ Thiên Vương, hay cõi Người cũng có.
Mỗi tháng ở đó có pháp hội, nếu nhằm lúc có vị Chánh Đẳng Giác ra đời thì ở đó cũng có những vị tỳ kheo, đức Phật ở cõi Người lên đó thuyết pháp.
Nếu không có Phật hay các vị đệ tử của Thế Tôn đến thuyết pháp thì các vị Thiên tử từ cõi khác xuống thuyết, kể cả Phạm thiên, mỗi nửa tháng cũng lên đó thuyết pháp.
Nói hơi cổ tích một chút, tại sao vị Trời này tán thán vườn Hoan Hỷ Nandavana dữ dằn như vậy? Trên thế giới, hiện nay chúng ta thấy ở Vancouver có khu vườn Victoria, bên Hòa Lan có khu vườn Hoa Tulip, ở Thái Lan có vườn hoa của bà Hoàng thái hậu, Đức có vườn hoa Mainau v.v...; mỗi một chỗ nổi tiếng đều có vườn hoa mà mình vào trong đó là không muốn Niết-bàn, đẹp bạt ngàn dữ dội, nhưng chỉ so với bụi hoa của cái nhà xí của chư thiên thôi vì nó còn bất tịnh do sự lui tới của nhân loại.
Vườn hoa Nandavana trên cõi Đao Lợi đẹp cực kỳ, có loại hoa 1000 năm nhân loại mới nở một lần, có những loại dây leo, chỉ cần ngắt ra có một giọt rượu uống vào say suốt một thời gian dài, tiên nam tiên nữ ở đó đẹp cực kỳ.
Một hoa hậu hoàn vũ so với một tiên nữ vô danh trên đó giống y chang một con khỉ cái lở loét so với một hoa hậu, ở đó họ sống lâu đến 36 triệu năm ở nhân loại không ốm đau bệnh tật gì hết.
Vì sướng quá nên hiếm có vị nào biết tu. Ngay cả chúng ta, nếu mỗi tháng có năm bảy ngàn đô la, có thể đi du lịch nước ngoài sắm đồ sắm đạc như đi chợ thì đã không muốn tu rồi nói chi 36 triệu năm sống sung sướng như vậy đó làm sao tu. Có một vị Trời thấy sung sướng quá nên phát biểu câu mà chúng ta nhìn thấy trong chánh kinh:
Chúng không biết đến lạc,
Nếu không thấy Hoan Hỷ,
Chỗ trú cả Trời, Người,
Cõi ba mươi lừng danh.
Bản Pāḷi:
“Na te sukhaṃ pajānanti,
ye na passanti nandanaṃ;
Trong câu kệ này phải dùng câu thứ hai trước, Ye na passanti nandanaṃ: Ai chưa từng thấy qua khu rừng Nandana cõi Đao Lợi, khu rừng hoan hỉ, hoan hỉ viên, (đúng ra phải viết nandanaṃvanan nhưng trong câu kệ phải viết như vậy đó, khu vườn là nandanaṃthêm chữ vanan là khu rừng, lâm viên). “Na te sukhaṃ pajānanti” thì người đó không biết gì là hạnh phúc cả. Āvāsaṃ naradevānaṃ, chỗ này xứng đáng là chỗ lui tới của nhân thiên, tidasānaṃ yasassina’’nti, đây là cõi Đao Lợi nổi tiếng.
Dĩ nhiên là cõi Đao Lợi nổi tiếng trong số những người có thần thông, có học giáo lý thôi, còn những người không học giáo lý làm gì biết cõi Đao Lơi. làm gì biết vườn Nandavana. Vị thiên thấy đẹp quá nên nói như vậy.
Đây là Đức Phật kể lại câu chuyện xưa.
“Ðược nghe nói vậy, này các Tỷ-kheo, một vị Thiên khác đáp vị Thiên ấy với bài kệ: Kẻ ngu, sao không biết…
Vị Ứng cúng đã nói:
"Mọi hành là vô thường,
Tự tánh phải sanh diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.”
Trong chánh kinh chỉ ghi “một vị thiên khác” nhưng theo chú giải “một vị thiên khác” đó là một vị nữ thánh (ariyasāvikā), đã chứng quả thánh nhân rồi (Aññatarā devatāti ekā ariyasāvikā devatā). Vị nữ Thanh Văn sau khi nghe như vậy thấy vị này dễ duôi quá nên nhắc chừng cho vị này biết là: “Trời đất ơi, vì ông không học đạo (kẻ ngu) nên ông không biết…”
Chữ ‘Ứng cúng’ ám chỉ cho chư Phật và đệ tử chư Phật. Vị A-la-hán cũng là ứng cúng mà vị Chánh Đẳng Chánh Giác cũng là ứng cúng.
Sống lâu cỡ nào, lâu mà hết tuổi thọ thì phải chết, sanh vào đâu thì không thể biết.
Trong kinh Tương Ưng kể rằng có một vị Trời oai lực lắm trên cung Đao Lợi, ngày kia dắt một ngàn cô tiên đi chơi, hái hoa. 500 cô lên trên cao hái hoa liệng xuống, 500 cô ở dưới lượm đem về chơi. 500 cô trên cao mất tiêu mà không thấy hoa liệng xuống. Vị Trời dùng thần thông mới thấy 500 cô này biến mất vì hết tuổi thọ ở cõi Trời và đang bị đọa dưới địa ngục. Ông giựt mình vì 500 cô bên cạnh cũng sắp sửa chết. Ông cũng thấy mình sắp chết, sẽ đi địa ngục nên hoảng sợ và nghĩ đến đức Phật, liền đến hầu Phật và được Ngài thuyết pháp; nghe xong thì đắc Tu-đà-hoàn. Tu-đà-hoàn không còn thân kiến và không bị đọa, thế là ông yên tâm về trời sống, thành một vị Trời trẻ trung, sống 36 triệu năm nữa rồi tính tiếp.
Vì sao 1000 tiên nữ đó dễ dàng bị đọa như vậy? Đơn giản thôi, 36 triệu năm hoàn toàn hưởng dục không hề tu hành một ngày lấy đâu chút công đức nào mà tiếp tục trở lại.
Thời Đức Phật, có một lần ngài Mục Kiền Liên nhìn thấy chư thiên ở Đao Lợi dễ duôi lo ăn chơi vui vẻ quá, ngài dùng thần thông lấy ngón chân cái ấn vào tòa lâu đài Vejayanta (Victory) của đức trời Đế Thích làm lâu đài này rung chuyển. Chư thiên cứ nghĩ đền đài trên đó kiên cố không gì lay chuyển được giờ đây được mới hiểu ra trên đời này không có gì chắc chắn.
Sau khi Đức Phật Niết-bàn (ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất mất trước mới đến Đức Phật viên tịch), có một vị sa di 7 tuổi đắc lục thông, lên cõi Đao Lợi, nghĩ đến ngài Mục Kiền Liên (lúc này đã tịch rồi) nên cũng bắt chước lấy ngón chân ấn vào cho lâu đài rung động để chư thiên kinh cảm và chịu tu hành, nhưng lâu đài chả rung. Vị này về hỏi sư phụ lý do vì sao không thể làm như ngài Mục Kiền Liên, sư phụ nói: Con có từng thấy miếng phân bò khô trôi trên nước bao giờ chưa. Thế là vị sa di đã hiểu, lần này trở về ngài nhập vô thiền thủy giới tam muội, niệm đề mục nước khiến cho cả lâu đài bồng bềnh trên nước, rồi ngài nhập địa đại cho ngón chân cứng, rồi nhập thông đại tạo sự lay động, rồi ấn ngón chân vào lâu đài cho nó rung động.
Đừng nghĩ vị này ham vui mà là thiện chí của vị ấy. Tại sao cùng một lúc sử dụng nhiều đề mục như vậy? Ai không tu thiền bao giờ thì nghe dài dòng, nhưng thật ra ba đề mục này chỉ trong nháy mắt. Thần thông, tiếng Pāḷi là iddhi, từ ngữ căn là ijjh nghĩa là muốn.
Có vị đắc ngũ thiền mà không có thần thông, có người không đủ ngũ thông mà chỉ có tam thông, tứ thông, nhị thông, nhất thông thôi. Có người xuất gia đắc thiền mà không luyện nhĩ thông được, nhĩ thông là khả năng nghe được những âm thanh xa nhất nhỏ nhất. Vị này tên là Sunakkhatta. Đời trước vị này từng chơi búng sạn, có lần vì ham chơi mà búng viên sạn vào lỗ tai một vị Phật Độc Giác, khiến vị Phật Độc Giác này viên tịch. Thần thông của vị Phật Độc Giác nhiều hơn ngài Mục Kiền Liên nữa, nhưng do nghiệp cũ nên khiến vị này chết một cách không đẹp như vậy. Chuyện người thanh niên búng viên sạn vào lỗ tai vị Phật Độc Giác, ai có coi phim truyện Kim Dung thì biết. Đông tà Hoàng Dược Sư có khả năng đàn chỉ thần công, ngón tay co lại là búng sỏi cực mạnh, cao siêu hơn một chút là Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự trong Thiên Long Bát Bộ hoặc nhứt dương chỉ của Đoàn Nam đế . Riêng về Đoàn Dự thì có món Lục Mạch thần kiếm, chỉ dùng ngón tay thôi nhưng sức công phá dữ dội lắm... Đây là chuyện tào lao trong kiếm hiệp . Ở đây tôi muốn nói cái tội búng sạn làm chết vị Phật Độc Giác, tới lúc xuất gia đắc thiền nhưng không luyện nhĩ thông được, ông xin Đức Phật dạy cho luyện nhĩ thông, Ngài từ chối, nên ông bất mãn hoàn tục, chuyện về ông dài thăm thẳm, được nhắc trong Trường Bộ kinh.
Trở lại bài kinh, khi một vị Trời ham chơi cảm thấy thích thú hoan hỉ với khu vườn Nadavana nên nói ra những lời thiếu trí tuệ; nên một vị thiên nữ đọc cho vị ham chơi kia bài kệ: Các pháp hữu vi đều là vô thường, đã trót sanh ra thì có lúc bị mất, chỉ chứng ngộ Niết bàn thì mới an lạc. Còn tái sanh quẩn quanh trong cõi sinh diệt này thì dầu hạnh phúc đến mấy thì hạnh phúc ấy cũng vô thường, cũng sẽ nằm xuống xuôi tay đi theo duyên nghiệp của mình: “Kẻ ngu, sao không biết, Vị Ứng cúng đã nói: "Mọi hành là vô thường, Tự tánh phải sanh diệt, Sau khi sanh, chúng diệt, Nhiếp chúng là an lạc."
(Còn tiếp)