2022-03-28, 03:09 PM
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống (3-4)
Đức Phật kể rằng từ thời Giáo Pháp của Ngài chấm dứt lúc 5.000 năm (kể từ lúc Ngài viên tịch), Giáo Pháp hết rồi thì bắt đầu chúng sanh sống mông muội, ác đức, tuổi thọ xuống. Xuống còn 10 rồi bắt đầu lên đến một a tăng kỳ. Rồi nó lại bắt đầu giảm. Giảm cho đến 80.000 thì lúc đó đức Phật Di Lạc ra đời. Điều đặc biệt là lúc Bồ tát Di Lạc ra đời thì ngài là con trai duy nhứt của vị quan thái sư trong triều. Vị đó chính là thầy của ông vua Chuyển Luân vương tên là Sankha (nghĩa là xà cừ). Điều đặc biệt nữa là Bồ tát Di Lạc có 32 tướng tốt thì vua Chuyển Luân vương này cũng có 32 tướng tốt. Trong cùng một nơi, trong cùng một hành tinh không thể có 2 Chuyển Luân vương, ông này đi ông kia mới đến được, dầu đó là cha con. Hai Chuyển Luân vương mà cùng có mặt thì được nhưng cùng cai trị thì không. Nhưng một vị Phật và một vị Chuyển Luân vương thì ok, một vị là thầy, một vị là đệ tử. Chư thiên nhân loại ai cũng biết chuyện đó hết. Nhắc lại khi tuổi thọ chúng sanh còn 80.000 thì trên trời Đâu Suất Bồ tát Di Lạc xuống làm con trai của quan Thái phó.
Kể chuyện vua Chuyển Luân vương này trong một kiếp xưa có hai cha con làm nghề thợ gỗ trong rừng. Họ gặp một vị Phật Độc Giác. Tuy họ không biết đây là Thánh nhân nhưng một lòng quý kính chăm sóc hộ trì cúng dường tứ sự. Làm cốc liêu, y áo, thuốc men thực phẩm cho ngài. Khi họ chết thì công đức hộ trì một vị Phật Độc Giác phước báu không thể nghĩ bàn, nên cả hai sanh về trời. Ở trên trời hết tuổi thọ thì người cha sanh trở lại ở tiếp trên trời. Còn người con sanh về cõi nhân loại làm vị Chuyển Luân vương tên là Mahapanada. Phước vị này quá lớn nên Đế Thích lúc đó phải cho một vị thiên tử xuống hóa hiện ra một tòa lâu đài nguy nga, vừa ý thích cho vua này sử dụng.
Người con này làm Chuyển Luân vương một thời gian thì hết tuổi thọ ổng về trời. Trong Kinh nói lẽ ra những lâu đài được hóa hiện thần thông hoặc do phước báo mà tự xuất hiện thì khi người chủ sử dụng không còn sống nữa thì nó cũng tự biến mất theo. Tuy nhiên trường hợp này lại khác.
Các vị nhớ, người cha tiếp tục ở cõi trời còn người con ở cõi nhân loại làm Chuyển Luân vương. Khi người con này hết tuổi thọ về trời thì người cha sử dụng tiếp lâu đài này. Kinh nói do phước báo của người cha quá lớn tác động lại và một phần cũng do cái nghiệp của người cha là phải xài đồ cũ. Quý vị hỏi tôi tại sao thì cái này là nghiệp bất khả tư nghì không thể hiểu được. Nhiều khi trong lúc tạo phước tạo nghiệp cái tâm có chút gì đó trục trặc, mà nhiều khi bản thân mình không nhận ra. Thường ở những người phiền não nhiều. Thí dụ người tánh bỏn xẻn dầu họ hoan hỷ làm phước nhưng trong đáy lòng họ có vài cái trục trặc. Rồi người tánh sân hận nhiều, khi họ làm phước như đi quét chùa. Lúc quét cũng vui vẻ quét nhưng do cái máu sân nhiều quá, đang quét thấy miếng đờm dãi cũng bực mà cái bực đó kéo dài cả tiếng sau mới hết. Trong khi người tánh sân ít thấy vậy thì thôi giải quyết là xong, thí dụ như vậy. Thì mai này quả lành nó trổ, phước có hưởng nhưng trong hưởng quả đó cũng có cái trục trặc.
Tôi lưu ý bà con là mình càng ít phiền não thì phước báo mình càng ok, càng viên mãn. Còn phiền não nhiều thì lúc mình làm thiện thì nó cũng có nhiều cái vướng. Do mình có thiện tâm như thế nào, cái ác tâm như thế nào nó mới có ảnh hưởng qua lại mật thiết đến nghiệp mà mình đã tạo trữ, hàm dưỡng. Mình sân nhiều thì trong quả bố thí cũng có nét của tánh sân. Mình tham nhiều lúc mình phục vụ cũng để lại cái quả người tham nhiều. Mình ganh tị nhiều, lúc đi nghe Pháp trau giồi trí tuệ nghe bằng tâm ganh tị thì mai này nó cũng thông minh trí tuệ mà bị trục trặc. Đó là tôi ví dụ thôi nghe!
Thì người con sanh về trời thì đến đời Phật Thích Ca Mâu Ni người con sanh xuống làm một triệu phú tên là Bhakdacci. Bhakdacci này đi theo Phật và đắc được Lục thông. Một ngày kia, trên đường đi hóa Đạo cùng với Đức Phật đi ngang ngôi làng cũ. Lúc đó vua chúa dân chúng tiếp đón Đức Phật rất trọng thể. Đức Phật hỏi ngài Bhakdacci một câu, là ý Ngài muốn cho mọi người thấy. Bhakdacci lúc đó mới xuất gia, trai tăng xong không chịu ngồi kế Đức Phật mà vị này ra rừng ngoài bờ sông ngồi một mình. Thì chư tăng nói ông này mới tu sao chảnh dữ, hỏng biết thiền bao nhiêu, ngay lúc có Thế Tôn có chư tăng ở đây mà không chịu ngồi, lại đi ra ngoài rừng ở bờ sông ngồi là sao. Đức Phật biết chư tăng không hiểu vị này là ai nên có thái độ vậy. Nên lát sau ra bến đò gặp vị này, vị này đảnh lễ thì Đức Phật nói “Bhakdacci, ngày xưa có một thời ngươi ở đây phải không?”. Bhakdacci nói dạ phải. Đức Phật nói ngươi thời đó là Chuyển Luân vương Padana. – Dạ đúng. Ngài nói tiếp: “Ngươi cũng có một lâu đài. Lâu đài ngươi còn ở đây mà”. – Dạ phải. Lúc đó ngài đảnh lễ xin phép Đức Phật rồi dùng thần thông bay ra giữa sông, ngài đưa chân kẹp tòa lâu đài nhấc lên khỏi mặt nước cho mọi người thấy. Lúc đó có rất nhiều ốc, rùa, tôm, cá có trong đó nó rớt ra sợ hãi đau đớn. Đức Phật ngài mới nói “Đủ rồi Bhakdacci hãy trả mọi thứ trở về vị trí cũ. Đừng làm kinh động chúng sinh”.
Xong rồi chuyện đó qua đi, sau đó người con Niết bàn. Còn người cha hết tuổi thọ cõi trời thì xuống cõi người sau khi trồi lên hụp xuống đủ cõi thì đến đời Phật Di Lạc người cha làm Chuyển Luân vương Sankha. Lúc đó cái lâu đài người con dùng tiếp tục xuất hiện cho người cha sử dụng. Nhưng một thời gian ổng cũng bỏ ngôi, ổng đi tu theo Phật Di Lạc, ổng ở trong rừng trong hang chớ không ở lâu đài của Mahapadana nữa.
Như vậy xuyên suốt nội dung bài Kinh này Đức Phật ngài nói đến một số vấn đề rất quan trọng. Đó là sự kế thừa một cách thông minh và đầy trách nhiệm của thế hệ sau đối với thế hệ trước.
Kết thúc bài Kinh ngài dạy rằng:
Giống như các hoàng tử của Chuyển Luân vương, thế hệ này sang thế hệ khác luôn sống trong tinh thần truyền thừa, kế thừa một cách thông minh đầy đủ trách nhiệm đối với vương nghiệp của phụ vương. Cũng vậy, bất cứ ai tự nhận mình là học trò, là đệ tử học Phật thương Phật, quý Phật, kính Phật tin Phật thì hãy tiếp nối truyền thống cao đẹp của ngài bằng cách tiếp tục tu tập 37 Phẩm Bồ đề. Ngài dạy rằng khi tu tập đúng như vậy thì sẽ được những lợi ích như sau: sẽ được tuổi thọ, nhan sắc, an lạc, tài sản và sẽ được quyền lực.
Các vị nghe vậy thì thấy kỳ quá. Đức Phật kêu mình buông mà sao giờ Ngài hứa với mình là hãy tu tập như vậy để được những thứ đó, thì kỳ quá phải không? Không phải vậy đâu, mình hiểu nhầm đấy thôi. Trong Kinh có nhiều chỗ, lời chúc phúc của chư tăng là ‘Mong cho người được sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh…’ Mà cứ hết thế hệ này đến thế hệ khác đọc như vậy thấy ngồ ngộ vậy thôi. Thật ra trong Kinh này cả những cái ‘sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh…’, tất cả những cái đó được Đức Phật định nghĩa khác đi nhiều lắm.
Tôi nhắc lại, khi nào chúng tỳ kheo tu tập 37 Phẩm trợ bồ đề thì chúng tỳ kheo sẽ được những lợi ích tuổi thọ, nhan sắc, tài sản, quyền lực là:
1- Sẽ được tuổi thọ. Sống lâu đây là ngụ ý vị đó tu tập Bốn thần túc: Dục, Cần, Tâm, Thẩm.
* Dục như ý túc: Dục là sự thiết tha trong thiện pháp. Thiện pháp gồm có hai: hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là mong cho mình được cái này được cái kia trong cõi luân hồi => Thiện hữu lậu. Còn thiện vô lậu là nhất tâm cầu giải thoát, nhất tâm cầu giác ngộ. Nhất tâm trong thiện pháp nói chung được gọi là Dục như ý túc.
* Cần như ý túc: là sự nỗ lực trong mục tiêu lánh ác hành thiện.
* Tâm như ý túc: là các tâm thiện có được trong lúc mình hành thiện. thí dụ người không biết giáo lý thì rất có thể chỉ hành thiện bằng tâm thiện ly trí thọ xả vô trợ. Còn người biết giáo lý, có hàm dưỡng, tu tập thì họ sẽ làm phước bằng tâm thọ hỷ hợp trí vô trợ. Tâm như ý túc nó còn bao gồm tất cả tâm đổng lực thiện. Như người có đắc thiền thì họ nghe Pháp, họ hành thiền Vipassana cũng khác người không đắc thiền. Nếu là một bậc Thánh, dầu là thánh hữu học hay La Hán thì lúc các vị làm một việc gì đó thì tâm lực lúc vị đó đang thực hiện cũng không giống người phàm phu. Biết trong room nghe kịp không? –Tâm như ý túc ở đây là các loại tâm thiện được sử dụng trong lúc làm các điều lành. Còn đối với vị La Hán thì cái thiện đó chuyển qua Duy tác, là Tố. Tức tâm này sẽ được dùng làm những việc mà lẽ ra phàm phu phải làm bằng tâm thiện. Và tâm Tố này làm được những việc giống như tâm thiện làm, có một điều nó không để lại kết quả đời sau kiếp khác, bởi đây là tâm của một người đã hiểu rõ Bốn đế một cách rốt ráo, triệt để.
(còn tiếp)
Đức Phật kể rằng từ thời Giáo Pháp của Ngài chấm dứt lúc 5.000 năm (kể từ lúc Ngài viên tịch), Giáo Pháp hết rồi thì bắt đầu chúng sanh sống mông muội, ác đức, tuổi thọ xuống. Xuống còn 10 rồi bắt đầu lên đến một a tăng kỳ. Rồi nó lại bắt đầu giảm. Giảm cho đến 80.000 thì lúc đó đức Phật Di Lạc ra đời. Điều đặc biệt là lúc Bồ tát Di Lạc ra đời thì ngài là con trai duy nhứt của vị quan thái sư trong triều. Vị đó chính là thầy của ông vua Chuyển Luân vương tên là Sankha (nghĩa là xà cừ). Điều đặc biệt nữa là Bồ tát Di Lạc có 32 tướng tốt thì vua Chuyển Luân vương này cũng có 32 tướng tốt. Trong cùng một nơi, trong cùng một hành tinh không thể có 2 Chuyển Luân vương, ông này đi ông kia mới đến được, dầu đó là cha con. Hai Chuyển Luân vương mà cùng có mặt thì được nhưng cùng cai trị thì không. Nhưng một vị Phật và một vị Chuyển Luân vương thì ok, một vị là thầy, một vị là đệ tử. Chư thiên nhân loại ai cũng biết chuyện đó hết. Nhắc lại khi tuổi thọ chúng sanh còn 80.000 thì trên trời Đâu Suất Bồ tát Di Lạc xuống làm con trai của quan Thái phó.
Kể chuyện vua Chuyển Luân vương này trong một kiếp xưa có hai cha con làm nghề thợ gỗ trong rừng. Họ gặp một vị Phật Độc Giác. Tuy họ không biết đây là Thánh nhân nhưng một lòng quý kính chăm sóc hộ trì cúng dường tứ sự. Làm cốc liêu, y áo, thuốc men thực phẩm cho ngài. Khi họ chết thì công đức hộ trì một vị Phật Độc Giác phước báu không thể nghĩ bàn, nên cả hai sanh về trời. Ở trên trời hết tuổi thọ thì người cha sanh trở lại ở tiếp trên trời. Còn người con sanh về cõi nhân loại làm vị Chuyển Luân vương tên là Mahapanada. Phước vị này quá lớn nên Đế Thích lúc đó phải cho một vị thiên tử xuống hóa hiện ra một tòa lâu đài nguy nga, vừa ý thích cho vua này sử dụng.
Người con này làm Chuyển Luân vương một thời gian thì hết tuổi thọ ổng về trời. Trong Kinh nói lẽ ra những lâu đài được hóa hiện thần thông hoặc do phước báo mà tự xuất hiện thì khi người chủ sử dụng không còn sống nữa thì nó cũng tự biến mất theo. Tuy nhiên trường hợp này lại khác.
Các vị nhớ, người cha tiếp tục ở cõi trời còn người con ở cõi nhân loại làm Chuyển Luân vương. Khi người con này hết tuổi thọ về trời thì người cha sử dụng tiếp lâu đài này. Kinh nói do phước báo của người cha quá lớn tác động lại và một phần cũng do cái nghiệp của người cha là phải xài đồ cũ. Quý vị hỏi tôi tại sao thì cái này là nghiệp bất khả tư nghì không thể hiểu được. Nhiều khi trong lúc tạo phước tạo nghiệp cái tâm có chút gì đó trục trặc, mà nhiều khi bản thân mình không nhận ra. Thường ở những người phiền não nhiều. Thí dụ người tánh bỏn xẻn dầu họ hoan hỷ làm phước nhưng trong đáy lòng họ có vài cái trục trặc. Rồi người tánh sân hận nhiều, khi họ làm phước như đi quét chùa. Lúc quét cũng vui vẻ quét nhưng do cái máu sân nhiều quá, đang quét thấy miếng đờm dãi cũng bực mà cái bực đó kéo dài cả tiếng sau mới hết. Trong khi người tánh sân ít thấy vậy thì thôi giải quyết là xong, thí dụ như vậy. Thì mai này quả lành nó trổ, phước có hưởng nhưng trong hưởng quả đó cũng có cái trục trặc.
Tôi lưu ý bà con là mình càng ít phiền não thì phước báo mình càng ok, càng viên mãn. Còn phiền não nhiều thì lúc mình làm thiện thì nó cũng có nhiều cái vướng. Do mình có thiện tâm như thế nào, cái ác tâm như thế nào nó mới có ảnh hưởng qua lại mật thiết đến nghiệp mà mình đã tạo trữ, hàm dưỡng. Mình sân nhiều thì trong quả bố thí cũng có nét của tánh sân. Mình tham nhiều lúc mình phục vụ cũng để lại cái quả người tham nhiều. Mình ganh tị nhiều, lúc đi nghe Pháp trau giồi trí tuệ nghe bằng tâm ganh tị thì mai này nó cũng thông minh trí tuệ mà bị trục trặc. Đó là tôi ví dụ thôi nghe!
Thì người con sanh về trời thì đến đời Phật Thích Ca Mâu Ni người con sanh xuống làm một triệu phú tên là Bhakdacci. Bhakdacci này đi theo Phật và đắc được Lục thông. Một ngày kia, trên đường đi hóa Đạo cùng với Đức Phật đi ngang ngôi làng cũ. Lúc đó vua chúa dân chúng tiếp đón Đức Phật rất trọng thể. Đức Phật hỏi ngài Bhakdacci một câu, là ý Ngài muốn cho mọi người thấy. Bhakdacci lúc đó mới xuất gia, trai tăng xong không chịu ngồi kế Đức Phật mà vị này ra rừng ngoài bờ sông ngồi một mình. Thì chư tăng nói ông này mới tu sao chảnh dữ, hỏng biết thiền bao nhiêu, ngay lúc có Thế Tôn có chư tăng ở đây mà không chịu ngồi, lại đi ra ngoài rừng ở bờ sông ngồi là sao. Đức Phật biết chư tăng không hiểu vị này là ai nên có thái độ vậy. Nên lát sau ra bến đò gặp vị này, vị này đảnh lễ thì Đức Phật nói “Bhakdacci, ngày xưa có một thời ngươi ở đây phải không?”. Bhakdacci nói dạ phải. Đức Phật nói ngươi thời đó là Chuyển Luân vương Padana. – Dạ đúng. Ngài nói tiếp: “Ngươi cũng có một lâu đài. Lâu đài ngươi còn ở đây mà”. – Dạ phải. Lúc đó ngài đảnh lễ xin phép Đức Phật rồi dùng thần thông bay ra giữa sông, ngài đưa chân kẹp tòa lâu đài nhấc lên khỏi mặt nước cho mọi người thấy. Lúc đó có rất nhiều ốc, rùa, tôm, cá có trong đó nó rớt ra sợ hãi đau đớn. Đức Phật ngài mới nói “Đủ rồi Bhakdacci hãy trả mọi thứ trở về vị trí cũ. Đừng làm kinh động chúng sinh”.
Xong rồi chuyện đó qua đi, sau đó người con Niết bàn. Còn người cha hết tuổi thọ cõi trời thì xuống cõi người sau khi trồi lên hụp xuống đủ cõi thì đến đời Phật Di Lạc người cha làm Chuyển Luân vương Sankha. Lúc đó cái lâu đài người con dùng tiếp tục xuất hiện cho người cha sử dụng. Nhưng một thời gian ổng cũng bỏ ngôi, ổng đi tu theo Phật Di Lạc, ổng ở trong rừng trong hang chớ không ở lâu đài của Mahapadana nữa.
Như vậy xuyên suốt nội dung bài Kinh này Đức Phật ngài nói đến một số vấn đề rất quan trọng. Đó là sự kế thừa một cách thông minh và đầy trách nhiệm của thế hệ sau đối với thế hệ trước.
Kết thúc bài Kinh ngài dạy rằng:
Giống như các hoàng tử của Chuyển Luân vương, thế hệ này sang thế hệ khác luôn sống trong tinh thần truyền thừa, kế thừa một cách thông minh đầy đủ trách nhiệm đối với vương nghiệp của phụ vương. Cũng vậy, bất cứ ai tự nhận mình là học trò, là đệ tử học Phật thương Phật, quý Phật, kính Phật tin Phật thì hãy tiếp nối truyền thống cao đẹp của ngài bằng cách tiếp tục tu tập 37 Phẩm Bồ đề. Ngài dạy rằng khi tu tập đúng như vậy thì sẽ được những lợi ích như sau: sẽ được tuổi thọ, nhan sắc, an lạc, tài sản và sẽ được quyền lực.
Các vị nghe vậy thì thấy kỳ quá. Đức Phật kêu mình buông mà sao giờ Ngài hứa với mình là hãy tu tập như vậy để được những thứ đó, thì kỳ quá phải không? Không phải vậy đâu, mình hiểu nhầm đấy thôi. Trong Kinh có nhiều chỗ, lời chúc phúc của chư tăng là ‘Mong cho người được sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh…’ Mà cứ hết thế hệ này đến thế hệ khác đọc như vậy thấy ngồ ngộ vậy thôi. Thật ra trong Kinh này cả những cái ‘sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh…’, tất cả những cái đó được Đức Phật định nghĩa khác đi nhiều lắm.
Tôi nhắc lại, khi nào chúng tỳ kheo tu tập 37 Phẩm trợ bồ đề thì chúng tỳ kheo sẽ được những lợi ích tuổi thọ, nhan sắc, tài sản, quyền lực là:
1- Sẽ được tuổi thọ. Sống lâu đây là ngụ ý vị đó tu tập Bốn thần túc: Dục, Cần, Tâm, Thẩm.
* Dục như ý túc: Dục là sự thiết tha trong thiện pháp. Thiện pháp gồm có hai: hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là mong cho mình được cái này được cái kia trong cõi luân hồi => Thiện hữu lậu. Còn thiện vô lậu là nhất tâm cầu giải thoát, nhất tâm cầu giác ngộ. Nhất tâm trong thiện pháp nói chung được gọi là Dục như ý túc.
* Cần như ý túc: là sự nỗ lực trong mục tiêu lánh ác hành thiện.
* Tâm như ý túc: là các tâm thiện có được trong lúc mình hành thiện. thí dụ người không biết giáo lý thì rất có thể chỉ hành thiện bằng tâm thiện ly trí thọ xả vô trợ. Còn người biết giáo lý, có hàm dưỡng, tu tập thì họ sẽ làm phước bằng tâm thọ hỷ hợp trí vô trợ. Tâm như ý túc nó còn bao gồm tất cả tâm đổng lực thiện. Như người có đắc thiền thì họ nghe Pháp, họ hành thiền Vipassana cũng khác người không đắc thiền. Nếu là một bậc Thánh, dầu là thánh hữu học hay La Hán thì lúc các vị làm một việc gì đó thì tâm lực lúc vị đó đang thực hiện cũng không giống người phàm phu. Biết trong room nghe kịp không? –Tâm như ý túc ở đây là các loại tâm thiện được sử dụng trong lúc làm các điều lành. Còn đối với vị La Hán thì cái thiện đó chuyển qua Duy tác, là Tố. Tức tâm này sẽ được dùng làm những việc mà lẽ ra phàm phu phải làm bằng tâm thiện. Và tâm Tố này làm được những việc giống như tâm thiện làm, có một điều nó không để lại kết quả đời sau kiếp khác, bởi đây là tâm của một người đã hiểu rõ Bốn đế một cách rốt ráo, triệt để.
(còn tiếp)