LTP Học Phật Pháp
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Ba Tạng Kinh Điển và Con Đường Tu Chứng (6-6)

 
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=vBxcTrs6iY4&abt=Ba+T%E1%BA%A1ng+v%C3%A0+Con+%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng+Tu+Ch%E1%BB%A9ng
 
- Thứ hai – quan điểm nhận thức. Có một số điều trong Kinh mình hiểu khác, cái từ từ tôi tránh không nói chuyện với ông đó nữa, hiểu không? Nhưng mà ai đến hỏi tôi thì tôi giảng theo cái kiểu Phật pháp của tôi. Thế là từ từ có nhóm theo tôi và tránh cái vị kia. Rồi có một số hợp với vị kia. Nên từ từ Phật pháp tách ra thành nhiều nhóm. 

Trong đó cái nhánh sau, ngoài sinh hoạt, ăn mặc ra thì còn có 1 số điểm sau đây: khơi rộng những điểm mà Phật giáo Nguyên Thủy bỏ ngỏ. Bỏ ngỏ nghĩa là không nhắc tới. Ví dụ như trong kinh điển Nguyên Thủy ghi, có vô lượng thế giới, trong mỗi Buddha Zone không có vị Phật thứ 2. Bên Nam tông chỉ nói có 2 câu đó là xong. Còn cái đám mới phát triển nó mê chỗ đó quá đi, họ phát triển thêm: vì có vô lượng thế giới nên ngoài Buddha Zone này còn có vô lượng Buddha Zone khác, và cái Buddha Zone đó hoàn toàn có thể có Phật. Thế là có các cõi sau đây: Đông phương Dược Sư Lưu Ly Như Lai, Tây phương Cực Lạc Di Đà Phật, có A Xuất Phật, có cõi Chúng Hương, có cõi Sư Tử Hống Như Lai, Diệu Âm Như Lai… Thứ 2 tại sao có Phật Dược Sư, Phật này Phật kia? Phật Dược Sư là vô địch chữa bệnh đúng không. Có cõi Chúng Hương thì ai cũng thơm. Không phải họ khùng, mà nó như thế này. Họ dựng ra là chính trong kinh Nguyên Thủy chứ không có đâu hết. Trong kinh Nguyên Thủy nói có rất nhiều vị Bồ Tát, tuy mục đích cao nhất là nguyện thành Chánh Đẳng Giác, nhưng khi họ nguyện thành Phật như vậy họ vẫn còn phàm, nhưng trong 10 ông nguyện thành Phật này nhưng có sự khác nhau, ví dụ tôi rất thích hào quang thế là trong lúc tu hành tôi nguyện khi nào thành Phật là tôi có hào quang chói chang nắng hạ, ông này ông khoái bông sen lắm nên ông nguyện khi ông thành Phật thì sen từa lưa hết, ông sư Đức Minh ông rất tâm đắc với lọng che, nên ông nguyện ông thành Phật đi đâu cũng có cái lọng trên đầu, nên có nhiều vị thành Phật rồi đi đâu cũng có cái lọng. Còn ông sư Bửu Tâm lúc chưa thành Phật ông thương chúng sanh vô cùng, mà ông thích sống lâu nên ông nguyện khi nào tuổi thọ chúng sanh cao nhất ông mới ra, chứ tu hành khổ cực mới sanh ra được mấy ngày đã đi thì uổng công tôi, với tội chúng sanh nghe chưa có đã. Thế là ông thì bông sen, ông thì lọng che, ông thì tuổi thọ. Mà đó là kinh Nguyên Thủy nói. Thế là qua Bắc truyền họ mới dựa vô kinh, họ nói: ở mỗi Buddha Zone không thể có 2 Phật, nhưng ở Buddha Zone khác là hoàn toàn có thể. Thứ 2, vì mỗi Bồ Tát bên cạnh cái hạnh nguyện chính nó còn có cái nguyện phụ, nên có vị nào quan tâm cái sắc, cái thinh, cái khí, cái vị, cái xúc thì khi thành Phật, quả Phật giống nhau nhưng cái râu ria sẽ nặng cái họ thích. Có vị bệnh, họ thương cái người bị bệnh, họ nguyện khi thành Phật ai gặp họ cũng sẽ hết bệnh, thế là vị đó có tên là Dược Sư Lưu Ly. Họ chế ra có ý chứ không phải không. Mỗi lần đốt trầm, mùi thơm họ thích lắm thế là họ nguyện sinh ra về cõi Chúng Hương, có nghĩa là lời nguyện có từ 1 buổi tụng kinh thôi chứ không có gì hết.


Bồ Tát Giới
Tôi đã nói về cõi Phật và Bồ Tát xong rồi, bây giờ qua Bồ Tát Giới. Đã có Bồ Tát thì phải có nguyên tắc của Bồ Tát chứ, thì nguyên tắc hành động đó được gọi là Bồ Tát Giới. Mà Bồ Tát Giới là những điều mà 1 người muốn thành Phật cần nên tránh giữ điều đó gọi là giữ Bồ Tát Giới. Hiểu không? Khi cô muốn đẹp, thì có những thứ cô phải tránh, và có 1 số chuyện cô phải làm. Những điều đó gọi là “phụ nữ giới”, “mỹ nhân giới” (cười). Còn muốn thành Bồ Tát cần Bồ Tát Giới. Không phải họ chế, mà họ dựa vào kinh điển, nhưng họ muốn làm nổi bật những điều đó nên họ đóng khung nó và đặt cho cái tên. Ví dụ như hồi bà má mình sống bà dạy mình tùm lum, khi má mất rồi, trong nhà có mấy đứa con gái mình mới làm cái bảng, mình để lên những điều tâm niệm của phụ nữ, để nhắc mấy đứa con gái trong nhà không đi ngang về tắt, không yêu đương bậy bạ, có yêu ai phải trình báo cha mẹ… Tất cả cái đó ngày xưa trong cuộc nói chuyện má có nói, nhưng má không có thống kê kỹ như vậy, mà bây giờ má mất rồi, nhà con gái đông quá thế là mình mới gom những điều má nói in thành 1 trang chà bá ghi là những điều răn phụ nữ. Quý vị thắc mắc hồi đó má còn sống đâu có viết mấy cái này. Sai. Cái này của má không à, nhưng tôi là bố, tôi phải gom những điều mà má nói trong nhiều năm mà tôi được nghe, rồi tôi lấy cái tên tôi đặt cho nó, nhưng cái ruột là của má tôi. Dĩ nhiên tôi có dặm vài cái mà ngày xưa má không nói – không nên thức khuya, không nên chat messager nhiều quá… chứ hồi má tôi làm gì có, nó là của tôi.

 
Bồ Tát Giới là cái đó á. Nhưng tôi kỹ nên tôi phải nói tanh bành cho quý vị biết Bồ Tát là cái gì, Phật là cái gì, nên tôi Nam truyền nhưng tôi không chổng mông để chống những cái khác. Cái bậy nhất là Bắc truyền chửi Nam truyền mà không chịu đọc. Nam truyền chửi Bắc truyền mà không chịu đọc. Không biết người ta nói cái gì. Trong khi cả 2 bên đều có thể ngồi nói chuyện với nhau. Bên Tây có 1 câu rất hay: “Cái bi kịch của thế giới là người ta đã dựng nên quá nhiều bức tường ngăn cách, thay vì những cây cầu cảm thông”. Bên Nam truyền có nhiều cái phải đọc của Bắc truyền, vì bên đó có những thứ rất là độc đáo mà bên Nam truyền vì tinh thần hương hoả quá nặng nên không có. Tinh thần hương hoả là giữ miếng đất giữ hoài, không dám nhúc dịch. Hiểu không? Nên tôi gọi là tinh thần hương hoả. Còn Bắc truyền vì cũng để bảo vệ dòng họ, nhưng mà đi làm ăn xa nên nhiều đồ hơi lạ. Nhưng dầu là tên ở nhà giữ đất hương hoả hay cái tên đi làm ăn xa đem đồ lạ về, hai tên hoàn toàn có thể ngồi lại nói chuyện với nhau. Vì hai tên đó toàn muốn xây dựng từ đường hết. Nó xui trong nhà có mấy mụ đàn bà nhiều chuyện, bà rỉ tai thằng cha hương hoả, anh thấy không nó đi xa về mang đâu ba cái tào lao. Vợ thằng cha đi xa thấy ông nhà quê, cái mặt phèn không à, không đủ tư cách nói chuyện với mình, cái đầu ông đó như con tép vậy đó. Mà lẽ ra hai đứa này ngồi với nhau là ok. Mà không chịu tìm hiểu nhau, ăn rồi chổng mông chửi nhau tanh bành hết.

Chiều nay tôi phang thứ rất là nặng, không chịu học giáo lý, đạo mất. Cất chùa cho nhiều mà Phật tử không biết giáo lý là đạo mất.


Có cô Phật tử bỏ tiền ra mua miếng đất làm chùa, hồi đầu cũng muốn mời chư tăng về dạy đạo, mà muốn mời hơi khó, mà Phật tử buổi đầu không nhiều, nên sự hỗ trợ khi tăng về không mạnh, nên chư tăng nản, không muốn về. Thì cái này kéo theo cái kia. Từ hẻo lánh dẫn đến chuyện Phật tử ít, từ Phật tử ít dẫn đến chư tăng không muốn về, nên cái chùa hiu quạnh. Rồi muốn chùa đông, có mấy quân sư quạt mo trong chùa bàn với nhau làm tháp xương, tháp cốt. Chỉ cần có chứa xương của má nó, đi đâu nó cũng về thăm chùa, thì chùa sẽ mạnh. Khi tôi biết chuyện đó, tôi nói cái này :” Cái con đường mà bán đồ chay, ca nhạc gây quỷ, làm tháp xương có nhiều chùa chơi rồi, nhưng mà mình nhìn thấy nó đi về đâu. Cuối cùng chỉ lặp lại cái lối mòn. Phật giáo mình cần là những nơi chốn tổ chức những lớp giáo lý. Bởi vì có Phật tử ngoan đạo, chỉ cần 1 cặp vợ chồng mà nó ngoan đạo, nó có thể làm 1 đạo tràng, mà cái thứ nó đã dốt rồi, 100 mạng cũng toàn là con nhang thôi, cắm đầu nó tin thôi.”


Đây là câu cuối cùng, trước khi đóng lại không giảng nữa. Phật tử không học giáo lý, chỉ là nô lệ cho tăng ni. Phật tử học giáo lý, là đệ tử của Tăng Bảo. Phật tử không học giáo lý chỉ biết cúng bao thơ, ăn lựa đồ ngon đồ bổ mà buồn buồn nó đè ra nó chửi như chó. Nhiều khi má mình không dám cho ăn vì sợ tốn tiền, nhưng thầy chùa lại cho ăn rồi nó đè ra nó chửi như chó mà sợ thầy bỏ, nó quỳ lạy xin lỗi năn nỉ suốt đêm. Thật ra khi học giáo lý mình không cuồng như vậy. anh có cái để tôi học thì tôi học, có cái để nhìn thì tôi nhìn, có cái nghe thì tôi nghe. Đó chính là đệ tử Tam Bảo, còn đâu là nô lệ của tăng ni.


(Hết)

Mục Lục các Bài Giảng
Reply
Ảo giác về sự rắn chắc của bức tường

Sắc Pháp (Rūpa)

Loại pháp chân đế thứ ba là sắc pháp. Nhiều người trong chúng ta cho rằng những thứ vật chất là các thể rắn hữu hình. Theo Thắng Pháp (Abhidhamma), thật ra một đối tượng vật chất có thể được chia chẻ nhỏ liên tục cho đến khi không còn gì khác ngoài năng lượngDo đó, không có gì là rắn chắc trong thế gian này. Ở đây, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi rằng: Nếu không có gì là rắn chắc thì tại sao chúng ta không thể đi xuyên tường hay xuyên núi theo như cách chúng ta đi trong không khí? Nó là như vậy vì đó là cách thức các giác quan của chúng ta trải nghiệm yếu tố đất, chứ không phải vì bản chất vốn có của chúng là rắn chắc. Đó là lý do tại sao có những loại tia vật chất nhất định có thể đi xuyên qua tường hoặc núi.

Tuy nhiên, những yếu tố vật chất này biến diệt nhanh đến mức chúng không có thời gian để lão hóa hay để thay đổi vị trí. Mọi vật dường như có vẻ tồn tại lâu dài là vì chúng bị thay thế một cách liên tục với những vật chất mới, giống như nước trong một dòng sông hay vật liệu cháy trong một cây đèn cầy. 
  1. Mọi vật dường như có vẻ di chuyển là vì những thành phần vật chất mới mẻ liên tục thay thế cho chúng thì sanh lên tại những vị trí xa hơn từng chút một. 
  2. Và mọi vật dường như có vẻ lão hóa là vì những thành phần vật chất thay thế cho chúng bị suy thoái cả về số lượng cũng như về chất lượng theo thời gian
Chính vì những sự thay thế có tính liên tục và ở  một quy mô rộng lớn như vậy mà chúng ta nhầm lẫn cho chúng là một cái gì đó rắn chắc hay tồn tại lâu dài, một cái gì đó có già cỗi hay di chuyển. Thật ra, già hay trẻ, đẹp hay xấu, di chuyển hay đứng yên, tất cả đều là một ảo giác. Chúng giống y hệt với ngọn lửa của cây đèn cầy, luôn luôn biến đổi và bị thay thế một cách liên tục với những thành phần mới. Đó là lý do tại sao điều sau đây được ghi nhận: 

“Cái gì chưa được sanh lên thì sanh lên. Cái gì được sanh lên thì biến hoại. Tất cả các pháp hữu vi thì luôn luôn mới mẻ như âm thanh từ một chiếc hạc cầm.” (Abhidhammattha Saṅgaha Bhāsātīka)

http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=22106&pid=405044#pid405044

 P 6, post #80
Reply
 
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
Reply
(2021-12-25, 07:46 PM)anattā Wrote: Bạn LeThanhPhong,

Nhớ hôm nào tôi tình cờ đọc đâu đó trong một thread nào của LTP thì phải, thì thấy bạn nhắc đến các con số (VDP) nói về các tâm thiện và bất thiện khá là rắc rối. Theo kinh nghiệm của tôi, bước đầu để làm quen với các con số của tâm trong VDP thì cần đến bản đồ các chi pháp cho dễ nhớ. Tôi bắt đầu làm quen với VDP hồi cuối năm 2018 cũng gặp khó khăn như thế, và năm sau đó 2019 tôi phải dùng đến bảng chi pháp Abhidhamma, tức là VDP, và tôi thấy bản đồ chi pháp của sư cô Tâm Tâm rất rõ ràng dễ hiểu. Tôi mới saved nó vào USB và mang ra Office Depot để nhờ họ in phóng lớn ra kích thước lớn nhất có thể được, là khoảng 35 inches * 24 inches. Và tôi treo nó trên tường trong phòng của mình. Chỉ là chia sẻ với bạn nếu cảm thấy thích thì dùng.

(Ngày mai tôi sẽ xóa post này để tránh làm loảng đi thứ tự các posts về Phật học của LTP)



[Image: bang-chi-phap.jpg]

Cheer

Cám ơn bác anatta đã tặng bỉêu đồ VDP .  Đây là món quà Giáng Sinh thật quý báu mà LTP nhận được hôm nay .  LTP sẽ in ra và dán lên tường .

Bác không cần phải xoá post vì LTP luôn luôn update Mục Lục Học Phật Pháp tại post đầu tiên . 

Merry Christmas and Happy New Year.

Cheer
Reply
Tôi cũng lần đầu mới thấy bức đồ này. Cũng giữ lại 1 bản rồi 

Cảm ơn anh Anatta và anh TLP

Cheer
Vung cước tung hoành viện dưỡng lão
Thần quyền xưng bá trường mầm non
Reply
(2021-12-25, 11:15 PM)RungHoang Wrote: Tôi cũng lần đầu mới thấy bức đồ này. Cũng giữ lại 1 bản rồi 

Cảm ơn anh Anatta và anh TLP

Cheer

Hay quá .  Anh RH cũng học VDP .  Đúng là một tin vui .

Cheer
Reply
Chân Đế & Tục Đế
Bởi Cittasamādhi JSvào 16 thg 3, 2018


Hai pháp Tục Ðế (Sammuttisacca) và Chân Ðế (Paramatthasacca) bao hàm trọn vẹn tất cả các pháp trong thế gian. Trong Phật Giáo, Thiền chỉ và Thiền quán là 2 pháp hành rất quan trọng. Đặc biệt, đối tượng của Thiền quán là Pháp Chân Đế và đối tượng của Thiền chỉ là Pháp Tục Đế hay Pháp Chế Định. Cho nên, người học Phật cần phải phân biệt rõ thế nào là giả định (tục đế), thế nào là thật thể (chân đế). Ðâu là hữu vi, đâu là vô vi để không có sự lầm lẩn, chấp "ngón tay là mặt trăng"; nhất là đối với người hành thiền tứ niệm xứ thì vấn đề càng quan trọng hơn, vì hành thiền minh sát là quán xét để thấu triệt bản chất thật thể của các pháp, thì khi đó mới hành Thiền Tứ Niệm Xứ đúng được.


[Image: vdp01.jpg]

• 
Chữ Chân Đế (Paramatthasacca): Chân lý tối thượng, sự thật tuyệt đối, hay thực tại rốt ráo. Tiếng Anh là reality, actuality. Và Không bao giờ thay đổi (Parama aviparito): không thay đổi ở đây không có nghĩa là thường hằng, bất biến, mà nó có nghĩa là trước sau giống nhau không sai khác. Quá khứ như thế nào thì hiện tại và tương lai cũng như thế ấy; do đó được gọi là chân như (chân: sự thật; như: không thay đổi). Ví dụ "các Pháp do duyên sanh thì các Pháp đó do duyên diệt, cái gì có sanh thì cái đó phải diệt."  Ngoài ra, về mặt chiết tự ta có thể hiểu (chân: sự thật, đế: sự thật) chân đế là sự thật của sự thật, là thực thể của tục đế.


  Theo Vi Diệu Pháp có tất cả là bốn thực thể của các pháp:
    1. Tâm (Citta): thành phần tri giác của chúng sanh.
    2. Sở hữu tâm (Cetasika): thành phần phụ thuộc của tâm.
    3. Sắc pháp (Rūpa): thành phần vật chất, vô tri.
    4. Niết bàn (Nibāna): bản thể tịch tịch, chấm dứt sự sinh diệt của Danh Sắc.
   - Tâm 
(Citta), Sở hữu tâm (Cetasika) và Sắc pháp (Rūpa) gọi là pháp hữu vi (Saṅkhāra)
  - Niết Bàn (Nibāna) được gọi là pháp vô vi (Asaṅkhāra).

[Image: vdp03.jpg]

• Chữ Tục Đế (Sammuttisacca) là sự thật mang tính chế định, có nghĩa là sự thật thông thường do thế tình đặt ra, thay đổi theo thời gian, môi trường hay tập thể nào đó nên có khi đúng khi không. Ví dụ như khi nói ở Việt Nam tài xế lái xe phải đi bên phải là đúng luật, còn bên Úc thì bên trái là đúng luật. Như vậy chỉ đúng ở địa phương hay thời điểm nào đó thôi.


 Chữ Sammuttisacca còn được các dịch giả dịch bằng những danh từ khác nhau như sau:


Chế định: ngôn từ để chỉ định vật gì định đặt.
Mặc ước: ước định, khái niệm về vật gì.

Thi thiết: đặt bày ngôn từ diễn đạt các sự vật ...
Mặc dù được dịch với nhiều danh từ, nhưng tựu chung thì Tục đế là các ngôn từ được định đặt ra để diễn đạt các sự vật. Pháp Tục Ðế được chia ra làm hai loại chế định: Danh chế định Nāmapaññatti và nghĩa chế định Atthapaññatti.


[Image: vdp02.jpg]

Trong xã hội người ta quy định vật này vật kia, người này người kia để dễ phân biệt như nhà l
ầu, xe hơiông A, bà B ...v.v... thì gọi là Danh chế định (Nāmapaññatti) (danh xưng), khi nói đến danh chế định thì người liền liên tưởng đến vật được miêu tả thì gọi là nghĩa chế định (Atthapaññatti). Ví dụ như nói đến trái chanh là nói đến một vật có hiện hữu (Paramattha), tên gọi trái chanh là danh chế định (Nāmapaññatti) và hình ảnh trái chanh hiện lên trong đầu là nghĩa chế định (Atthapaññatti)


Một ví dụ khác, chữ "giận" là ngôn ngữ là danh chế định. Khi nói đến "giận" là hình dung đến một cơn giận đã xảy ra trong quá khứ thì gọi là khái niệmCòn ngay trong thực tại mà ta đang sân giận tức là cơn giận đang hiện hữu là sự thật chân đế Paramattha.


Khi hành thiền thì ngay thực tại thì không có giận nhưng cứ nghĩ đến chuyện hôm qua mình giận ai đó, rồi nhớ đến trạng thái giận như thế nào thì hình ảnh giận chỉ là khái niệm mà thôi.


Cho nên có thể nói Chân Đế là bản thể của Tục Đế.


💜 Danh chế định (Nāmapaññatti) rất cần thiết trong xã hội, trong Phật giáo được phân ra làm sáu loại:

1. Danh chơn chế định (Sāvijjamāna paññatti): là những danh từ chỉ thực tánh chân đế, những danh từ dùng để diễn đạt pháp Chân đế.
Thí dụ: Tâm, Sở hữu tâm, Sắc pháp, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Uẩn, Xứ, Giới, Ðế, Niết Bàn ...


2. Phi danh chơn chế định (Avijjamāna paññatti): là những
 từ dùng để diễn đạt pháp Tục đế. 

Thí dụ: Cái nhà (vì cái nhà do hiệp thành từ nhiều yếu tố), tôi (tôi là tập hợp ngũ uẩn), Chư thiên, Ma vương ...v.v...

3. Danh chơn, phi danh chơn chế định (Vijjāmāna avijjāmāna paññatti): là những danh từ ghép, chữ trước chỉ vật có thật (pháp chân đế), chữ sau chỉ vật theo qui ước (pháp tục đế). 

Thí dụ: Tâm tôi (tâm thì có, còn tôi thì không có), Tiếng radio, Mùi sầu riêng ...  tiếng, mùi là những danh từ chỉ vật có thật (chân đế); tôi, radio, sầu riêng là những danh từ giả định (tục đế).

4. Phi danh chơn, danh chơn chế định (Avijjāmāna vijjāmāna paññatti): là những danh từ ghép, tiếng trước thuộc về ngôn từ giả định (pháp Tục đế), tiếng sau thuộc về những danh từ chỉ vật có thật (pháp Chân đế). 

Thí dụ: Tôi sân, nó có tâm tham ... (Tôi, nó là giả danh, không có thật; sân, tâm tham là những trạng thái có thật.)

5. Danh chơn, danh chơn chế định 
(Vijjāmāna vijjāmāna paññatti): là những danh từ ghép, tiếng trước và tiếng sau đều chỉ những sự vật có thật. 

Thí dụ: Tâm Tham, Nhãn Thức, Thọ Lạc ... (Tâm, Tham, Nhãn, Thức, Thọ, Lạc đều là những sự vật có thật)

6. Phi danh chơn, phi danh chơn chế định
 (Avijjāmāna avijjāmāna paññatti): là những danh từ ghép, trong đó tiếng trước và tiếng sau đều chỉ những sự vật giả danh.
Thí dụ: nhơn loại, thiên hạ, trời đất, cha con, ông cháu, nhà tôi, xe tôi.. những danh từ đó diễn đạt những sự vật không có thật.


💜 Nghĩa chế định Atthapaññatti (khái niệm) gồm có bảy loại khái niệm như sau:

1. Hình thức chế định (Santhānā paññatti): là những danh từ dùng để diễn đạt hình dáng của sự vật như núi cao, biển rộng, hố sâu, sông dài, bàn tròn, người lanh lẹ, ....

2. Hiệp thành chế định (Samūha paññatti): những danh từ chỉ các sự vật hiện hữu bởi sự tập hợp của nhiều vật khác nhau như cái nhà là sự kết hợp bởi nhiều yếu tố như rui, mè, kèo, cột ..., xe (sự kết hợp bởi sườn, bánh, tay lái, ...), gia đình (sự kết hợp bởi cha, mẹ, con cái ...), người (sự kết hợp của ngũ uẩn), cái bàn, cái ghế, quốc gia...v.v...


3. Chúng sinh chế định (Satta paññatti): là những danh từ dùng để chỉ những sinh vật có thức tánh, mạng căn như loài người, Chư Thiên, tiên, Phật, ... Phân tích ra thì tất cả chúng sanh có thức tánh đều có ngũ uẩn, nhưng vì có những đặc tính hình dáng giống nhau mà phân biệt người, loài vật, chư thiên...v.v...

4. Phương hướng chế định (Disā paññatti): là những danh từ dùng để diễn đạt về phương hướng như Ðông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới ... ví dụ người ở Sydney thì Brisbane là hướng Bắc, Melbourne là hướng Nam... Còn như người ở Melbourne thì Brisbane, Sydney là hướng Bắc còn Adelaide là hướng Nam...

5. Thời gian chế định (Kāla paññatti): là những danh từ dùng để chỉ một thời điểm nào đó như buổi sáng, buổi tối, Xuân, Hạ, Thu, Ðông, ... Ví dụ như người ta lấy 1 vòng quay trái đất tính 24 giờ (1 ngày 1 đêm)...

6. Hư không chế định (Ākāsa paññatti): là những danh từ dùng để diễn tả những chỗ trống, kẻ hở, hư không như hang, hố, huyệt, ao, đầm, ..

7. Hình tướng chế định (Nimitta paññatti): cũng gọi là Tiêu Biểu chế định, là những danh từ diễn đạt một sự vật tiêu biểu, tượng trưng như biểu tượng lá cờ, quốc gia, bảng hiệu, ... hay các đề mục tu Chỉ Tịnh như Ðất, Nước, Lửa, Gió, xanh, vàng, ...

 Trong một sự vật vừa có chân đế và tục đế đang hiện hữu, ví dụ mình có thỏi vàng, lấy thỏi vàng đó làm nhẫn, rồi lấy thỏi vàng khác làm dây chuyền, hoa tai v.v... Thì nhẫn, dây chuyền, hoa tai... đó chỉ là hình dáng (chế định). Còn chất vàng là Paramattha.


Trong người mình có tâm, tâm sở, sắc pháp là Paramattha. Thí dụ tôi là sư cô, tôi là giáo viên, tôi là bác sĩ v.v... thì tất cả những cái đó là paññatti, nó không có thật chỉ là sự thật chế định được gắn nhãn lên thôi. 


Trong xã hội những khái niệm tục đế rất quan trọng, nếu không biết và không thực hành thì rất nguy hiểm. Thí dụ như chúng ta phải tuân hành theo những luật lệ trong xã hội... Mặc dù biết đó là chế định nhưng vì sự an toàn mà mình phải thực hành. Khi xúc chạm việc đời, chế định biết chế định, chân đế biết chân đế, là biết sống dung thông giữa thế giới này mà không có gì bị trở ngại. Nói theo luật nhân qu, ngũ uẩn này đang làm những pháp thiện thì ngũ uẩn này sẽ nhận được quả tốt đẹp ở tương lai và để dễ phân biệt ngũ uẩn này với ngũ uẩn khác nên phải phải đặt ra đây là tôi, đây là cha, mẹ, đàn ông, đàn bà ...v.v... 


 Đức Phật khi Ngài giảng Ngài cũng phải dùng danh từ, ngôn ngữ nhưng qua ngôn ngữ đó phải biết được cái thật mà Đức Phật muốn nói tới. Cho nên đừng dính mắc vào ngôn ngữ mà đa phần con người ta thường bị bệnh ngôn ngữ.


Trong Vi Diệu Pháp Đức Phật dùng những khái niệm chân đế để mô tả. Còn trong kinh đức Phật chỉ dùng ngôn ngữ đời sống hàng ngày của người thường. Thí dụ như Ngài hỏi người chăn bò muốn đàn bò tăng thịnh tốt đẹp phải làm gì thì anh ta trả lời tuần tự có đến mười một pháp (phải nhận biết bò một cách rành rõi, cách cho bò ăn, cách cho bò tắm v.v...) thì Đức Phật trả lời, một vị tỳ khưu cũng cần thiết phải có đủ mười một pháp như thế thì mới có thể lớn mạnh, tăng thịnh, thịnh mãn trong pháp và luật của Như Lai! Như vậy, Ngài cũng dùng trên sự chế định rồi từ chế định đó Ngài nói đến Pháp chân đế (sự tu tập). Cho nên, tục đế là khái niệm để cho một pháp chân đế đang tồn tại. 


Vậy thì khi nào thấy chân đế và khi nào thấy tục đế? Khi nào nhìn vào một sự vật nào đó mà không gọi tên nó, không có khái niệm về nó, mà chỉ thấy như nó đang là thôi, là thấy Chân Đế.

Khi ngồi Thiền mà nghĩ tới vật gì đó như tôi đi, tôi đau. Khi có tác ý nghĩ tôi đau là chế định paññatti (khái niệm) rồi. Rồi nghĩ đến tu cao tu thấp v.v... cũng là khái niệm. Thông thường một danh khái niệm nó sẽ dẫn cho mình một vật khái niệm ở trong đầu. Cho nên, khái niệm được căn cứ trên vật có thật. 


Trong kinh nói rằng "Quán thân trên thân; quán thọ trên thọ; quán tâm trên tâm; quán pháp trên pháp" tức là thấy đối tượng thân, thọ, tâm, pháp đúng như nó đang là (Paramattha) gọi là quán thân (thọ, tâm, pháp) trên thân (thọ, tâm, pháp). Hay quán hơi thở trên hơi thở thì hơi thở đang có thật, đang thở vô thở ra là Paramattha. Còn như khi thấy hơi thở là một luồng khí trắng đi vào đi ra, thì hình ảnh luồng khí trắng đó là khái niệm. Cho nên, có nhiều người ngồi thiền Tứ Niệm Xứmà nói thấy cảnh này cảnh kia, thấy biết trước chuyện này chuyện nọ như có thần thông hay tiên tri chuyện sắp xảy ra, thì đó chỉ là paññatti (khái niệm) mà thôi. Hành Thiền Tứ Niệm Xứ là Pháp như thế nào thì thấy nó là như vậy (thấy như thị, thấy Paramattha).

Tóm lại, mọi vật trong đời được diễn đạt bằng ngôn ngữ, để bày tỏ cho nhau được hiểu biết, bất cứ dưới hình thức nào, phương tiện nào đều là chế định. Ngay khi Ðức Phật thuyết pháp để chuyển mê, khai ngộ, Ngài cũng phải dùng pháp chế định của Tục Ðế để diễn đạt Chân Ðế.


Bài viết được lượt trích từ Vi Diệu Pháp Giảng Giải
& Pháp Thoại (Chân Đế & Tục Đế - Ni Sư Liễu Pháp giảng 11.03.18)


Read more Vi Diệu Pháp Nhập Môn
Reply
(2021-12-25, 11:11 PM)LeThanhPhong Wrote: Cám ơn bác anatta đã tặng bỉêu đồ VDP .  Đây là món quà Giáng Sinh thật quý báu mà LTP nhận được hôm nay .  LTP sẽ in ra và dán lên tường .

Bác không cần phải xoá post vì LTP luôn luôn update Mục Lục Học Phật Pháp tại post đầu tiên . 

Merry Christmas and Happy New Year.

Cheer

Happy New Year to you, too. Clinking-beer-mugs4 

Cho anattā bổ sung đính chính lại một chút cho cái post tối qua. Đúng ra là anattā đã bắt đầu tìm hiểu thử về Vi Dieu Pháp hay Thắng Pháp (Abhidhamma) khoảng năm 2015. Dạo đó đọc quyển Thắng Pháp Tập Yếu của hoà thượng Thích Minh Châu, đọc xong cảm thấy Abhidhamma hết sức phức tạp, khó hiểu, khó nắm bắt, khó nhớ, chỉ có chút khái niệm mơ hồ. Rồi kế đến đọc thêm sơ sài một phần nhỏ VDP của sư Giác Chánh biên soạn, anattā cũng cảm thấy mờ mịt. Nản lòng, bỏ qua một bên. Mãi đến cuối năm 2018 bắt gặp những videos về Abhidhamma do ni sư Tâm Tâm giảng thì anattā mới chính thức tìm hiểu về môn tâm học này của Phật pháp nguyên thuỷ; và sau đó khi hiểu được phần khái niệm của Abhidhamma thì mới đủ cảm hứng tìm đến bộ Thắng Pháp của sư Silananda do cư sĩ Pháp Triều soạn dịch. Và thực lòng mà nói thì hiện giờ anattā cũng chỉ hiểu được phần căn bản của Abhidhamma mà thôi, còn về những gì hàm chứa sâu rộng hơn của tâm, tâm sở, sắc pháp cũng như nhiều chi tiết vô vùng phức tạp của nó thì chưa tiêu hoá nỗi. Có lẽ mai này khi có nhiều thời gian hơn thì mới đọc lại nữa để nghiền ngẫm về nó.

Clinking-beer-mugs4

PS. LTP có để ý đến post #704 của bạn trong thread này nói về tiền thân của Phật Di Lặc? Nếu không nhờ các sư dịch chú giải tiếng Pali của kinh thì chúng ta không nhận biết được ngài cũng là một tỳ kheo dưới trướng của Phật Thích Ca cách nay hơn 2500 năm.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
Reply
(2021-12-26, 11:16 AM)anattā Wrote: Happy New Year to you, too. Clinking-beer-mugs4 

Cho anattā bổ sung đính chính lại một chút cho cái post tối qua. Đúng ra là anattā đã bắt đầu tìm hiểu thử về Vi Dieu Pháp hay Thắng Pháp (Abhidhamma) khoảng năm 2015. Dạo đó đọc quyển Thắng Pháp Tập Yếu của hoà thượng Thích Minh Châu, đọc xong cảm thấy Abhidhamma hết sức phức tạp, khó hiểu, khó nắm bắt, khó nhớ, chỉ có chút khái niệm mơ hồ. Rồi kế đến đọc thêm sơ sài một phần nhỏ VDP của sư Giác Chánh biên soạn, anattā cũng cảm thấy mờ mịt. Nản lòng, bỏ qua một bên. Mãi đến cuối năm 2018 bắt gặp những videos về Abhidhamma do ni sư Tâm Tâm giảng thì anattā mới chính thức tìm hiểu về môn tâm học này của Phật pháp nguyên thuỷ; và sau đó khi hiểu được phần khái niệm của Abhidhamma thì mới đủ cảm hứng tìm đến bộ Thắng Pháp của sư Silananda do cư sĩ Pháp Triều soạn dịch. Và thực lòng mà nói thì hiện giờ anattā cũng chỉ hiểu được phần căn bản của Abhidhamma mà thôi, còn về những gì hàm chứa sâu rộng hơn của tâm, tâm sở, sắc pháp cũng như nhiều chi tiết vô vùng phức tạp của nó thì chưa tiêu hoá nỗi. Có lẽ mai này khi có nhiều thời gian hơn thì mới đọc lại nữa để nghiền ngẫm về nó.

Clinking-beer-mugs4

PS. LTP có để ý đến post #704 của bạn trong thread này nói về tiền thân của Phật Di Lặc? Nếu không nhờ các sư dịch chú giải tiếng Pali của kinh thì chúng ta không nhận biết được ngài cũng là một tỳ kheo dưới trướng của Phật Thích Ca cách nay hơn 2500 năm.


Từ khi được biết tất cả các bài giảng sâu sắc của chư Tăng Ni đều hàm chứa VDP, LTP ước ao hoài là được học VDP . Lúc đó, LTP cũng có cuốn Thắng Pháp Tập Yếu Luận của Ngài Thích Minh Châu, nhưng đọc không hiểu mô tê chi cả .  Mãi sau này, LTP được một vị sư du học từ bên Thái về dạy . Xong phần Tâm là hết thời gian, Sư phải trở về Chùa của Sư .  LTP thỉnh mua cuốn A Manual of Abhidhamma của Ngài Narada để tự học Tâm Sở và Sắc trong cuốn sách của Ngài TMC . 

Bác có biết khi học Tâm trong VDP, chúng ta học Thức Uẩn không ? Dĩ nhiên Tâm Sở gồm Tưởng Uẩn, Thọ Uẩn, và Hành Uẩn .  Và Sắc là Sắc Uẩn .  Như vậy, khi học Tâm, Tâm Sở và Sắc, chúng ta học 5 uẩn được phân tích ra sao.  Vì được thầy nhắc như vậy, LTP mới hì hục tự học đó . LTP không chú ý mấy phần Niết Bàn vì ... mình chưa cần lắm   2leluoi .

LTP rất thích nghe Sư Toại Khanh giảng vì Sư dùng nhiều Chú Giải và Sư bỏ công sức dạy không biết mệt .  LTP cũng không biết Đức Di Lạc từng tu học với Đức Phật Thích Ca cho đến khi đọc bài giảng của Sư TK . 

Cheer

LTP vừa tìm thấy link của Sư Toại Khanh:

https://www.toaikhanh.com/zoom/vdp/ 

có các cuốn sách vừa được nhắc đến:

Narada Maha Thera - Abhidhammattha Sangaha
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - HT Minh Châu
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Phạm Kim Khánh


Sư có cả bộ sách của Ngài Tịnh Sự và của vài vị khác .
Reply
Năm uẩn
(Ngũ uẩn)
Thích Viên Giác
https://thuvienhoasen.org/a11651/bai-2-nam-uan-ngu-uan


A- Dẫn nhập

Theo đạo Phật, những nỗi khổ đau của con người đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết, thiếu trí huệ. Vô minh thường được coi là nỗi bất hạnh lớn nhất của chúng sinhĐức Phật dạy: «Này các Tỳ kheo, tất cả những nỗi sợ hãi, thất vọng, vấp ngã và tai nạn đều do ngu si mà sinh khởi. Tất cả những điều ấy không sinh khởi nơi người có trí tuệ, cũng như ngọn lửa bùng cháy từ bụi lau, bụi cỏ làm cháy luôn cả nhà cửa, lầu gác và cung điện. Cũng vậy, ngọn lửa ngu si bùng lên làm cho những nỗi sợ hãi, thất vọng, vấp ngã và tai nạn có mặt« (Kinh Đa Giới, Trung Bộ kinh III)Đức Phật khuyên dạy mọi người hãy trở thành kẻ hiền trí bằng cách suy tư quán chiếu để nhận chân được bản chất của nhân sinh và vũ trụ, qua đó dập tắt ngọn lửa ngu si, thành tựu trí tuệ và đoạn diệt khổ đau.

  1. Suy tư quán chiếu về cái gì?  
  2. Suy tư quán chiếu như thế nào để có trí huệ và đoạn diệt khổ đau . 

Đó là những gì mà Đức Phật đã thuyết giáo suốt cuộc đời hoằng hóa của Ngài. Đó là điều mà đạo Phật cống hiến cho nhân loại hơn 25 thế kỷ qua.
 
Suy tư quán chiếu về cái gì?

- Đối tượng mà chúng ta cần suy tư và quán chiếu chính là đời sống của chính ta: con người và thế giới mà chúng ta đang sống. Nhưng con người và thế giới quá bao la, thiên hình vạn trạng, muôn màu muôn vẻ làm sao rõ biết hết được? Đối tượng của tư duy là vô tận, vậy phải tư duy theo hướng nào?...
 
Để giải quyết vấn đề ấy, đạo Phật đã phân tích, hệ thống hóa, khái quát hóa những cái tưởng như phức tạp ấy thành những phạm trù, những lãnh vực có thể nắm bắt được, đó là Uẩn, Xứ, Giới - tức là 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới. Sự biết rõ về Uẩn, Xứ, Giới nghĩa là biết rõ về bản chất của thế giới hiện tượng bao gồm con người và thế giới mà con người đang sống.
 
Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày khái quát về 5 uẩn. Đề tài năm uẩn được đề cập đến ở nhiều nơi trong kinh tạng và luận tạng, thuộc truyền thống Nguyên thủy cũng như Đại thừa. 
 
Lý thuyết năm uẩn là một cách phân tích, một lối nhìn về con người và thế giới, nhưng đây không phải là cách duy nhất mà chỉ là cách phổ biến nhất mà thôi.

Điểm đặc biệt của phân tích năm uẩn là

1.   chú trọng về con người và 
2.   nhấn mạnh phần tâm lý hơn vật lý.
 
B- Nội dung
 
I. Định nghĩa:
 
Năm uẩn, Phạn ngữ là Pãnca-skandha (Sanskrit), Pãnca khandha (Pàli). Pãnca là năm; Khandha là nhóm, là yếu tố là tích tụ, Ngài Huyền Trang dịch là Ngũ uẩn; Ngài La Thập dịch là Ngũ ấm, ấm nghĩa là ngăn che, chướng ngại (che mất chân tánh) - Năm uẩn được dùng phổ biến hơn.
 
Năm uẩn là năm yếu tố hay năm nhóm kết hợp lại tạo thành con người; hay nói cách khác, con người là một hợp thể của năm yếu tố, gồm có: 
 
1.   Sắc uẩn (Rùpa) là yếu tố sinh lý - vật lý; 
2.   Thọ uẩn (Vedanà) là yếu tố cảm giác; 
3.   Tưởng uẩn (Sãnnã) là yếu tố tri giác, là sự nhận biết đối tượng giác quan hay tâm lý; 
4.   Hành uẩn (Sankhàra) là yếu tố tâm lý hoạt động ngoài Thọ và Tưởng là những tâm lý tạo động lực đi tới tạo nghiệp và kết quả của nghiệp như ước muốn, quyết định... thuộc ý chí còn gọi là Tư; 
5.   Thức uẩn (Vinãna) là yếu tố nhận thức, phát hiện sự có mặt của đối tượng, gồm có sáu thức. Thức làm nền tảng cho Thọ, Tưởng và Hành, theo Duy thức học thì có tám thức.
 
Thức là Tâm vương (Citta); Thọ, Tưởng, Hành là Tâm sở (Cetasika).
 
Trong kinh tạng Nikàya và A Hàm thường dùng từ Năm thủ uẩn (Pãnca upàdana khandha), nghĩa là năm uẩn là đối tượng của sự chấp thủ, của tâm tham ái thì gọi là năm thủ uẩn.
 
II. Nội dung năm uẩn:
 
1)- Sắc uẩn (Rùpa-khandha): Là yếu tố vật chất bao gồm vật lý - sinh lý, có bốn yếu tố vật chất căn bản là Địa (chất rắn), Thủy (chất lỏng), Hỏa (nhiệt độ), Phong (chất khí). Các yếu tố do bốn đại tạo ra thuộc về sinh lý như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; các đối tượng của giác quan như: hình sắc, âm thanh, mùi vị, vật xúc chạm. 
 
Tóm lại như Đức Phật dạy: « Này các Tỳ kheo, phàm sắc gì thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là sắc uẩn« (Kinh Đại Kinh Mãn Nguyệt, Trung Bộ kinh III).
 
Như vậy yếu tố
1.   vật chất là thân thể hay ngoài thân thể,
2.   thuộc vật chất hay năng lượng,
3.   thuộc thời gian hay không gian 
đều bao hàm trong sắc uẩn.
 
Thân thể là sắc uẩn, vì vậy chúng không phải là một thực thể độc lập mà là một hợp thể vật chất biến động và mâu thuẫn
 
Thân thể muốn tồn tại phải nương vào các yếu tố sắc không phải là thân thể như mặt trời, dòng sông, ruộng lúa, thời tiết, không khí... 
 
Quan điểm của Phật giáo về thân thể vật lý dựa trên cơ sở lý duyên sinh, nghĩa là trình bày rõ về mối tương hệ bất khả phân ly giữa yếu tố con người với yếu tố vũ trụ thiên nhiên gồm môi trường, hoàn cảnh... Đó là cái nhìn về con người một cách toàn diện.
 
Bản chất của sắc uẩn là 
1.   vô thường, 
2.   vô ngã và 
3.   chuyển biến bất tận theo lý duyên sinh,
vậy bản chất của chúng là không.
 
Sự chấp thủ, tham ái thân thể (sắc uẩn), hoặc bất cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ đau khổ.
 
Như trong kinh Phật đã dạy, ai cho rằng sắc uẩn là ta, là của ta, là tự ngã của ta thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn.
 
Nhờ thấy rõ thân thể qua phân tích sắc uẩn đưa đến 
1.   trí tuệ sâu sắc
2.   làm rơi rụng tâm lý tham ái thân thể,
3.   chặt đứt sợi dây trói buộc vào sắc uẩn.
 
2)- Thọ uẩn (Vedanà-khandha): Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Đức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. 
 
Cảm giác theo Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác; cảm giác có ba loại:
1.   một là cảm giác khổ,
2.   hai là cảm giác vui sướng,
3.   ba là cảm giác không vui không khổ.
 
Cảm giác khổ là một loại cảm giác khó chịu
1.   khi ta tiếp xúc với một đối tượng không thích ý,
2.   nó kèm theo một chuỗi tâm lý khó chịu, bất mãn, tránh xa...
 
Ví dụ khi ta nhìn thấy một con vật dơ bẩn xấu xí, ta nảy sinh cảm giác ghê tởm không muốn nhìn. 
 
Cảm giác vui sướng là một loại cảm giác dễ chịu, thoải mái, phấn khởi
1.   khi ta tiếp xúc với một đối tượng thích ý,
2.   nó tạo cho ta niềm vui, sung sướng xích lại gần... 
 
Cảm giác trung tính không khổ không vui,
1.   nó không tạo cho ta cảm giác khó chịu hay dễ chịu,
2.   nó không tạo ra một lực hút hay lực đẩy nào.
 
Ví dụ khi ta nhìn một dòng sông, không khởi lên khổ hay lạc mà chỉ là cảm giác thông thường.
 
Đức Phật dạy: «Này các thầy Tỳ kheo, phàm cảm thọ gì quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là thọ uẩn« (sđd).
Như vậy, những loại cảm giác về thời gian, không gian, cảm giác sâu sắc bên trong tâm như thiền định chẳng hạn, hay cảm giác bên ngoài qua các giác quan, cảm giác cường độ mạnh hay yếu đều nằm trong thọ uẩn.
 
Phân tích ta sẽ thấy
1.   có những cảm giác đến từ thân thể (sắc uẩn) như ăn uống khoái khẩu hay bị thương tích đau đớn;
2.   có những cảm giác đến từ tâm lý (tưởng, hành) như thiền định hay tưởng tượng;
3.   có những cảm giác đến từ tâm lý và vật lý như thưởng thức một bản nhạc hoặc ngắm một bức tranh, hoặc sự đau khổ do hoàn cảnh bất hạnh...
 
Tất cả những loại cảm thọ ấy tạo thành
1.   một dòng sông cảm thọ tâm lý chi phối hệ thống tâm thức, 
2.   chúng sinh khởi biến hiện thay đổi vô chừng;
3.   chúng chuyển biến vô tậnvô thườngvô ngã và hiện hữu có điều kiện
 
Chấp thủ vào cảm thọ bao giờ cũng sai lầm và gặt hái khổ đau.
 
3)- Tưởng uẩn (Sãnnã-khandha): Là nhóm tri giác có
1.   khả năng nhận biết đối tượng là cái gì,
2.   đây là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan (12 xứ: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
 
Sự nhận biết đối tượng có hai loại:
1.   một là nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận biết đó là đóa hoa hồng, tai nghe âm thanh nhận ra bản nhạc tiền chiến...;
2.   hai là khả năng nhận biết đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng ký ức...
 
Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của mình về con người, hoặc sự việc hay sự kiện. 
 
Tri giác là một trong những tác dụng của thức.
 
Đức Phật dạy: «Này các Tỳ kheo, phàm tri giác gì thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là tưởng uẩn« (sđd).
 
Như vậy, những tri giác về các đối tượng
1.   bên ngoài,
2.   bên trong,
3.   thuộc thời gian, 
4.   không gian, 
5.   đơn giản hay 
6.   phức tạp 
đều gồm trong tưởng uẩn. 
 
Tri giác là tri giác về cái gì, không thể có một tri giác thuần chủ thể; vì vậy, tưởng bao gồm mọi nhận thức về thế giới vật lý, tâm lý
 
Tuy nhiên, thế giới vật lý, tâm lý ấy được ký hiệu hóa, khái niệm hóa, nên giữa tri giác và thực tại luôn có một khoảng cách.
 
Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua như khi thấy đóa hoa hồng biết đây là đóa hoa hồng, cái tri giác về đóa hoa hồng đã có sẵn (chủng tử) nên cái kinh nghiệm đã cho biết đó là đóa hoa hồng. Vì vậy, tri giác dễ bị đánh lừa bởi kinh nghiệm, do vì thực tại thì luôn sinh động.
 
Tri giác tồn tại 
1.   có điều kiện, vì vậy chúng vô thường, trống rỗng; và
2.   do duyên sinh nên tri giác đầy hư vọng mà ta thường gọi là vọng tưởng.
 
4)- Hành uẩn (Sankhàra-khandha): Hành là từ gọi cho mọi hiện tượng sinh diệt như trong câu kệ «Chư hành vô thường«. 
 
Hành uẩn ở đây có nghĩa
1.   là các hiện tượng tâm lý mang tính chất tạo tác nghiệp,
2.   có năng lực đưa đến quả báo của nghiệp, nói cách khác là tạo động lực tái sinh.
 
Hành uẩn là những hiện tượng tâm lý còn được gọi là tâm sở. 
 
Duy thức học chia thành 51 (LTP: 52, không phải là 51) tâm sở gồm cả thọ, tưởng, tức là cảm giác và tri giác cũng gọi là hành. Nhưng ở đây không xếp cảm giác và tri giác vào nhóm hành vì chúng (thọ và tưởng) không có khả năng tạo nghiệp và quả của nghiệp.
 
Hành uẩn cũng
1.   có sáu loại do sự tiếp xúc giữa sáu giác quan và sáu đối tượng;
2.   Hành còn gọi là
 
Đức Phật dạy: «Này các Tỳ kheo, thế nào là hành? Có sáu tư thân này:
1.   sắc tư,
2.   thinh tư,
3.   hương tư,
4.   vị tư,
5.   xúc tư và
6.   pháp tư.
 
Đây gọi là hành«
(Tương Ưng Bộ kinh III).
 
là 
1.   động lực quyết định,
2.   là ý chí, ý muốn; 
 
tâm sở này tạo động lực dẫn dắt tâm ý theo xu hướng thiện, bất thiện.
 
Một số tâm sở có tác động mạnh mẽ để hình thành nghiệp hay hành như:

1.   dục,
2.   xác định, 
3.   niềm tin, 
4.   tinh tấn, 
5.   tham lam, 
6.   sân hận, 
7.   ngu si, 
8.   kiêu mạn, 
9.   tà kiến... 
 
Hành uẩn bao gồm mọi hiện tượng tâm lýĐức Phật dạy: «Này các Tỳ kheo, phàm hành gì thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là hành uẩn« (sđd).
 
Tất cả những hiện tượng tâm lý, sinh lý hiện tại là kết quả của hành trong quá khứ, nghĩa là hành tạo nên một năng lực tiềm ẩn điều khiển thúc đẩy ở trong chiều sâu tâm thức mà trong kinh thường gọi là «phiền não tùy miên«, hay trong luận gọi là «câu sanh phiền não«.
 
Chúng (những hiện tượng tâm lý, sinh lý hiện tại)
1.   làm nền tảng và
2.   lực đẩy để hình thành một năng lực hành mới, dẫn dắt con người đi tới tương lai.
 
Hành uẩn tồn tại nhờ
1.   các điều kiện do duyên sinh 
2.   nên chúng vô thường, trống rỗng và biến động bất tận.
 
5)- Thức uẩn (Vinnãna-khandha): Thức là có khả năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực.
 
Khi giác quan tiếp xúc với đối tượng,
1.   thực nhận biết sự có mặt của đối tượng,
2.   thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu gì... đó là chức năng của tri giác (tưởng);
3.   thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó.
 
Thức có sáu loại: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Thức là nền tảng của thọ, tưởng, hành.
 
Thức là Tâm vương; thọ, tưởng, hành là Tâm sở.
 
1.   Thức uẩn là nền tảng của các hiện tượng tâm lý như biển là nền tảng của các ngọn sóng nhấp nhô, vì vậy thức còn gọi là yếu tố căn bản của tâm lý.
2.   Thức dung chứa các hiện tượng tâm lý và căn cứ để các hiện tượng tâm lý phát khởi. 
 
Duy thức học triển khai lý thuyết tám thức,
1.   ngoài sáu thức trên còn
2.   phát triển thêm hai thức nữa là Mạt na thức (Manas) và A lại da thức (Alaya).
 
Mục đích là khai thác các khía cạnh sâu kín của thức. 
 
Mạt na thức là 
1.   ý căn, là căn cứ của ý thức 
2.   đồng thời nó cũng có tác dụng nhận thức sự tồn tại của một thực thể, một bản ngã. 
 
A lại da thức là
1.   khả năng duy trì và bảo tồn những chủng tử, những kinh nghiệm;
2.   chúng được tích lũy, lưu trữ ở trong thức (A lại da).
 
Mặt khác, A lại da làm căn bản cho các hoạt động tâm lý trở về sau khi không còn điều kiện hoạt động. Nhờ khả năng bảo tồn của thức (A lại da) mà các hiện tượng tâm lý phát khởi trở lại khi hội đủ các yếu tố.
 
Mặc dù thức uẩn là
1.   nền tảng của tâm lý 
2.   nhưng nó không tồn tại độc lập, chúng hiện hữu do duyên sinh, cụ thể là do sắc, thọ, tưởng, hành;
3.   mối quan hệ giữa chúng với nhau là bất khả phân ly. 
 
Đức Phật dạy: «
1.   Thức tồn tại nhờ sắc
2.   làm điều kiện,
3.   làm đối tượng,
4.   sắc làm nơi nương tựa...
5.   Thức phát triển hưng thịnh nhờ sắc.
  • Thức tồn tại nhờ thọ...
  • nhờ tưởng...
  • nhờ hành...
(như trên).
 
Nếu có ai nói tôi sẽ chỉ ra sự đi, sự đến, sự sinh, sự diệt của thức biệt lập với sắc, thọ, tưởng, hành thì người ấy đã nói một điều không thực« (Kinh Tương Ưng III).
 
Như vậy, thức là một hợp thể của bốn uẩn kia, vì vậy đạo Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc lập, tự chủ như khái niệm về một linh hồn bất tử chẳng hạn.
 
Thức vô thường lưu chuyển, vô ngã và do duyên sinh.
 
Tóm lại, con người dưới sự phân tích năm nhóm thì 
1.   thân thể thuộc một nhóm - nhóm vật lý, sinh lý; 
2.   tâm lý thì chia thành bốn nhóm: 
·        cảm giác, 
·        tri giác, 
·        động lực hay ý chí 
·        và thức.
 
Mỗi nhóm là một tập hợp của các yếu tố, đồng thời mỗi nhóm đều nương tựa vào nhóm kia mà tồn tại, nhóm này có trong nhóm kia và ngược lại. Nói khác, trong sắc có thọ, trong thọ có sắc, chúng nương vào nhau mà có mặt, suy rộng ra đều như vậy. Một cảm giác khổ sở nó bao gồm luôn cả thân thể và tri giác, tâm tư và thức. 
 
Năm uẩn là các khía cạnh khác nhau của một thể thống nhất là con người. Thể thống nhất ấy mới nhìn qua tưởng như độc lập, bất biến được điều khiển bởi một chủ thể, nhưng thật ra chúng chỉ là một hợp thể vô ngã, vô thường và rất tạm bợ.
 
Trong kinh có một thí dụ như cây chuối không có lõi, nó chỉ là một hợp thể của các bẹ chuối. Đó là bản chất của năm uẩn, đó cũng là mục tiêu của sự phân tích năm uẩn: thấy rõ bản chất của con người và vũ trụ mà con người đang sống, nhờ đó mà khai mở tuệ giác, đoạn diệt khổ đau.
 
III. Tu tập quán chiếu năm uẩn:
 
Mục đích của phân tích năm uẩn không phải là hình thành một hệ thống triết lý về con người và vũ trụ, mà để nhìn thấy một cách rõ rệt bản chất của con người và thế giới hiện tượng.
 
Như đã nói, những khổ đau của con người là do vô minh, là không thấy rõ bản chất của sự sống.
1.   Do vô minh nên chấp ngã, chấp vào cái chủ thể bất biến;
2.   do chấp ngã mà có tham ái, sân hận, si mê;
3.   do tham, sân, si mà có sợ hãi, thất vọng, vấp ngã và tai nạn.
 
Tu tập quán chiếu sâu sắc năm uẩn thì «minh sẽ sinh, trí tuệ sẽ sinh, chấp thủ và tham ái sẽ diệt «, đó là mục đích chính của tu tập quán chiếu năm uẩn
 
Tương tự trong Bát Nhã Tâm kinh nói:
 
«Quán Tự Tại hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách«,
 
tạm dịch: 
 
Bồ tát Quán Tự Tại (tức Quán Thế Âm) thực hành trí tuệ thâm sâu thấy rõ tự tánh của năm uẩn là không, nên vượt thoát mọi khổ ách.
 
Quán chiếu sâu sắc năm uẩn như sau:
 
1)- Quán chiếu trên cơ sở các pháp ấn:
 
Tức là quán năm uẩn 
1.   là vô thường,
2.   là khổ đau,
3.   là trống rỗng,
4.   là vô ngã.
 
Trang bị cho mình một cái nhìn sáng tỏ, chánh kiến về thân thể, về tình cảm, về nhận thức tư tưởng, về những hoạt động sâu kín của tâm lý, rằng chúng là vô thường, vô ngã; nếu chấp thủ tham ái chúng sẽ đưa đến khổ đau. Đức Phật thường thức tỉnh các đệ tử quán chiếu về năm uẩn một cách đơn giản như Ngài hỏi các Tỳ kheo:
 
- Thân thể là thường hay vô thường?
- Bạch Thế Tôn, vô thường.
- Vô thường thì đưa đến khổ hay vui?
- Bạch Thế Tôn, khổ.
- Cái mà vô thường và khổ thì có hợp lý không khi cho rằng cái này là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi?
- Bạch Thế Tôn... không hợp lý.

(Tương Ưng III).

Với sức quán chiếu thường xuyên như vậy sẽ tạo nên năng lực làm rơi rụng tâm tham ái và chấp thủ.
 
2)- Quán chiếu năm uẩn do duyên sinh:
 
Quán chiếu thân thể do bốn đại và bốn đại sở tạo nên, nghĩa là do các yếu tố như thực phẩm, mặt trời, không khí, dòng sông, di truyền, đất đá... thân thể hình thành và tồn tại do vô số nhân duyên. 
 
Quán chiếu cảm thọ khổ, vui, không khổ không vui do sự tiếp xúc giữa sáu giác quan và sáu đối tượng mà sinh, các cảm giác ấy tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố như không gian, thời gian, trình độ văn hóa, thời tiết, điều kiện xã hội... chỉ một cảm giác vui hay buồn chứa đựng cả một bầu trời duyên sinh và duyên diệt. 
 
Quán chiếu tri giác do sự tiếp xúc với hình sắc, âm thanh, mùi vị... mà sinh cái biết về sự vật, hình thành các khái niệm, nhận thức, chúng tùy thuộc vào các yếu tố không gian, thời gian, điều kiện văn hóa, xã hội... 
 
Quán chiếu các hoạt động ý chí ước muốn cũng do tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh, nếu các tiếp xúc không có thì không có các hoạt động tâm lý ấy.
 
Quán thức tồn tại do duyên danh sắc tức là do thân thể, do cảm giác, tri giác và tâm hành mà có mặt, chúng không độc lập, tự có... 
 
Cuối cùng quán các uẩn đều nương vào nhau, có ở trong nhau, cái này là cái kia. Như vậy thấy một cách sâu sắc và toàn diện về con người và mối quan hệ con người với thiên nhiên và vũ trụ.
 
C- Kết luận
 
Lý thuyết năm uẩn phân tích con người là hợp thể của yếu tố 
1.   sinh lý, 
2.   vật lý, 
3.   tâm lý 
 
để làm nổi bật tính 
1.   vô ngã, 
2.   biến động, 
3.   bất an và 
4.   duyên sinh 
của con người và vũ trụ.
 
Trên cơ sở phân tích quán chiếu năm uẩn sẽ đem đến 
1.   trí tuệ và 
2.   giải thoát khổ đau. 
 
Đức Phật dạy: «Ai không chấp trước, không tham luyến, không suy tưởng, không hoan hỷ về sắc, thọ, tưởng, hành, thức... người ấy giải thoát khỏi ác ma« (Kinh Tương Ưng III).
 
Như vậy, vấn đề chủ yếu
1.   không phải là sự hiện hữu của năm uẩn mà
2.   chính là sự có mặt của chấp trước và tham luyến năm uẩn
 
Con người có thói quen tư duy 
1.   về ngã,
2.   về cái tồn tại,
3.   cái chủ động đằng sau cái biến động,
nên mọi sự rối loạn từ đó mà sinh.
 
Mặt khác, chúng ta thường bị dính mắc, bị cột chặt vào một cái gì đó như là thân thể hay tình cảm, tư tưởng... nếu cái ấy bị mất mát, bị lấy đi, tâm tư chúng ta sẽ trống rỗng, bị khủng hoảng ngay.
 
Phật dạy: «Người ngu thường nghĩ rằng thân này là chính ta, ta có cái thân này, thân này ở trong tự ngã hoặc có tự ngã ở trong thân... Cái khổ này là chính ta, ta có nỗi khổ này, nỗi khổ này ở trong ta, ta đang ở trong cái khổ...«.
 
Do vậy,
1.   khi sắc thân, cảm thọ... thay đổi, 
2.   con người thay đổi theo; 
3.   sợ hãi, chướng ngại, khát vọng và phiền muộn phát sinh.
 
Khi
1.   tâm chấp trước và tham luyến được rũ bỏ, 
2.   năm uẩn là thanh tịnh, là vô lậu, là pháp uẩn.
 
Khi ấy 
1.   sắc thân là thân tự tại,
2.   thọ là tâm từ bi,
3.   tưởng là trí vô phân biệt,
4.   hành là trí thanh tịnh và
5.   thức là trí căn bản.
 
Như vậy, đạt được giải thoát hoàn toàn như Bát Nhã Tâm kinh nói: Vượt thoát mọi khổ ách./.
 
--ooOoo--

Câu hỏi hướng dẫn ôn tập 
 
1- Định nghĩa và giải thích ngắn gọn năm uẩn.
2- Đức Phật dã dạy tu tập quán năm uẩn như thế nào?
3- Vì sao Đức Phật dạy: «Ai không chấp trước, không tham luyến, không suy tưởng, không hoan hỷ về sắc, thọ, tưởng, hành, thức... người ấy giải thoát khỏi ác ma«?


 
Reply
Chương V
Ngũ quyền, Ngũ căn (1-2)
(Pañcindriya)
Tỳ Kheo Chánh Minh


Quyền (Căn - Indriya) được giải thích như sau:

Indassa kammaṃ idriyaṃ - Hành động của vua chúa gọi là quyền.

Indriya mang ý-nghĩa trị vì hay kiểm-soát bởi người cai trị. Nghĩa là người đang trị vì, không có ai có thể đi ngược lại ý muốn của vị ấy..
 
Ở đây, trọng tâm là sự kiểm-soát tâm bởi năm quyền:
  1. Tín-quyền (saddhindriya).
  2. Tấn-quyền (vīriyindriya).
  3. Niệm-quyền (saṭindriya).
  4. Định-quyền (samādhindriya).
  5. Tuệ-quyền (paññindriya).
 
Trong bộ Paṭisambhidā magga, chương Quyền luận-giải (indriyakaṭhā) có giải thích rõ về năm quyền này, tóm lược như sau:
 
  1. Tín-quyền do ý-nghĩa là hướng tâm tin, đoạn trừ sự vô-tín.
  2. Tấn-quyền do ý-nghĩa là nâng đở, đoạn trừ sự biếng nhác.
  3. Niệm-quyền do ý-nghĩa là trụ vững, đoạn trừ sự dể-duôi.
  4. Định-quyền do ý-nghĩa là không tán-loạn, đoạn trừ phóng tâm.
  5. Tuệ-quyền do ý-nghĩa là thấy rõ, đoạn trừ vô-minh.
 
Tín-quyền (saddhindriya)
Nói đến tín-quyền đồng nghĩa nói đến đức-tin nhưng đức-tin không phải là tín-quyền, bao giờ đức-tin lớn mạnh, sung-mãn, có khả-năng cai quản các pháp đồng sanh trong việc hướng tâm tin, khi ấy mới trở thành tín-quyền.
 
Đức-tin có hai loại:
- Pakaṭi saddhā: Thường tín là đức-tin thông-thường.
- Bhāvanā saddhā: Tín tu-tập là đức-tin do tu-tập thiền Chỉ hoặc thiền Quán.

 
Thường tín.
 
Là loại đức-tin hướng dẫn thực-hành những pháp thiện như bố-thí, trì-giới hay tu-tập thiền với mục-đích gieo duyên, thực-hành thiền Chỉ hay Quán trong một lúc nào đó rồi thôi, quay trở về với đời thường, quay trở về với trần-cảnh, một loại thiền không đem lại sự định tâm nào đáng kể.
 
Loại đức-tin này ở mức độ nào đó, nó cũng có thể kiểm-soát các pháp hướng tâm tin: như tin quả tốt có từ việc làm như bố-thí, trì-giới... tức là tin vào nghiệp-báo. Nhưng sự kiểm-soát này không đạt đến mức độ an-trú tâm vào đức-tin, nó chỉ ở mức độ bình thường với bố-thí, trì-giới, thiền tập gieo duyên mà không tiến xa hơn nữa.
 
Nếu không có đức-tin, tâm không bao giờ thiên về những thiện-nghiệp, bản chất tự-nhiên của tâm là vui thích trong việc ác.
 
Loại thường-tín này luôn nương tựa vào kẻ khác, nương tựa vào kinh-điển, nên nhiều khi bị lạm dụng, dễ trở thành tà-tín, bị các tà-sư lợi dụng, sai sử làm những điều xằng bậy, tạo thành những ác-nghiệp, điển hình là nàng Ciñcā.
 
Trong thời hiện tại, phần lớn Phật-tử sống với thường-tín vì ít có thời gian học hỏi giáo-lý, đã ít học hỏi thì làm gì có sự chiêm-nghiệm giáo-pháp để phân biệt được "đây là thiện đây là bất-thiện, đây là chân lý đây là phi chân lý, đây là lời Phật dạy đây không phải là lời Phật dạy, lời Phật dạy này có ý-nghĩa như vầy như vầy...". Và thế là, sự bị lợi dụng cũng dễ-dàng phát-sanh.
 
Nhưng vì sao đức-tin vốn tốt đẹp lại có thể trở thành tệ hại như vậy?
 
Là vì do y cứ vào kẻ khác mà không có thực-chứng. Cũng ví như con suối trôi chảy về sông lớn do y cứ trên đất nếu đất có nhiều độc chất, nước trong sạch sẽ trở thành nước độc.
 
Trong Tăng-chi kinh, đức Phật có dạy:
"Này người Kālāma chớ vội tin những gì do bậc Đạo Sư chỉ dạy.
Chớ vội tin những gì do kinh-điển lưu lại.
Chớ vội tin những gì do truyền-thống.
Chớ vội tin những gì hợp theo suy nghĩ ... hãy dùng trí-tuệ-quán-xét: đây là thiện, đây là bất-thiện ..."

 
Ngay cả niềm tin đặt vào đối-tượng là Tam-bảo: Phật-Pháp-Tăng cũng cần có trí-tuệ.
 
Hành-giả cần lưu ý rằng: Nếu tin vào ân-đức Tam-bảo mà không hiểu được ý-nghĩa các ân-đức ấy, thì cũng chỉ là đức-tin bình thường, tuy có quả tốt đẹp hơn so với các quả tốt khác, nhưng cũng chỉ là hạn hẹp.
 
Tin vào ân-đức Phật ở đây là tin vào trí giác-ngộ pháp giải-thoát của đức Thế-tôn.
 
Tin vào ân-đức Pháp là tin vào chân lý: Đây là khổ, đây là nguyên-nhân sanh khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường đưa đến sự diệt khổ.
 
Tin vào ân-đức Tăng là tin vào sự chứng-đắc Níp-bàn qua bốn quả: Dự-lưu quả, Nhất-lai quả, Bất-lai quả và Ứng-cúng quả.
 
Tướng của đức-tin là sự trong sạch và lướt tới, như lời Ngài Nāgasena nói với đức-vua Milinda:
"Tâu Đại Vương! Đức-tin có tướng là sự trong sạch và tư cách lướt tới".
 
Paṭisambhidā-magga có ghi rằng:
"Nên thấy tín-quyền do ý-nghĩa hướng tâm tin, là giới thanh-tịnh, tẩy sạch sự vô-tín ở giai-đoạn đầu".
 
Chính tin vào sự giác-ngộ, tìm thấy con đường tám chi của Đức Thế-tôn, nương vào trí suy xét qua khía cạnh thiện, bất-thiện, hành-giả sẽ mạnh dạn đi vào thực-hành bát chánh-đạo, thanh-lọc dần những bất-thiện pháp.
 
Bấy giờ đức-tin ấy trở thành tín-quyền, đức-tin ấy gìn-giữ giới, hộ trì-giới không bị hư hoại, không bị ô-nhiễm, làm trong sạch giới.
Chính đức-tin bình thường cũng trợ giúp cho sự giữ giới, một người không tin vào quả báo tốt đẹp của bát quan giới, họ sẽ không thọ-trì tám giới.
 
Mặt khác, tuy tin vào quả lợi-ích của giới-hạnh như năm giới, tám giới, nhưng không giữ gìn năm giới nghiêm túc, cũng như không thọ-trì tám giới, đã nói lên sự thối thất tinh-tấn, đồng thời lui sụt đức-tin hay đức-tin bị ô nhiễm bởi cảnh trần, sự kiểm-soát tâm không còn vững mạnh.
 
Nói cách khác, sự kiểm-soát tâm do đức-tin bình thường không thể vững-chắc bằng sự kiểm-soát tâm do đức-tin tu-tập bởi pháp thiền.
Cũng ví như người có được hồ nước mát trong sạch, nhưng không hề chịu tắm rửa dù thân người ấy đầy bụi bặm, không hề uống nước dù họ đang khát cháy cổ.
 
Người ấy chỉ có niềm tin: "đây là nước thiêng đáng cung-kỉnh, cúng dường" và chỉ còn biết quì xuống lễ bái cầu nguyện mà thôi. Thế là, người này vẫn dơ bẩn và khát như bao nhiêu người không có hồ nước mát.
 
Đức-tin do tu-tập
 
Là đức-tin được chứng nghiệm, nó trở nên vững-chắc vì đã thấy rõ, hiểu rõ kết quả của sự thực hành thiện-pháp.
 
Trong việc chú tâm vào đề mục nghiệp-xứ, tức là đề mục thiền Chỉ hay thiền Quán, đức-tin bình thường không hề có tác-dụng tốt trong sự kiểm-soát tâm, vì tâm luôn có khuynh-hướng chống lại đức-tin này, có khuynh-hướng chùn bước hay quay mặt sang chỗ khác.
Nói cách khác, niềm tin suông, niền tin không có trí-tuệ không ích lợi gì trong sự tu-tập.
 
Một người tin vào ân-đức tối-thượng nơi đức Phật, Giáo-pháp và đức Tăng, hằng ngày anh ta quì đảnh lễ cầu xin được thoát khổ, chắc chắn sự khổ ấy vẫn đến với anh ta.
 
Đức Thế-tôn xác nhận rằng: "Như-lai chỉ là bậc Đạo-sư, chỉ rõ con đường đi đến sự diệt khổ, người nào tin vào Như-lai, đi theo con đường ấy sẽ đến nơi diệt khổ". (Gaṇakamoggallāna suṭṭa)
 
Trong Tương-ưng kinh, có ghi lại mẩu đối thoại giữa Đức Thế-tôn và trưởng-lão Sārīpuṭṭa tóm lược như sau:
 
- "Này Sārīpuṭṭa! Ngươi có tin không? tín-quyền được tu-tập, được làm cho sung-mãn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm mục-đích, lấy bất tử làm cứu cánh.
 
- Bạch Thế-tôn! Ở đây con không đi với lòng tin của Thế-tôn. Bạch Đức Thế-tôn! Với những ai không thấy, không hiểu, không chứng ngộ, không đạt đến trí-tuệ, cần phải đi với lòng tin kẻ khác.
 
Bạch Thế-tôn! Còn những ai, đã thấy đã hiểu đã chứng ngộ, người ấy không còn nghi ngờ, không còn phân vân rằng: Tín-quyền được tu-tập, được làm cho sung mãn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm mục-đích, lấy bất tử làm cứu cánh.
 
- Lành thay! Này Sārīpuṭṭa".
 
Đoạn kinh trên cho chúng ta thấy ý-nghĩa rằng: khi chưa chứng đạt Níp-bàn, đức-tin cần nương dựa vào kẻ khác (ở đây là Tam-bảo) đính kèm với trí-tuệ.
 
Đức-tin ấy sẽ trở nên vững mạnh, không cần phải nương tựa vào người khác khi đã chứng ngộ Níp-bàn, trở hành tín-quyền kiên-cố bất-động.
 
Nhưng rõ ràng rằng: Người ấy phải tu-tập làm cho sung-mãn đức-tin ấy. Như vậy, chính đức-tin khi tu-tập, như thực-hành pháp niệm hơi thở chẳng hạn, mở đường cho việc đạt đến sức mạnh, có được năng-lực lớn, đi đến giải-thoát khổ.
 
Người nương theo đức-tin thực-hành pháp quán niệm-xứ chứng đạt Dự-lưu, được gọi là bậc Tùy tín-hành.
 
Trong ba mươi bảy pháp trợ-đạo, đức-tin do tu-tập chính là tín-quyền.
 
Trong lãnh-vực thực-hành những pháp thiền Chỉ hay Quán, đức-tin được hiển-lộ bằng trạng-thái ổn-định tâm khiến tâm không bị giao động do sự vô-tín, hay nghi-hoặc, phân-vân, lưỡng-lự xen lẫn vào.
 
Đức-tin có năng-lực áp chế được hoài-nghi, khi niềm tin phát huy sức mạnh, sự nghi-hoặc không có cơ hội sanh lên.
 
Tướng của đức-tin là tẩy sạch uế nhiễm, hành-giả khi tu-tập có thể nhận biết tướng của đức-tin qua ấn-tướng của đề mục thiền, khi đức-tin an-trụ vững vàng, tâm không bị tán-loạn, ấn-tướng trở nên rõ ràng, không bị mờ nhạt, đó là tướng của đức-tin được hiển-lộ.
 
Ví như có người muốn dùng nước trong sạch, y múc nước ở hồ ao đem về, cho vào bình lọc với ba lớp đá lớn, đá nhỏ, cát. Lớp đá lớn giữ lại những vật bẩn lớn, , lớp đá nhỏ giữ lại vật bẩn trung-bình, lớp cát sau cùng sẽ giữ lại những cặn bụi nhỏ li ti và nước chảy qua ba lớp lọc trở nên trong sạch.
 
Nước ví như tâm, tâm luôn luôn bị những cảnh trần quyến-rũ, xâm nhập vào làm tâm trở nên nhơ bẩn. Lớp đá lớn ví như giới thanh-tịnh, nhờ giới áp chế, ngăn chặn, nên nước thấm qua lớp đá lớn được trong sạch.
 
Ở giai-đoạn đầu tâm thoát ra những phiền-não thô-thiển do cảnh trần gây nên nhờ giới thanh-tịnh.
 
Lớp đá nhỏ ví như ý-giới, nước tâm thấm qua ý-giới, khiến các phiền-não khởi lên từ ý như ganh tị, bỏn xẻn, xan tham ... không có cơ hội xâm nhập, tâm lại trong sạch hơn.
 
Nhưng ý-giới là gì? Chính là sự cố ý (ceṭanā). đức Phật có dạy rằng:
"Ceṭanāhaṃ bhikkhave sīlaṃ vadāmi.
 
- Này chư tỳ-khưu! Như-lai dạy rằng: Sự cố ý là giới".
 
Tâm được ý-giới ngăn chặn, là do không có cố ý làm những điều ác, những tư-tưởng bất-thiện không có cơ hội sanh-khởi, hay sanh-khởi lên bị diệt trừ ngay. Lớp cát mịn ví như giới ở vùng tùy-miên, giữ lại những phiền-não vi-tế. Nói cách khác, những phiền-não tùy-miên được ngăn trừ và nước tâm trở nên tinh-khiết. Tư cách làm cho tâm trở nên trong sạch như thế là tướng của đức-tin. khi tâm trở nên trong sạch, các ấn-tướng thiền cũng trở nên trong sáng rõ ràng. Chính tư cách làm cho tâm trong sạch không còn uế nhiễm là tín-quyền.
 
Nếu hành-giả vẫn duy trì và phát-triển đức-tin tu-tập, ngày càng sung-mãn trong lãnh vực Chỉ hoặc Quán, khả-năng tiêu diệt thân-kiến, hoài-nghi ở vùng tùy-miên có thể đạt được ngay trong kiếp sống này.
 
Tấn-quyền (vīriyindriya).
 
Nói đến tấn-quyền nghĩa là nói đến sự tinh-tấn cai quản các pháp đồng sanh, làm chung công việc là nâng đở. Ở mức độ nào đó, tinh-tấn chưa trở thành quyền, tinh-tấn có hai loại là:
 
1.  Pakaṭi vīriya: Tinh-tấn thông-thường.
2.  Bhāvanā vīriya: Tinh-tấn tu-tập bằng pháp thiền.
 
Tinh-tấn tu-tập cũng có hai loại:
1.   Kāyika vīriya: Tinh-tấn thuộc về thân, như thọ-trì hạnh đầu đà (dhuṭaṅga) chẳng hạn.
2.   Ceṭasika vīriya: Tinh-tấn thuộc về tâm (là sở-hữu tinh-tấn).
 
Tinh-tấn bình thường và tinh tấn thuộc về thân có thể nhận ra dễ-dàng. Người có tinh-tấn trong những vấn đề thuộc thế tục, có thể dễ-dàng đạt được tinh-tấn tu-tập.
 
Nhưng nếu thực-hành thân tinh-tấn như bớt ăn, bớt ngủ nghỉ, kiên-trì theo một thời khóa biểu trong sinh hoạt tu-tập hằng ngày, nhưng không có tâm tinh-tấn, thì kết quả đạt được chẳng có gì đáng kể lắm.
 
Giống như một học sinh, lòng không muốn học nhưng hằng ngày vẫn cắp sáng đến trường, trong khi học, tâm cậu ta chểnh mảng, lơ đểnh trong các buổi học, cho dù học cả năm, kiến thức của cậu chẳng là bao, thậm chí không muốn nói là một học sinh dốt.
 
Cũng vậy, tinh-tấn tu-tập ở đây chủ yếu là tâm tinh-tấn, còn thân tinh-tấn là phần trợ giúp cho sự tu-tập càng lúc càng thêm dũng-mãnh.
Người có thân tinh-tấn, nhưng không có tâm tinh-tấn, sự định tâm trong các đề mục như niệm hơi thở ... không thể đạt được, cho dù thời gian thực-hành thiền có dài bao lâu chăng nữa cũng không đạt đến tâm thanh-tịnh.
 
Bất kỳ loại công việc nào, sẽ nhanh chóng thành-tựu với kết quả khả quan, nếu người thực-hành công việc đúng đắn và thích đáng. "Sự đúng đắn và thích đáng" nói lên ý-nghĩa làm chủ công việc. Trái lại, nếu công việc làm chủ người thực-hiện, công việc ấy khó làm xong, có xong chăng nữa cũng mất nhiều thời gian, "công việc làm chủ" có nghĩa là việc làm không có nhiệt-tâm thật sự, tức là không có tâm tinh-tấn.
 
Sự tu-tập thiền Chỉ hay Quán, thiếu vắng tâm tinh-tấn, tâm trạng của hành-giả sẽ rơi vào "không thích-thú", đôi khi mong mỏi khóa thiền tập mau kết thúc để trở về nhà, giống như một học sinh mong đến kỳ nghỉ hè để khỏi mang cực hình đi học.
 
Tâm trạng không thích-thú trong thiền, dẫn đến sự uể-oải trong các oai-nghi, thế là lười-biếng xuất hiện. Lười-biếng xuất hiện, việc thực-hành thiền ngưng đọng, lại làm tăng-trưởng sự lười-biếng.
 
Khi ấy, tâm hành-giả khởi lên ý nghĩ: "Có lẽ đề mục này không hợp với mình, nên thay đổi đề mục khác". Nhưng dù cho có thay đổi đề mục nào cũng vậy thôi, cũng chẳng có kết quả gì, nó cũng giống như sự khởi động cổ xe, để rồi cổ xe vẫn nằm ì ra đó. Vì sao? Vì nguyên-nhân cần thiết phải có là "Sự tinh-tấn của tâm", nhưng sự tinh-tấn của tâm lại không có.
 
Người đã thiếu tâm tinh-tấn, ngay cả công việc thế tục, dù có thay đổi từ việc này sang việc khác, từ việc khác sang việc khác nữa, những công việc ấy luôn luôn bị bỏ dở, chẳng có việc nào hoàn tất cả. Chỉ khi nào người ấy thích-thú một công việc nào đó, việc ấy mới chóng thành và có kết quả.
 
Việc tu-tập thiền cũng vậy, nếu người thực-hành có đủ tinh-tấn về thân lẫn tâm, sự tinh-tấn càng vững mạnh, trở nên sung-mãn, già dặn theo dòng thời gian tu-tập, điều này gọi là tinh-tấn tu-tập.
 
Và trong 37 pháp trợ giác-ngộ, tinh-tấn tu-tập này được gọi là tấn-quyền.
 
Tướng (lakkhaṇa) của tấn-quyền là làm biến mất sự uể-oải, dã-dượi, lười-biếng trong lúc hành thiền, đồng thời hiển-lộ ra sự hăng-hái nỗ-lực, thích-thú trong đề-mục và sự chú tâm vào đề-mục ngày càng khắn khít.
 
Hành-giả cần làm khởi dậy tinh-tấn tu-tập, vì phận-sự của tinh-tấn là trợ giúp, nâng đở các pháp đồng sanh được vững mạnh.
 
Niệm-quyền (satindriya).
 
Niệm-quyền với ý-nghĩa là trú-vững. Lẽ thường niệm được an-trú trong các đề mục thiền như: Niệm-xứ, niệm-thân (kāyagasaṭi)... Niệm cũng có hai loại là:
 
1.  Pakaṭi saṭi: niệm thông-thường.
2.  Bhāvanā saṭi: niệm tu-tập.
 
Tướng của niệm là sự chú yù. Đối với các công việc thế tục bình thường, sự chú ý đến cũng là một yếu tố trợ lực cho kết quả tốt đẹp như người thợ thêu, chú ý đến mũi kim đường chỉ khiến các hoa văn của mẫu thêu trở nên xinh đẹp sắc sảo.
 
Nếu không có sự chú ý, tuy có cố-gắng hoàn tất công việc, công việc ấy cũng không có kết quả vững-chắc, kết quả ấy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn rồi trở nên hư hoại.
 
Không có sự chú ý đồng nghĩa có sự dể-duôi, ngay cả việc học kinh, tụng kinh nếu không có sự chú ý, sẽ không thể học thuộc bài kinh mau chóng, sự tụng kinh sẽ bị vấp váp hay nhầm lẫn.
 
Niệm thông-thường đã có lợi-ích như thế, nói gì đến niệm tu-tập. Chính bốn pháp niệm-xứ là niệm tu-tập, khởi đầu cho con đường đi đến giác-ngộ, đi đến sự thoát khổ, thành-đạt pháp siêu-thế.
 
Tướng của niệm sẽ hiển-lộ khi ấn-tướng thiền an-trụ vững, hành-giả thấy rõ từng chi tiết của ấn-tướng cũng như nhận biết từng trạng-thái tâm đối với ấn-tướng.
 
Gọi là niệm-quyền là sự cai quản, kiểm-soát các pháp-hành đang sanh-khởi trong sự chú ý, bằng trạng-thái trú-vững. Do đó, khi niệm luôn dán chặt vào đề mục khắn khít đến mức độ dường như không thể xa lìa đề mục, tâm luôn kề cận với đề mục, cho dù hành-giả không chú ý nhiều lắm, đề mục thiền vẫn hiển-lộ rõ ràng, đó là tướng của niệm-quyền, ví như sợi dây vàm xỏ mũi con bò được quấn nhiều vòng quanh cọc đóng cứng xuống đất, con bò luôn gần gũi cái cọc.
 
Cũng cần biết rằng: phận-sự của niệm là ghi nhớphận-sự của tưởng là nhớ lại.
 
Trong sự tu-tập niệm thiền Chỉ, hai pháp niệm -tưởng sẽ hỗ-trợ tích cực cho định, một đằng ghi nhớ (niệm) dấu ấn đề mục, một đằng nhớ lại (tưởng). Khi nhớ lại, rồi lại ghi nhớ, sự-kiện này được lập đi lập lại nhiều lần, khiến ấn-tướng thiền được thường xuyên cọ-xát, càng lúc càng rõ ràng hơn.
 
Ví như người họa sĩ vẽ tranh, trước tiên anh phát thảo những nét vẽ mờ nhạt, sau đó anh từ từ tô đậm những nét ấy, khiến những nét vẽ trở nên rõ ràng sinh động.
 
Hoặc ví như đứa bé học viết chữ, cô giáo viết những chữ mẫu cho đứa bé tập viết, đứa bé đồ chữ mẫu, vài chữ đầu tiên, có thể không trùng với nét chữ mẫu nhưng qua vài chữ, nó có thể đồ đúng theo nét chữ mẫu, càng về sau, nét chữ của đứa bé càng gọn, càng nhuần nhuyển và sắc sảo.
 
Cũng vậy, hành-giả giai-đoạn đầu tu-tập thiền, dấu hiệu của đề-mục chưa hiện rõ, chỉ mờ nhạt, nhờ có tưởng nhớ lại, niệm lại ghi nhớ, ghi nhớ rồi nhớ lại, sự-kiện này được lập đi lập lại nhiều lần, dấu hiệu đề mục thiền được trui rèn, trở nên hiện rõ với hành-giả, khi ấn-tướng thiền đã rõ ràng niệm an-trú vào đó. Khi ấy, tâm không còn loạn-động, không còn xa rời đề mục, đó là lúc niệm chiếm ưu thế, bấy giờ các pháp đồng sanh với niệm cũng trú-vững trong đề mục trở thành niệm-quyền.

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Chương V
Ngũ quyền, Ngũ căn (2-2)
(Pañcindriya)
Tỳ Kheo Chánh Minh
 

Định-quyền (samādhindriya).

Định-quyền có ý-nghĩa: làm cho các pháp đồng sanh gom lại, không cho tán-loạn. Định chưa trở thành quyền, nó có hai loại:
 
1.  Pakaṭi samādhi: định thông-thường.
2.  Bhāvanā samādhi: định tu-tập.
 
Định thông-thường là loại định có trong sát-na tâm (khaṇa) nó gom các pháp trong tâm an-trú trong cảnh sắc, thinh, hương, vị, xúc, hay trong bố-thí, trì-giới ...
Định tu-tập là cận-định hay định kiên-cố. Định tu-tập có mãnh lực thiêu đốt các phiền-não nhất là các pháp chướng-ngại, ví như sức nóng mặt trời được gom lại trong tròng kính, có thể phát ra tia lửa thiêu đốt các vật khác.
 
Tướng của định-quyền được hiển-lộ khi tâm hoàn toàn yên-lặng, không bị xáo động, khi ấy vùng triền (saṃyojāna) yên-lặng, những phiền-não ở vùng triền bị áp chế không thể sanh-khởi.
 
Định có sự yên-lặng là thành-tựu, nên khi định phát huy sức mạnh, thì tâm yên-lặng, đồng nghĩa các pháp đồng sanh với định cũng yên-lặng.
 
Trong thiền Quán nhờ sự loại trừ tâm loạn-động của định, trí quán phát huy sức mạnh như người có mắt dùng mũi kim nhọn xuyên qua lớp vải tùy-miên để sát trừ chấy, rận thân-kiến, hoài-nghi ...
 
Nói cách khác, định-quyền tích cực trợ giúp cho trí quán xuyên qua một trong ba cửa giải-thoát là: Cửa Vô-tướng (animiṭṭa mukha), cửa Vô-lụy (appaṇihiṭa mukha), cửa Không-tánh (suññaṭa mukha) để sát trừ pháp ngủ-ngầm như thân-kiến, hoài-nghi ... tức là trí-quán xuyên qua một trong ba tướng vô-thường, khổ, vô-ngã để sát-trừ phiền-não.
 
Nhờ định-quyền phát huy sức mạnh, nước tâm trở nên yên-lặng, tùy theo phước ba-la-mật tích lũy một trong ba tướng hiển-lộ rõ nhất.
 
Người tích lũy phước ba-la-mật do nương theo đức-tin là bố-thí, trì-giới tướng vô-thường hiển-lộ rõ hơn hai tướng kia, người tích lũy phước ba-la-mật bằng cách tu-tập thiền Chỉ trong quá-khứ là nương theo định là trưởng (adhipaṭi) thì tướng khổ hiện rõ hơn hai tướng kia. Người tích lũy phước ba la mật bằng con đường thiền Quán, tức là dùng trí làm trưởng thì tướng vô-ngã rõ hơn hai tướng kia.
 
Tuệ-quán hiện-tại bám vào một trong ba tưởng ấy và định-quyền khi ấy trở thành bệ phóng giúp trí-tuệ nhảy vọt từ bờ này sang bờ kia, được gọi là goṭrabhū ñāṇa (tuệ Chuyển-tánh) thế là tuệ-đạo sanh-khởi vị ấy trở thành bậc Dự-lưu.
 
Tuệ-quyền (paññindriya).
 
Tuệ-quyền với ý-nghĩa là thấy rõ, trừ diệt sự tối tăm (vô-minh) giống như bốn quyền kia, trí hay tuệ có hai loại:
 
1.  Pakaṭi ñāṇa: trí thông-thường.
2.  Bhāvanā ñāṇa: trí tu-tập.
 
Chữ paññā nghĩa là PA + ÑĀPA là trọn vẹn hay đúng đắn. ÑĀ: sự biết. Paññā là sự hiểu biết trọn vẹn hay sự hiểu biết đúng.
 
Thường-trí là loại trí trong thế-tục, trí này rất đa dạng như trí về pháp-học, trí về các loại ngành nghề, trí về ngôn-ngữ ... các nhà khoa-học, các nhà nghiên-cứu ... phát-triển loại trí này ở mức độ cao và có kết quả tốt trong sự thành-đạt thế-tục.
 
Nói chung, thường-trí bao gồm trí-văn và trí-tư. Trí-tu (bhāvanāmayā paññā) là trí-tuệ sanh lên do tu-tập thiền Chỉ hay thiền Quán.
 
Tướng của trí-tu là thấu hiểu chân-tướng của pháp hữu-vi.
 
Tướng của tuệ-quyền được hiển-lộ khi hành-giả thấy được ba tướng vô-thường -khổ -vô-ngã. Trong đó, nếu trí-quyền phát huy sức mạnh thì tướng vô-ngã hiển-lộ rõ nhất so với hai tướng kia.
 
Nói gọn hơn, khi hành-giả đạt được tuệ Phổ-thông bấy giờ tuệ-quyền được hình thành, tuệ-quyền được hiển lộ khi tướng vô-ngã rõ ràng hơn hai tướng kia, hành-giả nỗ-lực tinh-tấn phát-triển tuệ-quyền càng lúc càng sung-mãn, cuối cùng thành-đạt được giải-thoát khổ.
 
Cần nên biết rằng: Tín và trí hỗ-trợ lẫn nhau bằng hổ-tương duyên (añnamañña paccaya) một cách tích cực.
 
Khi trí sanh-khởi quá mạnh, nương theo đó sẽ có nghi-hoặc sanh lên, bấy giờ tín-quyền với sự hướng tâm tin sẽ giúp trí ngăn chặn hoài-nghi. Khi tín sanh-khởi mãnh-liệt, nương theo đó tà-kiến (sự thấy sai, hiểu sai) sẽ sanh lên, bấy giờ trí sẽ giúp tín loại trừ sự thấy sai, hiểu sai, vì phận-sự của trí là đẩy lùi tăm tối.
 
Các Ngài có dạy rằng: kẻ thù ẩn mặt cùa trí là tà-kiến, kẻ thù ẩn mặt của trí là hoài-nghi.
 
Trí phát huy sức mạnh giúp tín càng thêm vững-chắc, vì trí là sự thấy rõ, biết rõ. Đã thấy rõ, biết rõ rồi thì sự tin tưởng trở nên đúng đắn và vững-chắc.
 
Tín phát huy sức mạnh giúp cho trí có cơ sở phát-triển, vì tín có công-năng làm trong sạch đối-tượng. Ví như một bức hoa văn, nếu bị bụi bặm bám đầy, nó không thể xinh đẹp, những đường nét sắc sảo không thể hiện ra trong mắt người xem vì bị bụi bám, nếu lau chùi sạch sẽ bức hoa văn sẽ trở nên trong sáng xinh đẹp, những đường nét sẽ hiện ra rõ ràng. Cũng vậy tín làm trong sạch cảnh (hay đối-tượng) giúp cho trí nhận rõ, thấy rõ.
 
Nhận rõ, thấy rõ cái gì? nhận thấy rõ ba tướng: vô-thường, khổ, vô-ngã.
 
Như vậy, rõ ràng ở giai-đoạn đầu, tín tích cực hỗ-trợ cho trí, khi trí sung-mãn lại giúp cho tín thêm vững-chắc và đúng đắn. Bấy giờ tín trở thành chánh-tín (sammāsaddhā), trí trở thành chánh-trí (sammāñāṇa).
 
Tương-tự tấn-quyền và định-quyền hỗ-trợ tích cực lẫn nhau.
 
Tấn với phận-sự nâng đỡ, giúp định gom góp các pháp đồng sanh hội-tụ lại. Nhưng kẻ thù ẩn mặt của tấn là phóng-dật, làm tán-loạn tâm, bấy giờ định-quyền sẽ làm cho các pháp yên-lặng trở lại.
 
Kẻ thù dấu mặt của định là uể-oải dã-dượi, chính sự yên-lặng quá mức đưa đến trạng-thái thụ-động làm tâm co rút, lười-biếng gọi là hôn-trầm, tâm bị lui sụt trước đề mục, khi ấy tấn lại hoạt động với tướng-trạng siêng năng, đốc thúc các pháp đồng sanh năng động trở lại, giúp định và các pháp đồng sanh trú-vững trong ấn-tướng của đề-mục thiền.
 
Riêng niệm có vai trò cân bằng các quyền kia, niệm giống như người đốc công, luôn chú ý đến các người thợ ở dưới quyền. Khi thấy một người nào chểnh mảng công việc hay thấy người nào làm sai, người đốc công đi đến nhắc nhở hay bảo làm việc cho đúng.
 
Niệm có tướng là sự trụ-vững có phận-sự là ghi nhớ, niệm càng vững mạnh các pháp quyền kia càng tiến triển sung-mãn một cách đúng đắn.
 
Nhưng vì sao các pháp quyền vốn tốt đẹp lại có thể sanh-khởi tà-kiến, hoài-nghi, phóng-dật, hôn-trầm? Điều này cũng giống như vị ngọt của trái cây, vốn là chất bổ dưỡng, nhưng nếu không khéo gìn-giữ nó sẽ trở thành chất say. Hay giống như sửa tươi vốn ngon ngọt, nhưng để lâu sẽ thành chua, để rồi khi dùng dễ sinh bệnh tiêu chảy.
 
Cũng vậy, các pháp quyền ở trên vốn là thù diệu, nhưng do sự dể-duôi (pamāda) cùng với tác-ý không khéo khiến các phiền-não, cấu uế nương từ đó sanh-khởi.
 
Trong Tăng-chi kinh có ghi mẫu đối thoại của hai vị trưỡng-lão Anuruddha và Sārīpuṭṭa như sau:
 
- "Thưa hiền-giả Sārīpuṭṭa! với thiên nhãn thanh-tịnh siêu nhân tôi có thể nhìn một ngàn thế giới.
Phấn chấn (āraddhaṃ) là tinh-tấn của tôi, không có thụ-động (asallīnaṃ), niệm được an-trú, không thất niệm.
Tuy vậy, tâm tôi chưa giải-thoát các lậu-hoặc, không có không chấp-thủ.

- Này hiền-giả Anuruddha! Hiền-giả suy nghĩ như sau: "với thiên nhãn... một ngàn thế giới", đây là kiêu-mạn của hiền-giả.
Này hiền-giả Anuruddha! Hiền-giả suy nghĩ như sau: "phấn chấn là tinh-tấn tôi... không thất niệm, tâm được khinh-an, không có cuồng-nhiệt (asāraddho) được định-tỉnh nhất tâm, đây là trạo cử của hiền-giả
Này hiền-giả Anuruddha! Hiền-giả suy nghĩ "tuy vậy... không có không chấp-thủ", đây là hối quá của hiền-giả.
Lành thay! nếu tôn giả Anuruddha đoạn trừ ba pháp này, không tác-ý đến ba pháp này, hãy chú tâm vào bất-tử giới (amaṭāya dhāṭuyā)".
 
Và nương theo lời dạy của trưởng-lão Sārīpuṭṭa, Ngài Anuruddha thành-tựu bậc A-la-hán sau một thời gian hành-pháp.
 
Đoạn kinh trên cho chúng ta thấy rằng:
 
1- Các pháp tốt có thể là duyên sanh-khởi pháp bất-thiện như thiên-nhãn thanh-tịnh có thể làm sanh-khởi kiêu-mạn ...
2- Do tác-ý không khéo, suy nghĩ không đúng đường lối, tức là có sự dể-duôi, khi ấy phóng-dật, hối-hận ... sanh-khởi.
3- Khi có tác-ý đúng, như tác-ý đến bất tử giới, sẽ đoạn trừ được những phiền-não nương sanh.
 
Trong năm quyền thì
 
1.  Tín-quyền thuộc về giới có công-năng trừ diệt những phiền-não thô-thiển.
2.  Niệm, tấn, định-quyền thuộc về định có công-năng diệt trừ những phiền-não ở vùng triền.
3.  Tuệ-quyền trừ diệt những phiền-não ở vùng tùy-miên.
 
Như thế, khi tín, tấn, niệm, định-quyền sung-mãn sẽ đưa đến tuệ-quyền sung-mãn.
 
Riêng về tín, tấn, niệm đứng trước định và tuệ-quyền, giống như người giúp đức-vua nắm quyền bá chủ thiên hạ. Chúng nâng đỡ định và tuệ-quyền cho đến khi đạt được pháp thù thắng cao tột.
 
Khi tu-tập thiền Chỉ, hành-giả làm chủ được tâm, có thể chứng được tám thiền (bốn thiền sắc-giới và bốn thiền vô-sắc giới) bằng định-quyền, trong khi ấy tuệ-quyền sẽ trở thành năm thắng-trí như nhãn-thông, nhĩ-thông, túc-mạng thông ... Nếu hành-giả tu-tập thiền Quán, thì định-quyền sẽ làm hiển-lộ định không-tánh (suññaṭā samādhi), định vô-tướng (animiṭṭā samādhi) hay định vô-nguyện (appaṇihiṭā samādhi), khi ấy tuệ-quyền trở thành năm pháp thanh-tịnh liên quan đến tuệ, thành-đạt bốn tuệ đạo, bốn tuệ quả siêu-thế.
 
Khi Đức Thế-tôn trú ở Kosambi tại khu vườn Ghosiṭa. Bấy giờ, Ngài Piṇdolabhāradvāja tuyên bố với chánh trí: "sanh đã tận, phạm-hạnh đã hành".
 
Chư tỳ-khưu bạch hỏi Đức Thế-tôn, Ngài dạy rằng: "Do tu-tập, làm sung-mãn ba quyền, nên tỳ-khưu Piṇdolabhāradvāja tuyên bố: "Sanh đã tận, phạm-hạnh đã thành". Ba quyền ấy là gì? là niệm-quyền, định-quyền, tuệ-quyền"(Tương-ưng kinh)
 
Trưởng-lão Piṇdolabhāradvāja là vị đệ nhất về tiếng rống sư tử.
 
Người tu-tập Tín-quyền làm trưởng khi chứng-đắc Dự-lưu quả, gọi là bậc Tín giải-thoát (saddhā vimuṭṭi).
 
Người tu-tập Định-quyền là trưởng, chứng-đắc sơ định phát-triển tuệ-quán, chứng-đắc Dự-lưu quả, gọi là bậc Thân-chứng (kāyasakkhi).
 
Người tu-tập Tuệ-quyền là trưởng khi chứng-đắc Dự-lưu, gọi là bậc Kiến-đáo (diṭṭhippaṭṭa).
 
Nhưng trong năm quyền, quyền nào được xem là tối thượng? Đó là Tuệ-quyền. Vì sao? Vì rằng: tín-quyền chỉ có công-năng đoạn trừ những phiền-não cấu uế ở vùng thân-kiến.
 
Định-quyền, niệm-quyền, tấn-quyền thuộc về định uẩn chỉ có công-năng đoạn trừ phiền-não cấu uế ở vùng triền.
 
Chỉ có Tuệ-quyền mới có khả-năng trừ diệt trọn vẹn những phiền-não cấu uế sanh-khởi ở vùng tùy-miên.
 
Đức Phật dạy rằng: "Này chư tỳ-khưu, phàm có các bàn chân của loài hữu tình bộ hành, những bàn chân ấy nằm gọn trong bàn chân voi, bàn chân voi được xem là tối thượng trong các bàn chân. Cũng vậy, này chư tỳ-khưu, trong các bàn chân nào đưa đến giác-ngộ, tuệ-quyền được xem là tối thượng về phương diện giác-ngộ". (Tương-ưng kinh).
 
Chỗ trú của năm quyền
 
Trong Tương-ưng kinh, đức Phật dạy rằng:
"Kaṭṭha saddhindriyaṃ duṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu soṭāpaṭṭiyaṇyesu eṭṭha saddhin-driyaṃ daṭṭhabbaṃ"
.

"Cần tìm tín-quyền ở đâu?.
Cần phải tìm tín-quyền ở bốn yếu tố của bậc Dự-lưu
".

 
Nghĩa là tín-quyền được hiển-lộ trong bốn chi phần của vị Thánh Tu-đà-hườn. Đó là:
 
1.  Đức-tin bất động trong ân-đức Phật.
2.  Đức-tin bất động trong ân-đức Pháp.
3.  Đức-tin bất động trong ân-đức Tăng.
4.  Có giới thanh-tịnh.
 
Giới thanh-tịnh là nền-tảng hay nhân gần (padaṭ-ṭhāna) của định siêu-thế.
Đây là bốn yếu tố bảo đảm sự chứng-đắc Dự-lưu trí đạo (soṭāpaṭṭi maggañāṇa) trong vòng luân-hồi.
 
Trong Trung-bộ, bài kinh Chánh tri-kiến (Sammādiṭṭṭhi suṭṭa), ngài Sārīpuṭṭa có giảng cho chư tỳ-khưu những pháp làm thành-tựu chánh tri-kiến, có đoạn ghi rằng:
 
Sammādiṭṭhi sammādiṭṭhi āvuso vuc-caṭi kiṭṭāvaṭā nekho āvuso ariyasāvako sam-mādiṭṭhi hoṭi, ujugaṭassa diṭṭhi dhamme aveccappasādena samannāgaṭo āgaṭo sad-dhammaṃ’ ṭi.
- "Này chư hiền! Chánh kiến, chánh kiến được gọi như vậy. Này chư hiền! làm thế nào vị Thánh đệ tử có chánh kiến, có sự thấy ngay thẳng, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành-tựu diệu pháp này".
 
"Lòng tin tuyệt đối" (aveccappasādena), ở đây ám chỉ vị ấy đạt đến cận định khi quán tưởng về ân-đức Phật, ân-đức Pháp, ân-đức Tăng.
 
Khi hành-giả niệm tưởng đến ân-đức Phật-Pháp-Tăng đạt đến cận định, người ấy đã làm chủ được tâm, đồng thời vị ấy phải biết rằng: "khả-năng kiểm-soát tâm là do đức-tin chỉ đạo", tức là đức-tin này được tu-tập làm cho sung-mãn, trở thành tín-quyền
 
Nền-tảng của định (hay định-quyền) là ba chi phần giới là chánh-ngữ -chánh-nghiệp -chánh-mạng, trong đó chánh-mạng có vai trò quan trọng trong sự thành-tựu định-quyền ngay trong kiếp sống này.
 
Nói đến tín-quyền là nói đến giới, tín-quyền được tu-tập đồng nghĩa giới được thanh-tịnh. Khi giới được thanh-tịnh, không bị tì vết, không bị ô-nhiễm là do đức-tin làm cho trong sạch, giới ấy thoát khỏi các cấu uế, ô-nhiễm là ngã-mạng, ái và tà-kiến ở phạm vi thô-thiển.
 
Trong khi quán-xét giới-hạnh, hành-giả phải hiểu rằng: "Đức-tin nổi bật trong giới ấy".
 
Sự bất lực, không thể thọ-trì-giới được trong sạch, trong những điều-kiện cần có của giới, được gọi là "giới bị rạn nứt".
 
Trong Tăng-chi kinh Đức Thế-tôn có dạy bà Visākhā rằng: "Này Visākhā! Vị thánh đệ tử niệm giới không bị hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, không bị chấp-thủ đưa đến thiền-định".
 
Dĩ nhiên, người cư-sĩ vì phải giao tiếp giữa những điều-kiện thế-gian bình thường, nên phần lớn "giới không trong sạch".
 
Các Ngài như Sudinna, Raṭṭhapāla ... nhận-định rằng: "Đời sống phạm-hạnh sẽ không được trong sạch như võ ốc xà cừ được đánh bóng, nếu còn sống tại gia".
 
Những cư-sĩ hay sa-môn, là đệ tử trong giáo-pháp đức Phật, cần tự kiểm-soát để biết những trạng-thái biến-động, những tán-loạn trong tâm còn hay mất, tức là trạng-thái làm chủ tâm tiến triển ra sao? và điều muốn nhấn mạnh là tín-quyền chỉ có thể tìm thấy ở một trong bốn yếu tố của bậc Dự-lưu.
Nếu hành-giả là người tu-tập niệm tưởng ân-đức Phật-Pháp-Tăng đức-tin nổi bậc rõ ràng, còn những đề mục khác đức-tin cũng nỗi bậc khi đạt đến cận-định. Vì rằng: giới được trong sạch là một yếu tố để nhận diện ra tín-quyền.
 
Kaṭṭha viriyindriyaṃ daṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu sammappadhānesu eṭṭha vī-riyindriyaṃ daṭṭhabbaṃ.

"Cần tìm thấy tấn-quyền ở đâu?
Cần thấy tấn-quyền ở bốn Chánh-cần".

 
Hành-giả khi tu-tập thiền Chỉ hay thiền Quán, có thể tìm thấy tấn-quyền khi kiểm-soát tâm. Tức là, khi an-trú niệm vào đề mục, trạng-thái chao-động, loạn tán, bất ổn nơi tâm còn hay vắng lặng?.
 
Chỉ khi nào hành-giả với sự cố-gắng nỗ-lực làm chủ được tâm, an-trú được niệm gắn chặt vào đề mục, khi ấy tấn-quyền được nổi bật.
 
Hành-giả tuy nỗ-lực tinh-tấn tu-tập các đề mục thiền Chỉ, hành bốn Niệm-xứ, hoặc thiền Quán, nhưng chưa đạt được trạng-thái an-trú niệm vào đề mục, phải tự hiểu rằng: "tinh-tấn của ta chưa đủ lực", nghĩa là: hành-giả chỉ có được tinh-tấn tu-tập thông-thường, tinh-tấn này chưa trở thành tấn-quyền.
Cân phải lập chí nguyện (adhiṭṭhāna) rằng:
 
"Dầu chỉ còn da, dầu chỉ còn gân, dầu chỉ còn xương, dầu máu thịt khô cạn, ta vẫn quyết tâm không chùn bước. Cho đến khi nào thân-kiến, ác-nghiệp và khổ-cảnh luân-hồi (apāya saṃsāra) của ta, bị đoạn-diệt hoàn toàn ngay chính trong kiếp sống này".
 
Đây chỉ là bản chất riêng biệt duy nhất, có một không hai của tấn-quyền, đó là sự quyết tâm mãnh-liệt trong bốn chánh-cần. Như sự tinh-tấn của trưởng-lão Cakkhupāla là điển hình.
 
Khi hành-giả có sự tinh-tấn như thế, hành-giả cần nhận biết rằng: "Đối với sự kiểm-soát tâm, tinh-tấn chiếm địa vị nổi bật".
 
Các bất-thiện pháp là phóng-tâm, giao-động, tán-loạn, hôn-trầm, dã-dượi ... đã bị tinh-tấn đẩy lùi và tiêu diệt. Tâm ở trạng-thái thuần phục bên cạnh đề mục, như còn bò nằm yên dưới cây cọc đóng cứng xuống đất, các thiện-pháp đang sanh-khởi và tăng-trưởng.
 
Hành-giả làm chủ được tâm khi tấn-quyền được vững mạnh.
 
Kaṭṭha saṭindriyaṃ daṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu saṭipaṭṭhānesu eṭṭha saṭindri-yaṃ daṭṭhabbaṃï.

"Cần tìm thấy niệm-quyền ở đâu?
Cần thấy niệm-quyền ở bốn Niệm-xứ".

 
Hành-giả thực-hành pháp niệm qua bốn Niệm-xứ như niệm thân trong thân với đề mục hơi thở chẳng hạn.
 
Khi sự chú tâm được an-trú hành-giả có thể an-trú niệm theo thời gian tùy thích, tức là an-trú bao lâu cũng được như-ý, hành-giả cần phải hiểu rằng: "niệm đang chiếm ưu thế". Tâm phóng theo ngoại cảnh đã biến mất, chỉ còn gắn liền với đề mục, hành-giả có được khả-năng làm chủ tâm mình.
 
Kaṭṭha samādhindriyaṃ daṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu jhānesu eṭṭha samādhindriyaṃ daṭṭhabbaṃï.

"Cần thấy định-quyền ở đâu?
Cần thấy định-quyền trong bốn tầng thiền".

 
Bốn tầng thiền ở đây là chỉ cho bốn thiền hữu-sắc.
 
Trong việc tu-tập Chỉ-tịnh, như niệm hơi thở ra hơi thở vào, niệm đề mục kasiṇa ... Khi đạt được cận-định là mức độ thấp nhất trong Chỉ-tịnh, khi ấy bốn pháp chướng-ngại là: hôn-trầm, hoài-nghi, sân-độc, phóng-dật đã bị áp chế bởi bốn chi-thiền là tầm, tứ, hỷ, lạc. Từ đó định được phát-triển sung-mãn, khi áp chế được tham-dục, định này trở thành định-quyền.
 
Những pháp chướng-ngại đã tung hoành trong chuỗi thời gian dài trong những kiếp luân-hồi quá-khứ và trong hiện-tại được áp chế, sự chú tâm vào đề mục của thiền Chỉ được kiên-định, tâm được an-tịnh.
 
Hành-giả nhận biết rằng: "định chiếm ưu thế", tâm giao động, tán loạn hay bất ổn không còn.
 
Kaṭṭha paññindriyaṃ daṭṭhabbaṃ?
Caṭūsu ariyasaccesu eṭṭha paññindriyaṃ daṭṭhabbaṃï.

"Cần tìm tuệ-quyền ở đâu?
Cần thấy tuệ-quyền ở bốn Thánh-đế".

 
Những chúng-sanh có duyên lành gặp được giáo-pháp của đức Phật, thành đạt trí hiểu biết bốn chân lý. Đây là một giá trị cao tột, chỉ khi nào có trí về: "đây là khổ, đây là nhân sanh khổ, đây là sự diệt khổ, đây là thánh đạo tám chi đưa đến diệt khổ". Khi ấy mới có thể thoát ra khỏi sợi dây trói-buộc là thân-kiến, thoát ra ác-hạnh, thoát ra khổ luân-hồi.
 
Để có được trí thấy được tứ đế, hành-giả cần cố-gắng đạt được tối thiểu là tuệ Phân-biệt danh-sắc, tức là phải có tuệ-quán về sáu thành-phần căn-bản của danh-sắc, đó là: đất (paṭhāvī), nước (āpo), gió (vāyo), lửa (ṭejo), hư không (ākāsa) và thức (viññāṇa).
 
Danh-sắc được hình thành qua sáu yếu tố này.
 
Loại vật-thực nuôi dưỡng cho tuệ Phân-biệt danh-sắc chính là trí-văn hay trí-tư qua sự học pháp, ghi nhớ, suy-tư nghiền-ngẫm, bàn-luận, cật vấn ... Hai loại trí-văn, trí-tư giúp hành-giả thực hành tuệ-quán, phân biệt được danh-sắc một cách mau chóng.
 
Khi sáu nguyên tố này được hiện rõ qua trí-tu, xem như hành-giả đặt xong nền móng cho tuệ-quyền sẽ sanh-khởi.
 
Có nhiều hành-giả thực-hành ngay pháp-hành minh-sát dưới sự chỉ dạy của Thiền-sư, không kinh qua pháp-học, vị ấy cũng đạt được tuệ Phân-biệt danh-sắc này.
 
Khi hành-giả nỗ-lực phát-triển tuệ-quán, thành-đạt được tuệ Sanh-diệt, là khi thấy các pháp sanh rồi diệt ngay, không kéo dài hơn một nháy mắt, ấn-tướng của đề mục cứ sanh diệt liên tục nhanh chóng như bóng đèn điện chớp-tắt liên hồi.
 
Khi ấy xem như tuệ-quyền đang hình thành, vì rằng: "Hành-giả đạt được Kiến-tịnh trong bảy pháp thanh-tịnh".
 
Sự sinh diệt nhanh chóng là: "tính-chất vô-thường" của pháp hữu-vi, nếu nhận biết rõ về tánh vô-thường, có thể nhận biết được tính vô-ngã trong đó.
Khi hành-giả nhận rõ tướng vô-thường qua sự sanh diệt nhanh chóng, thì tưởng vô-ngã (anṭṭasaññā) sanh-khởi, bấy giờ hành-giả tạm thời trừ diệt được thân-kiến "tôi là".
 
Khi tướng vô-ngã nổi bật, tuệ-quán sẽ trừ diệt được ngã-mạng, chứng ngộ Níp-bàn ngay trong kiếp sống này.
 
Sự hiểu biết trọn vẹn khổ-đế chỉ khi nào đắc thánh quả A-la-hán (arahaṭṭaphala).
 
Như vậy, hành-giả nỗ-lực tinh-tấn trong thời gian nào đó, đạt được tuệ-quán thấy rõ bản chất của sáu nguyên tố căn-bản của danh-sắc cả bên ngoài lẫn bên trong và thấy rõ tính thay đổi nhanh chóng của chúng. Bấy giờ niệm đã bám sát vào chúng (tức là ấn-tướng của đề mục), lúc này hành-giả cần biết rằng: "tuệ-quyền đang sanh-khởi", đồng thời hành-giả cũng nhận-thức rằng: "danh-sắc này có tính điên-đảo, lừa mị, không đáng tin tưởng".
 
Chính sự điên-đảo, lừa mị của danh-sắc là nét đặc biệt ẩn tàng trong tâm chúng-sanh, khiến chúng-sanh lăn trôi trong vòng luân-hồi vô định. Pháp điên-đảo ẩn trong tâm hành-giả dần dần bị đẩy lùi, cuối cùng biến mất.
 
Khi pháp điên-đảo biến mất, hành-giả nhận thấy rằng: danh-sắc này không phải là người, không phải là chúng-sanh, không phải là chư-thiên, phạm-thiên, đế-thích, voi, trâu, bò, ngựa... chi chi cả. Đơn giản chúng chỉ là danh-sắc mà thôi và danh-sắc này luôn thay đổi, biến hoại không ngừng.
 
Thoát khỏi tính điên-đảo, đồng nghĩa giác-ngộ tính như thật của pháp hữu-vi và điều này chỉ có được qua trí-tu, khi làm chủ được tâm bằng pháp niệm.
Nếu khổ-đế được thấu đạt dĩ nhiên ba đế sau cũng được thấu đạt. Trong sự nhận biết về tứ đế, sự biết của phàm-phu là biết trên "phương diện lý thuyết" (ambodha -tùy giác) xuyên qua trí-tư do tác-dụng của trí-văn, sự biết của bậc Thánh như bậc Dự-lưu là sự thông-đạt (paṭivedha), là kết quả của trí-tu.
 
Sự hiểu biết qua lý thuyết tác động đến trí suy-luận giống như một người đi đến vùng đất, nhìn thấy cây cỏ chung quanh còn đọng nước, không khí đang ẩm ướt, y hiểu rằng "nơi đây vừa có trận mưa". nhưng mưa diễn tiến như thế nào, y không biết rõ. Hay giống như người thấy ánh sáng phát ra từ ngọn lửa lúc ban đêm, y biết rằng: "nơi ấy đang có lửa", nhưng ngọn lửa ấy phát lên do vật dẫn hỏa là loại nào? ngọn lửa ấy có sức nóng ra sao? ngọn lửa ấy lớn nhỏ cỡ nào? y không biết được.
 
Ngược lại, thông-đạt-trí thấy, biết rõ ràng như người chứng kiến trận mưa, hay người đang ngồi cạnh ánh lửa.
 
Đức Phật dạy rằng:
"Saddhindriyaṃ bhāveṭi vīriyaṃ bhā-veṭi saṭindriyaṃ bhāveṭi sāmadhindriyaṃ bhāveṭi paññindriyaṃ bhāveṭi...".
Có ý-nghĩa rằng:
"Tín-quyền nên tu-tập
"Tấn-quyền nên tu-tập.
"Niệm-quyền nên tu-tập.
"Định-quyền nên tu-tập.
"Tuệ-quyền nên tu-tập.
Năm quyền này nên tu-tập
 đưa đến sự thành-đạt chỉ -quán dễ-dàng, có lợi-ích to lớn".

 
Một người chưa tu-tập năm quyền như đất nước không có vị lãnh-đạo, đất nước ấy giống như vùng rừng núi, có những bộ lạc man khai cư trú. Một quốc độ không có vị vua cai trị thì không có pháp-luật, nơi ấy mọi công dân sống tự tung tự tác, chẳng ai qui thuận ai, để rồi ṁạnh được yếu thua", loạn lạc khởi dậy, tội ác nối tiếp tội ác.
 
Cũng vậy, tâm người chưa tu-tập một trong năm quyền, tâm mãi mãi bị loạn-động, bị ngự-trị bởi ác pháp, bị ô-nhiễm bởi các pháp bất-thiện, họ cũng giống như người bị phi nhân nhập vào, không dám nghe những bài kinh như "Iṭipiso..." hay "Heṭu paccayo...".
 
Người chưa tu-tập năm quyền, khi nghe bàn luận về những nhân sanh hoan-hỷ (paccaya sanṭosa) trong thiện-pháp, hoặc pháp tu-tập, họ nhanh chóng tìm lý lẽ phản-bác, êm dịu hơn họ sẽ "im lặng để cáo từ". Trong họ, ước muốn thực-hành thiền Chỉ hay thiền Quán không hề sanh-khởi, có chăng cũng chỉ là ngọn lửa le lói để rồi tắt phụp.
 
Trái lại, người tu-tập năm quyền, giống như quốc độ có được vị minh chúa trị vì, giống như những thành phố, châu, quận, làng mạc ở chung quanh vùng kinh đô (majjhima desa), là nơi có pháp-luật bảo đảm sự an-toàn về nhân mạng, tài-sản... Người ấy sẽ vững tin giáo-pháp của đức Phật, không còn bị những lý-thuyết sai lạc cuốn hút, người ấy luôn vững tâm trong đường lối duy nhất của đức Phật đã chỉ dạy.
 
Khi nghe bàn luận về những nguyên-nhân sanh-khởi hoan-hỷ, hay những pháp môn tu-tập được tiến hóa, tâm người ấy càng mát-mẽ thanh-tịnh, đồng thời ước muốn nỗ lực thực-hành thiền Chỉ hay thiền Quán cho đến khi thành đạt mục-đích thoát khỏi luân-hồi khổ được gia tăng. Việc làm sanh-khởi hai loại ước muốn: thành-đạt trong thiền Chỉ hay thành-đạt trong thiền Quán, là tùy thuộc vào sự phát-triển của năm quyền nhất là tín-quyền.
 
Khi không tu-tập năm quyền thì loại ước muốn trên biến mất, thay vào đó là "ước muốn đình chỉ tu-tập".
 
Khi năm quyền được vững mạnh, ước muốn tu-tập được thay thế bằng "ước muốn được tấn hóa", khi năm quyền được sung-mãn thì "ước muốn thành-đạt đạo-quả" xuất hiện.
 
Và đức Phật có dạy rằng:
-Này chư tỳ-khưu! với sự viên-mãn năm quyền là bậc A-la-hán yếu nhẹ hơn là bậc Bất-hoàn (anāgāmi). Yếu nhẹ hơn là bậc Nhất-lai, yếu nhẹ hơn là bậc Dự-lưu. Yếu nhẹ hơn nữa là bậc Tùy pháp-hành. Yếu nhẹ hơn nữa là bậc Tùy tín-hành. (Tương-ưng kinh).
 
(Hết)
 
Reply
Sư Giác Khang thuyết giảng mê ngộ cảnh mộng luân hồi & nhận biết Pháp sư chơn chánh qua Giới-Định-Tuệ...





Mở đầu, Sư so sánh Tam Giới có 3 cấp khi chiêm bao:
 
Cấp 1: giữ từ 0-5 giới, sống trong Dục Giới.
Cấp 2: giữ 8 giới, sống trong Sắc Giới.
Cấp 3: giữ 10 giới trở lên, sống trong Vô Sắc Giới.
 
Chúng ta chỉ biết mình đang chiêm bao khi tỉnh thôi. Còn đang chiêm bao, cảnh trong chiêm bao đối với chúng ta là cảnh thực.  
 
Trong khi chiêm bao, chúng ta thấy mình bị cọp rượt hay ma bắt, chúng ta chạy sợ toát mồ hôi. Khi tỉnh dậy, mới biết không có cọp nào hay ma nào hết.  
 
Chỉ có chư vị A la Hán đã tỉnh mới biết được 3 cảnh giới: Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới đều không có.  
 
Mình phải hiểu cho rành. 
 
Thế nào là hiểu rành, và thế nào là hiểu không rành? Đó là điều Sư thường giảng. Sư năn nỉ chúng ta học thuộc lòng (Văn) để  chúng ta có thể suy tư (Tư) cho thấu đáo, trở thành sự thật (Tu) mới mong TỈNH ra được. Mình đã MÊ từ lâu rồi. 
 
CỨU là CHỈ ĐƯỜNG thôi. Chịu khó hạ thủ công phu đi. 
 
Cái đói của thể xác không sao vì chúng ta có thể chịu đói cả trăm ngày mà không chết, nhưng cái đói của tâm linh, cái KHỔ, cái nhận thức mình kém cỏi, có thể trong 5 phút là có thể tự tử cho dù dư tiền bạc danh vọng. Tại sao? Vì làm việc mờ ám rồi sợ bị bắt nên phải nhảy lầu chết.
 
Chúng ta biết nhưng không biết thật sâu sắc. Muốn biết sâu sắc thì phải nghe Giáo Pháp, để nghiền ngẫm.  Muốn nghiền ngẫm, phải có thì giờ tìm nơi vắng lặng để hành thiền định.
 
Nơi vắng lặng như nghĩa địa thì chúng ta sợ ma. Mình làm thiện thì ma không quấy phá mình. Tà phải sợ chánh chứ chánh không sợ tà. Giữ Ngũ Giới là không sợ ai. Nhưng giữ giới mà không nghe Pháp, không hành thiền thì không ích lợi gì. Muốn hành thiền thì phải có thời giờ, ít nhất là có 1-2 tiếng cho suốt cuộc đời này cho tới chết, sanh lên cũng vẫn hành thiền nữa cho tới đắc quả thôi.
 
Làm sao biết đắc quả? Thì phải nghe Giáo Pháp, coi Kinh. Nếu đọc Kinh không hiểu thì hỏi các nhà sư. Vấn đề là nhà sư nào chân chánh hiểu lối tu của Đức Phật?  
 
--ooOoo--
 
Một Nhà Sư Chân Chánh
 
Đức Phật cũng có câu trả lời cho câu hỏi trên: Hãy nhìn vào 
  1. Giới hạnh, 
  2. Thiền Định và 
  3. Trí Tuệ 
 
của nhà sư đó.
 
 
Giới: 
 
Gữ 10 giới:
  1. Không sát sanh, phải phóng sanh
  2. Không trộm cắp
  3. Không tà dâm
  4. Không uống rượu, không dùng các chất say
  5. Quán Vô Thường, Vô Ngã, Khổ Đau.
  6. Không ngồi ghế cao, nằm giường rộng
  7. Không coi, mê say hát múa
  8. Không trang điểm phấn son
  9. Không ăn sái giờ quá ngọ
  10. Không rớ tới tiền, vàng bạc, của quý, đồ trang sức
 
Mình có mắt, mình có tai, mình nhìn mình biết chớ. 
 
Ông sống một đời sống giản dị, gương mẫu, một người thầy dẫn đường cho mình. Ông nào không giữ giới được thì mình lánh xa. Đừng phê phán. Người ta không làm được, tội lỗi người ta chịu. Mình phê phán thì mình là ma đồ.
(8:44)
 
Thiền
 
Vị sư đó có ngồi thiền không? Ông giảng thiền không? Giảng làm sao? Niệm Phật đếm từ 1 đến 10. Niệm Phật khỏi đếm khỏi cần niệm Phật, chìm đắm trạng thái, ra khỏi trạng thái: 
 
 
  1. Giảng  có rành hay không?
  2. Có chỉ cách chỗ mình tu hay không? 
  3. Mà có giải thoát cho mình hay không? 
 
Khó là ở chỗ đó. 
 
Tuệ
 
Giảng rồi phải biết đây là cõi trời Sắc Giới, hạnh phúc an nhàn nhưng không chấm dứt luân hồi sanh tử. Nó chỉ là nâng lên lớp cao thôi, lẩn quẩn thôi. Muốn giải thoát phải qua bằng cách nào? Nhà sư phải chỉ từ Nhị Thiền: Định sanh hỉ  lạc. Tâm định rồi, hỉ phát sanh. 
 
Thì đây là thiện trí thức. Nếu có thiện trí thức là có bậc thánh nhân. Nếu có sự trăn trở thao thức, sẽ có sự bất tử.
 
Ngài Thái tử Tất Đạt Đa ra đời, Ngài muốn tất cả chúng sanh thành Phật hết, không phải về cõi Trời. 11:15 Nhưng vào thời buổi này thì làm sao? Tôi không tin vào Tịnh Độ. Nói như nói dóc. Cảnh Giới Cực Lạc làm sao hiểu được?
 
Bủa lòng bác ái khắp trời,
Nói ra những pháp trong đời khó tin.
 
Thế giới sát na làm sao hiểu được?  Trong Kinh Sách nói nhưng đa số các học giả giải thích, theo tôi hiểu biết, thì không đúng. Thế giới Tịnh Độ rất là khó hiểu. Thế giới chu kỳ Ta bà của chúng ta thì dễ, nhưng thế giới Tịnh Độ rất là khó hiểu. Làm sao hiểu được thế giới tưởng? Thế giới của lời nói, của ngôn ngữ làm sao diễn tả được thế giới phi ngôn ngữ? 
 
Tôi phục Đức Phật.  Ngài không diễn được, nhưng Ngài diễn lơ lớ. Ngài diễn về cái Pháp, cái bánh vẽ của thế giới sát na. Chúng ta chụp cái bánh vẽ cho là bánh thật thì lại chết nữa.
 
Ngài không chỉ Niết bàn, nhưng Ngài chỉ con đường. Mình chụp con đường mà nói đây là Niết bàn thì kẹt. Nhưng kệ, cứ làm đi. Nếu mà có cái bánh vẽ còn hơn là không có.
 
Tôi muốn phân biệt giữa tưởng tức là thế giới quế độ, thế giới chu kỳ, thể giới sành già bệnh chết, thế giới có điều kiện thì chúng ta thấy dễ rồi. Ngay trong thế giới đó, có thể giới phi điều kiện, thế giới sát na, thể giới Tịnh Độ, thể giới Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, nhưng chưa phải là thế giới thật nha. Thế giới này không phải thật mà cũng không phải giả.  Đó là thế giới Tịnh Độ. Tới chừng A la Hán trở lên mới qua tới Bồ tát Bích Chi Duyên Giác Bồ-tát Phật đây mới tới thế giới thật. Chúng ta phải hiểu.  
 
Quý vị hiểu rồi, quý vị sẽ biết cha mẹ cửu huyền thất tổ, thân bằng quyến thuộc của mình sanh ở đâu. Quý vị muốn tìm thì quý vị gặp thôi. 13:23
 
Cái đó mới là cứu độ thật sự chứ nói: "Sư ơi, Sư cứu giùm con." đâu có cứu được?  Chỉ có thể chỉ đường thôi. Chỉ năn nỉ họ tu thôi. Tại sao vậy? Tại vì đó là bà con quyến thuộc, tình nghĩa nó đậm đà hơn. Cũng như cha df độ con. Nếu đắc quả thì dễ độ hơn là người ngoài. Anh em độ nhau cũng dễ.
 
Cũng như bên Tây Phương. Mấy người lớn tuổi ở bên đó con cái nó không nuôi. Mà không phải là nó không có nuôi, muốn nuôi cũng nuôi không được. Con người là cái máy mà. Đi làm 8 tiếng, về là tái mặt, không đủ thì giờ ngủ nữa. Mẹ bệnh thì vô nhà thương thôi, cho mấy cô y tá nuôi. Mười người chết mất chín. Chết không phải vì thiếu thuốc mà vì thừa thuốc.  14:26 
 
Chúng ta sống không phải chỉ là cái thân mà còn là cái tâm nữa. Cái lính hồn, cái tình người. Quá bên bển thì cha mẹ không có tình yêu. Mấy cô y tá không phải là con mình. Dù lo mình cách mấy cũng thiếu cái gì đó. Thiếu cái tình người. Thiếu cái ngửi hơi của người con. 
 
Chúng ta để ý coi. Người mẹ nào sanh con ra rồi cho vú nuôi. Đứa con lớn lên, thương người vú chứ không thương mẹ nó. Tại sao vậy?
 
Vì nó gần gũi với cái hơi của mẹ nó rồi, thì cái hơi của mẹ nó đã là cảm mến trong đó rồi.
 
Chúng ta sinh tử luân hồi cũng do cái đó, mà giải thoát cũng do cái đó. 15:44
 
Tôi muốn rằng chúng ta phải đi sâu vào con người của mình, đó Đức Phật Thích Ca, Đức Di Lặc đã để lại trong Duy Thức. Đã bốn mươi mấy năm tôi trăn trở trong đó, tôi thấy rất hay. Giảng cái gì cũng phải giảng ngay trong xác thân này, ngay trong sức sống này. 16:00  Niết Bàn không phải trong 9 từng mây, và Địa Ngục ở dưới đất. Đa số quý vị rất sợ Địa Ngục.  Nếu có ở dưới đất, thì sai, mà nói không có Địa Ngục ở dưới đất thì lầm. Chúng ta nên nhớ tưởng mình nó xảo quyệt lắm. Chuyện nào cũng có hết trơn, nhưng chuyện nào cũng là mộng ảo hết, cũng là huyễn ảo hết. Cũng như quý vị đang ngồi với tôi đây có hay không.  Quý vị thấy quá thực tế là có.  Có là sai. "Như vậy không có hả Sư?" Không có là trật. Vậy chứ ai ngồi đây? Ai nói chuyện với quý vị đây? Nếu có thì quý vị chết nằm đây có còn không? Mất hết. Cái giấc chiêm bao trong giấc chiêm bao vẫn có vẫn thật. 17:04 Đùng một cái ai kêu thức dậy rồi thì chiêm bao đi đâu? Hồi nãy đang ngồi đang nói chuyện với Sư rõ ràng đây mà. Bây giờ tỉnh thức, thì những hình ảnh mình đang nói chuyện nghe thuyết pháp thì nó ở đâu? Thành ra chúng ta thấy khó mà nói được.
 
Thành ra vấn đề ngày 21 tháng 11 tận thế đó nói có là sai mà nói không là trật. Tôi thường nói có thể có trước, có thể đúng ngày, có thể sau đó, và có thể không xảy ra. Tại sao vậy? Tại vì nó đủ duyên thì nó hợp, chưa đủ duyên thì nó chưa hiện ra thôi.
 
Tất cả những giấc chiêm bao, tận thế, 21 tháng 11 từ nay còn dài dài, không phải hết đâu. Tư tưởng chúng sanh mà. Hết cái này đến cái khác. Nóii năm 2000 tận thế cũng đâu có tận thế. Nói không tận thế coi chừng lầm. Mà nói tận thế là sai. Do mọi người cố gắng cải sửa, 6 tỷ người sợ chết 18:19 bắt đầu cầu vái thì nó phải chuyển nghiệp. Cây bình bát, gieo trái bình bát, nhưng đa số không muốn. Được không? Được như thường. Mình phải thông minh, hợp tác nhau chặt nhau tháp nhau cây mãng cầu. Biết cách chặt, biết cách tháp không? Không khéo, cây mãng cầu chết luôn.
 
Chúng ta nên nhớ cuộc sống của chúng ta là như vậy. Nó phức tạp. Nếu không tìm hiểu, chúng ta không thể thoát khỏi giấc chiêm bao này. 18:54
 
Thoát giấc chiêm bao không có nghĩa là không chiêm bao nữa. Chúng ta còn lầm cái đó đó. Cuộc đời giả dối này. Mà cuộc đời có giả dối hay không? Nói cuộc đời giả dối là sai, nói cuộc đời không giả dối là trật. Quan try của đạo Phật là chỗ đó, mà ngoại đạo không nắm được, 62 tôn giáo không nắm được. Nó lẩn quẩn hoài. Chiêm bao là giấc mộng không thật. 19:30. Mình chạy trốn nó, kiếm giấc mộng khác thì cũng lẩn quẩn thôi.
 
Làm sao để ở trong mộng mà đừng dính mắc. Tôi đang chiêm bao, tôi biết đang chiêm bao, tôi cứ để chiêm bao diễn biến. Tôi đừng dính mắc chiêm bao được không? Nếu tôi thấy rõ vấn đề, tôi đâu có dính mắc? Thành ra một vị thánh nhân sống trong cuộc sống này không có vấn đề.
 
Tôi thường ví dụ quý vị đi khi trời nhá nhem tối, thấy một khối lù lù nằm trên mặt đất. Thấy mờ mờ, quý vị bắt đầu nghi: Vấn đề có từ đây. Không biết nó là con rắn, thây người nằm chết, hay là loài thú dữ. Đặt vấn đề, nghi mà.   Thấy mờ mờ, đạo Phật kêu là Vô Minh. Minh là sáng, vô là không. Không sáng là mờ mờ.
 
Mờ mờ vô minh là bắt đầu có vấn đề. Ngay đó, cái sai lầm là ở đó. Khi có vấn đề là phải giải quyết vấn đề. 21:00 Làm sao cho mình đừng có chết. Đi tìm dây, tìm đèn, la lên.  Đủ mà coi cái khúc mờ mờ đó là cái gì. Đi tìm đó là tìm tất cả pháp môn mà chúng ta giải quyết vấn đề. Càng đặt nhiều pháp môn, càng đặt nhiều vấn đề thì lại sanh sự có giải quyết vấn đề được không? 21:30
 
Pháp môn là cách giả dối để thay thế vấn đề. Ông này nói là khúc cây đó, ông kia nói đó là con rắn, ông khác nói đó là thây ma. Pháp môn nào cũng nói mình đúng. Nhưng pháp môn nào cũng mờ mờ. Mình đã mờ mờ thì pháp môn nào cũng như pháp môn nào thôi. Cũng là vô minh chứ đâu có pháp môn nào sáng?
 
Thiền tông nói tôi đệ nhất. Tịnh Độ nói cao thượng nhất, về với Phật A di Đà. Rồi Minh Sát Tuệ, Thiên Chúa, Cao Đài, rồi Tin Lành, đủ thứ. Cái nào cũng tôi là hạng nhất hết. Tôi mới lấy đúng. Mà tôi cũng mờ mờ như nhau thôi. 22;20
 
Thế giới chiến tranh bây giờ cũng vậy. Đánh từ bây giờ là tranh đấu về ý thức hệ. Ý thức là gì? Là tư tưởng.
Nguyên nhân của đau khổ chính là tưởng. Ở đời cũng tranh nhau về tư tưởng. Có chế độ quân chủ chế độ chuyên chế, chế độ tự do, chế độ Cộng Sản, đủ chế độ hết.
Chế độ nào cũng hạng nhất.
 
Pháp môn tu cũng vậy. Tịnh độ, Thiền tông, Mình sát Tuệ, Thiên Chúa, Cao Đài, Tin Lành, tôi hạng nhất. Rồi tranh cãi nhau. Lúc đầu, tranh cãi bằng miệng. Rồi tranh cãi bằng cây, bằng tầm vông, bằng súng.
 
Vấn đề có sáng tỏ không? Mấy chục ngàn năm vani y nguyên, đâu có giải quyết. Hết chiến tranh rồi, ngưng một thời gian, chiến tranh lại, mà rồi vấn đề vẫn chưa sáng tỏ. Từ nay tới Phật Di Lặc, vấn đề vẫn không sáng tỏ được. Tới Phật Di Lặc mới sáng tỏ được. Cũng như tới Phật Thích Ca, mới sáng tỏ. 23:37 Sáng tỏ được một thời gian lại tối nữa vì với con người, vấn đề là quen rồi, kêu là Tập Đế, Tập Khí. Nguyên nhân của Tập Để, luân hồi chính là tư tưởng.
 
Làm sao giải quyết tư tưởng? Muốn giải quyết tư tưởng phải tìm một tư tưởng cao hơn. 24:00 Tư tưởng cao hơn vẫn là tư tưởng. Tranh nhau nói tôi cao, thì ông kia nói tôi cao hơn nữa. Tôi tìm những suy nghĩ cao siêu hơn.
 
Thành ra Thái tử Sĩ Đạt Ta sau khi ngộ rồi mới tức cười. Ngài mới tính không đi giáo hóa. Dứt bỏ vấn đề là  chúng sanh không chịu. Mà dứt bỏ vấn đề tức là thay thế vấn đề khác nữa. Theo thời gian thấy vấn đề này trở nên thấp nên muốn tìm vấn đề mới cao hơn nữa. Mà chúng ta không tìm hiểu từ đâu mà có vấn đề. Cái này là Thái tử Sĩ Đạt Ta tìm thấy thôi. Tại sao mình chấp nhận vấn đề rồi cố gắng giải quyết? Sao mình ngu si quá vậy?
 
Vấn đề là nguyên nhân sinh ra luân hồi đau khổ. Tại sao không tìm nguồn gốc của nó?  25:11
 
Thái tử Sĩ Đạt Ta mới thấy rõ đó 6 căn tiếp xúc với 6 trần mới phát hiện cảm giác. Rồi bây giờ mới giải thích cảm giác. Đó giải thích này mới có vấn đề. Giải thích là tư tưởng. Tôi nói tôi còn giảng sâu hơn nữa, nhưng mà chưa đâu. Vấn đề đầu tiên là căn tiếp xúc với trần. Căn là sinh lý: mắt tai mũi lưỡi thân và óc. Coi trở lại còn người của quý vị . Căn tiếp xúc với trần là sắc thinh hương vị xúc pháp.
 
Con mắt tiếp xúc với sự vật, đó là sắc cảnh: cái micro, nón nhà cửa giày dép v.v. Nghĩa là tất cả những cái gì 26:14 chưa có sự sống, chưa có cái biết. Quý vị phải học thuộc lòng. Nếu không, quý vị sẽ đau khổ dài dài.
 
Thành ra cái trần có rất nhiều. Sắc thính. Thinh có rất nhiều: tiếng trống, tiếng chó sủa, tiếng mèo kêu, tiếng người ta nói, tiếng đủ thứ hết đều  là vật lý  26:49.  Mùi thơm, mùi thối, đủ thứ mùi hết, đều là vật lý, đều là địa ngục, đều là trần. Mình phải nghiền ngẫm, phải thấy trong đó, chứ mình nghe người ta nói đó là vật lý, mình không biết đó là cái gì. Mình nghe nói cây cỏ, âm thanh, mùi vị là vật lý, mình không biết là bí luôn.
 
Phải nghiên ngẫm cho thấy. Vật lý có rất nhiều. Tất cả những cái gì không có sự sống không có cái biết. Mà sự sống là cái gì, sự biết là cái gì ? Bởi vậy phải học. Nó khó lắm.
 
--ooOoo--
Reply
Sư Khang thuyết giảng tiến trình 5 uẩn qua 2 cảnh giới Thiện-Ác và cảnh giới quả 4 Thánh...




Sư đã viên tịch vào ngày 30/3/2013.
Reply
DIỆT TRỪ TẬP KHÍ

THÁNG BA 9, 2011 TRẦN ĐÌNH HOÀNH 2 PHẢN HỒI
Chào các bạn,

[Image: sweeping-wooden-floor.jpg?w=300&h=200]

Tập khí là thuật ngữ của Phật giáo. Tiếng Phạn Pali là Vàsana. Tạm dịch là “các thói quen xấu”. Mình thường dùng từ “phản xạ” để diễn tả các thói quen xấu, vậy thì tập khí cũng có ý nghĩ gần như là phản xạ. Ví dụ: Ai nói đụng chạm thì nổi giận ngay dù không nói ra, và chẳng ăn uống gì được ít ra là một ngày. Ai nói hơi chạm đến Phật giáo của ta thì trù ếm thầm là người đó đọa địa ngục. Làm việc công là nghĩ đến chuyện mình sẽ được nổi tiếng. Các thói quen này đã nằm trong ta lâu ngày, có cơ hội là trỗi dậy hành động ngay lập tức, automatic, phản xạ, không cần suy nghĩ và không đợi suy nghĩ– đó là tập khí.

Chúng ta đã nói trước đây trong bài Giải thoát khỏi ngục tù, con người chúng ta chỉ là các thói quen tập hợp lại. Nếu phải phân loại mỗi người chúng ta là xấu hay tốt, hay hoặc dở, có lẽ ta chỉ cần xem đa số các thói quen của ta thuộc loại nào.

Thói quen có thể thành hình vài ba năm trước đây, như hút thuốc, chửi thề, hoặc có thể bắt đầu từ lúc mới sinh ra (như ăn không vừa ý thì vất đồ ăn, đòi mẹ cho món khác). Và theo Phật gia thì nhiều thói quen bắt đầu từ nhiều kiếp sống trước, đi theo cho đến kiếp này. Dù tin là có nhiều kiếp sống hay không, ta vẫn phải đồng ý là ta có nhiều thói quen quá khó bỏ, cứ y như là đã có từ triệu triệu kiếp trước. “Triệu triệu kiếp trước” là cách rất hay để diễn tả các thói quen cực kỳ ngu xuẩn của ta mà ta biết là ngu xuẩn nhưng không bỏ được.

Tất cả mọi thứ chúng ta gọi là luyện tập và tu luyện trong cách sống, dù ta gọi chúng là gì—thiền, cầu nguyện, tĩnh tâm, quán chiếu—rốt cuộc cũng chỉ để giúp ta chiến thắng các thói quen xấu và thay vào đó bằng thói quen tốt—thay nói dối bằng nói thật, thay ghen ghét bằng yêu thương, thay kiêu căng bằng khiêm tốn…

Thay đổi cách sống như thế chẳng dễ một tí nào. Thay đổi thói quen hành động, như thay nói dối bằng nói thật hay thay cử chỉ kiêu căng thành cử chỉ khiêm tốn, đã là khó rồi, nhưng thay đổi thói quen tư duy lại còn khó hơn một trời một vực. Ví dụ:

Ta thường tư duy kiểu “Khi hai người bất đồng ‎ý nhau, thì phải có một người đúng và một người sai”. Bây giờ thay đổi tư duy thành “Khi hai người bất đồng ‎ý nhau, thường là cả hai người đều đúng trong cái nhìn của họ.”

Thay tư duy “Thế giới có người thiện người ác (và đương nhiên tôi nằm trong nhóm người thiện)” bằng tư duy “Mọi người đều có tính thiện, nhưng vì yếu đuối mà hay làm lỗi”.

Thay tư duy “Những tên côn đồ này thì nên cho chết dù chúng nói gì” bằng “Đồ tể buông đao thành Phật, hắn đã nói là ăn năn thì hãy cho hắn một thời gian xem sao”.


Thay tư duy “Thế giới là tranh đấu, mạnh được yếu thua” bằng tư duy “Thế giới là một đại gia đình, đôi khi anh em đánh nhau vì ngu dốt, nhưng anh em có thể học thương nhau và hỗ trợ nhau”.


Các bạn, thay đổi một vài hành động bên ngoài thì dễ, thay đổi tư duy là cực kỳ khó. Và vì tư duy chỉ huy hành động, cho nên rất nhiều hành động không thay đổi được vì ta không thể thay đổi tư duy chi huy hành động đó.


Vì thế mà ta có tu, thiền, tĩnh tâm, cầu nguyện, quan chiếu… để luyện tâm tĩnh lặng và mạnh mẽ, không chạy theo các phản xạ xung động, nhưng tư duy và hành động ngược lại phản xạ, theo cung cách tĩnh lặng, thành thật, và nhân ái.


Rất nhiều người đọc sách Thiền, sách Phật, sách tôn giáo, chỉ như là đọc thêm kiến thức kiểu đọc sách địa lý. Các bạn, chính mình biết một số người nói các chuyện tu luyện rất hay, có người còn viết cả sách, nhưng khi họ hành động thì lại chẳng giống lời họ nói và sách họ viết chút nào. Thuần túy dối trá và đạo đức giả. Sống thế thì được gì? Rất tiếc là nhiều người vẫn nghĩ rằng các vấn đề đạo đức là loại có thể đọc, l‎ý luận và viết sách, chứ không cần thực hành!


Diệt trừ các tập khí của mình, và tu luyện cách hành động và tư duy tốt, chính là nhặt sạch rác rến ra khỏi trí não và thêm vào não tế bào chất xám. Đây là việc quan trọng cho đời sống của chúng ta như học đọc và học viết–không thể đi qua đời sống này mà không biết đọc biết viết.


Và diệt trừ tập khí là việc vô cùng khó. Phải là việc mỗi ngày. Không thể chỉ trong một vài ngày mà xóa bỏ được các thói xấu đã mấy chục năm, hay đã nhiều kiếp sống. Diệt trừ tập khí phải là loại việc “có công mài sắt có ngày nên kim”. Mài cục sắt thành cây kim đòi hỏi công phu hàng ngày, rất nhiều năm.


Cho nên, các bạn, chúng ta hãy siêng năng và kiên trì luyện tập. Một trí óc trí tuệ không thể có nhiều rác trong đó—rác đầy não thì trí tuệ không thể vào, muốn trí tuệ vào thì phải dọn rác ra.


Chúc các bạn một ngày kiên trì dọn rác.


Mến,
Hoành


https://dotchuoinon.com/2011/03/09/di%E1...A%ADp-khi/
Reply