VietBest

Full Version: Krishnamurti Vấn Đáp: Bàn về Giáo dục ○ 20
You're currently viewing a stripped down version of our content. View the full version with proper formatting.
Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
 Những câu vấn đáp sau đây được trích từ quyển Ý NGHĨA về SỰ CHẾT, ĐAU KHỔ và THỜI GIAN của Jiddu Krishnamurti do Nguyễn Minh Tâm và Đào Hữu Nghĩa dịch.


Hỏi (H): Tôi không hiểu tại sao ngài nói rằng tiền bạc không phải là một vấn đề?

Krishnamurti (K): Tiền bạc là một vấn đề cho nhiều người lắm. Tôi không hề bảo tiền bạc không phải là một vấn đề. Tôi nói vấn đề là một điều mà ta không hiểu được trọn vẹn, dù về tiền bạc, về tính dục, về Thượng đế, về những mối tương giao của ngài với vợ, với một người thù ghét ngài – bất luận về sự việc gì. Nếu tôi mắc bệnh, hay tôi thiếu hụt tiền bạc, thì điều ấy trở thành một vấn đề tâm lý rồi. Có khi những tham muốn tính dục cũng trở thành vấn đề nữa. Đây chúng ta đang xét coi các vấn đề tâm lý xuất hiện thế nào, chứ không xét coi phải xử sự thế nào với mỗi trường hợp đặc biệt. Ngài hiểu đấy chứ? Tuy thế, quả thực là giản dị!

Ngài biết chăng, ở Đông phương có những kẻ lìa bỏ thế gian rồi lê chân từ làng này sang làngkhác với một cái bát ăn xin. Những người gọi là giai cấp Bà Là Môn ở Ấn Độ từ bao thế kỷ nay đã lập thành cái phong tục là người nào lìa bỏ thế gian phải được tôn kính, được cho ăn cho mặc. Đối với người ấy, dĩ nhiên tiền bạc không thành là vấn đề rồi. Nhưng đây tôi không bào chữa gì cho cái phong tục ấy đâu! Tôi chỉ muốn dẫn giải rằng phần đông chúng ta vốn có vô số những vấn đề có tính cách tâm lý. Không phải ngài có những vấn đề tâm lý như vậy, chẳng những về tiền bạc, mà cả về việc tình dục hay về Thượng đế, hay về những mối tương giao của ngài với người khác? Chẳng phải ngài không bận tâm lo lắng muốn biết coi ngài có được người này kẻ nọ thương yêu hay không sao? Thí dụ như tôi có ít tiền quá và tôi muốn có nhiều thêm, thì việc ấy trở thành một vấn đề. Tôi lấy đó làm lo phiền và trong tâm tôi dấy sinh xao xuyến, hoặc tôi hoá ra đố kỵ ganh ghét vì ngài có nhiều tiền hơn tôi chẳng hạn. Những điều đó bóp méo nhận thức của ta đi và đó là điều chúng ta đang nói đến. Chúng ta đang tìm xem những khổ tâm đó xuất hiện như thế nào. Thiết tưởng tôi đã nói điều ấy khá rõ ràng rồi – hay ngài muốn tôi nói thêm cho rõ nữa?

Dĩ nhiên, một vấn đề xuất hiện khi nơi tôi có cuộc mâu thuẫn. Nếu không có mâu thuẫn ở một giai tầng nào hết, tất chẳng có vấn đề gì cả. Nếu tôi không có tiền, tôi sẽ làm việc, tôi sẽ đi ăn xin, tôi sẽ vay mượn – tôi sẽ làm một việc gì đó vậy thôi và điều đó sẽ không là một vấn đề.

H: Nhưng nếu ngài không làm được gì cả thì sao?

K: Ngài muốn nói gì: ngài không thể làm gì được hết ấy ư? Nếu ngài có được một kỹ thuật gì hay một tri thức gì có tính cách chuyên môn, thì ngài trở thành thế này hay thế khác. Nếu ngài không làm gì khác được, thì ngài đi gánh đất vậy, cũng xong.

H: Đến độ tuổi nào đó, một người không thể làm việc gì nữa hết.

K: Thì kẻ ấy có tiền bảo kê bảo hiểm cho tuổi già.

H: Không, người đó không có tiền bảo kê nào cả.

K: Thì hắn chết vậy, và không có vấn đề gì nữa. Nhưng vấn đề này không phải là vấn đề của chính bà, thưa bà?

H: Đó không phải là vấn đề của chính tôi.

K: Vậy thì bà nói là nói về một người nào khác, thế thì ta lạc đề rồi. Ở đây, chúng ta nói về chính bà, với tư cách là một con người có những vấn đề, chứ không nói về một người thân thuộc hay một thân hữu nào khác.

H: Người đó không còn ai ngoài tôi để lo cho người. Có thế nào tôi đến nghe ngài và lại cho người ấy khổ sở?

K: Thì bà đừng đến vậy.

H: Nhưng tôi lại muốn đến.

K: Thế thì bà chớ lấy đó làm thành một vấn đề.
H: Có phải ngài bảo rằng tâm thức vốn có thể vượt lên trên một hoàn cảnh rắc rối hay bực dọc, như việc thiếu tiền bạc đây chẳng hạn?

K: Không phải thế. Ngài thấy chăng, ngài đã trả lời trước tôi bằng cách lo tìm giải quyết một vấn đề. Ngài muốn biết coi ngài nên xử sự thế nào với vấn đề, mà tôi thì chưa nói tới việc đó. Tôi chỉ mới đặt vấn đề ra đấy mà thôi, chứ chưa nói đến cách giải quyết nó. Khi ngài nói rằng tâm thức phải vượt lên trên vấn đề hay khi ngài hỏi người bà con hoặc người bạn tuổi già và không có tiền bạc kia phải làm sao, thì ngài có nhận thấy ngài đang làm gì đấy chăng? Ngài chỉ trốn tránh sự kiện hiện thực… Xin đợi cho một phút! Ngài hãy nghe tôi chút đã. Đừng chấp nhận, cũng đừng gạt bỏ điều tôi nói, ngài hãy chỉ nghe thôi. Ngài không chịu nhìn nhận sự kiện hiện thực rằng vấn đề ấy là vấn đề của chính ngài, chứ chẳng phải vấn đề của một người nào khác. Nếu ngài quyết giải quyết nó xong như một con người, ắt ngài sẽ giúp hay không giúp được người kia, tùy trường hợp, cho họ giải quyết vấn đề của họ. Nhưng hễ ngài xen vào các vấn đề khác và tự hỏi mình: "Tôi phải làm gì đây?", thế là ngài tự đặt mình vào một hoàn cảnh vô phương giải đáp, và như vậy, việc ấy dĩ nhiên thành là một mâu thuẫn… Không biết ngài có hiểu tôi rõ hay không.

H: Tôi dốt nát do vì một bệnh tật phát sinh lúc tôi còn bé, và điều này đã là một vấn đề lớn lao cho tôi trong suốt đời tôi. Làm sao tôi giải quyết nó đây?

K: Cả thảy các ngài đều quá đỗi lo toan tìm cho được những giải pháp, có phải thế không? Nhưng tôi lại không như vậy. Tôi rất tiếc. Ngay ở buổi đầu của những cuộc đàm đạo này, tôi đã nói rằng tôi không để tâm lo giải quyết những vấn đề gì của các ngài, cả của tôi nữa. Tôi không phải là người trợ giúp cho các ngài. Chính ngài là thầy của mình, là giới luật của mình. Các ngài đến đây để tìm học chứ không phải đến để nhờ ai chỉ cho các ngài phải làm thế này và đừng làm thế khác. Không phải đến đây để biết coi phải xử sự thế nào đối với trường hợp một người liệt bại, hay nghèo túng, hay dốt nát, đại loại như thế, đại loại như vậy. Các ngài đến đây để chính mình tự tìm học những vấn đề mà các ngài đang có, chứ không phải đến đây để được tôi dạy bảo… Vậy xin các ngài đừng đặt tôi sẽ thành là một đức thầy, một đạo sư, và tôi sẽ cộng thêm cái mớ ngu xuẩn trục lợi ấy vốn đã có trong thế gian này rồi. Vậy các ngài và tôi, chúng ta đến đây để tìm học, không phải để được ai dạy dỗ. Chúng ta tìm học không phải bằng việc nghiên cứu, bằng kinh nghiệm, mà bằng tỉnh thức, bằng cách hoàn toàn nhận thức chính bản thể mình. Thế thì những tương giao giữa chúng ta có khác hẳn với tương giao giữa sư và đệ. Người nói đây không phải đang dạy dỗ gì các ngài, cũng chẳng đang bảo các ngài những gì phải làm – nếu thế thì đúng là quá đỗi khờ dại non nớt.
H: Khi ta không thể nhận thấy được tất cả những gì hàm ngụ trong một vấn đề, thì làm sao ta vào tận gốc rễ và giải quyết nó?

K: Tất cả các ngài đều nôn nóng gấp rút muốn biết phải làm gì đến nỗi các ngài không cho tôi có thời giờ vào sâu đề tài. Xin các ngài hãy nghe trong đôi phút vậy. Đây tôi không bảo cho các ngài phải làm những gì về các vấn đề của các ngài, tôi đang dẫn giải phải tìm học cách nào, tìm học là gì, và rồi các ngài sẽ tìm thấy ra rằng khi nào có thể thâm nhập được vào việc học như vậy thì vấn đề tự chấm dứt. Nhưng nếu các ngài cứ đòi kẻ khác đưa cho các ngài một giải pháp, thì các ngài hoá ra như đứa trẻ vô trách nhiệm để cho người điều khiển, để rồi các ngài sẽ gặp xiết bao nỗi khó khăn thêm lên. Nói thế quá rõ ràng và giản dị rồi, vậy xin các ngài một lần này thôi, các ngài hãy ghi lấy cho minh bạch trong tâm trí. Chúng ta đến đây để mà tìm học, không phải để được phó thác cho ký ức những gì ta đã được nghe; nhưng với những lối nhái đi lặp lại ấy, ký ức không xuất khởi được sự giải trừ các vấn đề. Chỉ có sự trưởng thành may chăng là sự vận hành của việc tìm học đây thôi. Dùng cái sở tri, dùng sự ghi chép vào ký ức, để giải quyết những vấn đề của con người, xuất phát từ sự thiếu trưởng thành và chỉ khiến gia tăng thêm nhiều những vấn đề bằng cách tạo tác thêm những sự qui thuận công thức ước lệ mới khác.

Muốn giải quyết một vấn đề, đó chỉ là muốn lo trốn tránh nó thôi, có phải thế không? Tôi không thâm nhập nó, tôi không xem xét nó, không thăm dò thám hiểm nó, không hiểu được nó, tôi không nhận biết cái đẹp của nó hay cái xấu của nó, hay chỗ thâm sâu gì của nó cả. Mối bận bịu lo lắng duy nhất của tôi là giải quyết nó cho kỳ được, là dẹp nó qua một bên cho rồi đi. Cái ý muốn nôn nóng này khiến ta giải quyết một vấn đề nhưng đã không hiểu được nó, đích thị đó là một sự trốn tránh, và dĩ nhiên lại trở thành một vấn đề thêm nữa. Mọi trốn tránh đều kết liễu ra như thế hết.

Thí dụ như tôi có một vấn đề và tôi muốn hiểu được nó cho trọn vẹn. Tôi không muốn trốn tránh nó, tôi không muốn cứ bàn suông nói suông, tôi không cần phải đem ra nói với ai hết. Tôi chỉ muốn một việc độc nhất là hiểu được nó mà thôi. Tôi không cần hỏi ai để cho họ bảo tôi phải làm gì với vấn đề này. Tôi thấy rằng chẳng một ai bảo cho tôi được, và nếu có ai bảo tôi và tôi chấp nhận những lời họ dạy bảo, thì đó là một cách hành động ngu xuẩn và phi lý. Vậy tôi phải tìm học chẳng để ai dạy, và trong khi xem xét trường hợp hiện tiền này tôi cũng không lấy những gì tôi học được ở các vấn đề trước đem chen xen vào đấy. Ồ! Các ngài không nhận thấy cái đẹp trong sự việc ấy sao kìa!

Ngài biết thế nào là sống trong hiện tại không? Không. Tôi e rằng không. Sống trong hiện tại là tuyệt không có mảy may liên tục nào cả. Nhưng chúng ta sẽ nói điều này trong dịp khác.

Đây tôi có một vấn đề mà tôi muốn hiểu nó được tạo thành do những gì. Để tìm học vấn đề này, tôi không thể đem xen tạp vào đó những kỷ niệm của quá khứ để giải quyết nó vì ở đây tôi đứng đối diện trước một sự việc mới lạ, tôi phải xem xét nó một cách tươi nhuận chứ không phải bằng những ký ức chết cứng, ngu xuẩn. Sự việc đây vốn linh hoạt, vậy tôi phải xét nó trong chỗ hiện tiền linh động của nó, và yếu tố thời gian tất phải được gác dẹp đi hoàn toàn.

Tôi muốn biết coi những vấn đề tâm lý xuất hiện thế nào. Như tôi đã nói, tôi muốn hiểu được toàn cơ cấu bản nguyên của nó để do đó tôi thoát ly khỏi sự cấu tạo ấy, để mà tôi biết xử sự cách nào đối với tiền bạc, với vấn đề tính dục, với sự thù ghét, với tất cả những gì có liên hệ trong đời. Làm như thế, ý tôi muốn nói là bằng cách tìm thấy các vấn đề xuất hiện như thế nào chứ không phải bằng cách tìm cách giải quyết chúng, thì tôi sẽ không dấy tạo thêm những vấn đề tâm lý nữa. Ngài hiểu kịp ý tôi chứ? Không một ai bảo cho tôi biết những vấn đề xuất hiện thế nào: chính tôi phải tự hiểu lấy điều ấy.

Trong khi khai phá thâm nhập vào bên trong tâm tư, xin các ngài cũng thâm nhập vào tự tâm các ngài, chứ đừng chỉ nghe những danh từ của tôi. Nếu không nhìn xem ở tự tâm mình, và nếu các ngài không vượt qua lên trên những danh từ, tất những danh từ không trợ giúp chi cho các ngài được; chúng sẽ chỉ là một sự trừu tượng, chứ chẳng phải là một thực tại. Mà thực tại là chính cái cơ vận hành khám phá nội tại, chứ chẳng phải sự dẫn khởi ngôn từ dùng về cơ sở vận hành ấy. Điều này minh bạch chứ?

Theo tôi, như tôi đã nói, tự do là điều tối ư quan trọng. Nhưng nếu không thông minh ắt không hiểu được tự do, và sự thông minh chỉ có thể nảy sinh là khi ta đã hiểu được trọn vẹn nguyên lai, căn cội của các vấn đề. Tâm thức phải nhanh nhẹn, chú ý, tâm thức phải mẫm cảm tột độ, để giải trừ ngay khi vấn đề vừa phát sinh. Bằng chẳng vậy, hẳn không có tự tại đích thực, mà chỉ có cái tự do manh mún bề ngoài, không giá trị gì. Không khác gì như kẻ giàu kia tự cho là mình tự do. Trời đất ơi! Kẻ ấy chỉ là nô lệ cho rượu chè của hắn, cho dục tình của hắn, cho sự tiện nghi của hắn, cho cả tá sự vật. Và kẻ nghèo nói: "Tôi tự do vì tôi không có bạc tiền", thì lại có bao nhiêu vấn đề khác nữa. Vậy tự do, và việc duy trì sự tự do ấy, không thể chỉ là một sự việc trừu tượng được, cả hai tâm thái đều thiết yếu cho mỗi người ở chỗ mình là một con người vì chỉ khi ta tự do, ta mới có thể yêu thương. Làm sao có thể yêu thương gì được nếu ta tham vọng, thèm muốn, ganh đua, tranh chấp?

Xin các ngài chớ nên chấp thuận. Thế là các ngài chỉ giao cho một mình tôi làm hết mọi việc đấy thôi.

Tôi không biết gì với việc giải quyết một vấn đề, cũng không màng đi tìm kiếm ai khả dĩ giúp tôi giải quyết nó. Không một sách vở, một bậc tôn sư, một giáo hội, một linh mục hay một vị cứu thế nào có thể bày vẽ cho tôi cách thức gì để giải quyết vấn đề cả. Chúng ta đã từng chơi cái mửng ấy trong mấy nghìn năm rồi và chúng ta vẫn còn mang nặng đầy những vấn đề. Đi nhà thờ, đến xưng tội, lo cầu nguyện, những thứ ấy không hề giải quyết được các vấn đề gì cả. Các vấn đề sẽ cứ gia tăng, như ta đang nhận thấy hiện giờ. Vậy, hỏi chứ các vấn đề xuất hiện thế nào?

Như tôi đã nói, hễ ở tự tâm không còn mâu thuẫn, thì chẳng còn vấn đề. Mà cuộc mâu thuẫn nội tại tất hàm ý có cuộc xung chướng giữa các ý muốn, có phải thế không? Nhưng một ý muốn, tự nó, vốn chẳng bao giờ mâu thuẫn. Mà chính những món vật – đối tượng – của ý muốn mới dấy sinh mâu thuẫn với nhau. Do vì tôi họa được mấy bức tranh hay do vì tôi viết vài cuốn sách, hoặc do vì chút việc tầm phào nào tôi làm được, tôi phát sinh ý muốn được danh vọng, tiếng tăm. Rồi hễ không ai biết danh tôi, là tôi lâm vào trạng huống mâu thuẫn và lấy đó làm điều khổ sở. Tôi sợ sự chết chẳng hạn – cái chết mà tôi không hiểu nổi – rồi trong cái tôi gọi là tình thương lại phát sinh mâu thuẫn. Thế là tôi nhận thấy rằng thật ra các ý muốn là căn cội của những mâu thuẫn, nhưng không phải chúng, mà chính những đối tượng của chúng mới có tính cách mâu thuẫn. Nếu tôi cố gắng thay đổi hay gạt bỏ những đối tượng của các ý muốn của tôi bằng cách bám vào một đối tượng nào trong đó và loại trừ tất cả mọi đối tượng khác. Giải quyết như vậy lại trở thành một vấn đề nữa, vì tôi phải chống kháng, xây dựng lên bức tường ngăn cách đối lại mọi sự khác. Thế thì tôi không nên lo thay đổi hay giảm bớt những đối tượng của các ý muốn, mà phải nhận hiểu chính những ý muốn ấy.

Các ngài có thể tự hỏi rằng các ý muốn có những tương quan gì với các vấn đề tâm lý. Chúng ta vừa thấy rằng không phải chính những ý muốn, mà là những đối tượng của các ý muốn, hay những mục tiêu tương khắc của chúng đã dấy sinh ra những mâu thuẫn cùng những xung chướng nội tại, và có ra công cố gắng để chỉ muốn duy một điều thôi thì quả là vô ích. Ông linh mục kia có thể nghĩ rằng ông ta chỉ mong chứng đạt Thượng đế mà thôi, nhưng ông lại cưu mang vô số những thèm khát mà ông không ý thức. Vậy ta cần phải hiểu bản chất của các ý muốn chứ chẳng nên chỉ ưng lo kiểm soát hay phủ nhận chúng. Hết thảy các kinh điển tôn giáo đều bảo phải tận diệt chúng, đều bảo không nên có những ý muốn, điều ấy thực là ngô nghê. Ta phải hiểu các ý muốn xuất hiện ra sao và cái gì làm cho chúng được liên tục, chứ không phải tìm cách chấm dứt chúng. Thật sự nhận thấy các ý muốn xuất hiện ra sao, thì rõ là khá giản dị: trước tiên có nhận thức, tiếp xúc, cảm giác – dù không tiếp xúc cũng vẫn có cảm giác – rồi từ đó bắt đầu nẩy sinh ra ý muốn. Chẳng hạn tôi thấy một chiếc xe hơi: đường nét của chiếc xe, hình thể của nó, vẻ đẹp của nó lôi kéo hấp dẫn tôi, và tôi muốn được chiếc xe ấy. Tuy nhiên, huỷ diệt các ý muốn, tức là không còn ý thức cảm nhận được gì nữa cả. Chứ hễ tôi vừa ý thức cảm nhận thì tôi đã kẹt vào vòng tiến trình của ý muốn rồi. Tôi thấy một vật gì đẹp, một người đàn bà đẹp, hay những sự thể gì khác đại loại như thế, thì các ý muốn liền phát sinh; hoặc tôi thấy một người hết sức thông minh và chân chính, tôi muốn giống được như người ấy. Do nhận thức nảy sinh có cảm giác, và do cảm giác nảy sinh thành ý muốn. Sự kiện này này không có gì là rắc rối cả. Sự phức tạp bắt đầu là khi có tư tưởng xen vào: tôi tưởng nghĩ đến chiếc xe kia, đến người đàn bà nọ hay đến người mà tôi muốn mình được giống như thế, và do cái tưởng niệm này, ý muốn liền được liên tục vậy. Bằng không thì không có liên tục gì cả: tôi có thể nhìn chiếc xe hơi mà không muốn nó. Ngài hiểu điều tôi nói chứ? Nhưng hễ tôi vừa lưu tâm tưởng nghĩ chút gì đến chiếc xe ấy, là ý muốn liền được liên tục và sự mâu thuẫn liền dấy khởi lên.

H: Có ý muốn không đối tượng chăng?

K: Điều đó không có được; không có ý muốn trừu tượng.

H: Vậy thì ý muốn luôn luôn dính liền với một đối tượng chứ? Nhưng ban nãy ngài bảo rằng chúng ta cần phải tỏ hiểu cơ vi của chính ý muốn chứ đừng xem xét đối tượng của nó.

K: Thưa ngài, tôi đã trình bày ý muốn xuất hiện thế nào, và bày rõ là do tưởng niệm mà khiến cho ý muốn được liên tục. Nhưng chúng ta phải tạm ngừng ở đây đi. Chúng ta sẽ tiếp tục trong những lần nói chuyện tới.
SỰ THÔNG CẢM

Hỏi: Không có thông cảm được vì tâm thức đeo mang gánh nặng của tự ngã.

Krishnamurti: Thưa ngài, tôi hỏi ngài một câu: thông cảm là gì? Khi tôi hỏi ngài câu ấy, cái gì phát hiện trong tâm thức ngài? Toàn bộ tâm thức qui định của ngài liền vận dụng và ngài mới trả lời; nhưng thật sự ngài đã không nghe câu hỏi. Từ trước ngài từng đã có hay không có nghĩ về điều ấy. Có lẽ ngài có dịp nào nghĩ đến, hay đã đọc ít nhiều về điều ấy trong sách vở và nay ngài lặp lại những gì ngài đã đọc, nhưng ngài không thật sự nghe câu tôi hỏi. Khi có ai bảo ngài: "Hãy thử thông cảm với một cội cây", thì dĩ nhiên là nếu việc ấy có phần nào hứng thú cho ngài, trước tiên ngài phải hiểu rõ điều ấy nó như thế nào trước đã: ngài đến ngồi dưới một tàng cây, hay bên bờ sông hoặc cạnh trái núi hoặc ngài chỉ nhìn vợ hay con. Thông cảm nghĩa là gì? Nghĩa là tuyệt đối không có sự ngăn cách chướng ngại của tư niệm giữa người năng quán với đối tượng sở quán. Người năng quán tất không tự đồng hoá với cội cây, với con người, với dòng sông, với trái núi, với trời mây gì cả; tuyệt chẳng có ngăn ngại gì hết. Nếu có một tự ngã, với sự phức tạp của những tư niệm và của những mớ bận tâm của nó khi nó nhìn cội cây, thì chẳng có thông cảm gì được cả. Thông cảm với một người nào hay với một vật gì, tất phải có khoảng cách, phải có sự im lặng, thân thể, những thần kinh, trí và tâm, toàn bản thể, phải được tịnh định, phải như như bất động hoàn toàn. Ngài đừng hỏi: "Làm sao bất động?". Ngài chớ nên làm sự im lặng hễ cơ vận một vấn đề. Cứ nhận thấy rằng hễ cơ vận của tư niệm hay tác động thì tất nhiên không có cảm thông gì hết… nhưng thế không có nghĩa là phải ngủ gật hôn trầm!

Chắc ngài chưa từng làm thế bao giờ. Ngài không hề có thông cảm gì với vợ, với chồng, với con cái, với những kẻ mà ngài ngủ, thở, ăn, sống cuộc đời mình cùng chung với họ, có lẽ ngài cũng chưa bao giờ thông cảm với chính mình. Nếu là người Công giáo, ngài đi nhà thờ và tiếp nhận cái mà người ta gọi là Thánh Thể, nhưng có phải là cảm thông thánh thể đâu. Tuân hành như vậy quả là thiếu sự trưởng thành lắm vậy!

Khi nói thông cảm với thiên nhiên, với núi non, hay thông cảm lẫn nhau giữa người với người, thì phần đông chúng ta đều không biết đó là gì, liền cố tưởng tượng. Ta suy luận về điều ấy rồi bảo: "Chính cái tự ngã đã ngăn ngại sự thông cảm". Xin ngài đừng lấy đó làm một vấn đề khác nữa. Ngài đã có nhiều vấn đề quá rồi. Xin ngài hãy lắng nghe thôi. Đây, ngài đang thông cảm với tôi và tôi thông cảm với ngài. Tôi đang nói chuyện với ngài, và muốn nhận hiểu tôi, ngài cứ lắng nghe thôi. Nghe là chú ý mà không cố gắng, trong đó các thần kinh đều được an nghỉ ung dung. Khỏi cần phải tự nhủ: "Tôi phải lắng nghe đây", rồi cứ mà cứng đơ co quắp và làm căng thẳng những dây thần kinh của mình. Nghe nói có nghĩa là lắng nghe thoải mái ung dung, lặng lẽ, khả dĩ đón nhận những điều mà người nói đang muốn tỏ bày. Điều mà người ấy nói có thể là một điều hoàn toàn ngu xuẩn, hay có thể là một thực tại, và muốn biết rõ, tất phải lắng nghe – nhưng việc lắng nghe dường như là việc rất khó khăn cho ngài. Ngài không lắng nghe đâu, tận nơi tâm trí ngài, ngài đang cãi lẽ với tôi, tạo dấy lên một hàng rào toàn rặt những tiếng những lời.

Chỗ quan trọng ở đây là tự thông cảm với chính mình một cách dịu hoà và tự tại, để có thể theo dõi mỗi cử động của những tư niệm cùng những tình cảm của mình, y như theo dõi ngọn suối cỏn con vậy: nhận thấy mỗi sự vận hành của tư niệm, mỗi sự chuyển biến của tình cảm, tịnh không màng sửa đổi gì trong đó, tịnh không bảo rằng nó phải hay quấy, tịnh không có những phê phán trưởng giả, ngớ ngẩn, ti tiện nào cả. Cứ quan sát thôi, và do sự quan sát ấy, khi mà ta không tự đồng hoá với một tư niệm nào cả, với một tình cảm nào cả (dù vui thích hay buồn phiền) thì ta mới thấy rằng ta vốn có thể thông cảm với chính mình vậy.

Phần đông chúng ta muốn được an ninh tâm lý, gắng sức tìm sự an ninh ấy, bởi thế mà gia đình trở thành ác mộng, vì ta lợi dụng gia đình một cách kinh tởm để an định cho kỳ được sự an ninh bản thân. Kế đó lấy quốc gia làm chỗ an ninh cho ta, và ta liền dấn thân lao đầu vào những việc ái quốc xuẩn động. Trong thể chế gia đình, hẳn chẳng có gì là ác hại cả, chỉ khi ta lợi dụng gia đình làm chỗ an ninh, tâm lý cho ta, thì gia đình mới thành cái thuốc độc giết người.

Muốn sợ điều ấy ta phải thông cảm với lòng tham cầu muốn được an toàn an ninh, cái lòng sở cầu ăn sâu bén rễ quá đậm trong lòng ta rồi. Nó trở đi trở lại mãi dưới xiết bao hình thức: chẳng những trong gia đình thôi, mà cả trong những kỷ niệm và trong sự áp chế hay ảnh hưởng tương sinh trong các cuộc tương giao giữa người với người. Ta nhớ lại những sự việc nào trong các cuộc tương giao ấy khả dĩ làm ta vui thích, sự việc nào đã làm cho ta ít nhiều hy vọng hay ít nhiều bảo đảm gì đó, và ta ẩn náu trong các kỷ niệm ấy. Còn có sự an ninh của việc lanh lợi tháo vát của sở học kiến thức, lại có sự an ninh qua tài năng: ta biết vẽ, ta biết chơi đàn, hoặc ta có một khả năng nào khác.

Khi ta thông cảm với lòng ham muốn xui khiến tìm cầu sự an ninh, và khi ta nhận thấy chính lòng ham muốn kia đã dấy sinh những sự mâu thuẫn ở nội tâm, vì tuyệt nhiên chẳng có gì trên đời này, kể cả chính bản thân ta đây nữa, chẳng có gì là an toàn, an ninh cả, vừa khi mình nhận thấy ra điều ấy (chẳng phải nhờ ai chỉ bảo cho) và khi mình đã giải quyết trọn vẹn vấn đề rồi, thì mình đã thoát ngay vòng mâu thuẫn, và do đó mà thoát cả sự sợ hãi.

Nói thế đã đủ cho hôm nay chứ …? Không biết có bao giờ các ngài từng được lặng lẽ nơi tự tâm chăng. Khi bước trên đường phố thì tâm thức được hoàn toàn tịch lặng, ta quan sát, ta lắng nghe, mà không tư niệm gì cả. Khi ta cầm lái xe, ta nhìn con đường, nhìn những cây cối, nhìn các xe đang qua qua lại lại, đó là quán sát mà không nhận biết, mà không có sự vận dụng tác động của tư nhiệm. Tư niệm cần vận hành tác động thì nó càng tiêu mòn tâm thức, nó không chừa chỗ cho tính hồn nhiên ngây thơ và chỉ có tâm thức hồn nhiên mới có thể nhận thấy được thực tại.

Hỏi:
Tôi có thể nhận thấy rằng tư tưởng giam hãm tôi vào chỗ cô lập, vì nó ngăn ngại tôi không để thông cảm được với những gì quanh tôi và nó cũng ngăn ngại tôi không cho đến tận căn cội của tự tâm. Nay tôi xin hỏi ngài: Tại sao con người tư tưởng? Tác dụng của thoả thuận con người như thế nào? Và tại sao chúng ta lại quá đỗi xem trọng tư tưởng như thế?


Krishnamurti: Tôi tưởng như tôi đã thông qua hết những điều ấy rồi, nhưng không sao, đây tôi xin dẫn giải. Mà nghe dẫn giải không phải là nhận thấy sự kiện, và ta không thể thông cảm nhau bằng cuộc dẫn giải nếu ta không nhận thấy sự kiện và nếu ta không để sự kiện được y nguyên như thế, đừng đả động tới nó. Sở dĩ ngài không xen vào sự kiện là vì ngài thông cảm với nó, nhưng nếu ngài diễn dịch nó một đằng và tôi diễn dịch nó một ngả thì ta vẫn không thông cảm với nó mà cũng không còn thông cảm với nhau nữa.

Tư tưởng vốn khu biệt tước mất cái dụng cụ duy nhất để ta thông cảm – là tình thương – vậy tư tưởng xuất sinh thế nào? Và làm thế nào nó chấm dứt được? Tư tưởng – tức tất cả sự vận hành của nó – phải được lãnh hội, và chính sự lãnh hội này là sự vong bặt của nó.

Tôi xin giải thích: tư tưởng xuất sinh để phản ứng lại một thách thức xúc sự. Nếu chẳng có thách thức xúc sự, tất nhiên ta không tư tưởng. Việc thách thức xúc sự có thể là một việc tầm phào hay một việc rất quan trọng mà ta ứng đáp lại. Trong khoảng thời gian giữa câu hỏi nọ với câu ứng đáp này tiến trình tư tưởng mới vận hành. Nếu ngài hỏi tôi về những gì quen thuộc đối với tôi thì tôi liền trả lời tức khắc. Chẳng hạn nếu ngài hỏi tôi ở đâu, thì không có khoảng thời gian ở giữa câu hỏi của ngài với câu đáp của tôi, vì tôi không cần suy tưởng khi trả lời: câu trả lời của tôi xảy ra tức khắc. Nhưng nếu câu hỏi của ngài có vẻ phức tạp hơn thì tôi cần nhiều thời giờ hơn để tìm câu ứng đáp trong ký ức tôi. Nếu ngài hỏi tôi trái đất cách mặt trăng bao xa, tôi tự hỏi xem có biết điều ấy không và tôi tìm kiếm trong ký ức tôi. Giữa câu ứng đáp của tôi và câu hỏi của ngài, có một khoảng thời gian trong đó ký ức tôi vận dụng và đưa ra câu trả lời. Thế thì một thách thức xúc sự có thể sinh một phản ứng tức khắc hay một ứng đáp cần ít nhiều thời giờ. Và nếu ngài hỏi tôi về một việc mà tôi không biết tí gì cả, thì khoảng thời gian có thể lâu hơn nữa vì kiếm chẳng được gì hết trong ký ức tôi, tôi phải tìm tài liệu nơi một người nào hay trong một quyển sách. Trong toàn khoảng thời gian đó, tư tưởng vốn tiếp diễn tương tục. Cả thảy chúng ta đều rõ biết ba trường hợp ấy.

Nhưng còn một trường hợp thứ tư nữa có lẽ ngài không biết, hay có lẽ ngài chưa từng bao giờ tỏ ra: đó là trường hợp mà khi câu hỏi được đặt ra và ta không biết được câu trả lời. Ký ức tôi không chứa đựng gì liên hệ tới việc đó, và tôi không mong được câu trả lời. Thật sự, tôi không biết. Vậy tất nhiên không có cái khoảng cách thời gian, vậy thì không có cái khoảng cách thời gian, vậy thì không có tư tưởng vì tôi không tìm kiếm, tôi không chờ đợi gì hết. Tâm thái đó, thực ra, là sự phủ nhận toàn thiệt; đó là cuộc giải thoát ra khỏi hết tất cả những điều đã biết. Và chỉ trong tâm thái ấy thì điều mới mẻ được lãnh hội, điều mới lạ kia là cái mà ta có thể gọi là thực tại tối cao, hay với một danh từ gì tùy ý. Trong tâm thái ấy, toàn tiến trình tư tưởng đã vong bặt; không còn người năng quán với sự thể sở quán, cũng không còn người thọ nghiệm với sự thể được kinh nghiệm. Mọi kinh nghiệm đã vong bặt, và trong sự tịch lặng trọn vẹn này, hẳn nhiên cuộc chuyển hoá được trọn vẹn.


H
ỏi : Sự nhận thức mình có ý chí cá thể, phải chăng là nguyên nhân của sợ hãi?



Krishnamurti: Chắc vậy. Nhưng ngài hiểu thế nào là "cá thể"? Ngài có phải là một cá thể không? Ngài có một thể xác, một tên tuổi, một trương mục ở ngân hàng; nhưng nếu nội tâm ngài bị trói buộc, bị tàn phế, bị hạn cuộc, thì ngài có là một cá thể được không? Cũng giống như thiên hạ, ngài bị qui định trước nhiễm đấy, có phải thế không? Và tất cả điều xuất sinh từ cái cùng hạn cuộc là sự qui định trước nhiễm của ngài mà ngài gọi là cá thể ấy, hết tất cả: nào những khổ phiền của ngài, nào những thất vọng của ngài, những ganh ghét của ngài, những sợ hãi của ngài. Sự thể hạn hẹp và manh mún ấy, với cái linh hồn cá thể, với cái ý chí của nó, và tất cả cơ lộn xộn đảo điên nhỏ nhen của nó, ngài lấy đấy làm hãnh diện lắm. Chính với cái ấy ngài muốn khám phá Thượng đế, khám phá chân lý, khám phá tình thương, ngài không khám phá như thế được đâu. Tất cả những gì ngài làm được là nhận thức cái manh mún của chính mình đấy, vì bao đấu tranh của nó, và nhận thấy rằng cái manh mún ấy không bao giờ trở thành được cái toàn thể. Cây căm dù có làm gì đi chăng nữa, nó không thể thành được bánh xe. Vậy cần phải tự vấn tâm mình để hiểu được cuộc sống phân biệt, hẹp hòi, hạn cuộc, cái gọi là cá thể ấy. Điểm quan trọng trong tất cả mọi điều này, không phải là ý kiến của ngài hay ý kiến của tôi, mà quan trọng là tìm thấy sự thực. Và để phát thấy sự thực, tâm thức phải không sợ hãi, tâm thức phải rỗng rang trút bỏ khỏi sự sợ hãi đến độ nó được hoàn toàn ngây thơ. Chỉ từ lòng ngây thơ thì sự sáng tạo mới phát hiện được.


TRƯỞNG THÀNH


Hỏi: Trưởng thành là gì?

Krishnamurti: Phải về sự trưởng thành mà chúng ta đề cập không? Nhưng được, thưa ngài, trưởng thành là gì? Trưởng thành có liên quan gì với tuổi tác không? Với kinh nghiệm, với kiến thức, với khả năng không? Với sự tranh đua và tích trữ tiền bạc không? Nếu không phải là tất cả những điều đó thì trưởng thành là gì? Có liên quan gì với thời gian không? Ngài đừng vội bảo không một cách dễ dàng như thế. Nếu quả thực ngài đã thoát khỏi thời gian, nếu thời gian không còn hệ trọng gì với ngài cả, thì tâm thái của ngài thế nào? Tôi không đề cập thứ thời gian tính bằng đồng hồ, thời gian loại này hiển nhiên không có gì quan trọng cả. Nhưng nếu thời gian quả không mang một ý nghĩa tâm lý nào cả đối với ngài: thứ thời gian cần thiết để thành công, để hoàn thành, để vượt thắng, để chinh phục, để thấu hiểu, để so sánh, thứ thời gian cần thiết để trở nên lanh lợi, thì ngài sẽ không trưởng thành sao?

Vậy chỉ có cái tâm thức vô tri, vô nhiễm mới trưởng thành, chứ chẳng phải thứ tâm thức đã tích trữ kiến thức, tri thức trong hàng nghìn vạn năm. Kiến thức, tri thức cũng cần thiết và vẫn có vai trò của chúng ở vài mức độ nào đó, nhưng chúng không phát sinh được ánh sáng cùng sự vô tư vô nhiễm. Sự vô tư chỉ hiện sinh khi mọi xung đột đều ngưng dứt. Khi tâm thức không còn vận chuyển trong bất kỳ một chiều hướng nào nữa cả, bởi vì tất cả chiều hướng đều đã được thấu hiểu, thì tâm thức liền ngự ngay trong một trạng thái bản nguyên, tức là tâm thái vô tư vô nhiễm, và để rồi từ đó, tâm thức có thể tiến sâu vào cõi vô lượng mà có lẽ cái tối thượng vẫn hằng ngự trị. Chỉ với tâm thức ấy mới đích thị là trưởng thành.
Sự TRANH ĐUA


Hỏi: Ta có thể vẫn làm việc của ta và làm việc mà không có ý tranh đua được sao?

Krishnamurti: Ta không làm thế được sao, thưa ngài? Ngài có thể nào làm việc và lo tròn phận sự của ngài mà không tranh đua chi hết được không? Việc của tôi không phải là bảo rằng ngài có thể làm được hay không làm được, hoặc bảo rằng ngài phải làm như vậy, vân vân. Nhưng chính ngài có thể thấy những hậu quả của tinh thần tranh đua. Nó sinh ra thù địch, sợ hãi, hung hăng, theo đuổi những đòi hỏi thúc bách, không những ở ngay trong nội tâm ta mà cả ở ngoại cảnh, ở thế gian nữa. Đã thấy tất cả mọi điều đó nên ngài hỏi có thể nào sống trong cuộc đời mà không tranh đua. Thế có nghĩa là sống mà không so sánh, thế có nghĩa là làm một công việc mà ngài thực sự ưa thích, một công việc khiến ngài cảm thấy cực kỳ hứng thú. Nhưng nếu dấn mình vào một công việc mà ngài không ưa thích thì công việc ấy khiến ngài nhận lãnh nhiều trách nhiệm thì ngài nên tìm cách gì cũng thời làm việc đó mà không dấy khởi sự tranh đua. Hành động đó đòi hỏi một sự chú ý cao độ, phải thế không? Ngài phải hết sức ý thức mỗi tư tưởng, mỗi tình cảm của ngài, bằng không ngài chỉ tự gán ép cho mình cái ý niệm là không sinh tâm tranh đua, điều đó chỉ tổ sinh thêm vấn đề mới khác. Nhưng ngài có thể ý thức tất cả những gì hàm chứa trong tinh thần tranh đua, ngài có thể nhận thấy chân tướng của tinh thần ấy, cách thế nó khởi phát xung đột cùng những cuộc tranh đấu bất tận. Ngài có thể nhận thấy rằng nó không thể đưa con người vào thù hận đối địch, thiếu vắng thương yêu, dù nó có thể phát sinh điều mà ta gọi là tiến bộ và hữu hiệu. Nếu nhận thấy tất cả mọi điều đó, thì ngài sẽ hành động theo chỗ nhận thức của ngài, hoặc hành động theo đường lối tranh đua hoặc hành động theo cách thế hoàn toàn khác hẳn.
Sự SÁNG TẠO

Hỏi : Tôi không tin rằng một hành động lặp đi lặp lại nhất thiết phải là một hành động nhàm chán, buồn tẻ.

Krishnamurti: Ngài biết không, người ta đang nhận thấy rằng vì người thợ trong xưởng máy cứ làm mãi một số cử động không đổi, nên năng suất của họ kém rất nhiều và người ta bảo với tôi rằng ở Mỹ châu, trong một vài ngành kỹ nghệ, họ đang thí nghiệm việc cho phép người thợ tập nghề ngay trong công việc của họ làm. Kết quả là vì công việc của họ không máy móc, nên họ sản xuất nhiều hơn. Ngay khi ta cảm thấy rất thích thú làm một vài công việc nào đó, nhưng nếu ta cứ tiếp tục lặp lại hành động ấy mãi, thì hành động đó cũng thành ra một thói quen nhàm chán.

Hỏi: Còn với người nghệ sĩ thì sao?

Krisnamurti: Nếu người nghệ sĩ chỉ biết lặp đi lặp lại thì họ không còn là nghệ sĩ nữa! Tôi cho rằng có thể lẫn lộn giữa hai danh từ lặp lại và sáng tạo, phải thế không? Sáng tạo là gì?

Hỏi: Anh thợ giày đóng giày cho tốt, thế là sáng tạo.

Krishnamurti: Đóng giày tốt, nướng bánh mì ngon, sinh con đẻ cái, làm thơ, vân vân… đó là sáng tạo sao? Xin các ngài đừng nói là phải hay không phải… hãy đợi một phút!

Hỏi: Tôi không hiểu làm sao ta có thể sống được trong một khoảng hư không trống rỗng.

Krishnamurti: Thưa bà, tôi e là có sự ngộ nhận giữa chúng ta. Tôi xin lỗi. Có lẽ do những danh từ tôi chọn dùng không được đúng. Bà không lĩnh hội được điều mà tôi gọi là sự trống rỗng… Nhưng đây, chúng ta đang nói về sự sáng tạo.

Tôi đã được nghe trong một trường đại học nào đó người ta giảng dạy cái gọi là văn chương sáng tạo, hội họa sáng tạo. Sự sáng tạo có thể giảng dạy được sao? Cứ luyện tập hoài một điều gì đó khiến có thể sinh một tâm thức sáng tạo sao? Một nhạc sư có thể truyền dạy cho các ngài về cái kỹ thuật chơi vĩ cầm, nhưng hiển nhiên là kỹ thuật không thể đem thiên tài đến cho các ngài được. Người có tinh thần sáng tạo có thể tự tạo cho mình cái kỹ thuật, nhưng thường thì người ta nghĩ rằng nên bắt đầu học lấy cái kỹ thuật trước đã. Hãy lấy một tỉ dụ thông thường, dù rằng tỉ dụ không phải là những giải thích. Thế nào là một cuộc sống giản dị? Ta cho rằng sống giản dị là phải chiếm hữu rất ít của cải, phải ăn thật ít, phải tránh làm cái này cái nọ. Bên Á châu, kẻ chỉ vận một cái y, sống cô độc một mình, và chỉ ăn mỗi ngày một bữa, được xem là người sống rất giản dị. Nhưng có thể nội tâm họ là một hỏa diệm sơn bị thiêu đốt bởi những dục vọng, đam mê, khát vọng. Cuộc sống giản dị của người ấy chỉ là một dàn cảnh bên ngoài khiến người xem phải nghĩ: "Người này sống thật là giản dị". Mà cái tâm thái ấy thực ra, chính là tâm thái của đa số các ông thánh: bề ngoài trông họ giản dị, nhưng ở nội tâm, họ đầy tham vọng, họ gò bó tâm thức họ, họ tự ép mình rập khuôn theo vài kiểu mẫu nào đó, vân vân. Cho nên tôi nghĩ rằng sự giản dị phải bắt đầu từ bên trong, chứ không phải bên ngoài. Cũng tương tự như vậy, bằng phương thức diễn đạt bên ngoài, ta không thể nào khởi động sự sáng tạo. Sáng tạo là một trạng thái sống chứ không phải là sự tìm kiếm phương tiện kỹ thuật để tự phô diễn. Trạng thái ấy là sự khám phá ra cái tối thượng và chỉ có thể phát sinh khi không còn bất kỳ hành vi nào của cái ngã trong bất kỳ chiều hướng nào.

Nhưng chúng ta hãy trở lại câu hỏi của bà này về sự trống rỗng. Phần đông người đời, mặc dù sống trong giao tiếp với kẻ khác, nhưng họ vẫn sống trong cô đơn. Tôi không nói về loại tâm thái ấy. Một tâm thái trống rỗng hoàn toàn khác hẳn với cái tâm thái cô độc. Cần phải có một khoảng trống giữa các ngài và tôi, chúng ta mới có thể nhận thấy nhau được. Cần phải có một khoảng cách tôi mới nghe được những gì các ngài nói và các ngài mới nghe được những gì tôi nói. Tương tự như vậy, cần phải có khoảng trống trong tâm thức chúng ta. Tôi muốn nói tâm thức chúng ta không nên chấp chứa quá nhiều đến nỗi bị chận nghẹt bế tắc. Chỉ khi nào tâm thức chúng ta có khoảng trống, không chấp chứa ôm đồm những hành vi vị ngã, ta mới nhận thức được thế nào là sống. Nhưng sống trong cô độc – điều đó không thể được.
NĂNG LỰC

Hỏi: Xin ngài nói thêm về năng lực.

Krishnamurti: Bất cứ làm việc gì, dù nhỏ mọn, tất phải cần có năng lực, phải thế không? Đứng dậy rời khỏi ghế, bước ra khỏi lều, suy nghĩ, ăn uống, lái xe, mọi hành động đều cần năng lực. Nhưng thông thường thì bất cứ là việc gì, trong tâm ta thường phát sinh một sự chống kháng làm phân tán năng lực đi, trừ phi hành động của ta đem khoái lạc cho ta, và trong trường hợp này thì không có xung đột, không có chống kháng nên năng lực được củng cố.

Như ban nãy tôi vừa nói, cần phải có năng lực để chú tâm được trọn vẹn và năng lực không gặp phải sự chống kháng, bao lâu không có sự lơ đễnh. Nhưng hễ có sự lơ đễnh xen tạp vào, nghĩa là hễ ta dụng ý tập trung vào một điều gì đó và đồng thời ta lại muốn nhìn ra cửa sổ, thì sinh ra có chống kháng, tranh đấu. Thế nhưng, nhìn ra cửa sổ cũng quan trọng như bất cứ nhìn ở đâu, và khi ta đã nhận được chân lý ấy thì không còn có sự lơ đễnh và xung đột nữa.

Muốn có năng lực về thân xác, dĩ nhiên ta phải được nuôi dưỡng bằng những thức ăn trong sạch, được nghỉ ngơi đầy đủ, vân vân. Điều này các ngài có thể chứng nghiệm ở ngay bản thân mình, khỏi cần thảo luận. Nhưng cũng có thứ năng lực tâm lý, năng lực này bị phân tán bằng nhiều cách khác biệt. Để có thứ năng lực này, ta nh đến nhiều chất kích thích. Ta đi nhà thờ, xem đá banh, đọc văn chương, nghe nhạc, tham dự những cuộc họp mặt như thế này chẳng hạn. Tất cả những điều đó kích thích và nếu các ngài tìm kiếm chính sự kích thích này, sự thể đó chứng tỏ là về phương diện tâm lý các ngài bị lệ thuộc vào một cái gì: lệ thuộc vào rượu chè, vào ma túy, vào vị đạo sư, giáo hội. Dù bất cứ hình thức nào, mọi sự lệ thuộc chỉ làm hôn mê tâm thức, ngoài ra lại còn phân tán năng lực nữa. Vậy để bảo tồn năng lực này, mọi nhu cầu về chất kích thích phải được đánh tan và để tránh ta lệ thuộc vào người, vào sách vở, vào công việc hay vào nhu cầu đi xi nê, bất cứ hình thức đặc biệt nào của chất kích thích mà ta tìm kiếm, ta đều phải nhận thức nó trước tiên. Chấp nhận sự cần thiết của những chất kích thích, chấp nhận sự sống với chúng là phân tán năng lực và làm hư hoại tâm thức. Nhưng nếu ta ý thức chúng và khám phá thấy cái tác động đích thực của chúng trong đời sống của ta, là ta đã thoát ly khỏi sự kiện đó rồi.

Bằng một nhận thức sắc bén nội tâm mình đây không phải là tự lên án mình với tất cả những gì bao hàm trong sự lên án đó, mà là nhận thấy chính mình y như mình là, mà không phân biệt chọn lựa chi cả -- ta mới tìm học hầu lĩnh hội hết tất cả những gì liên quan đến các luồng ảnh hưởng cùng mọi hình thức lệ thuộc. Chính sự vận dụng này, đích thị là hành động tìm học, làm phát sinh nguồn năng lực cần thiết để ta thoát ly khỏi mọi sự lệ thuộc và kích thích.




Quote:"The constant assertion of belief is an indication of fear"
Jiddu Krishnamurti
TÌNH THƯƠNG


Hỏi: Thưa ngài, giữa tư tưởng của ngài và tư tưởng Cơ đốc về tình thương, khác nhau chỗ nào?

Krishnamurti: Tôi e không thể nói được chỗ đó với ngài. Tôi không có "tư tưởng" tình thương, nếu ta nghĩ về tình thương, thì đấy không phải là tình thương, chắc ngài biết là có một sự khác biệt lớn lao giữa một nhu cầu bình thường về dâm dục với những tư tưởng kích thích cảm giác. Tâm thức chỉ biết lo hưởng lạc, chỉ biết nghĩ đến khoái lạc, cứ tự kích thích bằng những hình ảnh, bằng những tưởng tượng, bằng những tư tưởng, tâm thức ấy rất tổn hại. Nhưng "cái kia" thì lại hoàn toàn khác hẳn: Ý nghĩa của cái ấy, không có tư tưởng xen vào, nên vốn khác hẳn. Cũng tương tự như thế, ta không thể tư tưởng về tình thương. Ngài có thể tưởng nghĩ đến một kiểu mẫu tình thương mà ký ức đã ghi chép được hay tưởng nghĩ đến những gì người ta đã nói với ngài về tình thương: họ nói tình thương tốt hoặc xấu, thiêng liêng hoặc phàm tục, vân vân. Nhưng các tư tưởng ấy không phải là tình thương. Tình thương không phải thuộc Cơ đốc giáo, Ấn Độ giáo, không phải đông tây chi cả, tình thương không phải của ngài, không phải của tôi. Chỉ khi nào ngài đã chặt đứt hết mọi ý niệm về quốc tịch, về chủng tộc, về tôn giáo của ngài cũng như về mọi ý niệm khác, ngài mới biết được tình thương là gì.

Các ngài thấy không, sáng nay tôi nói về sự chết để các ngài có thể thấu hiểu toàn bộ sào huyệt của nó – không phải là các ngài thấu hiểu nó khi các ngài đang ngồi đây trong căn lều này, mà thấu hiểu nó trong suốt cả toàn bộ cuộc sống của các ngài – để do đó các ngài thoát ly khỏi đau khổ, thoát khỏi sợ hãi và thật sự nhận biết được ý nghĩa của sự chết. Nếu từ bây giờ và trong những ngày kế tiếp mà tâm trí các ngài không trở nên hoàn toàn sáng suốt, vô tư vô nhiễm, chú tâm sâu sắc, thì nghe lời tôi nói cầm bằng như vô ích hoàn toàn. Nhưng nếu các ngài sáng suốt, chú tâm sâu sắc, ý thức tư tưởng và tình cảm của mình, nếu các ngài không lo diễn giải những điều tôi nói mà các ngài đang thực sự quan sát chính các ngài qua những mô tả và khám phá về vấn đề này thì khi rời căn lều này các ngài sẽ sống, các ngài sẽ sống không những tưng bừng mà cả với sự chết và tình thương nữa.
Sự TỊCH LẶNG


Hỏi: Tôi ngưỡng vọng sự tịch lặng, nhưng tôi nhận thấy những công phu dự định của tôi càng lúc càng hư hỏng với thời gian.


Krishnamurti: Trước hết, ngài không thể ngưỡng vọng được sự tịch lặng, ngài không biết gì về sự tịch lặng. Thậm chí nếu ngài nhận biết điều chi về tịch lặng thì đó cũng là không phải là tịch lặng, bởi vì điều ta biết không phải là điều chân thực. Vậy ta cần phải cẩn thận đừng bảo rằng "ta biết".

Xin ngài hãy xem xét điều này: điều gì ta biết là điều ta nhìn nhận được. Tôi nhận ra ngài vì tôi đã gặp ngài hôm qua. Vì đã nghe ngài nói và biết được cách thế sống, cư xử của ngài nên tôi nói tôi biết ngài. Điều tôi biết đã là quá khứ rồi và từ quá khứ đó tôi nhận biết ngài. Nhưng ta không thể nhận biết được sự tịch lặng này, vì trong sự tịch lặng đó không có cái tiến trình nhìn nhận. Trước tiên ta phải thấu hiểu điều đó. Muốn nhận biết một điều gì, cần phải được tiếp xúc với nó đã, sống với nó đã, đọc hoặc nghe người khác mô tả về nó đã, nhưng cái điều được nhìn nhận, được biết, được mô tả không phải là sự tịch lặng mà ta ngưỡng vọng bởi vì cuộc sống chúng ta quá đỗi trống rỗng, buồn chán, ngu muội. Chúng ta muốn lẩn trốn tất cả những phiền toái của cuộc sống, nhưng ta không thể lẩn trốn được cuộc sống mà cần phải thấu hiểu nó. Và muốn thấu hiểu bất cứ điều gì, ta không cần phải hất hủi cũng như lẩn trốn nó. Cần phải có một tình thương bao la, một sự trìu mến đích thực với điều ta muốn thấu hiểu. Nếu muốn thấu hiểu một đứa trẻ, ngài không nên cưỡng bách nó cũng như so sánh nó với anh nó. Mà ngài phải nhìn ngắm nó, kỹ lưỡng quan sát nó với niềm trìu mến luyến thương, với tất cả tâm hồn ngài. Tương tự như vậy, ngài phải thấu hiểu những cái tầm thường mà ngài gọi là cuộc sống với tất cả những tình tự ghen ghét, xung đột, khổ lụy, nhọc nhằn, phiền não của nó. Do sự thấu hiểu đó bèn xuất sinh một niềm an hòa mà ta không thể tìm thấy bằng lần mò dọ dẫm.

Có một câu chuyện rất ngộ nghĩnh về việc một người đệ tử đến với vị đạo sư. Vị đạo sư ngồi trong một vườn hoa xinh đẹp và người đệ tử đến ngồi cận bên – không ngồi đối diện hẳn vì ngồi như thế bất kính lắm. Thế là người đệ tử ngồi hơi dịch sang một bên, chân xếp bằng và nhắm mắt lại.

- Vị đạo sư bèn hỏi: "Trò làm gì thế?".

- Mở mắt ra người đệ tử nói: "Thưa thầy, con đang luyện tâm, cố chứng đạt được cái tâm của Đức Phật", và nhắm mắt lại.

- Sau một lúc, vị đạo sư lượm hai hòn đá và cọ xát chúng vào nhau gây ra nhiều tiếng động, bấy giờ người đệ tử rơi từ trên cao xuống và hỏi: "Thưa thầy làm gì đó?".

- Và vị đạo sư đáp: "Ta cọ hai viên đá này vào nhau để làm một trong hai viên thành tấm gương".

- Người đệ tử nói: "Thưa thầy, chắc chắn thầy không bao giờ thành tựu, dù thầy có cọ hai viên đá này trong cả triệu năm đi nữa".

- Bấy giờ, vị đạo sư mỉm cười trả lời: "Thì cũng thế, trò ôi, dù trò có ngồi đây, như thế, hàng cả triệu năm trò cũng không bao giờ đạt tới chỗ trò muốn đạt".

Và đấy là việc cả thảy chúng ta đều làm. Ta có những địa vị, cả thảy chúng ta đều muốn đạt mục đích mà ta đang lần mò tiến tới, việc đó đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều tranh đấu, nhiều giới luật. Tôi e rằng tất cả mọi điều đều không thể làm mở cánh cửa được. Điều có thể làm mở cánh cửa là phải thấu hiểu mà không cố gắng, phải nhìn ngắm một cách đơn giản quan sát với thái độ trìu mến, thương yêu, nhưng ta không thể thương yêu nếu ta không từ tốn nhẫn nhục, và sự nhẫn nhục từ tốn chỉ có được khi ta không còn muốn chiếm hữu chi nữa cả, dù là chiếm hữu những thần thánh cũng như chiếm hữu một người.
Ý MUỐN


Hỏi: Làm sao thoát ly được ý muốn về sự chắc chắn.

Krishnamurti: Danh từ "làm sao" ngụ ý một phương pháp phải không? Nếu ngài là một kiến trúc sư và tôi hỏi ngài làm sao xây cất một ngôi nhà, ngài có thể trả lời tôi, bởi vì có nhiều phương pháp, nhiều hệ thống, nhiều cách thế để thực hiện việc xây cất. Nhưng việc áp dụng một phương pháp hay một hệ thống là đã qui định tâm thức rồi; vậy ngài hãy nhận thức chỗ khó khăn của việc dùng danh từ "làm sao".

Và chúng ta cũng phải thấu hiểu ý muốn nữa. Ý muốn là gì? Hôm trước, tôi đã giải thích đầy đủ về vấn đề này rồi, mong rằng quý ngài có mặt hôm ấy và đã thấu hiểu ý nghĩa của những điều tôi đã trình bày, sẽ không cảm thấy nhàm chán về những gì tôi sắp nói đây. Vì, thực ra, ta có thể lắng nghe cả ngàn lần tất cả những cuộc nói chuyện này và mỗi lần đều phát hiện thấy một cái gì mới lạ.

Ý muốn là gì? Như hôm trước tôi đã nói, trước hết có sự nhận thức (tức là thấy), kế đó có sự tiếp xúc (tức là sờ mó), tiếp theo là cảm giác và cuối cùng cái ta gọi là ý muốn trỗi dậy. Phải sự thể quả diễn tiến như vậy không? Xin các ngài hãy chú tâm theo dõi. Thí dụ, thấy một chiếc xe hơi đẹp. Sự thấy này, dù không sờ mó chiếc xe, vẫn làm phát sinh cảm giác, cảm giác này làm phát sinh ý muốn được lái, được làm chủ chiếc xe. Ở đây ta không cần biết coi phải làm sao chống kháng lại ý muốn hoặc làm sao thoát ly ý muốn, bởi vì kẻ bại xuội tê liệt, hắn đã chết. Điều quan trọng là thấu hiểu toàn bộ tiến trình của ý muốn, nghĩa là thấu hiểu đồng thời tính cách quan trọng và vô nghĩa của nó. Ta phải khám phá, không phải khám phá cách thế chấm dứt ý muốn, mà khám phá cái đã làm cho nó tương tục.

Cái gì làm cho ý muốn tương tục? Chính tư tưởng, phải không? Trước hết, có sự thấy chiếc xe, kế đó có cảm giác kèm theo là ý muốn, và nếu tư tưởng không xen vào làm cho ý muốn tương tục bằng cách bảo rằng: "Tôi phải có chiếc xe này, làm thế nào để có được đây?" thì ý muốn sẽ chấm dứt. Ngài theo kịp chứ? Tuyệt nhiên là tôi không bảo rằng cần phải vượt thoát khỏi ý muốn, trái lại thì có. Nhưng các ngài phải thấu hiểu toàn bộ cơ cấu của ý muốn, bấy giờ các ngài sẽ thấy rằng sự tương tục không còn nữa mà có một cái khác hẳn.

Vậy, điều quan trọng không phải là ý muốn, dục vọng, mà là sự việc ta làm cho ý muốn tương tục. Ví dụ, chúng ta kéo dài những ham muốn về tính dục của ta bằng tư tưởng, bằng hình ảnh, bằng cảm giác, bằng hồi tưởng kỷ niệm; chúng ta duy trì kỷ niệm sống động của những ham muốn ấy bằng cách tư tưởng đến chúng và hành vi đó làm cho ham muốn, ý muốn, dục vọng tương tục và gia tăng tầm mức quan trọng cho giác quan. Không phải cái cảm giác không quan trọng: chúng cũng quan trọng vậy. Nhưng cứ làm cho các lạc thú giác quan tiếp nối nhau sống mãi, nên chúng trở nên hết sức mãnh liệt trong đời sống chúng ta. Vậy điều quan trọng không phải là thoát khỏi những dục vọng, ý muốn, mà thấu hiểu bản chất cấu tạo của chúng và cách thế mà tư tưởng làm cho chúng tương tục. Đó là tất cả những gì ta phải làm và bấy giờ tâm thức mới thực sự tự do mà không cần phải tìm cách thoát khỏi dục vọng. Ngay khi ta tìm cách thoát khỏi dục vọng là ta rơi vào xung đột. Mỗi khi ta nhìn thấy một chiếc xe hơi, một người đàn bà, một ngôi nhà hay bất cứ vật gì khác hút dẫn ta, là tư tưởng liền xen vào và làm cho dục vọng tương tục, bấy giờ mọi sự đều trở thành là vấn đề vô tận.

Điều quan trọng là phải sống một đời sống trong đó sự cố gắng vắng mặt, một đời sống không có vấn đề, và ta có thể sống một đời sống như thế nếu ta thấu hiểu được bản chất cấu tạo của những dục vọng. Phần đông chúng ta có ngàn nghìn vạn vấn đề, và để thoát khỏi những vấn đề ta phải đủ sức tức khắc chấm dứt mỗi vấn đề khi nó vừa xuất hiện. Tôi nghĩ là chúng ta đã thảo luận vấn đề đó khá nhiều rồi, tôi sẽ không nói thêm nữa làm gì. Nhưng tuyệt đối cần thiết phải không có vấn đề nào cả, và phải sống một đời sống không cố gắng. Bấy giờ ta mới có một tâm thức thực sự mộ đạo bởi vì tâm thức ấy đã thấu hiểu đau khổ và sự chấm dứt của đau khổ; trong tâm thức ấy không còn chút sợ hãi và do đó, chính nó là ánh sáng cho tự nó.

_________________________


*Hết phần Vấn Đáp của quyển Ý Nghĩa về Sự Chết, Đau Khổ, và Thời Gian.

Nguồn: talawas.
Bản PRC do Vinh Hoa thực hiện.
Phần vấn đáp sau đây được trích từ quyển TỰ DO DẦU TIÊN & CUỐI CÙNG (The First and Last Freedom) của Jiddu Krishnamurti, bản dịch Phạm Công Thiện.

***

VỀ NỖI CÔ ĐƠN
(On Loneliness)


HI: Tôi bắt đầu ý thc rng tôi rất cô đơn. Tôi phải làm gì ?

KRISHNAMURTI: Người hỏi muốn biết tại sao ông ấy cảm thấy cô đơn . Ngài có biết cô đơn có nghĩa là gì và ngài có ý thức về cô đơn ? Tôi không tin lắm, vì chúng ta tự chôn vùi ngột ngạt trong bao nhiêu sinh hoạt, trong sách vở, trong tương giao liên hệ , trong những ý tưởng , và tất cả những thứ ấy thực ra đã ngăn chận chúng ta lại không thể để cho chúng ta ý thức về nỗi cô đơn. Chúng ta hiểu cô đơn thế nào ? Đó là cảm thức về một nỗi hoang trống cảm thấy không có gì cả, cảm thấy vô định, không có gì chắc chắn, không có nơi nào cố định. Đó không phải là thất vọng, cũng không phải tuyệt vọng, mà lại là cảm thức về một nỗi trống trải rỗng không , rỗng tuếch, cảm thấy phẫn chí vô vọng.

Tôi tin chắc rằng tất cả chúng ta đều cảm thấy nỗi cô đơn này, không phân biệt kẻ hạnh phúc và kẻ bất hạnh, kẻ hoạt động hăng hái và kẻ say mê chìm đắm trong kiến thức . Ai cũng như ai đều từng trải qua nỗi cô đơn đìu hiu trong đời sống. Đó là cảm thức về một nỗi đau khổ khôn vơi, một nỗi niềm không thể vùi lấp được, dù chúng ta có cố gắng hết sức để khuất lấp nó.

Chúng ta hãy đi vào vấn đề này , tìm hiểu hiện trạng, tìm hiểu xem mình làm gì khi mình cảm thấy cô đơn. Mình cố gắng chạy trốn cảm giác cô đơn của mình bằng cách tiếp tục đọc sách, bằng cách đi theo một vị lãnh tụ nào đó, hoặc đi xem chiếu bóng, hoặc trở nên kẻ hoạt động ráo riết trong sinh hoạt xã hội, hoặc thờ lạy đọc kinh, hoặc vẽ vời viết lách, làm thơ tả nỗi cô đơn. Đó là hiện trạng của tâm thức. Khi vừa ý thức về nỗi cô đơn, nỗi khổ đau của sự cô đơn, nỗi sợ hãi lạ thường khôn cùng về sự cô đơn này, khi vừa ý thức như vậy, ngài liền tìm cách chạy trốn và sự chạy trốn ấy trở nên quan trọng, do đó, tất cả hình thức để chạy trốn cô đơn, như những hoạt động của ngài, kiến thức của ngài, những thần thánh của ngài, máy phát thanh của ngài, tất cả những hình thức để chạy trốn này đều trở nên quan trọng, phải thế không ? Khi ngài đặt sự quan trọng vào những giá trị phụ thuộc thì những giá trị phụ thuộc ấy sẽ đưa ngài đến sự khốn khổ và hỗn loạn ; những giá trị phụ thuộc cố nhiên là những giá trị của giác quan ; nền văn minh hiện nay đã được đặt nền tảng trên những giá trị giác quan này và nền văn minh ấy đã đưa ra một lối chạy trốn cho ngài – chạy trốn bằng công ăn việc làm, chạy trốn bằng gia đình, bằng tên tuổi, bằng học vấn, bằng vẽ vời, vân vân ; tất cả nền văn hóa của chúng ta đã được xây dựng trên sự chạy trốn ấy. Nền văn minh của chúng ta đã được đặt trên sự chạy trốn ấy, đó là một sự kiện dễ nhận.

Ngài có bao giờ thử sống cô đơn ? Khi ngài thử sống như thế, ngài sẽ cảm thấy sống như thế quả thực khó khăn vô cùng, sống như thế đòi hỏi mình phải thông minh vô cùng, bởi vì tâm trí sẽ không bao giờ để cho ta sống một mình. Tâm trí trở nên động đậy bất an, tâm trí cứ mải miết tìm cách chạy trốn , thế thì chúng ta làm gì ? Chúng ta lại chỉ tìm cách lấp đầy khoảng trống vô hạn trong tâm hồn bằng những gì mình thường quen thuộc. Chúng ta tìm cách hoạt động, tìm cách hội hè đình đám, mang tinh thần xã hội, chúng ta biết cách học hành để chạy trốn cô đơn, biết cách vặn máy thâu thanh. Chúng ta tìm cách lấp đầy điều mình không biết bằng điều mình đã biết.

Chúng ta cố gắng lấp đầy nỗi trống rỗng bằng đủ loại kiến thức, đủ loại tương giao, đủ loại sự vật. Phải thế không? Đó là tiến trình vận hành của tâm tư chúng ta, tiến trình của đời sống. Khi ngài ý thức được những gì ngài đang làm, ngài có còn nghĩ rằng ngài có thể lấp đầy nỗi trống không ấy ? Ngài đã tìm mọi cách để lấp đầy nỗi trống rỗng của sự cô đơn, nhưng ngài có lấp được không ? Ngài đã tìm cách đi xem chiếu bóng, nhưng ngài vẫn không lấp được nỗi hiu quạnh, thế rồi ngài lại đi tìm những bậc minh sư đạo sĩ, đi tìm sách vở, hoặc trở nên hăng hái hoạt động xã hội. Ngài có lấp đầy được nỗi cô đơn hay chỉ khuất lấp tạm thời thôi ? Nếu ngài chỉ khuất lấp tạm thời thôi thì nỗi cô đơn vẫn còn ở đó, rồi nó sẽ khuấy động lại chẳng sớm thì muộn. Nếu ngài có thể chạy trốn nỗi cô đơn một cách toàn triệt thì lúc ấy ngài đã bị nhốt trong dưỡng trí viện hoặc là ngài trở nên một kẻ chán chường đần độn khôn cùng. Đó là hiện trạng ở thế giới bây giờ.

Mình có thể nào lấp đầy được nỗi hoang trống , sự rỗng tuếch này ? Nếu không thể lấp đầy được thì mình có thể chạy trốn nó không ? Nếu chúng ta đã thí nghiệm và thấy rõ rằng sự chạy trốn của mình chẳng có giá trị gì cả thì phải chăng mình cũng nên hiểu rằng tất cả mọi hình thức chạy trốn khác cũng đều không có giá trị gì cả ? Không cần phân biệt hình thức lấp đầy này với hình thức lấp đầy kia, tất cả mọi sự lấp đầy đều như nhau. Ngay cả việc tham thiền tĩnh tọa (1) cũng chỉ là một sự chạy trốn. Thay đổi đường lối chạy trốn thì cũng vẫn là chạy trốn.

Ngài làm thế nào để đối phó với sự cô đơn này ? Ngài chỉ có thể biết cách đối phó , khi nào ngài không còn chạy trốn nữa. Phải thế không ? Khi ngài thực sự muốn đối diện với hiện thể, đối mặt với cái đang là (2) , nghĩa là ngài không phải vặn máy phát thanh, nghĩa là ngài phải quay lưng lại với nền văn minh này, thì lúc ấy nỗi cô đơn ấy sẽ chấm dứt, vì nó đã được chuyển hóa toàn triệt. Nó không còn là sự cô đơn nữa. Nếu ngài hiểu được hiện thể thì hiện thể ấy chính là thực thể. Tâm trí tự tạo chướng ngại cho nó, bởi vì tâm trí cứ mải miết trốn tránh thoát ly, chạy trốn, không chịu nhìn hiện thể. Chúng ta không hiểu hiện thể, vì chúng ta bị quá nhiều chướng ngại ngăn trở không cho chúng ta nhìn thấy, do đó, chúng ta thường xa lìa thực tại ; tất cả mọi sự chướng ngại trắc trở đều do tâm trí tạo ra để mà không chịu nhìn hiện thể. Muốn nhìn thấy hiện thể, chẳng những mình phải có nhiều khả năng và ý thức về hành động mà mình cần phải quay lưng chối bỏ mọi sự mình đã xây dựng, như ngân khoản ở nhà băng, tên tuổi mình và tất cả mọi sự mà mình gọi là văn minh. Khi ngài nhìn thấy được hiện thể thì ngài sẽ thấy được cách chuyển hóa của nỗi cô đơn.

-------------------------


Ghi chú của anatta:

(1) Nếu chúng ta tham thiền tĩnh toạ chỉ để chạy trốn sự cô đơn buồn chán.
(2) Cái-đang-là = What is. -- theo dịch giả Phạm Công Thiện thì Krishnamurti thường hay dùng chữ "What is" để chỉ thực tại của sự kiện, sự vật, hay -- hiện thể, là cái gì đang thực xảy ra bây giờ.
(quan sát sự kiện, đối tượng như nó đang là, see thing as it is)
VỀ TÌNH YÊU
(ON LOVE)

HỎI : Đối với ngài, tình yêu có nghĩa là gì ?

KRISHNAMURTI : Chúng ta hãy khám phá bằng cách tìm hiểu những gì không phải tình yêu, vì khi tình yêu là sự thể xa lạ thì chúng ta phải đến tình yêu bằng cách tiêu trừ điều quen biết. Điều xa lạ không thể nào được khám phá bằng một tâm trí nhét đầy sự quen biết. Điều chúng ta sắp làm là tìm cho ra những giá trị của điều quen biết, nhìn vào điều quen biết, và khi điều quen biết ấy được nhìn một cách thuần khiết trong sạch, không có sự kết án, thì tâm trí trở nên tự do, giải phóng khỏi thế giới quen biết ; lúc ấy chúng ta sẽ biết được tình yêu là gì. Vì thế chúng ta phải đi đến tình yêu bằng đường lối tiêu cực phủ nhận, chứ không phải bằng đường lối tích cực khẳng định.

Đối với phần đông chúng ta, tình yêu là gì? Khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu một người nào đó, chúng ta muốn nói gì ? Chúng ta muốn nói rằng chúng ta chiếm hữu người ấy. Từ sự chiếm hữu mới khởi phát lòng ghen tuông, bởi vì nếu tôi mất chàng ấy hay nàng ấy thì điều gì xảy ra? Tôi cảm thấy trống rỗng, mất mát ; vì thế tôi hợp lệ hóa sự chiếm hữu bằng luật pháp ; tôi ghì giữ chàng hoặc nàng. Vì sự ghì giữ, sự chiếm hữu ấy mới xuất hiện lòng ghen tuông, xuất hiện sự sợ hãi và vô số xung đột khởi phát từ sự chiếm hữu. Chắc chắn sự chiếm hữu ấy không phải là tình yêu, phải thế?

Dĩ nhiên tình yêu không phải là tình cảm. Giàu tình cảm, giàu cảm xúc không có nghĩa là có tình yêu đâu, vì tình cảm sướt mướt kia, cảm xúc kia chỉ là những cảm giác thôi. Một tu sĩ khóc thương Jesus hay Krishna, khóc thương thầy mình hoặc một người nào khác thì chỉ là một kẻ sướt mướt. Hắn thích thú chìm đắm trong cảm giác, tức là một tiến trình tư tưởng và tư tưởng không phải là tình yêu. Tư tưởng là kết quả của cảm giác, vì thế kẻ nào sướt mướt, dễ xúc động lải nhải thì không thể nào biết được tình yêu. Vậy phải chăng, chúng ta đều dễ sướt mướt, dễ xúc động lải nhải? Tình cảm sướt mướt, sự xúc động lải nhải chỉ là một hình thức bành trướng bản ngã. Giàu xúc động, cảm kích cố nhiên không phải là tình yêu, vì một người giàu tình cảm có thể rất tàn nhẫn hung dữ khi những tình cảm của hắn không được đáp ứng , khi những cảm xúc của hắn không có ngõ thoát. Một kẻ giàu xúc động cảm kích có thể bị sôi động đến việc thù hận, chiến tranh, tàn sát đẫm máu. Một kẻ giàu tình cảm, đầy lệ chảy chứa chan về tôn giáo của hắn nhất định không có tình yêu gì cả.

Có phải sự tha thứ là tình yêu? Cái gì nằm ẩn ý trong sự tha lỗi ? Ngài sỉ nhục tôi và tôi phẫn hận việc ấy, ghi nhớ việc ấy ; rồi hoặc vì sự trấn áp hoặc vì ăn năn hối hận, tôi nói, “tôi thứ lỗi ngài”. Thoạt đầu tôi ghi giữ lại, rồi tôi xua bỏ. Làm như vậy nghĩa là gì? Tôi vẫn là nhân vật quan trọng. Tôi vẫn còn quan trọng, chính tôi đang dung tha một người nào đó. Khi mà còn thái độ tha thứ, tha lỗi thì chính tôi vẫn là kẻ quan trọng, chứ không phải người đã sỉ nhục tôi. Vì thế khi tôi chồng chất tích trữ sự phẫn hận, rồi xua bỏ sự phẫn hận kia, mà tôi gọi là sự tha lỗi, đó vẫn không phải là tình yêu, tình thương.

Một người thương yêu cố nhiên không có lòng căm hờn và hắn lãnh đạm với tất cả mọi sự như vậy. Tương cảm, tha thứ, tương quan của lòng chiếm hữu, ghen tuông và sợ hãi – tất cả những thứ này không phải là tình thương. Tất cả những thứ này đều thuộc về tâm trí, phải thế không? Khi mà tâm trí vẫn còn làm trọng tài thì không có tình yêu, tình thương, bởi vì tâm trí chỉ phán xử, làm trọng tài qua tinh thần chiếm hữu và sự trọng tài kia chỉ là sự chiếm hữu qua những hình thức khác nhau. Tâm trí chỉ có thể làm hư đốn bại hoại tình yêu, tâm trí không thể khai sinh ra tình yêu, tâm trí không thể đem đến sự đẹp tuyệt vời trên đời. Ngài có thể viết một bài thơ về tình yêu, nhưng đó vẫn không phải là tình yêu. Dĩ nhiên không có tình yêu khi chẳng có sự kính trọng thực thụ, khi ngài không kính trọng kẻ khác, dù kẻ khác là người đầy tớ của ngài hoặc là bạn ngài.

Ngài có để ý rằng ngài không kính trọng , không tử tế, không rộng lượng đối với những người đầy tớ của ngài, đối với những người mà ngài gọi là “thấp hèn” hơn ngài? Ngài chỉ kính trọng những người ở địa vị trên, ngài kính trọng ông chủ của ngài, kính trọng người triệu phú, kẻ có ngôi nhà đồ sộ và chức tước cao, ngài kính trọng kẻ nào có thể cho ngài một địa vị tốt hơn, một việc làm khá hơn, kẻ nào ngài có thể trục lợi được. Nhưng ngài trở mặt với hạng người có địa vị thấp hơn ngài, dùng ngôn ngữ riêng biệt đối với họ. Vì thế nơi nào không có sự kính cẩn, nơi đó không thể nào có tình thương. Và vì hiện hữu chúng ta đều sống trong cảm thức này, cho nên chúng ta sống không tình thương. Chúng ta không kính cẩn, cũng không nhân từ, nhân ái, cũng không rộng lượng khoan dung. Chúng ta đều có tinh thần chiếm hữu, giàu tình cảm xúc động sướt mướt mà tình cảm xúc động sướt mướt này có thể xoay hướng về việc : hoặc chém giết, tàn sát, hoặc đoàn kết nhau về một chủ định âm mưu ngu si khờ dại. Vì thế làm thế nào có thể có tình yêu?

Ngài chỉ có thể biết tình yêu, tình thương, khi tất cả mọi sự vừa kể đã ngừng hết, chấm dứt hẳn, chỉ khi nào ngài không chiếm hữu , khi ngài không chỉ xúc động sùng bái phụng thờ một đối tượng nào đó. Sự sùng bái phụng thờ ấy chỉ là một sự thỉnh cầu van xin, tìm kiếm một cái gì đó trong một hình thức khác. Kẻ nào van xin, nguyện cầu thì kẻ ấy không biết tình thương. Vì ngài có tinh thần chiếm hữu, vì ngài tìm kiếm một cứu cánh , một kết quả bằng hình thức sùng bái, đọc kinh, những điều này làm ngài tràn đầy tình cảm xúc động, cho nên dĩ nhiên là không có tình thương; cố nhiên là không có tình thương khi không có lòng kính cẩn. Ngài có thể nói rằng ngài có lòng kính cẩn, nhưng sự kính cẩn của ngài là kính cẩn đối với người trên, đó chỉ là sự kính cẩn xuất phát từ việc muốn một cái gì đó, tức là sự kính cẩn của lòng sợ hãi. Nếu ngài thực sự cảm thấy kính cẩn, ngài sẽ kính cẩn đối với những gì thấp nhất cũng như đối với những gì gọi là “cao nhất” ; vì ngài không làm được như vậy, cho nên không có tình yêu, tình thương. Ít người trong chúng ta có lòng rộng lượng, khoan dung, nhân ái ! Ngài chỉ rộng lượng khi điều ấy đem lợi đến cho ngài, ngài nhân ái khi ngài có thể thấy mình được đáp trả lại. Khi những thứ này tiêu ma đi, khi những sự việc này không làm bận tâm trí ngài và khi những sự việc của tâm trí không lấp đầy tâm tư ngài, lúc ấy mới có tình thương, và chỉ có tình thương mới có thể biến chuyển cơn điên loạn, cuồng dại hiện nay ở thế giới – chứ không phải những hệ thống tư tưởng , chứ không phải những lý thuyết, dù lý thuyết của bên tả hay của bên hữu.

Ngài chỉ thực sự thực yêu thương khi ngài không chiếm hữu, khi ngài không đố kỵ, không gian tham, khi ngài kính cẩn, khi ngài có lòng nhân từ và từ bi, khi ngài kính trọng người vợ ngài, con ngài, người láng giềng của ngài, những người đầy tớ bất hạnh của ngài.

Không thể nghĩ về tình yêu, không thể đào luyện tình yêu, không thể thực hành tình yêu. Sự thực hành tập luyện về tình yêu, về tình huynh đệ là vẫn còn nằm trong lãnh vực của tâm trí, vì thế đó không phải là tình thương, tình yêu. Khi tất cả mọi sự đào luyện thực hành đều chấm dứt, lúc ấy tình thương tình yêu mới xuất hiện, lúc ấy các ngài sẽ biết được yêu thương là gì. Lúc ấy tình yêu thương không có tính cách số lượng mà chỉ có tính cách phẩm. Các ngài không nói, “tôi yêu thương cả thế giới, cả nhân loại” nhưng khi ngài biết yêu thương một thôi thì ngài biết yêu thương tất cả . Bởi vì chúng ta không biết yêu thương một thì tình thương yêu của chúng ta đối với nhân loại chỉ là ảo tưởng. Khi các ngài yêu thương thì không có một cũng không có nhiều ; chỉ có tình yêu thương thôi. Chỉ khi nào có tình yêu thương thì tất cả vấn đề của chúng ta mới có thể được giải quyết và lúc ấy chúng ta sẽ hưởng được sự diễm phúc tuyệt vời miên man.
Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14