VietBest

Full Version: Krishnamurti Vấn Đáp: Bàn về Giáo dục ○ 20
You're currently viewing a stripped down version of our content. View the full version with proper formatting.
Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14
ĐỨC TIN Và CẦU NGUYỆN
(Faith and Prayer)


Hỏi: Các nhà Ki-tô thần bí diễn tả những cách thức cầu nguyện (tĩnh tâm) mà qua đó họ nói chuyện với Thượng-đế, hoặc cái hiện tượng mà họ gọi là Thượng-đế. Họ nói rằng, cách thức cầu nguyện như vậy, có điều gì đó kỳ lạ xảy ra mà họ cho là hợp thông với Thượng-đế. Họ đã bị thuyết phục rằng đó không phải là ảo giác, ảo tưởng. Họ có đang tự gạt chính họ không? Thế thì đức tin là gì? Dường như đức tin cho con người lực lượng làm được những việc khác thường.

J. Krishnamurti: Khi bạn là một người theo chủ nghĩa dân tộc thì nó cho bạn thêm lực lượng khác thường để tàn sát kẻ khác. Hãy nhìn cái điều mà họ đang làm! Vậy thì một ảo tưởng có thể nào cho bạn thêm sinh khí và sức mạnh để làm được những việc vượt bậc không? Hiển nhiên nó có thể. Hãy nhìn những nhà Ki-tô truyền giáo đã làm gì trên thế giới bởi vì họ tin tưởng vào một điều gì. Niềm tin đó có lẽ hoàn toàn không thực, một hình ảnh mà tâm trí đã tạo nên, nhưng họ đã tin tưởng vào nó, bị dính mắc với nó, và họ muốn cải đổi tất cả những người khác trên thế giới trở thành cùng một niềm tin giống như họ. Họ chịu đựng với những hoàn cảnh hết sức bất tiện, với bệnh tật và mọi thứ gian nan. Và những nhà thần bí nào mà nói chuyện với Thượng-đế qua sự cầu nguyện – tôi không biết Thượng-đế gì, không ai biết – họ có ảnh tượng là có một thực thể tối thượng mà xuyên qua cầu nguyện, qua đức tin (faith), qua lòng tận tụy hiến dâng, qua lòng sùng kính, bạn có thể dời được đồi núi. Hãy quan sát cái điều mà nước Mỹ, Nga-sô, Ấn-độ và các quốc gia khác đang làm. Họ có đức tin to tát về quốc gia họ, về chủ nghĩa dân tộc họ, và họ đang xây dựng một thế giới kỹ thuật rộng lớn để tiêu diệt những kẻ khác mà những người này cũng đang làm cái điều giống y chang như họ. Đi lên cung trăng, cần có năng lực khổng lồ; còn tiềm năng kỹ thuật, đức tin... Người Mỹ đầu tiên đã cặm lá cờ của họ trên mặt trăng!

Trong thế giới Cơ-đốc giáo, đức tin thế chỗ cho sự hoài nghi. Hoài nghi có tánh thực sự thanh tẩy, nó thanh lọc tâm trí. Nếu bạn hoài nghi kinh nghiệm và quan niệm của bạn, thì bạn được tự do quan sát một cách rõ suốt. Với thế giới quan Đông-phương, Phật-giáo và Ấn-giáo, hoài nghi là một trong những nhân tố trọng đại. Đòi hỏi bạn hoài nghi và đặt nghi vấn, bạn không bị ép buộc phải chấp nhận: hãy là ánh sáng cho chính bạn, cái ánh sáng không thể được trao truyền cho bạn từ bất cứ ai. (Dĩ nhiên, hiện nay, ở Ấn-độ và Châu-Á, nó đã tiêu tan toàn bộ, họ giờ đây cũng như bất cứ ai khác, họ đang trở thành những nhà buôn). Sức mạnh hùng vĩ không đến qua sự cầu nguyện, nó cũng không sinh khởi từ ảo tưởng, đức tin; nó đến từ sự trong sáng, qua đó tâm trí có thể thấy một cách rõ ràng. Và sự trong sáng đó không đến không đi. Khi bạn thấy một sự gì rõ suốt – thí dụ, chủ nghĩa dân tộc là sự hủy hoại nhất trên thế giới này – khi đó bạn dứt hẳn với nó. Và sự chấm dứt gánh nặng đeo mang đó cho bạn sinh khí, năng lực, sức mạnh. Tương tự, nếu bạn được tự do toàn triệt khỏi hết thảy những lệ thuộc dính mắc, nó mang đến cho bạn sức mạnh của thương yêu, với điều đó bạn có khả năng làm được nhiều hơn so với tất cả những kinh nghiệm và cầu nguyện kia.


Để vượt thoát qua một ảo tưởng, qua một biểu tượng, qua một lý tưởng thì dễ dàng thôi. Nhưng thấy được một cách chính xác chúng ta là gì và vượt lên khỏi thì đòi hỏi rất nhiều năng lực, tri giác và hành động; nó vô cùng gian nan, cam go. Nghĩa là chúng ta phải trở nên tỉnh thức phi thường trong tất cả mọi hành vi và cảm giác của mình. Nhưng chúng ta không sẵn lòng làm tất cả điều đó. Chúng ta nghĩ rằng xuyên qua đôi chút cầu nguyện dễ dàng, chúng ta có thể nói chuyện với Thượng-đế. Thượng-đế, rốt cùng lại, được sắp đặt bởi tư tưởng: Thượng-đế Cơ đốc giáo, những vị thượng-đế Ấn giáo; Phật tử thì không có Thượng-đế nhưng họ có những hình ảnh riêng của chính họ.

(Question & Answer Meeting in Brockwood Park – 9/1980)

********

An illusion can give you enormous vitality and strength to do extraordinary things.
When you are a nationalist, it gives you extraordinary power to kill others!
(J. Krishnamurti)

***
Con đường – Chân lý – Sự sống
Way - Truth - Life


Hỏi: Câu hỏi của tôi là, làm thế nào ông có được tự do mà không biết đến Giê-su Kitô?

J. Krishnamurti: Tôi không hiểu câu hỏi của ngài.

Hỏi: Giê-su Kitô nói, “Ta là đường đi, chân lý và sự sống”, Giê-su Ki-tô là con đường duy nhất, chân lý duy nhất, và sự sống duy nhất. Không có Giê-su Ki-tô thì không có chân lý và sự sống, và đó là con đường duy nhất.

J. Krishnamurti: Thưa ngài, xin thứ lỗi cho tôi, 2000 ngàn năm qua, câu tuyên bố này, theo Kinh thánh, được ghi lại bởi những môn đồ sau sáu mươi năm gì đó hay hơn. Lời tuyên bố đó đã tồn tại lâu dài trước đó nữa – mỗi tiên tri, mỗi đạo sư, từ những ngày xa xưa nhất đều đã tuyên bố lời này. Nhưng lời tuyên bố đó có làm an ổn gì không cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta? Tất cả những sự trình bày trong các sách tôn giáo – có một vấn đề rất phức tạp trong sự việc này, những ai sống với kinh sách – ở đây, ngài sống với Kinh thánh, và thế giới Hồi giáo với kinh Koran, còn thế giới của người Ấn-độ và Trung Quốc nữa, có cả ngàn quyển sách, hoặc nửa tá sách thôi cũng đủ tốt. Nên, với những kẻ chỉ nương cậy vào có một quyển sách thôi, sẽ trở nên giáo điều, độc đoán khủng khiếp. Nếu ngài có theo dõi sự việc này một cách cẩn thận, những người được cho là dị giáo đã bị hỏa thiêu trong quá khứ. Và những kẻ nào lệ thuộc vào Marx, Lenin, thì ngài có thể thấy chuỵên gì đang xảy ra ở đó. Nếu ngài có một ít quyển sách, những sách tôn giáo, chúng không nên quá giáo điều độc đoán. Thí dụ ở Ấn-độ, ngài có thể là một người tốt mà không cần phải tin tưởng vào thượng-đế, không cần thực hành những nghi thức tôn giáo, và những nghi thức trở thành một hình thức giải trí, tùy tiện, tôn giáo hoặc gì khác.

Vì vậy, thưa các ngài, nếu ta quá giáo điều, võ đoán, ngoan cố với những kết luận của ta, chính điều đó đang tạo nên quá nhiều nhiễu loạn và kinh hoàng trên thế giới này. Người Nga-sô sẽ không nhường một phân đối với điều họ tin tưởng, ý thức hệ của họ; những người được gọi là Ki-tô hữu (Christians) và những ai được gọi là dân chủ cũng sẽ chẳng nhường một phân. Do đó có chiến tranh. Và vì vậy, xin làm ơn hiểu cho, chúng tôi không có đang tuyên bố bất cứ điều gì, chúng tôi chỉ đang quan sát và vận hành, không bất động. Cho nên, ta cần phải có sức sống và năng lực vượt trội. Bởi chúng ta lảng phí năng lực của mình vào toàn bộ những chuyện vô lý, ngớ ngẩn đó. Như thế đủ rồi chứ, thưa ngài?


********


Thượng Đế toàn năng
Infinite God



Hỏi: Ngài đã trình bày nhiều điều thật đúng đối với thời buổi hiện nay, chẳng hạn như giới hạn của tư tưởng con người, và sự quan trọng trên hết của tình thương. Nhưng, tôi hơi có chút thất vọng vì ngài đã không thực sự cho chúng tôi biết câu trả lời của các điều này.

J. Krishnamurti: Ồ, tôi đã trả lời rồi mà.

Hỏi: Câu trả lời được trao truyền cho chúng tôi từ một Thượng Đế toàn năng và là đấng sáng tạo duy nhất. Đấng ấy đã gởi Giê-su Ki-tô đến trần gian này, thể hiện tình thương ra sao bằng cách chết trên thập tự giá cho chúng ta. Giê-su Ki-tô là tình yêu, là hiện thân của tình yêu, không biết đến Giê-su Ki-tô thì ngài không thể biết được sự yêu thương.

J. Krishnamurti: Thưa ngài, tôi không muốn biết thượng-đế là gì. Tôi không muốn biết. Ngài có ý gì khi nói về sự biết. Biết, ngụ ý sự nhớ lại. Sáng hôm nay chúng ta gặp nhau, ngài đã nhìn thấy diễn giả, khuôn mặt của ông ta, và ngài ghi nhớ nó. Ngài rất có thể không nhớ nó. Và sự nhớ lại là hình ảnh mà ngài đã có được về người này. Điều này quá hiển nhiên rồi. Và chúng ta đã tạo dựng nên một sự thể ngoại lệ được gọi là thượng-đế. Mỗi một nền văn minh, trong quá khứ, hiện tại và vị lai đều có những ý tưởng riêng của họ về vị thượng-đế ra sao. Ở Ấn-độ có 300.000 (ba trăm ngàn) thượng-đế, và trong thế giới quan của Ki-tô giáo thì chỉ có một thượng-đế. Ở Ấn-độ, bạn có thể vui chơi với 300.000 thượng-đế, chọn bất cứ vị nào bạn thích và nô đùa. Xin vui lòng cho, tôi nói nghiêm trang. Điều đó có vẻ khá ngớ ngẩn, nhưng nó là sự kiện thật. Và khi không có sự sợ hãi ở nội tâm như sợ chết, sợ nỗi bất ổn – ngài hiểu chứ -- không có sợ hãi bất cứ gì, về tâm lý và lẫn sinh lý, khi đó có tự do. Ngài hiểu chứ? Trong tự do đó mà nó là thể tánh của năng lực, và năng lực này có thể được gọi bởi nhiều tên khác nhau.

(Science and Creativity, Los Alamos, 1984)

********

We have built the extraordinary thing called god,
each civilization, the past, the present and the future,
have their own ideas about what god is.

J. Krishnamurti

***
Is there a god?


Hỏi: Tôi thực sự muốn biết rằng có một đấng Thượng đế duy nhất chăng? Bởi, nếu không có Thượng đế thì cuộc sống trở nên vô nghĩa. Không biết về đấng thượng đế đó nên người ta đã tạo tác nên những niềm tin và hình ảnh khác nhau từ vị thượng đế này. Sự chia rẽ và sợ hãi được sản sinh từ sự phân chia vị thượng đế ra những hình ảnh và niềm tin khác biệt từ sự bất đồng trong quan niệm từ những tín đồ của vị thượng đế đó. Để vượt thoát được sự đau thương và tinh quái của sự phân chia này họ lại sáng tạo thêm những niềm tin khác về vị thượng đế đó, nhưng rồi sự đau khổ và rối loạn gia tăng đã nhận chìm ta đi. Vì không biết rõ vị thượng đế nên chúng ta tin tưởng. Tôi có thể biết được thuợng đế không? Tôi đã từng đặt câu hỏi với các vị thánh nhân ở Ấn độ cũng như tại xứ sở này, và tất cả họ đều nhấn mạnh về niềm tin. “Tin đi rồi bạn sẽ biết; không có niềm tin bạn chẳng bao giờ biết được.” Chẳng hay ông nghĩ sao?

J. Krishnamurti: Niềm tin có cần thiết phải tìm kiếm không? Tìm hiểu quan trọng hơn rất nhiều so với việc biết. Hiểu được niềm tin thì niềm tin chấm dứt. Khi tâm trí tự do thoát khỏi niềm tin thì nó mới có khả năng ngắm nhìn, quan sát được. Tin tưởng hay không-tin-tưởng, nó trói buộc mình; vì tin hoặc không-tin thì giống nhau: là hai mặt của một đồng tiền. Vì vậy, chúng ta hãy để niềm tin tích cực hoặc tiêu cực qua một bên; kẻ tin tưởng hay kẻ không-tin-tưởng thì đều giống nhau. Khi nào ta thực sự hiểu được như thế thì câu hỏi, “Có một vị thượng đế hay không?” sẽ mang một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Cái danh từ thượng đế cùng với tập tục truyền thống lâu đời của nó, ký ức của nó, đã được tán rộng thêm bởi ý kiến, cảm tình, tính ủy mị, và tri thức của nó – tất cả các điều này không phải là thượng đế. Ngôn từ không phải là điều thực. Vậy thì tâm trí có thể tự do khỏi từ ngữ hay không?

Người hỏi: Tôi không biết điều ông nói có nghĩa là gì.

J. Krishnamurti: Danh từ, lời nói là phong tục truyền thống, niềm hy vọng, sự khao khát tìm kiếm cái tuyệt đối, sự tranh đấu theo đuổi cái tối hậu, sự vận hành của những điều này tạo nên sức sống để tồn tại. Vì vậy, ngôn từ chính nó lại trở thành cái tối hậu, song chúng ta có thể thấy rằng ngôn từ không phải là sự vật. Tâm trí chính là ngôn từ, và ngôn từ là tư tưởng.

Người hỏi: Vậy là ông đòi hỏi tôi lột bỏ từ ngữ ra khỏi bản thân mình? Làm sao tôi có thể làm được? Từ ngữ là quá khứ; nó là ký ức. Vợ tôi là từ ngữ, ngôi nhà là từ ngữ. Khởi thủy là ngôn ngữ. Vả lại, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, nhận diện. Tên của ông không phải là ông, nhưng mà không có tên ông thì tôi không thể hỏi han về ông. Ông hỏi tôi rằng tâm trí có thể tự do khỏi từ ngữ - nghĩa là, có thể nào cái trí óc này được tự do khỏi hoạt động của chính nó?

J. Krisnamurti: Trong trường hợp của một cội cây, vật thể trước mắt ta đây thì danh từ về nó được sự đồng ý chung (universal argeement). Bây giờ với danh từ “thượng đế” thì không có gì để tham khảo về thượng đế cả, cho nên mỗi người tự họ có thể sáng tạo hình ảnh thượng đế riêng mà chẳng có dựa vào để biết được. Lý thuyết gia sáng tạo hình ảnh thượng đế theo đường lối này, nhà trí thức theo lối kia, rồi người tin tưởng và kẻ không-tin-tưởng thì tạo nên theo những lối khác của chính họ. Sự hy vọng làm sinh khởi một niềm tin, rồi khiến ta tìm cầu. Niềm hy vọng này là hậu quả của thất vọng – nỗi thất vọng về mọi thứ mà chúng ta thấy xung quanh mình ở thế giới này. Hy vọng sinh ra từ thất vọng, chúng cũng là hai mặt của đồng tiền. Khi mà không có hy vọng thì địa ngục có mặt, và nỗi sợ hãi địa ngục này cho chúng ta sinh khí của niềm hy vọng. Và rồi ảo tưởng bắt đầu. Cho nên, thế giới này dẫn chúng ta đến ảo tưởng chứ chẳng phải thượng đế gì cả. Thượng Đế chính là ảo tưởng mà chúng ta tôn thờ; và kẻ không-tin-tưởng cũng sáng tạo nên ảo tưởng của một thượng đế khác mà hắn tôn sùng –- chẳng hạn chính phủ, hoặc một chính thể không-tưởng, hoặc sách vở nào đó mà hắn nghĩ là có chứa đựng toàn bộ chân lý. Vì vậy, chúng tôi muốn hỏi bạn rằng liệu có thể nào bạn giải thoát ra được khỏi ngôn từ với ảo tưởng của nó chăng.

Người hỏi: Tôi phải chiêm nghiệm vấn đề này mới được.

J. Krisnamurti: Nếu không còn ảo tưởng thì cái gì còn lại?

Người hỏi: Chỉ còn cái-đang-là (*).

J. Krishnamurti: “Cái đang là” là cái thiêng liêng nhất.

Người hỏi: Nếu “cái đang là” là linh thiêng nhất, thế thì chiến tranh thiêng liêng nhất, và sự hỗn loạn, lòng căm hờn, đau khổ, tính hám lợi và cướp bóc cũng vậy rồi. Thế nên chúng ta không cần phải nói về bất cứ sự thay đổi nào cả. Nếu “cái hiện đang là” là linh thiêng, thế thì mỗi kẻ cướp, mưu sát và bóc lột có thể nói, “Đừng chạm đến tôi, cái điều tôi đang làm là linh thiêng đó”.

J. Krishnamurti: Sự diễn tả “cái-đang-là linh thiêng nhất” một cách sơ sài và hời hợt như thế dẫn đến sự hiểu lầm to lớn, bởi vì chúng ta không thấy được sự thật của nó. Nếu bạn nhận thấy rằng “cái đang là” là linh thánh, bạn sẽ không mưu hại ai, bạn không tạo ra chiến tranh, bạn không hy vọng, bạn không lợi dụng người khác. Bạn đã làm những điều đó rồi thì không được miễn trừ khỏi sự thật (truth) vì bạn đã xâm phạm nó. Một người da trắng đã không nhận thức được khi nói với những người da đen gây náo loạn thế này, “Cái-đang-là thì linh thiêng, đừng gây phiền nhiễu, đừng đốt phá”, vì nếu anh da trắng hiểu biết được rằng dân Da đen (negro) là linh thiêng với anh ta, thì đã không có chuyện mưu cầu đòi hỏi gì để sự hỗn loạn đốt phá xảy ra bởi người da đen. Vì vậy, nếu mỗi người trong chúng ta nhận hiểu được sự thật này thì sẽ phải có thay đổi. Sự thấy hiểu sự thật này là thay đổi.

Người hỏi: Tôi đến đây để tìm hiểu xem có thượng đế hay chăng, và ông đã khiến tôi bị rối rắm hoàn toàn.

J. Krishnamurti: Bạn đã hỏi rằng liệu có thượng đế hay không? Chúng tôi mới nói: thế giới dẫn đến ảo tưởng mà chúng ta tôn thờ, và vì ảo tưởng này chúng ta sẵn lòng tiêu diệt lẫn nhau. Khi nào không có ảo tưởng thì “cái đang là” là thiêng liêng nhất. Bây giờ chúng ta hãy nhìn xem cái đang là thực sự là gì. Vào một khoảnh khắc nào đó thì “cái đang là” rất có thể là nỗi lo sợ, hay sự tuyệt vọng, hoặc niềm vui thoáng qua. Những trạng thái này thay đổi không ngừng. Và người quan sát cũng có mặt cho rằng, “Những trạng huống này thay đổi quanh tôi toàn bộ, nhưng tôi duy trì bất biến.” Đó là một sự kiện thật, đó có phải cái-đang-là thực sự không? Phải chăng hắn ta (kẻ quan sát) cũng không có đang thay đổi, bổ sung thêm vào hoặc lấy bớt đi từ hắn ta, sửa đổi và điều chỉnh hắn ta, trở thành hoặc không trở thành? Vậy nên, cả hai kẻ quan sát và sự vật được quan sát đều đang liên tục biến đổi. “Cái đang là” là sự biến đổi. Đó là sự kiện (a fact). Đó là cái-đang-là.

Người hỏi: Vậy thì tình yêu có thể thay đổi sao? Nếu mọi sự đều là một giòng biến đổi, thế tình yêu không phải là một phần của giòng biến đổi đó hay sao? Vả lại, nếu tình yêu có thể thay đổi, thế thì hôm nay tôi có thể yêu một phụ nữ này và ngày mai ngủ với một phụ nữ khác.

J. Krishnamurti: Đó là tình yêu sao? Bạn cho rằng tình yêu thì khác với sự biểu lộ của nó? Hoặc bạn cho rằng sự biểu lộ này quan trọng hơn tình yêu, và vì vậy tạo nên mâu thuẫn và xung đột. Tình yêu có thể nào bị vướng vào vòng biến đổi? Nếu thế thì tình yêu cũng có thể là sự oán ghét; vậy tình yêu là oán ghét. “Cái đang là” là linh thiêng nhất chỉ khi nào không còn ảo tưởng nữa. Khi nào không còn ảo tưởng thì “cái đang là” là thượng đế hoặc bất cứ tên gọi nào cũng có thể dùng được. Vậy, thượng đế, hoặc bất kỳ danh xưng tên gọibạn đặt cho nó, sẽ hin bày khi bạn không còn ảo tưởng. Khi bạn còn ảo tưởng thì nó không hin hiện. Khi bạn không còn ảo vọng, thì có tình yêu. Khi bạn sống với ảo vọng, thì không có tình yêu.

(The Urgency of Change)

(*) What is: Cái-đang-là, thực tại, chân lý.


*******

Hope is the outcome of despair -- the despair of all we see around us in the world.
From despair hope is born, they also are two sides of the same coin.
When there is no hope there is hell, and this fear of hell gives us the vitality of hope.
Then illusion begins.
So the word has led us to illusion and not to god at all. God is the illusion which we worship...

Jiddu Krisnamurti

***
***

Loạt những câu Vấn Đáp sau đây giữa Jiddu Krishnamurti với Học sinh, với Thầy Cô giáo được trích dịch ra từ Life Ahead (Giáp Mặt Cuộc Đời) và Krishnamurti on Education (Bàn Về Giáo Dục).




Life Ahead

***


Life Ahead 1

Student: Làm thế nào chúng ta đạt được thói quen can đảm, tính không sợ hãi?

Jiddu Krishnamurti: Hãy xem xét từ ngữ mà em dùng. ‘Thói quen’ ngụ ý một sự chuyển động, hành động mà nó cứ lặp đi lặp lại. Nếu em làm đi làm lại điều gì đó, nó bảo đảm được gì không hay chỉ là sự đơn điệu, buồn chán? Phải chăng tánh không sợ hãi là một thói quen? Chắc chắn là tính không sợ hãi chỉ đến khi mà em gặp phải những sự kiện tình cờ xảy ra trong đời sống rồi tìm giải pháp để xử lý chúng ổn thỏa; khi em giáp mặt chúng rồi khảo sát chúng, nhưng đừng nên suy xét chúng với một tâm trí mệt mỏi, đờ đẫn.

Nếu em làm những việc gì đó một cách quen thuộc, nếu em sống theo thói quen, khi đó em chỉ là một cái máy mô phỏng, bắt chước. Thói quen là sự lặp đi lặp lại, làm tới làm lui một công việc giống nhau mà không cần suy nghĩ, nó là cái tiến trình xây lên cái bức tường xung quanh bản thân em. Nếu em đã dựng lên bức tường bao bọc bản thân mình từ một vài thói quen nào đó, thì em sẽ không được tự do khỏi sự sợ hãi, và chính sự sinh hoạt bị vây hãm trong bốn bức tường như thế khiến em lo sợ. Khi nào em có được sự thông minh để quan sát mọi sự xảy ra trong đời sống bằng cách quan sát, suy xét mỗi một vấn đề phiền toái, mỗi sự kiện tình cờ xảy đến, mỗi ý nghĩ và cảm xúc, mỗi một phản ứng – chỉ khi đó mới có được tự do thoát khỏi sự sợ hãi.


*****

Student: Làm cách nào để ta được thông minh?

J. Krishnamurti: Hàm ý trong câu hỏi này là gì? Em muốn một phương pháp để được thông minh, điều này ngụ ý rằng em biết sự thông minh (intelligence) là gì. Khi em muốn đi đến một nơi chốn nào đó, em biết nơi sẽ đến và em chỉ cần hỏi đường đi tới chỗ đó thôi. Tương tự như thế, em nghĩ rằng em biết sự thông minh là gì, và em muốn biết cái phương pháp để được thông minh. Sự thông minh chính là tìm hiểu, tra xét cái phương pháp này. Sự lo sợ làm lụi tàn trí thông minh, phải thế chăng? Sợ hãi ngăn chặn em, khiến em không có khả năng để khảo sát, đặt vấn đề, để tìm hiểu; nó ngăn chặn em khám phá ra cái gì là sự thật. Em có thể được thông minh khi không còn lo sợ. Vì vậy em phải tra hỏi, tìm hiểu, suy xét toàn thể vấn đề sợ hãi này, và tự do khỏi nó; khi đó khả dĩ có sự thông minh. Nhưng nếu em nói, “Làm thế nào để tôi được thông minh?”, thì em chỉ là luyện tập theo một phương pháp nào đó, và rồi em sẽ trở nên đần độn.



*****

Education does not consist in merely being able to read and pass examinations; any clever person can do that.
Education consists in cultivating intelligence, does it not?
By intelligence I do not mean cunning, or trying to be clever in order to outdo somebody else.
Intelligence, surely, is something quite different. There is intelligence when you are not afraid.

J. Krishnamurti
...
Life Ahead 2

Student: Ai cũng biết rằng, tất cả chúng ta đều sẽ phải chết. Tại sao chúng ta lại sợ chết?

J. Krishnamurti: Tại sao chúng ta sợ chết? Ắt hẳn là vì em không biết cách sống, hẳn thế? Nếu em biết làm thế nào để sống một cách trọn vẹn, thì em có lo sợ về cái chết không? Nếu em yêu mến cây cối, cảnh mặt trời lặn buổi hoàng hôn, chim chóc, chiếc lá rơi; nếu em nhận thấy những giọt nước mắt chảy dài trên mặt của những người đàn ông và phụ nữ, của những người nghèo khổ, khốn cùng, và em cảm giác sự yêu thương thực sự trong trái tim mình, thì em có lo sợ về cái chết không? Có lo sợ chăng? Các em đừng để bị thuyết phục bởi lời tôi nói. Chúng ta hãy cùng với nhau suy về . Em sống không được vui vẻ, em không được hạnh phúc, em thiếu sự giao cảm với tình cảnh và sự vật trong đời, cho nên đó là lý do tại sao em hỏi cái gì xảy đến khi em chết đi? Đời sống đối với em là buồn bả, đau khổ, vì vậy em quan tâm nhiều hơn đến sự chết. Em cảm nghĩ có thể sẽ được hạnh phúc sau khi chết. Nhưng, đó là một vấn đề nan giải to tát, tôi không biết liệu em có muốn đi sâu vào để khám phá nó chăng? Xét cho cùng, sự sợ hãi là căn nguyên của toàn thể những điều này: sợ chết, sợ sống, sợ đau khổ, bất an. Nếu em không hiểu được cái gì là nguyên nhân gây ra sợ hãi và rồi tự do khỏi nó, thế thì em không cần bận tâm lo chi nhiều dù cho là em đang sống hay là chết.

*****


Student: Làm sao để chúng ta có thể sống một cách hạnh phúc, vui vẻ?

J. Krishnamurti: Em có ý thức khi em đang sống trong trạng thái hạnh phúc chăng? Em ý thức khi em đau khổ. Khi một ai đụng chạm gây tổn thương em, hoặc là nóng giận nổi cáu với em, thì em nhận biết được sự đau buồn. Nhưng, trong khi em hạnh phúc thì em có biết được không? Em có ý thức được cơ thể mình khi em đang khỏe khoắn? Chắc hẳn rằng, hạnh phúc là cái trạng thái mà em không tự biết khi nó đang hiện hữu, cái trạng thái mà em không ý thức được. Cái khoảnh khắc mà em ý thức là mình hạnh phúc, khi đó trạng thái hạnh phúc bị dừng lại, phải thế không? Nhưng, hầu hết các em đều bị khổ đau, và rồi ý thức được nó nên các em mới tìm cách vượt thoát khỏi đau khổ để có được cái trạng thái mà các em gọi là hạnh phúc. Em muốn có ý thức tự thân mình đang hạnh phúc; nhưng rồi cái khoảnh khắc mà em ý thức về hạnh phúc, thì đã trôi qua mất, đã không còn tồn tại. Em đang hoan hỷ, vui sướng thì khi đó em có thể nào nói, diễn đạt được nó chăng? Chỉ sau đó, khi niềm hạnh phúc đã qua rồi, vài giây phút hoặc một tuần sau đó em mới bày tỏ, “Hạnh phúc làm sao, niềm sung sướng biết là nhường nào mà tôi đã trải qua.” Còn ngay trong lúc em hạnh phúc mà không ý thức về nó, thì đó chính là vẻ đẹp tuyệt vời của hạnh phúc.


*****


Intelligence is the capacity to deal with life as a whole; and giving grades or marks to the student does not assure intelligence.
On the contrary it degrades human dignity. This comparative evaluation cripples the mind - which does not mean that the teacher must not observe the progress of every student and keep a record of it.

J. Krishnamurti
...

Life Ahead 3

Student: khả thi được không với một kẻ đã tự do khỏi mọi mặt của sự sợ hãi anh ta vẫn sinh hoạt trong xã hội, sống giữa dòng đời?

J. Krishnamurti: Xã hội là gì? Một bảng các giá trị, một bộ các quy luật, các điều lnhững phong tục tập quán của truyền thống, phải thế không? Em nhận thấy các ước lệ, điều kiện, tình cảnh này trong xã hội nên mới nói, “Tôi có thể nào tương giao một cách thực thụ với tất cả mọi điều mọi sự đó chăng?” Tại sao lại không? Nói cho cùng, nếu em chỉ biết chìu mình thích ứng trong cái khuôn mẫu xã hội như thế, thì em có được tự do không? Ý của em là gì khi nói, khả thi được không?” Ý em là mưu sinh, kiếm sống? Có nhiều việc em có thể làm để kiếm kế sinh nhai; chẳng lẽ khi nội tâm em được tự do tự tại rồi em không thể chọn lựa được việc gì mà em muốn làm hay sao? Phải chăng đó là điều bất khả thi, không thể thực hiện được? Hoặc em xét thấy là hãy quên đi cái chuyện tự do của bản thân và gượng ép mình vào cái khuôn mẫu xã hội đó để trở thành luật sư, giám đốc ngân hàng, thương gia hoặc nhà phu quét đường? Chắc chắn một điều rằng khi em được tự do và trau giồi sự thông minh, em sẽ khám phá ra công việc gì là tốt nhất để em làm. Em sẽ để qua bên tất cả những quy ước tập tục truyền thống và làm một công việc gì đó mà em yêu thích dù cho cha mẹ và xã hội có chấp nhận hay là không. Bởi vì khi em được tự do thì khi đó có sự thông minh, và em sẽ làm một công việc hoàn toàn do chính em tự chọn, khi ấy em sẽ sống như là một cá thể hợp nhất trong ý nghĩ và hành động, trước sau như một.

*****

Student: Tại sao có nhiều người sinh ra trong hoàn cảnh nghèo kh trong khi những người khác thì giàu sang và thoải mái?

J. Krishnamurti: Em nghĩ sao? Thay vì đặt câu hỏi và chờ nghe tôi trả lời, sao em không thử tìm hiểu xem em cảm thấy thế nào về tình cảnh đó? Có phải em cho rằng đó là do cái tiến trình bí ẩn được gọi là nghiệp quả? Trong tiền kiếp em sống một cách đạo đức như tử tế, thành thật, can đảm và giờ đây em sống được sung túc dư giả và điều kiện như ý! Hoặc là kiếp trước do hành động xấu xa, đáng bị chê trách nên em phải trả nợ trong kiếp này!

Em thấy đó, đây là một vấn đề rất là phức tạp. Cảnh ngộ nghèo nàn là do lỗi lầm ở xã hội – cái xã hội mà kẻ tham tàn và kẻ gian trá lợi dụng để ở trên đỉnh cao. Chúng ta muốn cái điều giống nhau, chúng ta cũng muốn leo trèo từng nấc thang để lên tới vị trí chót vót đó. Khi tất cả chúng ta đều muốn đạt tới cái đỉnh cao danh vọng đó thì cái gì xảy ra? Chúng ta đạp đầu cưỡi cổ kẻ khác để bước lên, để thăng tiến; và kẻ bị đè đầu đạp cổ, bị triệt hạ đó đặt câu hỏi, “Tại sao đời sống bất công quá vậy? Bạn có mọi thứ và tôi chẳng có chút vị trí quyền hạn gì, tôi không có gì cả.” Chừng nào mà chúng ta còn tiếp tục tranh giành nhau leo lên những nấc thang thành công trong xã hội, thì chừng đó vẫn còn những người khốn khổ, thiếu ăn thiếu mặc. Khi nào sự tham lam thành công này được thấu hiểu, được lãnh hội thì khi đó sẽ không còn câu hỏi tại sao có những kẻ giàu và người nghèo, hoặc người thì có tài năng và kẻ khác lại không có tài cán gì. Cái cần được thay đổi là lòng tham đắm leo trèo của chúng ta, lòng khao khát được cao cả nổi bật hơn kẻ khác, lòng ham muốn là kẻ thành công nhất. Chúng ta đều có khát vọng được thành công, phải thế? Chính là sự sai sót, lầm lỗi trong xã hội chứ không phải là nghiệp báo hay sự giải thích nào khác. Sự kiện thực là chúng ta đều muốn ở tại đỉnh cao xã hội – có thể không đạt được vị trí cao tột đi nữa thì ít ra càng leo lên cao chừng nào trên các nấc thang danh vọng, lợi lộc trong xã hội thì càng hay. Khi nào còn có niềmsay được hay, giỏi, cừ nhất, sự mê đắm trở thành ông này bà nọ trên thế giới này thì khi đó vẫn còn có kẻ thì giàu sang ngất ngưỡng, người thì nghèo hèn thấp kém đói khát, khi đó vẫn còn có kẻ cơ hội, lợi dụng và người bị lợi dụng, bị chà đạp.

*****

The fullest development of every individual creates a society of equals. The present social struggle to bring about equality on the economic or some spiritual level has no meaning at all. Social-reforms aimed at establishing equality, breed other forms of antisocial activity; but with right education, there is no need to seek equality through social and other reforms, because envy with its comparison of capacities ceases.

J. Krishnamurti

...
Life Ahead 4


Student: God là gì?

J. Krishnamurti: Em sẽ tìm hiểu bằng cách nào đây? Em sẽ chấp nhận thông tin của người khác? Hoặc, em sẽ tự mình dụng công để tìm hiểu, khám phá xem God là gì? Hỏi han ai đó thì dễ dàng thôi, nhưng để tự thân thể nghiệm chân lý thì đòi hỏi sự thông minh vô cùng, đòi hỏi nhiều nỗ lực tra vấn, khảo sát, tìm kiếm.

Vì vậy câu hỏi trước tiên là em sẽ chấp nhận một người nào đó nói về God? Là ai đi nữa cũng không thành vấn đề, dù cho đó là các bậc giáo chủ của các tôn giáo, biết đâu họ có nhầm lẫn thì sao – và kể cả vị đạo sư của em rất có thể cũng sai lầm. Hiển nhiên là để khám phá chân lý hay sự thật thì tâm trí em phải được tự do để tra vấn và tìm hiểu, nghĩa là tâm trí không chỉ chấp nhận và tin suông. Tôi có thể truyền đạt, giảng giải cho em nghe về chân lý ra sao, nhưng nó sẽ không giống hệt như là em sẽ thể nghiệm nó tự thân mình. Tất cả các tài liệu được xem như là sách thánh đã diễn tả God là gì, God như thế nào, nhưng sự diễn giải đó không phải là God. Cái danh từ ‘God’ thì không phải là God, phải thế? Để khám phá ra chân lý hay sự thật là gì thì em nhất định đừng bao giờ mặc nhiên chấp nhận, đừng bao giờ để bị ảnh hưởng bởi các sách thánh, các vị thầy hoặc một ai đó nói về God. Nếu em bị ảnh hưởng bởi họ thì em chỉ tìm ra được những gì họ muốn em tìm thấy mà thôi. Em phải biết rằng tâm trí em có thể giả lập nên cái hình ảnh mà nó mong muốn; nó có thể tưởng tượng ra hình ảnh God với bộ râu hoặc một mắt; nó có thể tạo ra vị God màu xanh hay màu tím. Vì vậy, em nên ý thức những khao khát của em và cũng đừng để bị lừa gạt bởi những vọng tưởng về mong ước và nhu cầu của chính mình. Nếu em mong mỏi thấy God trong một hình ảnh nào đó, thì em sẽ thấy được God giống như vậy theo mong cầu của em; và hình ảnh đó thì không phải là God, phải vậy không? Nếu em đau khổ và muốn được an ủi, hoặc nếu em cảm nhận niềm xúc động mãnh liệt, tình cảm chứa chan, lòng nhiệt thành từ những khát vọng trong tôn giáo của em, thì rốt cuộc sau một thời gian tâm trí em sẽ tạo tác nên vị God ban phát cho em điều em mong mỏi; nhưng đó cũng chẳng phải là God.

Thế nên, tâm trí em phải hoàn toàn được tự do, và chỉ khi ấy em mới có thể khám phá ra cái gì là sự thật – không phải là chấp nhận sự mê tín nào đó, cũng không phải do đọc những cuốn sách được gọi là sách thánh, hay theo một đạo sư nào. Chỉ khi nào em có được sự tự do này, sự tự do thực thụ từ ở nội tâm tác động lên em -- cũng như những khao khát, ưa thích ảnh hưởng lên em -- để rồi tâm trí em sẽ thực rõ ràng, trong sáng – chỉ khi đó mới có thể khám phá, tìm hiểu God là gì. Trái lại nếu em chỉ ngồi đó và phỏng đoán (speculate), thế thì sự suy đoán của em bất quá cũng tương tự như vị đạo sư của em, chỉ toàn là ảo tưởng như nhau mà thôi.


*****

Student: Chúng ta có thể nhận biết, ghi nhận được những khao khát, ưa thích trong vô thức (unconsciousness) của mình không?

J. Krishnamurti: Trước hết, em có ghi nhận, có nhận ra được những khao khát hay ưa thích về mặt ý thức (consciousness) của em không cái đã? Em có biết khao khát hay ưa thích nghĩa là gì chăng? Em có nhận ra được rằng em thường xuyên không lắng nghe bất cứ ai nói điều gì trái ngược lại với niềm tin tưởng của em? Sự ưa thích của em ngăn chặn lại việc em lắng nghe đó. Nếu em khao khát God và ai đó chỉ rõ ra rằng God mà em mong ước chỉ là hậu quả đến từ sự thất vọng và sợ hãi, từ nỗi khổ niềm đau của em mà thôi, thì em có lắng nghe kẻ đó không? Dĩ nhiên là không rồi, phải thế? Em khao khát một điều, nhưng chân lý hay sự thật lại là cái gì hoàn toàn khác hẳn. Em tự đóng khung mình, thu hẹp mình lại trong giới hạn của niềm khao khát, ưa thích của em. Em chỉ là ghi nhận được nửa-vời những khao khát thuộc về ý thức của em, phải không? Và để nhận thấy được những khao khát, ham muốn tiềm tàng, ẩn kín sâu xa trong nội tâm mình thì gian nan hơn nhiều lắm. Để tìm hiểu cái gì tiềm ẩn, để phát hiện ra được những động lực của nó thì cái tâm trí đang tìm kiếm phải khá là trong sáng, rõ ràng và tự do. Trước hết, em phải hoàn toàn nhận ra những khao khát, ưa thích của ý thức mình; khi đó em sẽ dần dà ghi nhận được những gì trên bề mặt của nó, rồi từ đó em có thể tiến sâu hơn và sâu xa hơn.


*****


Student: God là đàn ông hay đàn bà, hoặc là sự thể gì đó huyền bí?

J. Krishnamurti: Tôi vừa trả lời câu hỏi đó rồi, tôi e rằng em đã không có lắng nghe. Quốc gia này đang bị thống trị bởi đàn ông. Giả sử tôi nói God là một người đàn bà thì em sẽ nghĩ sao? Em sẽ từ chối câu trả lời bởi vì tâm trí em chất chứa toàn là ý tưởng, khái niệm God là một người đàn ông. Vậy thì em phải tự mình tìm tòi, khám phá ra; nhưng mà, để tìm hiểu, để khám phá, em phải tự do thoát ra khỏi hết mọi thành kiến.

.....
Life Ahead 5

StudentBằng cách nào chúng ta có thể làm cho tâm trí được tự do trong khi sống trong một xã hội đầy những quy ước, điều lệ, tập tục?

J. Krishnamurti: Trước hết em phải có động lực mạnh mẽ, cái nhu cầu cấp thiết để được tự do. Tương tự như là con chim mong mỏi được chấp cánh bay, hoặc nước trong những ngóc ngách, kênh rạch của con sông được tuôn chảy ra dòng sông. Em có cái động lực thôi thúc ở nội tâm để mong được tự do này không? Nếu em có nó, thế thì cái gì sẽ xảy ra? Cha mẹ của em và xã hội cố gắng ép buộc em theo một khuôn mẫu nào đó. Em có thể kháng cự lại được không? Em sẽ nhận thấy ra là khó mà phản đối lại, vì em lo sợ. Em lo sợ sẽ không tìm được một việc làm để sinh nhai, hoặc không tìm kiếm đúng được người chồng hay người vợ như sở cầu; em lo lắng sẽ bị đói khát, thiếu cái ăn, cái mặc, hoặc sợ dư luận của thiên hạ. Mặc dù em muốn được tự do đó, mà em lại lo sợ; nên em sẽ không phản kháng lại. Em sợ thiên hạ có thể đàm tiếu, dị nghị về em, hoặc cha mẹ em có thể làm gì đó như cấm cố em này nọ, và vì vậy em tự ép buộc mình vào cái khuôn khổ đó.

Xét thấy như vậy rồi thì em có thể nào cất tiếng, “Tôi muốn biết, và tôi không ngại đứng lên phản kháng. Bất cứ chuyện gì xảy đến, tôi sẽ tranh đấu với những chướng ngại của cái xã hội mục rệu này, bởi vì tôi muốn được tự do khám phá, tìm hiểu.” Em có thể nói được vậy không? Khi em sợ sệt, lo âu, thì em có khả năng đứng vững để đối đầu với những rào cản, chướng ngại này, tất cả những quy định áp đặt này?

Thế nên, độ tuổi còn rất non trẻ, điều hết sức quan trọng giúp đứa trẻ nhận thấy ra được những ý nghĩa hàm chứa trong nỗi sợ hãi, và được tự do khỏi . Khoảnh khắc mà em sợ sệt, khi đó là dấu chấm hết cho sự tự do.

*****

Student: Chúng em đã được nuôi dưỡng và giáo dục trên nền tảng xã hội của cái sợ, thế thì làm cách nào mà chúng em khả dĩ được tự do khỏi nó?

J. Krishnamruti: Em có ý thức được là em lo âu, sợ sệt không? Nếu có, thì em làm thế nào để tự do khỏi nỗi sợ? Các em và tôi phải cùng nhau khám phá sự sợ hãi, các em hãy xem xét nó cùng với tôi.

Em thực sự ứng phó ra sao khi em ý thức rằng em đang sợ hãi? Em chạy trốn khỏi nó, đúng không? Bằng cách tìm đọc một quyển sách, hay dạo bộ ngoài trời, và em cố gắng quên nó đi. Em lo sợ cha mẹ em và xã hội; em nhận thức nỗi sợ hãi này và em không biết phải giải quyết nó như thế nào. Em thậm chí cũng sợ luôn cả sự quan sát nó, cho nên em chạy trốn khỏi nó bằng những phương hướng và cách thức đa dạng. Đó là lý do tại sao em tiếp tục học và vượt qua các kỳ thi cử cho đến giây khắc cuối cùng, khi mà em chẳng đặng đừng phải đối diện với cái sợ không tránh khỏi và buộc phải hành động. Em tiếp tục nỗ lực để chạy thoát khỏi vấn đề sợ hãi này, nhưng ứng phó như thế không giúp em được gì để giải quyết nó cả. Em phải đối diện với nó.

Sau khi đã suy xét về sự sợ hãi như vậy rồi thì giờ đây em có khả năng quan sát nó chứ? Nếu em muốn khảo sát một con chim, em phải quan sát hình dáng của nó, đôi cánh của nó, chân cẳng của nó, cái mỏ của nó, em phải tiến đến gần hơn để quan sát nó cho rõ ràng, hẳn là thế phải không? Tương tự như vậy, nếu em bị lo sợ, em phải tiếp cận gần cái sợ để quan sát nó. Còn như em trốn tránh nó, thì em chỉ làm tăng nỗi sợ hãi lên thêm mà thôi.

Chẳng hạn như em muốn sống với sự gì đó mà em thật lòng yêu thích. Nhưng, cha mẹ bảo em không được phép làm vậy và hăm dọa em chuyện gì đó rất phiền muộn nếu em bất tuân. Họ nói sẽ không cho em tiền bạc nữa, rồi em lo sợ. Em lo sợ đến nỗi thậm chí em chẳng dám quan sát nỗi sợ hãi này trong bản thân mình. Nên em bỏ cuộc sự quan sát và tâm trạng sợ hãi cứ tiếp diễn.


*****

While you are young, you are easily conditioned, shaped, forced into a pattern. It is said that if a child -- a good, intelligent, alert child -- is trained by a priest for only seven years, the child will be so conditioned that for the rest of his life he will continue essentially in the same way. (...) If you observe as you grow, you will begin to see how various influences are moulding you, how you are not helped to think, but are told what to think. Ultimately, if you do not revolt against this process, you become like an automatic machine, functioning without creativity, without much original thought. (Life Ahead)

Jiddu Krishnamurti

*****
Life Ahead 6


Student: Tự do thực sự là gì, và làm thế nào ta đạt được nó?

Jiddu Krishnamurti: Tự do thực thì không phải là một cái gì đó để đạt được, nó được sinh khởi từ sự thông minh. Em không thể đi ra ngoài tìm mua sự tự do ở thị trường, chợ búa. Em không thể có được nó bằng cách đọc sách, hoặc lắng nghe một ai đó thuyết giảng, nói chuyện. Tự do hiện đến với sự thông minh.

Nhưng mà thông minh là gì? Khi có sợ hãi, hoặc khi tâm trí bị quy định (conditioned) thì có thể nào có được sự thông minh? Khi tâm trí em đầy thành kiến, khi em nghĩ rằng em là người tuyệt hảo, hoặc khi em ôm ấp hoài bảo nhiệt thành muốn leo trèo lên cái thang thành công về vật chất hay tinh thần, thì sự thông minh khả dĩ có chăng? Có thể nào có được thông minh chăng khi em lo âu về bản thân, khi em theo đuổi sùng bái, tôn thờ một ai đó? Chắc chắn rằng sự thông minh hiển hiện khi em thấu hiểu và lìa bỏ tất cả những điều ngốc ngếch này. Vì vậy, em hãy bắt đầu đối diện ứng phó với chúng. Điều đầu tiên cần phải được nhận thức là tâm trí em không có được tự do. Em phải quan sát xem tâm trí của em bị trói buộc bởi những điều này ra sao, và khi ấy là sự bắt đầu của thông minh mà nó mang đến sự tự do. Em phải khám phá, tìm thấy ra câu trả lời bởi chính tự thân mình. Sự lợi lạc, an ổn của một kẻ có được nội tâm tự do thì ra sao trong khi em thì không, hoặc người khác có đủ thực phẩm để ăn trong khi em phải chịu thiếu thốn, đói khát thì em cảm thấy thế nào?

Một tâm trí khởi đầu khai phóng thực sự thì có tánh sáng tạo, khi đó có tự do, tâm trí tự do thì nhất định là thông minh. Vậy, em phải dò tìm, tra hỏi và khám phá xem cái gì đang ngăn chặn sự thông minh. Em phải thẩm tra đời sống, em phải đặt vấn đề về những giá trị xã hội, phải biết đặt nghi vấn mọi điều mọi sự, và em đừng chấp nhận bất cứ điều gì do bởi sợ hãi.


*****

Hỏi: Tại sao chúng ta lo sợ, ngay cả khi chúng ta biết rằng God bảo vệ mình?

J. Krishnamurti: Đó là điều em đã được dạy bảo, nghe nói. Cha mẹ và anh chị của em, họ đã bảo em rằng God che chở em; đó là một ý tưởng mà em bám víu vào, nhưng sự sợ hãi vẫn hiện hữu. Dù rằng em có ý tưởng này, ý nghĩ này, cảm giác là God bảo hộ em, sự kiện là em vẫn lo sợ. Sự sợ hãi của em hiển nhiên là một điều thật, chứ không phải cái ý tưởng của em là được God bảo vệ bởi vì cha mẹ và quy ước tập tục truyền thống của em cả quyết như thế, rồi thì em sẽ được bảo vệ.

Vậy thì cái gì đang thực xảy ra đây? Em có đang được bảo vệ không? Hãy quan sát hằng triệu người không được che chở đang bị đói khát. Hãy nhìn những người dân quê khốn khổ nghèo đói oằn lưng khiêng vác những vật nặng nề, thân thể họ lem luốc với quần áo rách rưới. Họ có được God bảo hộ chăng? Bởi vì em có nhiều tiền hơn những kẻ khác, vì em có một vị trí nhất định nào đó trong xã hội, vì cha em là một quan chức, hoặc là thị trưởng hay quận trưởng, hoặc là một đại doanh gia khéo léo dùng mánh khóe trên thương trường với người khác, thế thì em sẽ được che chở trong khi đó có hằng triệu người khác trên thế giới đang khốn khổ thiếu ăn, thiếu mặc, phải sống cảnh màn trời chiếu đất, không có chỗ nơi trú ngụ. Em hy vọng là những người nghèo khổ và đói khát này sẽ được bảo vệ bởi chính phủ, bởi chủ cả của họ, bởi xã hội, bởi God; nhưng họ sẽ không được che chở gì đâu. Ngay cả khi em thích có cảm giác là God sẽ bảo vệ em, thì thực tế chẳng có sự bảo vệ nào hết. Đó chỉ là cái ý tưởng thú vị để làm dịu đi nỗi sợ hãi của em mà thôi; vì thế em khỏi cần phải lo nghĩ đặt câu hỏi cho bất cứ điều gì, chỉ đơn giản tin tưởng nơi God. Mở đầu với cái ý tưởng rằng em sẽ được bảo vệ bởi God, thì nó vô nghĩa. Nhưng mà, nếu em thực tâm giáp mặt và khảo sát toàn thể cái vấn đề sợ hãi này thì em sẽ phát hiện ra là God có che chở, bảo vệ cho em hay là không.

Khi nào có lòng bi mẫn, trắc ẩn thì không có sợ hãi, không có sự bóc lột, không có sự khai thác lợi dụng, và khi ấy chẳng có vấn đề nào.


*****
Life Ahead 7

Hỏi: Xã hội là gì?

J. Krishnamurti: Xã hội là gì? Và gia đình có nghĩa là gì? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu, từng bước, từng bước để xem xã hội được tạo nên như thế nào, và nó hiện hữu, tồn tại ra sao.

Gia đình là gì? Theo em thì gia đình có nghĩa gì khi em nói, “Đây là gia đình của tôi”? Cha mẹ và anh chị em của em cùng với cảm giác thân mật gần gũi nhau, sự kiện là em đang sống với họ chung một nhà, cái cảm giác cha mẹ em đang che chở cho em và họ là chủ quyền sở hữu tài sản, vàng bạc trang sức, quần áo – tất cả sự thể này là căn bản của một gia đình. Những gia đình khác giống như của em đang sống trong các ngôi nhà khác cũng có cảm giác y chang như em, cảm giác ‘vợ của tôi’, ‘chồng của tôi’, ‘con cái của tôi’, ‘nhà cửa của tôi’, ‘áo quần của tôi’, ‘xe cộ của tôi’. Có nhiều gia đình như vậy đang cùng sinh sống trên mảnh đất như nhau của địa cầu này, và họ cảm thấy rằng những gia đình khác không được xâm phạm, chiếm lấn đến họ. Vì thế, họ bắt đầu làm ra luật pháp. Các gia đình có thế lực cùng nhau tạo dựng cho họ ở những vị trí, chức vụ cao; họ thâu tóm, giành được nhiều tài sản to lớn, họ có thêm nhiều tiền hơn, thêm nhiều xe cộ và quần áo hơn; họ hội họp cùng nhau đặt ra cái khung luật pháp, rồi họ bảo những người còn lại như chúng ta nên làm gì. Vì vậy dần dà xã hội hình thành, hiện hữu với luật pháp và điều lệ, với cảnh sát và quân đội. Nói cho cùng, toàn bộ trái đất này đã trở thành phổ biến với các loại xã hội đa dạng. Rồi sau đó, người ta có những ý tưởng đối nghịch lại và muốn lật đổ những kẻ thế lực có trong tay toàn bộ quyền hành và được dựng lên, đặt để ở những chức vụ, vị trí cao đó. Họ lật đổ cái thể chế xã hội riêng biệt đó và thành lập cái khác.

Xã hội là sự tương quan giữa con người – sự tương giao giữa một người này với người kia, giữa một gia đình này với gia đình kia, giữa nhóm này với nhóm nọ, giữa cá nhân và một nhóm. Sự tương giao của nhân loại là xã hội; mối tương quan giữa em và tôi. Nếu tôi rất hám danh vọng, hám lợi lộc, rất gian trá, rồi nếu tôi có thế lực mạnh và quyền hành nữa, thì tôi sẽ tống em đi chỗ khác; về phía em thì em sẽ cố gắng tìm cách hành động y chang lại như vậy đối với tôi. Vì vậy, chúng ta cùng tạo ra luật pháp. Tuy nhiên, những kẻ khác lại đến phá bỏ luật pháp của chúng ta, rồi tạo nên bộ luật pháp khác, và tình trạng như thế cứ tiếp diễn… Quan hệ của con người trong xã hội thì luôn có những xung đột không dứt. Đây là nền tảng đơn giản của xã hội, và nó càng ngày càng trở nên rối rắm thêm khi nhân loại tự thân họ càng lúc càng trở nên phức tạp hơn trong ý kiến, quan niệm, nhu cầu, tổ chức, và công nghiệp như sự đa dạng trong hoạt động, việc làm của công ty, hãng xưởng, nhà máy.


*****

Hỏi: Ông có thể được tự do trong khi đang sinh sống trong xã hội này không?

J. Krishnamurti: Nếu tôi nương tựa, phụ thuộc vào xã hội cho sự thỏa mãn, tiện nghi và thoải mái, thì tôi có thể lúc nào cũng được tự do không? Nếu tôi dựa dẫm vào cha tôi để có được tình cảm, tài chánh, cơ hội lợi thế để làm những việc gì, hoặc nếu tôi lệ thuộc vào đường lối của vị đạo sư nào đó, thì tôi chẳng thể được tự do, phải không? Vậy thì, tự do khả dĩ có được chăng khi mà tôi vẫn còn nương tựa về mặt tâm lý? Chắc chắn là tự do chỉ có khi tôi có khả năng, bắt đầu tự thân lên đường, khi tôi có thể suy nghĩ một cách độc lập, khi tôi không lo sợ về bất cứ ai nói gì, khi tôi thực lòng muốn tìm hiểu, khám phá ra cái gì là chân thật và tôi không hám danh lợi, đố kỵ, ganh ghét. Chừng nào mà tôi vẫn còn ganh tỵ, tham đắm danh lợi, tôi vẫn lệ thuộc vào xã hội về mặt tâm lý; khi nào mà tôi vẫn nương tựa vào xã hội trong phương cách đó, thì tôi chưa được tự do. Nhưng, nếu tôi ngừng hám danh hám lợi, dừng bám víu tước lộc, thì tôi được tự do.

*****

Hỏi: Tại sao người ta muốn sống trong xã hội trong khi họ có thể sống cô đơn?

J. Krishnamurti: Em có thể sống cô độc không?

Hỏi: Em sống trong xã hội bởi vì cha mẹ em sinh sống trong xã hội.

J. Krishnamurti: Để có một công việc làm mưu sinh thì em không sống trong xã hội có được không? Em có thể nào sống cô độc? Thực phẩm em dùng, quần áo em mặc, chỗ ở để cư trú thì em phải phụ thuộc vào một ai đó. Em không thể sống độc cư. Không có thực thể nào tồn tại một cách hoàn toàn cô độc được cả. Chỉ trong cái chết thì em mới là cô độc. Trong đời sống, em luôn luôn có liên hệ – tương giao với cha em, với anh của em, với người xin ăn, với người phu sửa chữa đường phố, với thương gia, với người thu thuế, với chính quyền địa phương. Em luôn luôn có tương giao; và em không hiểu sự tương giao đó, nên có mâu thuẩn, xung đột. Nhưng, nếu em thấu hiểu sự tương giao giữa em và kẻ khác thì không có xung đột, và khi ấy cái câu hỏi về sinh sống cô đơn không còn khởi hiện lên nữa.

*****

Hỏi: Vì chúng ta luôn luôn có tương quan lẫn nhau, có đúng thật chăng rằng chúng ta có thể được tự do tuyệt đối?

J. Krishnamurti: Chúng ta không hiểu được sự tương giao là gì, sự tương giao chánh đáng. Giả sử là phụ thuộc vào em để tôi có được sự thỏa mãn nhu cầu, sự tiện ích thoải mái, cảm giác an toàn; thế thì làm sao tôi có được tự do? Nhưng, nếu tôi không lệ thuộc bằng phương cách đó, tôi vẫn có liên hệ với em, phải vậy không? Tôi nương nhờ vào em để có được một dạng thoải mái, an ủi nào đó về cảm xúc, thể chất hoặc tri thức, vì vậy tôi không có được tự do. Tôi bám víu vào cha mẹ tôi bởi vì tôi muốn loại an toàn nào đó, sự tình này có nghĩa là sự tương giao của tôi với họ là một sự tùy thuộc, ỷ lại và dựa trên cái sợ mà ra. Trong tình cảnh đó, làm thế nào tôi có được bất cứ sự tương giao tự do nào? Có được tự do trong tương giao chỉ khi nào không có sự sợ hãi. Cho nên, để có sự tương giao đúng đắn, tôi cần phải bắt đầu ngay ở chính mình, thoát khỏi sự lệ thuộc mang tính chất tâm lý này mà nó làm khởi sinh sự sợ hãi.


***
*
Life Ahead 8

Student: Làm thế nào chúng ta có thể tự do khi cha mẹ nương tựa vào ta mà sống trong tuổi già?

J. Krishnamurti: Họ nhờ cậy vào em vì họ đã già. Thế thì sao? Họ trông mong em có kế sinh nhai để em có thể nuôi dưỡng họ với quần áo và thực phẩm; và nếu em muốn làm công việc gì đó như là thợ mộc hoặc nghệ thuật gia, dù rằng em không kiếm được bao nhiêu tiền, họ rất có thể kêu em đừng nên làm việc đó vì em còn phải trợ cấp cho họ. Em hãy suy nghĩ về vấn đề này. Tôi không nói nó là tốt hay dở. Bảo rằng chuyện đó tốt hay dở là chúng ta vô tình đặt dấu chấm hết cho khả năng suy tư của mình. Cha mẹ của em yêu cầu em nên phụng dưỡng họ để phòng ngừa em theo đuổi lối sống của chính em, và sống cho cuộc sống của riêng em được xem là ích kỷ; vì vậy em trở thành lệ thuộc họ.

Em có thể cho rằng chính phủ cần phải chăm sóc người già qua tiền trợ cấp và các phương tiện an sinh xã hội đa dạng khác. Nhưng, trong một đất nước mà dân số quá đông, lợi tức quốc gia không đủ, sản xuất thiếu hụt và .v.v…, chính phủ không đủ khả năng chăm lo cho họ. Vì thế, các bậc cha mẹ lớn tuổi phải nương tựa vào những người trẻ – con cái – và những người trẻ thì dễ dàng thích ứng trong lối mòn của tập quán, ước lệ, trào lưu và rồi bị lụi tàn đi. Nhưng, đây không phải là vấn đề được bàn bạc, thảo luận bởi tôi. Các em phải vận dụng suy nghĩ về nó và giải quyết làm sao cho được ổn thỏa, hài hòa, êm đẹp.

Tôi đương nhiên muốn trợ giúp cha mẹ tôi trong chừng mức phù hợp nào đó. Tuy nhiên, giả sử tôi muốn làm công việc gì đó mà được chi trả ít tiền thôi. Chẳng hạn như tôi muốn trở thành một nhà tôn giáo, sống đời sống tâm linh, tìm hiểu và khám phá xem God là gì, chân lý là gì. Lối sống như thế rất có thể chẳng đem lại cho tôi chút tiền bạc gì cả, và nếu tôi theo đuổi cách sống tâm linh đó, tôi có thể phải rời khỏi gia đình – nghĩa là cha mẹ tôi có thể sẽ lâm vào cảnh ngộ thiếu ăn, lầm than như hằng triệu người khác. Tôi nên làm gì cho phải đường, đúng lối đây? Chừng nào mà tôi còn lo sợ dư luận của thiên hạ – rằng tôi là người con trai thiếu bổn phận, rằng tôi là đứa con trai đáng khinh – tôi sẽ chẳng bao giờ là con người sáng tạo. Để là một người hạnh phúc và có sức sống sáng tạo, tôi phải có khả năng tư duy, phán đoán một cách độc lập lấy mình và quyết định để hành động.



Student: Có hợp lẽ chăng khi chỉ biết lo cho tốt phần mình và để cho cha mẹ thiếu ăn?

J. Krishnamurti: Em đặt vấn đề không đúng cách. Giả sử tôi muốn trở thành một nghệ thuật gia, nhà họa sĩ chẳng hạn, và tôi biết là hội họa sẽ kiếm được rất ít tiền. Tôi phải làm sao đây? Hy sinh cái động lực thôi thúc thầm kín trong tôi để trở thành người thư ký, kế toán? Đó là sự tình phổ biến thường hay xảy ra, phải thế? Tôi trở thành kế toán viên, và tôi sống trong tâm trạng mâu thuẩn, xung đột cho hết cuộc đời còn lại của mình, tôi bị khổ tâm. Và vì tôi khổ sở, thất vọng, tôi khiến cho đời sống của vợ tôi và con tôi bị đau khổ theo. Nhưng mà, nếu là một nghệ thuật gia trẻ, tôi thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của nó đối với mình, rồi tôi trình bày với cha mẹ tôi, “con muốn làm họa sĩ và con sẽ đưa cho cha mẹ phần nào trong số tiền thu nhập ít ỏi mà con có thể kiếm được; đó là những gì con khả dĩ giúp được.”

Các em đã đưa ra những câu hỏi khá đặc trưng và tôi đã trả lời. Nhưng, nếu các em không thực sự có lòng suy nghĩ về chúng, nếu các em không đi sâu vào chúng bởi chính bản thân mình, không thâm nhập vào trong các câu hỏi càng lúc càng sâu xa hơn, tiếp cận chúng từ các góc cạnh khác nhau, quan sát chúng bằng những chiều hướng, đường lối khác nhau, thế thì khi đó các em chỉ biết nói, “Điều này tốt và điều kia xấu; làm như thế này là có bổn phận, làm như thế kia là vô trách nhiệm; cách này là đúng, cách kia là sai” – như thế thì sự tình sẽ không đi đến đâu, các em bị dậm chân tại chỗ. Còn nếu như các em và tôi cùng nhau suy nghĩ về những câu hỏi này, và nếu như cha mẹ các em và thầy cô thảo luận về chúng, đào sâu vào trong các câu hỏi, khi ấy sự thông minh của sẽ được đánh thức, và khi những vấn đề này sinh khởi lên trong đời sống thường nhật của em, thì em có sẽ có khả năng đương đầu và đáp ứng với chúng. Nhưng, em sẽ không có khả năng đáp ứng với chúng nếu chỉ biết nghe và chấp nhận suông những gì tôi nói. Sự trả lời của tôi cho những câu hỏi của các em là chỉ có ý định làm thức tỉnh, làm khởi dậy sự thông minh của các em, để rồi các em sẽ nghĩ ra được cách thức giải quyết các vấn đề này bởi chính tự thân mình, và từ đó các em khả dĩ có năng lực để giáp mặt và đáp ứng với đời sống một cách chánh đáng, phải lẽ.

*****
Anatta,


Life Ahead 8

Hỏi: Làm thế nào chúng ta có thể tự do khi cha mẹ nương tựa vào ta mà sống trong tuổi già?



 Nếu làm không đúng sẽ bị người chê trách.



Cha mẹ già không thể nào tự lo lắng tài chính cho bản thân và người con vì theo đam mê / sở thích nên không thể trợ giúp cha mẹ ( người con có thể bị cho là bất hiếu ) 


Cuối cùng quyết định như thế nào thì cũng rất là khó 2 bên
SugarBabe,

Ở câu trả lời thứ hai kế tiếp, ông K phân tích vấn đề rõ thêm.

Nếu để ý thì sẽ thấy rằng trong hai câu, ông K đưa ra những hoàn cảnh, tình huống khác nhau để gợi cho các em học sinh tự họ vận dụng suy nghĩ một cách độc lập và tìm giải pháp sao cho thích hợp hoàn cảnh riêng của từng người. Mỗi người hay mỗi tình cảnh không giống nhau, nên tùy theo trường hợp mà ứng xử uyển chuyển cho phải lẽ.

...

PS. Ah, phần signature của SB looks nice and cute. Smiling-face-with-halo4
.
Life Ahead 9

Student: Có cách thức, đường lối nào dễ nhất để tìm thấy God không?

J. Krishnamurti: Tôi e rằng là không có phương cách dễ dàng, bởi vì tìm thấy God là một việc khó khăn và gian nan nhất. Không phải cái mà chúng ta gọi là God là một cái gì đó mà tâm trí sáng tạo ra sao? Em biết tâm trí là gì mà. Tâm trí (mind) là kết quả của thời gian, và nó có thể sáng tạo nên bất cứ điều gì, bất cứ ảo ảnh nào. Nó có cái năng lực tạo tác nên những ý tưởng, rồi tự phóng chiếu lên bên trong nó với sự tưởng tượng, những hình ảnh trang hoàng, màu sắc rực rỡ, hoa lệ, đồng bóng; nó không ngừng tích lũy, loại bỏ, chọn lựa. Với tính chất thiên kiến, hẹp hòi, hạn chế, tâm trí này có thể phác họa God, nó có thể tưởng tượng God ra sao tùy theo giới hạn của chính nó. Bởi vì những thầy cô giáo, thầy tu nào đó và những vị được gọi là cứu rỗi đã tuyên bố rằng có God và đã diễn tả God, cái tâm trí hạn hẹp như thế có thể tưởng tượng God bằng những thuật ngữ của họ; nhưng, lời lẽ diễn đạt và ảnh tượng đó không phải là God. God là cái gì đó không thể tìm thấy được bằng tâm trí.

Để hiểu được God, trước hết em phải thấu hiểu tâm trí của chính em – là việc làm hết sức cam go, gian nan. Tâm trí rất phức tạp, rối rắm, và để hiểu được nó thì không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, em lại khá dễ dàng ngồi xuống và bắt đầu bước vào kiểu mộng mị nào đó, với những hình ảnh đa dạng, những ảo tưởng, và khi đó lại cứ tưởng là em rất gần gũi với God. Tâm trí có thể tự lừa gạt chính nó mà nó không ngờ được. Cho nên, để thực sự kinh nghiệm cái điều khả dĩ được gọi là God, em phải yên lặng hoàn toàn; em không nhận thấy ra rằng để được yên lặng là vô cùng khó khăn như thế nào sao? Em không có để ý rằng thậm chí những người lớn tuổi hơn thì chẳng bao giờ ngồi được yên lặng, họ cựa quậy nhúc nhích và bồn chồn không yên sao đó, họ ngọ nguậy ngón chân thế này và tay họ thì động đậy di chuyển thế kia? Thân thể ngồi được yên tịnh đã là khó khăn; và để cho tâm trí được tĩnh lặng thì còn khó khăn và gian nan hơn cỡ nào nữa! Em có thể theo một đạo sư học cách thức ép buộc tâm trí lắng yên; nhưng tâm trí em chẳng thực sự yên lặng. Nó vẫn vọng động không ngừng nghỉ, giống như một đứa trẻ bị bắt phạt đứng yên ở một góc nhà. Để cho tâm trí được tĩnh lặng hoàn toàn mà không mà không phải đè nén, ép buộc, đó là một nghệ thuật hết sức vĩ đại; và chỉ khi ấy họa chăng mới kinh nghiệm cái sự thể khả dĩ được gọi là God.


*****

Student: Có phải God ở khắp mọi nơi?

J. Krishnamurti: Em có thực sự thích thú để khám phá chăng? Em đặt câu hỏi, rồi em lại rút lui, lãng tránh đi; em không có lắng nghe gì cả. Em có để ý rằng người lớn hầu như chẳng bao giờ lắng nghe em như thế nào không? Họ hiếm khi lắng nghe em vì bị bao phủ bởi những ý tưởng, ý nghĩ của họ, những cảm xúc của họ, những niềm vui, thỏa ý và nỗi buồn của riêng họ. Tôi hy vọng là em đã để ý thấy sự tình này. Nếu em biết làm thế nào để quan sát và lắng nghe, lắng nghe thực sự, em sẽ phát hiện ra nhiều điều, nhiều vấn đề, không chỉ là về con người không thôi, mà gồm luôn cả thế giới này.

Đây, cậu học sinh trẻ này hỏi xem có phải là God ở khắp mọi nơi không. Em còn khá trẻ để đặt câu hỏi đó. Em không biết câu hỏi thực sự có ý nghĩa gì. Có thể là em có một ý tưởng mơ hồ về cái gì đó – cái cảm giác về cái đẹp, một thoáng ý thức về những cánh chim bay trong bầu trời xanh, về con suối và dòng sông đang trôi chảy, về một khuôn mặt xinh xắn đang mỉm cười, về chiếc lá chết lìa cành đang uốn lượn trong gió, về một người đàn bà đang oằn vai với cái gánh nặng. Rồi có cả sự tức giận, la lối om sòm, huyên náo, tiếng kêu than, buồn phiền – tất cả mọi sự, mọi điều này đang ở trong bầu không gian trước mắt, môi trường xung quanh. Vì vậy, khuynh hướng tự nhiên là em ấy thích thú và ao ước khám phá xem sự sống ra làm sao. Em ấy đã nghe người lớn nói về God, và em cảm thấy thắc mắc, khó hiểu. Quả là cần thiết để cho em ấy đặt cái câu hỏi như thế, phải không? Và cũng quan trọng không kém đối với các em ở đây là tìm tòi sự giải đáp cho câu hỏi; bởi vì như tôi đã nói hôm nọ là, em sẽ bắt đầu bỗng chợt hiểu được, nắm bắt được ý nghĩa của toàn thể sự việc, sự tình này từ nội tâm, từ sâu thẳm trong vô thức (unconsciousness). Rồi sau đó khi trưởng thành hơn, em sẽ có được những gợi ý từ những sự việc, những vấn đề khác, cũng như cái thế gian ganh đua, giành giựt tệ hại này. Thế giới thì xinh đẹp, địa cầu thì phong phú dồi dào; nhưng, chúng ta là những kẻ làm hư hoại nó đi.

*****
(2020-09-18, 07:31 PM)anatta Wrote: [ -> ]SugarBabe,

Ở câu trả lời thứ hai kế tiếp, ông K phân tích vấn đề rõ thêm.

Nếu để ý thì sẽ thấy rằng trong hai câu, ông K đưa ra những hoàn cảnh, tình huống khác nhau để gợi cho các em học sinh tự họ vận dụng suy nghĩ một cách độc lập và tìm giải pháp sao cho thích hợp hoàn cảnh riêng của từng người. Mỗi người hay mỗi tình cảnh không giống nhau, nên tùy theo trường hợp mà ứng xử uyển chuyển cho phải lẽ.

...

PS. Ah, phần signature của SB looks nice and cute. Smiling-face-with-halo4
.

Thumbs-up4 Thumbs-up4 oh ok  Shy
Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14