Bản sắc văn hóa dân tộc là gì?
là tập hợp các giá trị văn hóa, thứ tự xã hội, tập quán, và đặc điểm nghệ thuật đặc trưng cho một nhóm người cụ thể hoặc một cộng đồng dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc thường xuất phát từ lịch sử, địa lý, truyền thống, và ngôn ngữ riêng biệt của dân tộc đó.
Bản sắc văn hóa dân tộc là kết quả của quá trình lịch sử, sự tiếp xúc với các nền văn hóa khác, sự tương tác giữa con người và môi trường sống. Nó là tập hợp những giá trị cốt lõi, tư tưởng và phong cách sống độc đáo của một dân tộc trong việc giao tiếp, hành vi, quan niệm tôn giáo, hệ thống giáo dục, công nghệ, truyền thông và mọi khía cạnh khác của đời sống xã hội.
Những yếu tố hình thành bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
Văn hóa dân tộc Việt Nam mang trong mình một sự riêng biệt, tạo nên một sự khác lạ so với các quốc gia khác trên thế giới. Đây là nền tảng cốt lõi của văn hóa dân tộc, với những đặc điểm không thể nhầm lẫn.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam phản ánh rất nhiều khía cạnh đa dạng, bao gồm tín ngưỡng, phong tục, ngôn ngữ, di sản văn hóa, di vật lịch sử… Những đặc trưng này đã được hình thành từ kinh nghiệm sống của các thế hệ tiền bối và được truyền dạy qua nhiều thế hệ kế tiếp.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được biểu hiện qua một loạt các yếu tố đa dạng và đặc trưng
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ tiếng Việt là một phần không thể thiếu của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đặc điểm ngôn ngữ, cách diễn đạt, ngữ điệu và thành ngữ đặc trưng đã gắn kết và thể hiện sự đặc biệt của dân tộc Việt.
Tín ngưỡng và tôn giáo
Văn hóa tín ngưỡng và tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống và quan niệm của người Việt Nam. Các hình thức tôn giáo như đạo Phật, đạo Công giáo và đạo Cao Đài cùng với các tín ngưỡng dân gian đã gắn kết và tạo nên sự đa dạng tôn giáo trong văn hóa dân tộc.
Phong tục, truyền thống và lễ hội
Việc tổ chức và tham gia các phong tục, truyền thống và lễ hội là một biểu hiện quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Ví dụ như Tết Nguyên đán (Lễ Tết), lễ hội hát xoan, lễ hội đền Hùng, lễ hội chọi trâu và nhiều lễ hội khác đều thể hiện những giá trị và truyền thống độc đáo của dân tộc Việt.
Nghệ thuật truyền thống
Nghệ thuật truyền thống của Việt Nam như hát xẩm, hát chèo, nhạc cải lương, múa rối nước, họa sĩ dân gian và điêu khắc gỗ đều là những biểu hiện đặc trưng của bản sắc văn hóa dân tộc.
Ẩm thực
Ẩm thực Việt Nam với các món ăn đặc trưng như phở, bánh cuốn, nem rán, bánh chưng… cũng là một yếu tố quan trọng trong bản sắc văn hóa dân tộc. Cách chế biến, hương vị và phong cách ẩm thực Việt đặc trưng đã được truyền từ đời này sang đời khác.
Di sản văn hóa
Việt Nam có nhiều di sản văn hóa được công nhận và bảo tồn bởi UNESCO như Di sản Văn hóa Phi vật thể Nhân loại Hạ Long, Cố đô Huế, Mỹ Sơn, Thành nhà Hồ… Đây là những yếu tố văn hóa đặc biệt và đáng tự hào của dân tộc Việt Nam.
Tất cả những biểu hiện trên đều đóng góp vào việc xác định và tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện sự đa dạng và phong phú của nền văn hóa này.
Ví dụ về bản sắc dân tộc Việt Nam
Để hiểu rõ hơn về bản sắc văn hóa dân tộc là gì, hãy cùng tham khảo một số ví dụ sau đây nhé.
Áo dài
Áo dài được coi là trang phục truyền thống và biểu tượng của phụ nữ Việt Nam. Với thiết kế dài, ôm sát và kiêu sa, áo dài thể hiện sự tinh tế và nữ tính, là biểu tượng văn hóa độc đáo của Việt Nam.
Múa sạp
Múa sạp là một hình thức múa truyền thống của người dân tộc Tày. Được trình diễn trong các lễ hội và sự kiện quan trọng, múa sạp kết hợp giữa các động tác múa và những tiếng nhạc truyền thống, tạo nên một màn trình diễn đầy màu sắc và sức sống.
Món ăn phở
Phở là một món ăn đặc trưng của Việt Nam. Với hương vị đậm đà và nguyên liệu tự nhiên, phở đã trở thành một biểu tượng của ẩm thực Việt Nam và được yêu thích trên toàn thế giới.
Chèo
Chèo là một hình thức kịch truyền thống của người dân tộc Kinh. Khi xem một vở chèo, khán giả sẽ được thưởng thức các tình tiết hài hước, lãng mạn và châm biếm qua màn biểu diễn của diễn viên và nhạc công.
Chữ Nôm
Chữ Nôm là một hệ thống chữ viết phổ biến trong quá khứ, được sử dụng để ghi lại văn bản và thơ ca trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Đây là một yếu tố quan trọng thể hiện bản sắc ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc Việt.
Lễ hội Đền Hùng
Lễ hội Đền Hùng là một lễ hội quan trọng nhằm tưởng nhớ và tôn vinh các vị vua Hùng – những người được coi là tổ tiên của dân tộc Việt. Lễ hội này diễn ra hàng năm tại đền Hùng ở Phú Thọ và thu hút sự quan tâm và tham gia của hàng ngàn người dân.
Những ví dụ trên chỉ là một phần nhỏ của bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Còn rất nhiều biểu hiện khác như ca trù, xẩm, nón lá, đèn đỏ, chùa và đền… đóng góp vào sự đa dạng và phong phú của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Trường hợp dân tộc Do Thái trong so sánh với Việt Nam
Người Do Thái và hệ giá trị văn hóa Do Thái
Về mặt không gian, người Do Thái sống ở khu vực Tây Nam Á, là nơi có đất đai khô cằn, khí hậu khắc nghiệt vào bậc nhất thế giới: hoang mạc chiếm 70-90% diện tích, có nơi như Ai Cập chiếm tới 90% diện tích; khí hậu nóng nực, khô hạn, ít mưa; nhiệt độ ngày đêm chênh lệch lớn. Trong khi đó, ở các ốc đảo và lưu vực Lưỡng Hà thì ngược lại, đất đai và khí hậu lại thuận tiện cho thực vật phát triển, tạo thành vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu
Bức tranh mô tả cảnh Moses rẽ nước biển Đỏ đưa người Do Thái vượt thoát khỏi sự truy đuổi của quân Ai Cập.
Về mặt chủ thể, Do Thái có gốc là một dân tộc du mục, tương truyền khởi đầu từ gia đình - gia tộc Abraham. Sau khi Abraham chết, trách nhiệm lãnh đạo được truyền cho con trai là Isaac, rồi đến con trai của Isaac là Jacob. Ông Jacob sinh được 12 người con trai. Tất cả từ Abraham, Isaac, Jacob cho đến 12 người con trai của Jacob được coi là 15 tổ phụ (patriarchs) của dân tộc Do Thái.
Về mặt thời gian, lịch sử dân tộc Do Thái trải qua nhiều biến động rất dữ dội. Vào thời thượng cổ khi gặp nạn mất mùa đói kém, tương truyền họ đã phải lưu lạc sang đất Ai Cập, lúc đầu nhờ người con trai thứ 11 của Jacob là Joseph tài giỏi mà cả gia tộc được ưu ái, nhưng mấy chục năm sau dân số phát triển đông đúc, người Do Thái bị Pharaoh bắt làm nô lệ. Sau khi thực hiện cuộc vượt thoát phi thường trở về giành được vùng Đất hứa Canaan thì vào thế kỷ VIII (trước Công nguyên - trCN), vương quốc Bắc Israel bị đế quốc Assyria xóa sổ. Sang thế kỷ VI (trCN), đến lượt vương quốc Nam Israel (Judah) bị đế quốc Babylon xâm lăng, tàn phá, trục xuất và đày đến Babylon làm nô lệ. Vào những năm 60-70 (sau Công nguyên - sCN), người Do Thái lại bị đế quốc La Mã thống trị, bắt đầu thời kỳ lưu vong của người Do Thái kéo dài gần 2.000 năm trên khắp thế giới. Trong thời gian này, người Do Thái bị kỳ thị, khủng bố, diệt chủng tàn khốc ở khắp nơi.
Đọc sách và giáo dục là hai việc được toàn dân Do Thái coi trọng hàng đầu. Ngay từ năm 64 (sCN), Nhà thờ đã quy định tất cả đàn ông phải biết đọc, biết viết và tính toán; sang thế kỷ II thì bắt buộc mọi đàn ông phải có nghĩa vụ dạy con trai mình đọc, viết và tính toán. Người Do Thái đã phổ cập giáo dục cho nam giới trước các dân tộc khác gần 20 thế kỷ. Dù lưu lạc ở đâu, người Do Thái cũng đều có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn hẳn người bản địa. Hiện nay, Israel là nước đứng đầu thế giới về số dân đọc sách từ 14 tuổi, đứng đầu thế giới về số sách xuất bản trên đầu người.
Hình ảnh phổ biến của người Do Thái, từ trẻ em đến cụ già là luôn cầm quyển sách trên tay. Họ coi sách là “kho vàng” khơi dậy sức sáng tạo và khả năng tư duy để rồi từ đó hình thành nên “trí tuệ” - thứ quý hơn cả tiền bạc và của cải. Với trẻ nhỏ, người Do Thái có phong tục thực hiện nghi lễ “hôn sách ngọt”. Trong lễ này, cha mẹ nhỏ vài giọt mật lên Thánh Kinh cho bé ngửi và liếm nó. Ấn tượng ban đầu về sự ngọt ngào, hấp dẫn của sách sẽ đi theo bé suốt cuộc đời.
Người Do Thái coi sách là “kho vàng” khơi dậy sức sáng tạo và khả năng tư duy để rồi từ đó hình thành nên “trí tuệ” - thứ quý hơn cả tiền bạc và của cải (ảnh: Getty).
Chính nhờ trải qua vô vàn khó khăn như vậy mà người Do Thái đã được tôi luyện nhiều hơn bất kỳ một dân tộc nào và họ có được những phẩm chất ưu tú nhiều hơn bất kỳ một dân tộc nào. Đã có không ít sách vở tìm hiểu về lịch sử dân tộc đặc biệt này, song nghiên cứu về hệ giá trị văn hóa thì còn thiếu. Theo chúng tôi, hệ giá trị văn hóa Do Thái có thể quy về 5 đặc trưng nổi bật:
(1) Tính cộng đồng dân tộc và sự tôn trọng cá nhân;
(2) Niềm tin mạnh mẽ;
(3) Bản lĩnh và nghị lực kiên trì;
(4) Tinh thần Chutzpah (táo bạo);
(5) Tính thông minh, sáng tạo.
5 đặc trưng này đủ cho phép tách biệt dân tộc Do Thái với tất cả các dân tộc khác.
Tính cộng đồng dân tộc và sự tôn trọng cá nhân
Phần lớn mọi người thường nghĩ rằng, tính cá nhân đối lập với tính cộng đồng; phương Tây có tính cá nhân, trái ngược với phương Đông có tính cộng đồng. Đó là một sai lầm cả về lý luận lẫn thực tiễn. Về lý luận, mọi nền văn hóa đều có cả cặp đặc trưng cộng đồng và cá nhân, nhưng khác nhau ở mức độ và quy mô của cộng đồng. Về thực tiễn, người phương Tây nhấn mạnh việc coi trọng cá nhân nhưng đồng thời coi trọng cộng đồng xã hội; mỗi người đều có ý thức bảo vệ xã hội (không xả rác, bảo vệ động vật, bảo vệ người yếu thế…). Trong khi người Đông Nam Á làm nông nghiệp lúa nước (loại hình văn hóa thiên về âm tính) coi trọng cộng đồng làng xã nhưng đồng thời có tính cá nhân chủ nghĩa nặng, rất tư hữu, ích kỷ. Người Đông Bắc Á làm nông nghiệp khô (trồng mì, kê mạch, cao lương…) coi trọng cộng đồng gia đình. Người Do Thái (Tây Nam Á) chăn nuôi du mục coi trọng cá nhân và đồng thời có tính cộng đồng dân tộc rất mạnh.
Theo kinh Thánh Hebrew (Cựu ước), Moses được Thiên Chúa giao trách nhiệm dẫn dắt đồng bào của mình (khoảng 40 vạn người nô lệ Do Thái) thực hiện cuộc vượt thoát vĩ đại, chạy trốn khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ đi về hướng đông, lưu lạc trong sa mạc 40 năm trước khi đến Miền đất hứa. Thời gian 40 năm lưu lạc trong sa mạc là một cuộc thanh lọc đạo đức, loại bỏ thế hệ từ chối Chúa, rèn luyện thể chất và ý chí để biến một đoàn người ban đầu rất hỗn tạp với tổ chức lỏng lẻo dần dần trở thành một dân tộc đoàn kết chặt chẽ, có bản lĩnh quật cường.
Tính cộng đồng dân tộc cùng với việc coi trọng vai trò cá nhân đã giúp cho người Do Thái có đủ sức mạnh để kiên trì vượt qua sự đối xử phân biệt, sự bức hại của các nước láng giềng, sự hủy diệt của những đạo quân xâm lăng và của các quốc gia nơi họ sống lưu vong; giúp cho các cộng đồng Do Thái dù ở phân tán trên thế giới, cách nhau hàng vạn cây số, trong những điều kiện sống rất khác biệt vẫn duy trì được sự kết nối trong suốt lịch sử, duy trì được sự trao đổi thương mại ở tầm xa, gìn giữ được những tập quán chung với những tư tưởng, phong tục, văn hóa thống nhất nhờ Do Thái giáo. Từ khi tái lập quốc (năm 1948), người Do Thái ở Israel đã tạo dựng nên những Kibboutz2 mỗi ngày một phát triển.
Sự tôn trọng cá nhân là phẩm chất điển hình của loại hình văn hóa thiên về dương tính. Ở người Do Thái, nó được củng cố bởi tính cộng đồng dân tộc. Cá nhân có được tôn trọng thì con người mới phát huy được sức sáng tạo, khoa học - công nghệ mới có thể phát triển.
Người Việt Nam có tính cộng đồng làng xã đi kèm với tính cá nhân chủ nghĩa và rất coi nhẹ vai trò cá nhân. Từ Đổi mới (1986) đến nay, xu hướng ưu tiên cho vai trò cá nhân đang trở nên ngày một rõ nét hơn. Tuy nhiên, theo kết quả cuộc khảo sát của chúng tôi năm 2015 với 5.596 người tham gia, tính cộng đồng làng xã vẫn được 65,9% thừa nhận là một giá trị quan trọng, chiếm vị trí thứ tư trong số các giá trị của người Việt Nam. Số người tham gia cho biết rằng mình coi trọng việc “sống có bản lĩnh, không chạy theo đám đông” mới chỉ chiếm 35,4%. Với tính cộng đồng làng xã mạnh như vậy, việc sống có bản lĩnh, không chạy theo đám đông không phải là dễ; những người có tư duy sáng tạo, dám đề xuất những ý tưởng mới thường dễ bị “ném đá” tập thể. Điều này khiến cho KHCN&ĐMST, trong đó có khoa học xã hội khó bề phát triển.
Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên nền tảng văn hóa: Trường hợp dân tộc Do Thái trong so sánh với Việt Nam
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP HCM
(2023-12-04, 01:56 AM)Tuy duyen Wrote: [ -> ]Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên nền tảng văn hóa: Trường hợp dân tộc Do Thái trong so sánh với Việt Nam
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP HCM
khi nhìn tấm hình này thì chắc ông Ngọc Thêm có muốn viết thêm vài dòng nữa về dân Do Thái, thì chắc chỉ là viết về mặt trái, những điểm đen của dân tộc này, nhất là giới lãnh đạo cầm quyền, 2000 năm trước đã vậy, 2000 năm sau vẫn thế, tính cách con người là không thể thay đổi, nhất là dân Do Thái: tôn giáo, chính trị, đời sống xã hội .... kết hợp chặt chẽ làm một không tách rời.
trẻ em không chết thì cha mẹ anh chị em bạn bè ....... chúng chết, sự đau khổ này chúng dễ quên được sao?
số trẻ em và phụ nữ thương vong vẫn tiếp tục tăng thêm từng ngày vì ..... chỗ nào cũng có trẻ em, một dải đất nhỏ xíu chứa trên 2 triệu dân Palestine !!!
Phản ứng trái ngược của phương Tây với chiến sự Ukraine và Gaza
Mỹ và đồng minh mạnh mẽ lên án chiến dịch của Nga ở Ukraine, nhưng lại ủng hộ Israel tấn công Dải Gaza, bất chấp thảm cảnh của dân thường.
Hàng triệu người Ukraine đầu năm ngoái đã phải rời bỏ nhà cửa, sơ tán ra nước ngoài, chạy trốn chiến dịch tấn công của Nga. Cảnh tượng tương tự gần đây xảy ra với những người Palestine ở Dải Gaza, khi Israel mở chiến dịch quy mô lớn đáp trả Hamas vì cuộc đột kích ngày 7/10.
Xung đột ở Ukraine và Dải Gaza đã trở thành chủ đề gây tranh cãi trong giới chính trị Mỹ và toàn cầu. Những phản ứng có phần trái ngược phương Tây với hai cuộc xung đột đã làm dấy lên nhiều chỉ trích rằng Mỹ và đồng minh đang áp dụng tiêu chuẩn kép ở hai điểm nóng trên thế giới.
Một dân tộc có thể so sánh "ngang ngửa" với dân Do Thái, đó là dân Nhật với những sắc thái độc đáo mà không có dân nào giống.
Một khi duyên "bất thiện" tới thì cái ác của dân Do Thái và dân Nhật cũng ngang ngửa nhau.