Quote:"Người đời thường vậy, họ chém ta một nhát rồi quên đi, thì chỉ nói cho sướng miệng thôi, cho đỡ buồn thôi chứ chết chóc ai đâu, ai biểu ta ngồi đó để ôm vết sẹo với nỗi đau khôn tả..."
NNT
ĐAU GÌ NHƯ THỂ
Nguyễn Ngọc Tư
.
Ông già Tư Nhỏ thức dậy từ lúc nửa đêm. Ông rên lên một tiếng ứ hự, thấy thất vọng khi nghe lòng mình vẫn còn đau. Có một niềm khát khao đến cháy bỏng, ông vẫn thường ước ao một lần nào đó đánh giấc thật sâu, khi trở dậy nỗi đau ấy biến mất, không còn dấu vết, như thể nó chưa từng có trên đời.
Ông khẽ khàng vòng theo mé hè ra chái sau, bắc ấm nước lên bếp. Một làn khói mỏng bay lên. Lửa bắt đầu le lói ngoi lên giữa đám củi dừa rồi lại ngụp xuống, xanh lè vì gió. Trong nhà, nghe thằng Sáng vùng vằng đập chân xuống giường, ông buột miệng, “Tội nghiệp, chắc muỗi cắn thằng nhỏ”. Con Nga ngồi dậy, hỏi vọng ra, “Mới nửa đêm mà, ba thức chi...”. Ông già trần tình như con Nga đang ngồi trước mặt mình: “Tao ngủ hỏng được. Mà, bây coi ém mùng cho kỹ, để muỗi cắn thằng nhỏ làm ghẻ à”. Nga dạ, tiếng dạ của nó nghe chớm nghẹn ngào. Giữa im lặng, gió cồn lên rúc rích đuổi nhau chạy xổm trên mái nhà, như một đám trẻ lật từng tàu lá để tìm trứng thằn lằn. Con Nga ngậm ngùi, bữa nay trời trở gió, chắc ngoài kia lạnh lắm, rồi nó ngập ngừng lên tiếng, “Mai vô nhà ngủ… nghen ba”. Ngực ông Tư hực một tiếng, trái cổ nhảy ầng ậc để ngăn cho dòng nước mắt chực trào. Ông lật bật hốt một nắm trà, bỏ vào cái bình sứt vòi, nói “Bây để từ từ, tao tính…”.
Ngay lập tức ông thôi thèm trà, ông muốn ngủ, ngủ đêm ngủ ngày, để khi thức dậy, như một phép màu, ông ngồi ngay bên mâm cơm chiều con Nga vừa mới dọn ra. Nó biểu ba uống rượu đi, bữa nay có con cá lóc nướng thiệt ngon. Mà, ba tắm làm sao con nghe hôi sình quá trời đất vậy. Ông cười, ngồi tém tẻ, mắt khoan khoái nhìn con cá lóc da vàng ruộm, “làm nghề lặn đất như tao hỏng hôi bùn sình thì hôi gì, con...”. Con Nga cũng cười, nó lật lưng con cá lên, lấy đũa xẻ dọc, gắp vô chén ông cái đầu dính theo bộ lòng, bảo “Con giăng mùng sẵn rồi, chút nữa con đi tập văn nghệ, ba nhậu thấy vừa xỉn là chui vô mùng liền nghen”. Nói xong, nó lấy lược chải đầu, vói lấy cái kẹp tóc chạy đi, miệng hát Bông ô môi. Con Nga đã qua khỏi bụi trâm bầu mà tiếng hát vẫn chưa tan.
Cảnh đó đã lâu rồi không trở lại. Cũng như lâu rồi hai ba con ông Tư không còn quảy lon trùng ra ngồi thong thả câu cá bên gốc trâm bầu, rồi người trước mũi, người sau lái bơi xuồng đi nhổ bông súng dưới kinh. Những trưa nắng, con Nga không còn ngồi nhổ tóc bạc cho ông. Chẳng bao giờ người Xẻo Mê còn chứng kiến hai ba con họ xuất hiện cùng nhau.
Bây giờ, tối tối ông Tư uống rượu một mình (chớ có ai muốn uống với ông đâu), say rồi giăng mùng ngủ ngoài hàng ba, không quên treo cái đèn chong nhỏ (ý như nói với người qua kẻ lại, tui, thằng Tư Nhỏ, ngủ ở đây nè). Nhiều bữa mưa tạt ướt mẹp, ông ngồi hút thuốc cho đỡ lạnh, con Nga trong nhà cũng ngồi bó gối nghe giông gió. Đi làm về, đói bụng, ông lục cơm nguội dùa vô một tô ra hè ngồi ăn, Nga trong nhà bưng chén mà rơi nước mắt.
Tình cha con đã như nước chảy xuống kẻ tay từ một ngàn năm trăm mười hai ngày trước. Cái ngày con Nga rầu rầu xin ra Chợ Cũ thăm má nó. Ông gật đầu, thì người đàn bà đó hơn một năm rồi chẳng về, tưởng đã quên mất con đường quay lại Xẻo Mê. Ai dè chiều hôm sau má con Nga tong tả xông vào nhà, níu ao ông mà rằng:
- Sao anh hại đời con gái tôi đến nỗi nó phải mang bầu...
Ông Tư kêu lên một tiếng trời ơi. Tôi là người như vậy sao, Cúc ơi, tôi mà là người như vậy à. Cúc biết tôi từng ấy năm trời, sao lại gieo cho tôi cái tội mà chỉ nghĩ đến thôi đã xấu xa… Nhưng chẳng kịp mặc cái áo khô vào để phân trần, công an xã đến mời ông đi. Má con Nga theo sau, la khóc. Mọi người bàng hoàng ngó nhau, đâu nè, anh Tư Nhỏ hồi nào giờ ở đời tử tế, chị đã dò hỏi kỹ chưa, con Nga nó nói vậy à. Không, con Nga nó không chịu nói tên người đó, bà con cô bác nghĩ coi, ai mà nó không dám kêu tên... Ai trồng khoai đất này…
Lúc con Nga hay được thì ông Tư đã bị nhốt năm ngày. Nó trốn má về, chạy thẳng ra xã xin ông ra. Nó sụp lạy ông ngay trụ sở Uỷ ban, nó khóc, “Ba ơi, tại con hư, con làm ba khổ, ba tha lỗi cho con, nghen ba”. Ông đỡ nó dậy, cười mếu máo, “Thôi con, đứng dậy, về. Chuyện qua rồi …”.
Hồi đó, ông cũng tưởng, chuyện qua rồi. Hai ba con ông ra khỏi cổng uỷ ban, nắng bồn chồn úa vàng trên mặt sông (màu trời đó hay trở về trong những giấc mơ ông, khi giật mình thức dậy, mắt ông luôn luôn đầy nước). Dài theo dãy hàng quán che tum che bạt, người ta đứng coi đông thiệt đông. Đám con nít chạy theo vỗ tay kêu cô dâu chú rể kìa tụi bây ơi, trâu già khoái cỏ non kìa. Người lớn hả hê nhưng giả đò đằng hắng biểu đám trẻ im đi. Coi tướng tá ông Tư hiền lành, đàng hoàng vậy mà làm chuyện động trời, đúng là “lù đù vác cái lu chạy…”, hết chuyện rồi sao mà tằng tịu với con mình. Đâu nè, có phải con ruột ổng đâu. Chị Hai nhớ không thím Bảy nhớ không, hồi má con Nga xáp lại với Tư Nhỏ, bụng đã mang bầu, rồi con nhỏ Nga mới lẩm đẩm biết đi, chị ta bỏ ra Chợ Cũ, Tư Nhỏ phải làm mẹ gà chắt chiu con vịt.
Tưởng đâu ông ấy thương con Nga như cha thương con thiệt lòng, thì ra ổng ghé chỗ tui mua cái bánh dừa, củ khoai lang, cây kẹp tóc… về cho con nhỏ là có ý đồ. Tưởng đâu thằng chả nghĩ tới con Nga nên không lấy vợ, ai mà dè…
Nắng tắt lịm, trời ơi, đâu rồi xóm giềng thân thuộc, đâu rồi khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười quen, ông Tư đứng khựng lại, uất ức, trơ cứng cả quai hàm. Con Nga òa khóc, bỏ chạy tắt theo đường đồng, trên bờ ruộng lông chông những chân cỏ ống cháy trơ xương xẩu. Rồi nó chợt dừng lại, ngó cái bờ chuối mờ chìm trong đêm. Chỗ đó nhắn mắt lại nó vẫn nhìn ra một bãi cỏ mềm, mấy cành cây khô có con rắn mối bò ra bò vô. Chỗ đó, nó với anh đã mấy lần…
Nhưng bây giờ chỉ còn một mình nó ngồi đây, giữa đồng khơi, đến lúc sương xuống ướt đầm một vai tóc nó mới đứng dậy ra về. Nó gặp ông Tư giữa đường, ngọn đuốc trên tay ông đã gần tàn, cháy lom đom, phập phều trong gió. Ông bảo, “Ba sợ bây làm chuyện dại, rồi lặng đi một chút, ông thầm thì như nói với chính mình, người ta có ác miệng cỡ nào cũng ráng mà sống nghen con”. Con Nga dạ rồi bỗng giật thót lên, nhìn quanh, trong mắt thoáng hãi hùng, nó biểu ông đi trước đi, nhanh lên, đứng xa nó ra, kẻo người ta thấy…
Rồi người trước người sau, họ trở về căn nhà nhỏ bên kinh Xẻo Mê. Căn nhà từ đây trở đi nằm chơ vơ trong ánh mắt cười cợt, trong lời đàm tiếu của người đời. Ngày nào cũng vậy, ông già Tư Nhỏ đi làm từ sáng sớm, khi người chưa tỏ mặt người, quen chân nên te te qua quãng đông nhà mới dám đứng lại, thở. Hôm ghé quán thím Hồng Nhiên mua khoanh thuốc gò, thím bảo “Hết rồi”, giọng ngắn ngủn, cộc lốc mà con mắt nguýt thì dài, người ta đây ở goá đã lâu, đã để ý thương mà anh lạnh lùng không đếm xỉa, tưởng anh còn thương má con Nga, ai dè anh khốn nạn vậy… Xóm giềng lạnh nhạt, ông Tư phải vác dá, quảy len thùng đi làm đất xa hơn, qua tận bên Đất Đỏ, Kinh Năm, ở đó, người ta không biết ông là ai. Nhưng chuyện một đồn mười, đồn trăm, đám bạn nghề của ông một trưa ngồi dưới bờ dừa hỏi nhau, bên Xẻo Mê có người lấy con gái nên bị bắt phải hôn. Ờ, nhưng được thả rồi, đứa con gái nói hỏng phải nên lãnh ra. Ai đó cười khào, mai mỉa, ái chà chà, hai người họ bênh nhau quá ha.
Định day qua hỏi ông Tư coi có biết người đó không nhưng ông đã nhảy cái ọt, lặn mất, lâu lắm không thấy ngoi lên. Đám người sợ quá nhào xuống lôi ông từ đáy nước ngầu đục, hỏi ông bộ muốn chết sao, ông cười, “Bậy, tao lặn thử coi hơi còn dài không, làm gì tụi bây quýnh lên vậy”. Thật tình ông đã nghĩ đến điều đó, rồi chợt nhớ, còn con Nga, nó ở lại chịu đựng vì không nỡ bỏ mình … Mà, con nhỏ đã gần sinh…
Ông Tư mua than đước dự trữ trong nhà, đưa con Nga ít tiền ra chợ sắm sửa cho đứa bé sắp chào đời. Ông còn chuẩn bị cả vỏ tỏi, hạt mè để làm thuốc cho con Nga những ngày ở cử. Ông ngượng ngịu bảo, “Cái này… tao biết là vì… hồi má bây sinh…”.
Chỉ chờ có vậy, kỷ niệm ùa về kinh hãi, tươi xanh. Như thể mới chiều hôm qua, Cúc đội thúng rau ghé nhà, xanh xao, đau khổ hỏi, tui biết anh để ý thương tui, anh có muốn cưới tui làm vợ không... Rồi Cúc nói luôn, không cần cưới hỏi gì, mai tui cuốn đồ lại theo anh. Tưởng đâu nói chơi, ông cười, ai dè Cúc làm thiệt, cô gái đẹp nhất Xẻo Mê về với ông gọn gàng như người ta nhảy ùm xuống ao. Rồi Cúc có thai, ai cũng cười, úi chà chà, bộ trồng lúa ngắn ngày hay sao vậy cà, có chắc là cái thai đó của mầy không, Tư Nhỏ. Ông cười, không nói, nghĩ nó là của mình thì là của mình. Và khi bà mụ Năm trao cho ông đứa trẻ tóc dày mịt, mắt đen, môi đỏ, lòng ông vui mừng rưng rưng, nó là con của mình, con của mình.
Dù sau này Cúc đã không yêu được cái mùi bùn sình của ông, dù Cúc bỏ ra Chợ Cũ cất quán hàng, nói là cho gởi con Nga lại ít năm (như gởi một cái lu, cái tủ), ông vẫn thương nó như con của mình. Nó lên sáu tuổi, Cúc về, dẫn nó đi. Ông chạy theo nắm tay con bé lại, Cúc cau mày, giằng ra, nó là con tôi, anh biết mà. Ông nhậu say ba bữa liền, tỉnh dậy, thấy Nga đứng đầu giường, nó nói, “trời ơi, con đi mới mấy bữa mà ba tệ thiệt. Thức dậy, đi câu cá nấu cơm ăn, ba ơi”. Nói rồi nó đon đả cầm cái lon trùng đi trước.
Đứa trẻ ngày xưa bây giờ đã làm mẹ một đứa trẻ khác, cũng môi đỏ, mắt đen. Hôm ở trạm xá về, ở xóm người ta lại thăm nườm nượp, không kịp nhìn đứa trẻ, nắc nẻ khen liền: “Trời ơi thiệt là giống chú Tư quá hen”. Có người chưa đi quá cái miễu ông Tà đã cười cợt bàn với nhau, hỏng biết thằng nhỏ kêu ông Tư Nhỏ là gì ha, là ngoại hay cha. Ông đang quạt mẻ than, nghe câu ấy thảng thốt nhìn tro bụi tơi bời, con gái nỉ non, ba ơi, kệ con, coi chừng người ta thấy, nói tới nói lui. Ông già nổi quạu đùng đùng, “Thiên hạ phải để tôi sống đàng hoàng như một con người chớ”. Tiếng kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại con người không học cách hiểu nhau.
Đêm đó, ông thức trắng. Sáng ra con mắt trõm lơ, ông sửa soạn quẩy gói đi. Hai mẹ con Nga ọ ẹ lên tiếng trong nhà, ông Tư nói vói vô, “Bây có muốn mua gì không, tao đi huyện nè…”. Trời, đi chi vậy ba... Ông nói ông cũng chưa biết nữa, nhưng dù không biết phải bắt đầu từ đâu cũng phải đòi lại danh dự cho mình, cho con Nga và thằng cháu ngoại, đòi lại những niềm vui đã bị người đời tước đoạt. Ông ra xã, công an xã cười khà khà, như đang nói về vụ bắt nhầm con cá lóc, hay con vịt con gà, “Biết chú bị oan là tụi tui thả liền, chú còn đòi gì nữa...”. Ông cãi, tui đâu có đòi gì, nhưng cậu ra thanh minh với bà con Xẻo Mê dùm vài tiếng được không. Công an chạy qua hỏi chủ tịch, chủ tịch cười “chuyện của chú thấy vậy mà căng lắm, hồi trước giờ chính quyền chưa xin lỗi trước dân lần nào, tôi đâu có dám phá lệ, hay chú lên huyện hỏi thử coi…” Rồi huyện chỉ lên tỉnh, tỉnh hứa để từ từ coi lại, không sao, ông nói ông chờ được. Lâu lâu, ông tới để nhắc chừng, mỗi khi hay có sự thay đổi, luân chuyển lãnh đạo, ông đến nộp thêm bộ đơn nữa. Lộ phí xe tàu đi tới lui, ông Tư bán con chó phèn, bán luôn bầy vịt mới lông bông áo lá, còn tiền công đào đất mướn dành để lo gạo cá cho hai mẹ con con Nga. Vận bộ đồ bà ba màu cỏ úa, cái khăn quấn sù sụ trên cổ, giỏ bàng nách một bên, gõ cửa hết cơ quan này đến công đường khác, nhiều khi ông già thấy cuộc hành trình của mình mù mịt quá chừng. Có bữa vừa xuống bến xe bị đám bụi đời giật cái giỏ, ông già hớt hãi rượt theo, ngoằn ngoèo hơn mười con hẻm, bất kể ngoặt phải ngoặt trái, người rượt, người chạy cuối cùng chui tọt vô con hẻm cụt, thằng giật đồ hào hển hỏi, gì mà quý dữ vậy ông nội. Ông thở dốc, không nói, trút giỏ, rớt ra mấy cuộn giấy buộc bằng dây thun. Thằng kia vừa tức vừa mắc cười, chửi thề mấy tiếng rồi bỏ đi. Ông già đứng dậy, ngơ ngác, hỏng biết mình đang đứng đâu đây, hỏi vói theo, “Chú em ơi, đường nào xuống toà án tỉnh...”
Lội bộ tới đó, anh bảo vệ ngó ông, cười “Ủa, hôm trước chú tới đây rồi mà”. “Vậy...! - ông già chưng hửng - tui đâu có nhớ. Thôi vậy để tui qua chỗ tiếp dân, chú em cầm ít đơn đọc chơi”. Rồi ông đi trong mưa rúc rắc, trong gió riu riu, chỉ mong có ai đó thấu hiểu được nỗi niềm oan khuất của mình, ai đó thôi cắm đầu vào bàn giấy, ngước lên, hỏi “ Có gì hôn, chú...”, ông mừng húm, vọt miệng bảo, có chớ, có tui mới lặn lội từ Xẻo Mê lên đây nè, rồi rụt rè rút ra một bộ đơn, đây là tờ cớ ông bị mất danh dự hồi bốn giờ chiều ngày tháng năm, đây là tờ yêu cầu được minh oan… Và lòng ông được an ủi biết bao nhiêu nếu ai đó ra vẻ quan tâm một chút, hỏi “Vụ của chú ra làm sao, đâu nói cho tụi tui nghe coi”.
Ông Tư lụm cụm kéo ghế ngồi, lưng lòng khòng, đôi mắt ánh lên như người đang khóc. Ông nói nhà tôi ở bên kinh Xẻo Mê, xưa rày sống bằng nghề lặn đất, cắc củm nuôi đứa con gái tên Nga. Rồi một bữa công an xã lại bắt tôi, vì có người tố cáo, tôi làm cho con Nga có bầu.
- Tôi nghe như ông trời dộng cái ầm vô mặt, nhưng tôi nói gì người ta cũng không tin. Rồi sau biết tôi bị oan, họ thả tôi ra. Tổng cộng tôi đã ở tù oan sáu ngày năm đêm…
- Ủa, đơn giản vậy thôi hả...
Ông già nghe thất vọng quá, các người đòi thêm gì nữa, các người muốn gì nữa, muốn éo le như thế nào, oan khuất bao nhiêu năm mới đủ... Rồi nuốt vào lòng khối nghẹn ngào, ông cố tươi tỉnh, hỏi:
- Dà, hồi nãy tôi kể tới đâu rồi cà...
Nhưng rồi đến đây ông không không biết phải diễn tả nỗi đau của mình như thế nào. Nỗi đau của một người mới hôm trước còn đề huề sống trong tình làng nghĩa xóm, chiều chiều khề khà vài chung rượu với mấy bạn già, say rồi hát tỉ tì ti, hôm sau đã thui thủi một mình. Làm sao diễn tả được nỗi đau của người cha hôm trước còn bắt kiến vàng bu trên tóc con gái hôm sau đã phải nghẹn ngào đứng xa xa ngó nó khổ đau.
Ôi! Những tâm hồn tươi hơn hớn, những khuôn mặt không nhuốm sầu lo kia làm sao biết được niềm ao ước của ông Tư mỗi khi ngồi nhìn thằng Sáng bò lủm củm trên đất, ông khát có một ngày được đàng hoàng, đĩnh đạc bồng nó xênh xang đi trên con đường xóm rập rờn hoa cỏ dại, ai đó hỏi, “Ủa, chú Tư, ẳm cháu ngoại đi đâu vậy...” Ông sẽ cười (lúc đó chắc ông chẳng còn răng):
- Đi đằng tiệm mua cho thằng nhỏ mấy cục kẹo dừa. Nó mê kẹo vô phương.
Bây giờ thằng Sáng đã lững đững biết đi, ước mơ đó chưa thành sự thực. Con Nga đã chai lì, nó thôi sợ những bóng người qua lại, thôi sợ những ánh mắt ngó ngiêng. Mà, hai ba con nó không biết, xóm giềng đã thôi để ý lâu lắm rồi (Người đời thường vậy, họ chém ta một nhát rồi quên đi, thì chỉ nói cho sướng miệng thôi, cho đỡ buồn thôi chứ chết chóc ai đâu, ai biểu ta ngồi đó để ôm vết sẹo với nỗi đau khôn tả). Nó biểu ông Tư thôi đừng đi kêu oan nữa, “Hai ba con mình sống y như hồi chưa có thằng Sáng, nghen ba”. Ông già Tư Nhỏ bảo, phải nghĩ tới tương lai thằng Sáng mai nầy chớ con.
Một bữa có đoàn cán bộ huyện về khánh thành con đường giao thông nông thôn từ Xẻo Mê về Phước Hậu. Nghe nói họ sẽ đi qua nhà (đi một khúc để Đài truyền hình quay phim), con Nga bèn cầm chổi ra sân quét lá. Thấy bóng người quen, Nga gọi nhỏ, anh gì ơi. Chẳng gọi ngay tên, nhưng có người đứng lại, con Nga nghiến răng cười: “Trời đất ơi, tui chờ anh lên tỉnh làm quan quá chừng. Lên càng cao, té càng đau, đồ có quý bể mới tiếc… Tui nhịn hoài, ngậm đắng nuốt cay, lì lợm, nín thinh là tính chờ anh lên đó mới phá anh chơi, nhưng mà đợi lâu quá… Bây giờ ở huyện anh làm tới chức gì rồi, mà anh làm tới cái gì thì cũng do tui cho, nên anh tính làm sao không tui nổi quạu, tui đòi lại cho mà coi”. Người nọ đứng ngây ra, mặt tái như mặt gà mái, hồi lâu mới hỏi: “Bây giờ… Nga muốn gì…”. Con Nga giả đò chưng hửng, “Ủa, vậy mấy lần ba tui lên huyện kêu oan, anh không gặp sao, anh biết ba tui khổ sao anh im re vậy...”. Nói rồi nó đủng đỉnh đi vô, kêu thầm, trời ơi, người này, hồi đó với mình nồng mặn biết bao nhiêu, khi anh ta say công danh mà bỏ rơi mình, mình đã đau vất đau vả. Sao bây giờ gặp nhau, thấy nản không muốn nhìn mặt. Thì ra, tình cảm cũng như bát nước hắt đi, không mong gì hốt lại.
Rồi một trưa đầy nắng, mây trên trời xanh lẻo xanh lơ, trước giờ ca cải lương, đài truyền thanh xã gởi đi lời xin lỗi của chính quyền đối với công dân Dương Văn Nhỏ. Đơn giản, gọn hơ, nhẹ nhỏm. Vậy là huề nghen. Cái câu dài thê thiết những dấu phẩy, dấu chấm lửng cuối cùng cũng được người ta chấm cái rột. Ông Tư lúc đó đang móc đất nắn trâu cho thằng Sáng chơi, khóc hức lên vì không cầm lòng được, sao kỳ vậy cà, người ta đã giải oan cho mình rồi, đã xin lỗi mình rồi sao mình vẫn mãi đau.
Con Nga đứng đằng sau, ngó cái lưng bắt đầu còng xuống của người cha, nghe gió thổi qua lòng mê miết, nghĩ mình ngu thiệt, mình nuôi hận người ấy làm chi đây, mình trả đũa làm chi, đổi lấy cái gì... Có đáng không những tháng năm dài vằng vặc... Những tâm hồn thương tổn... Và kia, một mái đầu bạc phơ xơ xác...
Có đáng không... Trời ơi, có đáng không...
TÌNH THIÊN THU
Quế Hương
Năm tôi mười sáu, mẹ mời về nhà một ông thầy nổi tiếng bói tên. Ông ta không tráp, không sách, không quẻ. Đồ nghề của ông ta chính là đôi mắt. Đôi mắt có ánh nhìn cứng lạnh như mũi khoan thủng thỉnh đục từng mẩu đời cho đến khi lộ số phận. Ba người ngồi một dãy nhưng ánh mắt của ông ta chĩa vào chị Ái:
- O tên chi?
- Dạ ... Ái.
- Đời O lộ cả trong cái tên: Ái là yêu. O yêu thiệt dễ sợ!
Ông bỏ lửng ở đó, quay qua mẹ tôi:
- Tên bà?
- Dạ ... Lội.
- Lội suốt đời phải không? Vì mẹ, vì chồng, vì con ...
Mẹ tái mặt còn tôi ghé tai chị Ái:
- Bói rứa em bói cũng được. Căn cứ vào tên mà suy diễn. Vả lại mạ nói đàn bà mấy ai không khổ.
- Ừ, mụ non nói có lý. Thầy nói tau yêu dễ sợ ... Nhưng tau có trái tim đông lạnh, sức mấy!
Đôi môi đỏ mọng trề ra rồi chủ nhân trái tim đông lạnh đứng dậy, nhưng không bỏ đi vì câu nói tiếp theo của ông thầy:
- Sáu, bảy tuổi nhà bà có tai biến, bắt đầu nếm mùi cực. Tuổi trăng tròn phải lưu lạc. Chồng con không ra chi. Đôi chân bà là đôi chân biết khóc, luôn dầm trong nước, "ướt" suốt đời. Đưa nó ra đây!
Mẹ tôi líu ríu chìa chân ra. Đôi chân in dấu số phận. Chỗ chai, chỗ sần, chỗ lõm, chỗ nhô xương, móng hư, móng trụi ... Dấu vết lầm than lấm tấm như lệ ứa.
Chị Ái ngồi xuống hình như bị lực hút của ông thầy. Hình ảnh bà ngoại điên đẹp tuyệt trần đứng cởi quần rũ hiện ra trong nắng. Bà tôi điên khi mẹ tôi lên tám, vẫn đẹp lạ lùng cho đến khi chết. Tôi còn nhớ bà ngoại hay nói một mình, phì cười và cởi quần rũ. Động tác nào của bà cũng tự nhiên, duyên dáng ... Đúng là mẹ đã đi ở từ năm mười ba để lấy một món tiền chữa bệnh cho bà mẹ điên. Đôi mươi về lấy một anh thợ hớt tóc nghèo. Khoảng mười năm bệnh lao cướp mất chồng ... Vâng, cuộc đời mẹ, thầy tóm trong mấy câu mà đúng đến sởn da gà! Cả đôi chân mẹ, suốt đời chui rúc lặn lội sao ông ta nhìn thấy và gọi tên nó thật đúng - Đôi chân biết khóc!
Chị Ái có vẻ hoang mang. Tôi nghe chị lẩm bẩm: "Chân vợ ổng cũng rứa thôi. Đàn bà mà!". Thế nhưng tôi thấy chị lén nhìn chân mình.
- O tên chi?
Ánh mắt ông thầy xỉa vào tôi. Vẫn cái ánh mắt dễ sợ ấy.
Lập tức con bé "cắc cớ" trong tôi xúi tôi nói láo:
- Tên Dần ạ!
Bà chị bụm miệng cười còn ông thầy tỉnh bơ cắm ánh mắt vào tôi bắt đầu khoan:
- O khổ vì không giống cọp. O hiền và đa cảm đa mang. Hiền là thiệt, thương là khổ. Hay thương nhưng lại dễ bị người ta ghét. Trái tim đa cảm của o tự vệ bằng những cái gai - bướng bỉnh, lạnh lùng, kênh kiệu, khó gần ...
Sau bữa bói tên, những người đàn bà trong nhà tôi dường như khổ hơn. Mẹ hay nhìn "đôi chân biết khóc". Tôi xù gai tăng cường bảo vệ trái tim yếu đuối bằng thành trong lũy ngoài và thề tránh xa mấy lão vừa xoi vừa bói. Chị Ái trông như vô sự vì trái tim chị vẫn "ngủ đông"! Cô giáo mới ra trường đẹp như hoa khôi nhưng lạnh như nước đá vẫn chưa có bồ dù lượn lờ quanh chị cả tá. Loại lì lợm lăn xả vào nhà, chị lấy chổi quét. Loại ngang lứa, chị bảo "hỉ mũi chưa sạch". Loại chững chạc, chị thưa cụ ...
Mẹ tôi đe ở góa, chị bảo:
- "Thầy bảo con lụy vì yêu, ở góa hết lụy"
Mẹ im lặng ân hận. Còn tôi rủa ông thầy xem mặt bói tên!
Chị Ái không ở góa. Chị lấy chồng muộn khi mẹ tôi đã qua đời, ở tuổi băm. Tôi tò mò nhìn người làm nóng trái tim mùa đông và khiến cái đầu ngang ngạnh của chị đầu hàng. Trong ảnh anh ta trẻ hơn chị và trông quen quen. Chị viết trong thư chị rất hạnh phúc, đến nỗi thỉnh thoảng chị cứ muốn hét lên với ai đó rằng chị hạnh phúc lắm lắm ...
Một ngày, tôi nhận một bức điện khẩn từ thành phố Hồ Chí Minh: "Chị cần em. Thu xếp vào với chị gấp!”
Tôi gặp chị tại phòng hồi sức của một bệnh viện. Chị già đi, gầy rộc hốc hác. Đôi mắt đen toát lên ánh lửa dữ dội của kẻ đang quyết đấu. Nằm mê man bất động trên giường lủng lẳng dây ống là chồng chị. Mặc năm tháng và biến đổi, tôi vẫn nhận ra đó là thằng Chuột!
Thằng Chuột thua chị Ái ba tuổi, lớn hơn tôi một tuổi nhưng không ai gọi đứa quanh năm làm thuê gánh mướn, không cha không mẹ bằng anh! Thằng Chuột thường ở trần khoe chỗ lõm trên vai, nơi chiếc đòn gánh luôn đè nặng từ khi cha mẹ nó chết vì trúng mìn khi xăm tìm phế liệu. Nó bảo đó là chỗ đựng tiền nuôi em. Hồi đó em nó còn nhỏ, gánh thuê nó phải dắt em theo. Gánh xóm nào gửi em xóm ấy. Trông nó gánh nước thật buồn cười. Quang gánh e dài hơn nó và nước thì lưng lửng thùng. Thế nhưng có việc gì người trong xóm cũng gọi nó vì nó siêng năng, thật thà và rất thương em. Nó hay gửi em nó ở nhà tôi. Con bé la lết chơi, thấy cái gì cũng cho vào miệng. Tôi lén lấy cục đường đen kho cá trong chạn cho nó còn chị Ái đem con bé nhem nhuốc gầy gò ra bể nước "đánh bóng". Tắm rửa xong xuôi gói trong chiếc áo cũ rộng thùng thình, trông con bé rất ngộ. Thằng Chuột cảm động lắm. Nó thường nán lại chẻ giúp đống củi, buộc cái chổi hoặc chữa cái gì đó ... Mùa mưa, nước trời lai láng, thằng Chuột chuyển qua bán kẹo gừng. Thỉnh thoảng gửi em và trả công cho chị em tôi mấy cái kẹo. Viên kẹo như chiếc bánh ú nhỏ xinh, tẩm bột cho khỏi ẩm, sực nức mùi gừng. Chị Ái thường lè lưỡi liếm sạch lớp bột rồi mới ngậm. Chúng tôi nói chuyện bằng cái giọng ngọng nghịu bởi viên kẹo trên lưỡi. Những ngày mưa dầm thúi đất ấy, anh em thằng Chuột là tia nắng. Bốn đứa chơi trò bán buôn hoặc vợ chồng. Chị Ái thường đòi làm vợ thằng Chuột để ăn kẹo gừng. Còn tôi thích làm mẹ con Bẹp, em nó. Thằng Chuột lại thích trò dạy học. Nó bảo nó nhất định nuôi em nó thành cô giáo!
- Sao vậy chị?- Tôi bối rối hỏi trống.
- Ảnh xuống vét cái giếng cho xóm ... trèo lên ngã vật ra mê luôn. Nằm ở trên một tuần, chị chuyển vào đây - Giọng chị Ái khô khốc. Mắt chị nhìn dán vào cái hình hài bất động trên giường.
- Bác sĩ bảo sao?
Chị không trả lời, bọc người bệnh bằng ánh mắt da diết mênh mông.
Chị nhận ở tôi mọi sự giúp đỡ ngoại trừ thay chị ngồi bên ... anh. Tôi cứ lướng vướng với tiếng "anh" ấy! Chị Ái không rời anh quá mười lăm phút. Hình như chị sợ anh mở mắt khi không có chị hoặc chị biết thời gian anh còn đấy không bao lăm và chị chắt chiu từng phút còn lại. Tôi không hề thấy chị đặt lưng xuống giường. Ngày đêm chị ngồi bên giường người bệnh, làm các động tác chăm sóc một cách tỉ mỉ, bọc anh trong cái nhìn trĩu nặng yêu thương. Khi chị mệt quá, chị ngủ gục trong khoảnh khắc rồi tỉnh dậy hoảng hốt. Tôi biết chị sợ Tử thần. Thi thoảng lão lại tạt qua. Khi lão hiện diện phút giây dài đằng đẵng, cả nắng cũng ốm và đến người khỏe mạnh như tôi cũng cảm thấy khó thở. Lão dửng dưng ghé nhìn anh và thằng bé mười bảy lún phún ria mép, bị chấn thương sọ não vì đua xe nằm cùng phòng. Ánh mắt nghiệt ngã của lão làm tôi ớn lạnh. Hồi nhỏ, cả nhà bảo tôi bị nhiễm vi rút TT (vi rút tưởng tượng). Tôi sợ đến phát khóc khi chứng kiến một con bé bị xe tông chết khi băng qua đường. Dòng xe ngưng chảy. Con bé nằm lộ như con búp bê bị quẳng ra đường. Đến lúc ấy tôi mới biết rằng người ta vẫn có thể chết khi còn rất trẻ. Chị Ái bảo có một lão mặc áo choàng đen, mang bị gậy. Lão sờ vào ai là lấy đi hồn vía của người đó bỏ bị. Từ đó ngủ với mẹ và chị, tôi chen vào giữa, trùm chăn kín mít. Tôi sợ lão thấy tôi. Còn bây giờ, tôi cứ như kẻ vô hình trong mắt lão! Lão vẫn nhìn chòng chọc chồng chị Ái và cái thằng lún phún ria mép ấy. Khi chị Ái thiếp đi vì mệt trong khoảnh khắc, tôi thay chị lắng nghe tiếng tí tách của từng giọt sống mỏng mảnh truyền vào người bạn cơ cực thời thơ ấu và canh lão. Bây giờ tôi thấy lão mà lão không thấy tôi!
Có một lần gánh đầy bể nước, thằng Chuột gãi đầu cố ngập ngừng đề nghị:
- Tui không lấy tiền công gánh nước, dán bì, chẻ củi ... chi tui cũng làm không công hết ... chị dạy con Bẹp học với!
- Răng mi không dạy em? - Tôi cong cớn hỏi.
- Tui biết có ba chữ: O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội mũ, Ơ đà mang râu. Con Bẹp học hết ba chữ nớ rồi!
Chị Ái cười ngặt nghẽo:
- Té ra mi mù chữ. Để tau dạy cho. Học phí tau tính bằng kẹo. Mỗi buổi hai cái kẹo gừng. Thằng Chuột gật đầu lia lịa.
Khi con bé học, thằng Chuột nuốt lén chữ đực chữ cái vào bụng, thế mà biết đọc trước cả em nó. Thấy nó sáng dạ, chị Ái bày luôn cho nó để được dịp kéo tai và bắt nó gọi bằng sư mẫu. Đồ đệ không những để dành kẹo gừng mà còn sẵn lòng để sư mẫu sai vặt từ chuyện hái ổi, hái dừa, đánh nhau đến chuyện làm thủ công, tìm lá thuộc bài, bắt chuồn chuồn, ếch nhái cho chị em tôi lấy điểm. Chị Ái mười bảy, mười tám, thường có đuôi quẩn chân, thằng Chuột lại vác thiết bản đòn gánh hộ tống chị. Khi chị Ái thôi dạy, trình độ văn hóa lôm côm của thằng Chuột khoảng lớp ba và tai nó hết nguy cơ thành tai lừa!
Thế mà trong hồ sơ bệnh án ghi: Lê Chuột, 35 tuổi. Nghề nghiệp: Kỹ sư. Hôn mê sâu vì khí độc dưới lòng giếng. Chuyển từ bệnh viện Đắc Lắc ...
Người ta đã chuyển anh ấy ra khỏi phòng đặc biệt để nhường chỗ cho những kẻ còn hy vọng. Y học hầu như đã bất lực nhưng chị Ái vẫn không đầu hàng. Nữ trang, tiền bạc, hết sạch, chị thế chấp nhà và mảnh đất trồng cà-phê ở Đắc Lắc vay ngân hàng một số tiền lớn duy trì cho anh điều trị ở bệnh viện. Tình yêu và niềm hy vọng vẫn rừng rực trong mắt chị. Tôi thường bắt gặp chị ôm anh như truyền cho anh sinh lực của mình, thầm thì nói với anh như anh nghe được, tắm anh bằng những nụ hôn đẫm nước mắt. Chị gầy nhanh, tinh lực chỉ còn trong đôi mắt hõm sâu. Bác sĩ điều trị bảo tôi khuyên chị đem anh về nhưng tôi và họ đều không thuyết phục được chị. Chị còn tiền trang trải và vẫn tin anh sẽ mở mắt nhìn chị.
- Thế chị gọi thằng Chuột bằng anh lúc nào? - Một đêm tôi buột miệng hỏi.
- Khi lấy nhau.
- Thế chị ... thích ... hắn lúc nào? Hồi ấy ...
- Ừ. Hồi đó chị chỉ nhớ tới hắn khi có việc gì sai hắn ... Khi chị quên mất hắn từng có mặt trên đời thì hắn bỗng hiện ra. Chị nhận một lá thư chữ rất đẹp. Hắn báo em hắn học năm cuối ngành sư phạm. Còn hắn đã tốt nghiệp bổ túc văn hóa phổ thông Trung học, đang đợi kết quả thi vào đại học. Hắn xin phép ghé thăm ...
Em không tưởng tượng nổi chị ngạc nhiên thế nào đâu khi đứng trước hắn. Một người đàn ông thực sự - từng trải, phong trần và đẹp! Chị bối rối không dám gọi hắn là ... thằng Chuột nữa. Từ đó theo với những chuyến tàu hắn hay xuất hiện bất ngờ với những món quà thời thơ ấu. Gói kẹo gừng chị thích, chùm keo ngày xưa chị bắt hắn lội qua ao bẻ, con sóc bằng xơ mướp mà chị em mình từng giành nhau, bó hoa dại toàn thứ tụi mình chơi đồ hàng ... Hắn làm chị ngỡ thời gian không có thực và chị vẫn ở cái thuở be bé ấy! Hắn ít nói, hay làm. Đến chỗ chị có gì hư cũng xắn tay sửa. Có khi hắn còn xách nước ... Hắn đang là sinh viên năm thứ nhất ngành cơ khí ... Xí nghiệp nơi hắn làm công nhân cho hắn đi học ... Tần tảo, vất vả hơn mụ đàn bà ... - Giọng chị Ái rã ra từng mảnh.
- Rứa hắn tỏ tình với chị ra răng? Tôi tò mò.
- Không nói chi cả. Cứ lẳng lặng tận tâm tận tụy. Cũng như ngày nhỏ, có hắn chị cảm thấy vui và yên tâm.
Có một lần hắn giáp mặt anh chàng đang theo đuổi chị. Anh ta ngồi lâu ơi là lâu. Hắn thay cái đèn neon trên bàn chị cũng lâu như thế. Sau đó lấy chổi quét nhà xoèn xoẹt ...
- Thì hồi nớ chị từng biểu hắn làm rứa để đuổi khách - Tôi cười.
- Nhưng hồi nớ chị chỉ là con ranh 16, 17. Khi anh ta về, hắn bảo:
- Cô có nhớ cái đòn gánh dùng làm thiết bảng bảo vệ cô ngày xưa không? Tui ... còn giữ đấy! Lần sau ... tui đem theo nhé!
- Bảo vệ kiểu ấy chắc sư mẫu ế! - Chị trợn mắt.
- Ai chê tui lấy! - Hắn lầm bầm trong miệng.
Anh ấy mỗi ngày chết đi một tí. Như chiều cứ tà dần và không ai ngăn được mặt trời lặn. Tôi trở lại với chị vì con Bẹp ngày xưa anh vắt kiệt cả thanh xuân vun bón thành cô giáo dạy toán vào với anh có một tuần rồi bay ra dạy cours. Anh trở thành bệnh nhân lâu nhất khoa, một bệnh nhân đã tàn hy vọng mà bệnh viện đã nhiều lần ngỏ ý đuổi về. Những lúc ấy chị Ái trở thành một kẻ quyết đấu. Nước mắt, sức mạnh dữ dội của tình yêu, cả tiền bạc nữa hỗ trợ chị ...
Anh đã nằm hết tháng thứ ba. Nhìn chị Ái tôi thấy sợ. Những gì liên quan đến con bệnh, chị khắc cốt ghi tâm còn mọi thứ đều lơ đãng. Chị mất dần khả năng ăn ngủ. Thế nhưng chị không có vẻ bất hạnh. Hoàn toàn hiến dâng mình cho kẻ khác xem ra cũng là một thứ hạnh phúc.
- Chị còn nhớ cái lần tụi mình tắm sông không?
- Nhớ.
Chị òa khóc. Tôi để mặc. Nước mắt sẽ kéo chị trở lại với cõi người đau khổ. Chị Ái rủ tôi tắm sông. Chị muốn thử nghiệm hiệu quả việc cho chuồn chuồn cắn rốn. Xuống nước chúng tôi vẫn đeo cứng phao. Cuối cùng chị Ái bảo: "Đồ rệp. Ngó tau bơi nì!". Chị thả tay, hí hửng quẫy đạp vài cái rồi không thấy đâu cả. Tôi thất thanh kêu cứu. Một bóng người lao vút đến, lặn xuống và túm lấy mái tóc dài của chị Ái lôi lên. Tôi nhận ra thằng Chuột. Thằng Chuột đem chị lên bờ vác ngược chị chạy. Sau đó hắn đặt chị xuống và để hai tay trên ngực chị ấn lên ấn xuống. Lập tức tụi đứng coi ré lên: " Thằng Chuột bóp vú con Ái?" Chị Ái tỉnh lại nghe thế, hất tay hắn rồi co cẳng đạp giữa tiếng reo hò khoái chí của tụi nhỏ. Hắn lắp bắp: "Tui thấy họ cứu người chết đuối làm vậy mà!"Nhưng tụi kia vẫn ré: "Thằng Chuột dê! Thằng Chuột dê!" Hắn xấu hổ bỏ đi. Chị Ái lườm theo. Chẳng đứa nào coi việc hắn cứu chị Ái đáng phải cám ơn.
- Sau này anh ấy bảo anh ấy lo nên đi theo, luẩn quẩn gần đó. Còn chị bị mạ quất cho mấy roi vì tội đạp người cứu mình. Mạ bảo: "Đồ vô ơn. Không có hắn mi thành ma rà rồi!" Chị trả thù mấy roi bằng việc nghỉ chơi với hắn. Hắn năn nỉ: "Tui sợ cô thành ma rà nên mới làm thế! Tui không dê!"- "Tau mà thành ma rà thì mi tắm tau sẽ dận nước" - "Cũng được!" - "Rứa mi không sợ làm ma ư?" - "Cô làm ma, tui cũng thích làm ma"...
Hồi ấy sao chị quá quắt ngoa ngoắt thế không biết? - Chị Ái cười rơi nước mắt rồi nhìn anh thì thầm - Anh ấy nghe đấy! Anh ấy thích nhắc chuyện ngày xưa lắm.
Giờ chị có thương anh ấy mấy cũng không bù nổi tình thương và lòng quý trọng anh ấy dành cho chị. Anh ấy bảo hình bóng chị đã động viên anh ấy ngoi lên từ đáy cuộc đời. Trong giấc ngủ cũng đau đáu ước mơ vượt lên số phận. Thỉnh thoảng chị nhận một món quà tự làm ngồ ngộ, dễ thương đến nỗi chị cứ đem khoe ... Bao giờ cũng kèm một câu: "Tôi đang chạy cho kịp. Hãy đợi tôi!" Chị cứ tưởng của một thằng man man nào đó ... Anh ấy ra trường, hai đứa chị lấy nhau. Nếm mùi vị nghèo gần trọn đời nên sợ lắm. Gì cũng làm, làm quần quật để tạo dựng cơ nghiệp, để chị sung sướng. Chị sống với ảnh được năm năm hai tháng bốn ngày. Kể 4 năm yêu nhau là chín năm. Kể cả lúc anh ấy là "thằng Chuột" và cả sau này, lúc anh ấy đã ra đi. Vậy là cả đời. Hai đứa chị sinh ra là để hợp nhất với nhau ... Chị nói với tôi nhưng vẫn nhìn anh và tôi có cảm tưởng anh ấy đang nghe chị. Ngay cả lúc này vẫn không thấy chị bất hạnh. Yêu là thế sao? Là cuộc đời này tỏa sáng vào cuộc đời khác và người đó trở nên tốt hơn, mạnh hơn? Nếu thế thì quả tôi chưa yêu và được yêu bao giờ!
- Nhọc nhằn lắm mới có ngày hôm nay. Thế mà cứ chuốc vạ vào thân, lận khổ trong người. Giếng của người ta mắc chi mà! - Tôi đau lòng buột miệng.
- Đi đêm lắm có ngày gặp ma. Em coi nì - Chị giở tấm ra đắp chân anh. Một bàn chân bị mất ba ngón.
- Sao thế? - Cái giá của một lần cứu một thằng bé chạy lúp xúp theo trái banh rớt trên đường ray khi tàu đang vào ga. Khi khối sắt khổng lồ sầm sập lướt qua, tim chị như bị nghiến ... Chị cầm tay anh ấy trước, vào lúc đó!
- Thế chị yêu vì anh ấy tốt hả?
- Vì tất cả.
- Chị có hối tiếc vì yêu muộn không?
- Không, có lẽ chị yêu anh từ sớm lắm, từ hồi còn là con bé ngoa ngoắt mà chị không ý thức đó thôi. Anh ấy là mối tình của cả đời chị. Là đầu. Là cuối. Là duy nhất.
- Chị có biết anh ấy ... sắp chết? Tôi thì thầm.
- Anh ấy chỉ đi trước thôi và anh ấy sẽ đợi chị. Bao giờ anh ấy cũng đợi chị.
Khoa hội chẩn và quyết định thứ hai tới cho anh về. Họ trưng bày những chứng cứ y học để cho chị Ái thấy đã vô vọng và không nên mất công sức, tiền bạc nữa. Hãy để thân thể bất lực của anh an nghỉ. Chị Ái bỗng trở nên ngoan ngoãn.
Thứ hai có ý nghĩa là còn một ngày một đêm nữa. Chị Ái xin chuyển anh vào một phòng nhỏ, được ở một mình với anh và tự chị sẽ rút ống thở ra khỏi anh. Khoa đồng ý. Hai mươi bốn giờ ấy, phòng bệnh trở thành phòng của đôi tình nhân sắp vĩnh biệt nhau. Không! Tạm biệt nhau. Tôi bứt lén một ít lan dại mầu tím trong bồn cỏ bệnh viện cắm vào ly nước. Rằm cho ánh trăng - hào phóng, lênh láng phủ lên muộn phiền, tiều tụy, chết chóc ... Cửa khép. Chị ở trong ấy cùng anh. Tôi ngồi ngoài cùng lão. Lão đã đến. Không chuông mà văng vẳng tiếng chuông gọi hồn. Không áo quần mà có tiếng sột soạt. Không hơi thở mà vẫn thấy khí lạnh
... Tôi lắng nghe tiếng tí tách của từng giọt thời gian và tôi khóc. Còn lão điềm nhiên đợi xong chuyện. Họ nằm bên nhau. Chị Ái ôm cổ anh thủ thỉ. Mơ hồ như tiếng vọng. Nhẹ như gió thoảng. Trăng sáng đến rợn ngợp, càng khuya càng sáng. Đêm không đen, đêm nhờ trắng. Trên cái nền trắng của hư vô ấy, tôi thấy tình yêu, khổ đau, sự sống, cái chết nắm tay nhau khiêu vũ dưới trăng. Tôi dí mắt vào cửa kính. Lão cũng thế. Đêm múc trăng dội xuống họ. Gương mặt tái nhợt của anh gối trên cánh tay ngà của chị tôi ngời ngợi ánh trăng. Tôi có cảm giác hàng mi anh run rẩy khi chị hôn mắt, tay anh khẽ khàng động đậy khi chị ôm anh và tôi nghe ... lão thở dài!
Đêm cạn đáy, tiếng thì thầm bặt. Có lẽ họ đã thiếp trong tay nhau. Tôi thấy lão len lén đi xuyên qua tường.
Khi lão trở ra với cái bị phồng to. Tôi thấy rõ ràng lão quệt nước mắt. Lão lướt qua tôi như làn gió lạnh, nhanh đến nỗi tôi không kịp cảm ơn. Phải, tôi muốn cảm ơn: "kẻ thù" của chị tôi, người đã đánh bại chị sau ba tháng đối mặt. Cảm ơn lão đã bền lòng đợi chị thiếp ngủ để làm nhiệm vụ. Chị tôi hẳn không đủ sức rút những giọt sống cuối cùng ra khỏi nửa sinh mệnh của chị. Cám ơn lão!
Khi tôi và người bác sĩ trực bước vào, hai người vẫn ở trên giường. Gương mặt anh thanh thản trong giấc vĩnh cửu. Gương mặt mệt mỏi và nỗi đau dồn nén trăm ngày của chị dãn ra trong giấc ngủ đầu tiên trên giường sau bao đêm trắng, ở bên anh. Trăng đã ra khỏi phòng lâu lắm rồi nhưng một mảnh tai tái ngủ quên trên tóc chị, trắng như khăn tang cho đến hết đời chị tôi! Những gì diễn ra sau đó dường như không liên quan đến chị nữa. Người ta bảo lạy, chị lạy. Dìu đến lò thiêu, chị đi ... Nhưng chị chẳng ăn nhập gì đến khung cảnh tang tóc chung quanh. Có lẽ chị không cảm thấy mất anh vì anh vẫn tồn tại trong chị. Đêm đầu tiên về lại nhà mình, nằm trên chiếc giường đã trở thành mênh mông, chị nằm một phía, phía kia có anh. Khuya chị bật dậy. Tôi nghe chị gọi: "Anh, anh ở đâu? Em không thấy tay anh". "Anh ở đây, em!" - Tôi nghe tiếng đáp.
Tôi rón rén trở lại giường mình. Ngày mai tôi yên tâm trở về. Không sợ chị đơn độc. Không sợ chị yếu đuối. Có lẽ tôi lại mất việc. Nhưng tôi sẵn sàng bắt đầu lại. Tôi đã học nhiều điều trong hơn tháng kề cận họ. Đời rộng mênh mông bởi tôi đã nhìn ngắm nó dưới góc độ vĩnh cửu.
Nước Mắt Đàn Ông
Nguyễn Thị Thu Huệ
Bão tan. Bảy giờ sáng tôi lên tàu về phía Nam. Tàu đi qua những miền đất xác xơ, cây cối đỏ hoang tàn. Càng xa thành phố, cuộc sống càng như lao xao bởi trận bão vừa qua cuốn theo nó sự yên bình.
Hai ngày sau, đất Sài Gòn hiện ra, nóng bỏng nắng. Một thành phố gần như không bao giờ có bão. Tôi xuống các miệt vườn, với những đường phố nhỏ nhắn, những vườn dừa xanh um toả bóng. Tôi là thằng đi thu gom hạt điều và xuất khẩu chúng.
Bốn tháng sau, trở lại Sài Gòn, tôi nhận được thư của mẹ, lá thư duy nhất cho tôi trong những ngày xa nhà. Tôi chăm chắm nhìn vào dòng chữ: "... Vì cái tội tin bạn, bị bạn nó lừa...". Một người như cậu mà cũng bị lừa ư? Chuyện đó chỉ có thể xảy ra cách đây ba mươi năm. Một người bạn của cậu bảo tôi: "Mày có một ông cậu tuyệt vời, ông ấy bao giờ cũng đi trước lịch sử. Ngày ấy, tớ ti teo về cùng phòng của cậu mày, tớ kém ông ấy gần chục tuổi. Cậu mày mê văn chương lắm, khởi đầu là viết một truyện ngắn cực hay bởi cậu mày rút ruột ra viết, những suy nghĩ của một thanh niên trước cuộc đời. Ai ngờ, khi in ra, truyện bị coi là chống chế độ và hoài nghi về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội...". "Cậu cháu viết chửi bới à?", "Không, viết về tâm trạng của người lính trước cuộc sống, trước những hiện tượng tiêu cực của xã hội. Lúc ấy, đang chiến tranh, con người phải dốc lòng ra chiến đấu, người lính không được đứng ngoài cuộc nhìn mọi thứ bằng ánh mắt không xây dựng. Bị phê bình, thậm chí có bài viết còn phân tích rõ ràng, rành mạch những tư tưởng vấn đề của cậu mày. Lúc tao hỏi là ông có viết thế không, cậu mày cười phá lên, bảo tớ không ngờ ngòi bút của các nhà phê bình và lối suy diễn của họ giỏi thế, tớ chẳng còn biết họ bình chuyện của tớ hay của thằng nào? Rồi cậu mày chuyển sang làm kinh tế, nói một là một, hai là hai chứ không hai với hai bằng năm như bên văn chương. Cậu mày thành tỷ phú. Tôi cãi là gì có chuyện tỷ phú, cậu ấy chỉ giàu thôi, chú cứ làm như kiếm tiền bây giờ dễ lắm ấy?". Càng kiếm tiền càng khó, lao vào hàng nghìn người, trụ lại khoảng năm người cực mạnh, vài thằng lau nhau còn đâu toi hết. Trong số những người cực mạnh có cậu mày. Vốn của họ lớn hơn vốn của cơ quan, nhân viên của họ tử tế hơn nhân viên nhà nước bởi họ ăn lương cao hơn, làm tốt thì nhiều tiền, hỏng thì đuổi, buộc con người sống phải có trách nhiệm. Càng lớn càng hiểu thêm, chú nhóc ạ. Rồi sẽ đến lúc mày thấy một người như cậu mày là hiếm lắm. Cậu mày là hình tượng và mơ ước của tao".Thế mà giờ đây, mẹ viết thư bảo tôi là cậu bị lừa? Đứa nào to gan và khốn kiếp đã lừa cậu?
Tôi thôi thúc một ý muốn ra Hà Nội. Được cơ quan cử làm chân chạy đi chạy về trong việc xuất khẩu nông thổ sản, bởi lẽ tôi chưa vướng vợ con. Ba ngày sau, cầm một khoản tiền thưởng, thu xếp ổn công việc, tôi lên tàu về Hà Nôi. Thành phố đang mùa hè mà thời tiết như chớm đông. Đường phố mát rượi, yên bình một màu xanh.
Tôi ở nhà với mẹ một buổi chiều rồi lên nhà cậu. Mọi vật dường như thay đổi. Cậu cho thay những thanh gỗ ốp quanh nhà, tất cả các phòng đều lắp điều hoà nhiệt độ. Bàn ghế, đồ đạc trong nhà mới biết. Nếu trước đây là những bộ bàn ghế bọc mút, hay phoóc-mi-ca của Sài Gòn thì nay tất cả đều là đồ cổ hoặc giả cổ đắt tiền. Các phòng đều có tivi, hai phòng có một tủ lạnh và dàn cát-xét. Con bé út của cậu đang bật máy phát một bộ phim tâm lý xã hội Hồng Kông.
Tôi hỏi: Nhà có vài phòng, tại sao phải dùng máy phát?
- Để cho hàng xóm láng giềng cùng xem, nhà nào gần chỉ cần cái vô tuyến đen trắng là bắt được. Bố em thích thế.
- Bố đâu?- Tôi hồi hộp muốn gặp cậu như gặp người yêu.
- Bố mẹ em đèo nhau đi phố, về bây giờ đây. Bố em mới thay cho em con Dream này đấy, con 82-89 kia bán rồi. Đi xe này đầm lắm, anh lên đây em chở một vòng!
Con bé hăm hở bật khóa điện và ấn nút đề. Nghe tiếng nổ pình pình, mặt nó mãn nguyện lắm.Tôi lại gần và sờ lên chiếc xe bóng loáng. Một bên gương gãy gục, cốp xe xước sơn và cái yên rách.
Thấy tôi nhìn, con bé cười lấp liếm:
- Sáng cho mấy thằng bạn mượn, nó din ba cầu, sợ công an đuổi chúng phóng nhanh nên đâm nhau què rồi. Chốc em xin tiền mẹ đi thay mấy thứ, mông má lại. Em hỏi rồi, mất hơn triệu thôi.
- Hơn một triệu? - Tôi như không tin nổi ở tai mình.
- Riêng đèn hậu của em cũng vài trăm, còn bao nhiêu thứ, cái xe này hai mươi tư vé đấy.
- Vé là cái gì? - Tôi hỏi
- Mỗi vé là một trăm đô la. Một trăm đôla bằng một triệu mốt tiền Việt, anh nhân lên.
Tôi im lặng nhìn nó. Một đứa con gái mười bảy tuổi, chưa tự tay kiếm ra một xu mà nói tiền triệu trơn đầu lưỡi. Nó mặc một cái váy bó chặt lấy người, chiếc áo thun ba lỗ và người đầy những dây chuyền và nhẫn vàng. Trông nó không kém những cô gái Sài Gòn tôi vừa gặp, chỉ có điều mặt nó thật non nớt. Một triệu, đó là cả số tiền tôi đi xuôi ngược làm bốn tháng rồi được thưởng, tặc lưỡi một cái nó nghiến xong.
Con bé chạy ra mở cửa. Cậu tôi đang cúi người đẩy chiếc xe to đùng, xanh ngắt như màu con cánh cam vàng. Cậu trông hồng hào hơn trước. Mợ đi sau, tay ôm một bịch hoa quả khác nhau.
Cậu trông thấy tôi, reo khẽ một tiếng ánh mắt đầy trìu mến.Tôi và cậu đi lên cầu thang, qua phòng cậu và ra ban công bão tố ngày nào. Cậu đưa tôi một bao ba số dẹt.
- Hút đi cháu, khoẻ không?
- Bình thường cậu ạ. Cậu thế nào?
- Cậu vẫn thế. Sao hôm đi không lên cậu, vào trong đó tiền đâu mà tiêu.
- Cháu tìm cậu mấy lần mà không gặp. Hôm nay về nhà, nhìn thấy cái ti vi màu cậu cho, bật xem tỉnh cả người. Sao cậu cho mẹ con cháu nhiều thế?
- Vớ vẩn, có gì mà nhiều? - Cậu lảng tránh câu hỏi của tôi.
- Thấy cậu vui là cháu mừng rồi. Có lúc cháu tưởng cậu sẽ bỏ mợ.
- Bỏ gì nữa. Tao già thế này rồi, mợ mày cũng thế, còn thời gian nữa đâu mà làm lại? Vợ chồng là số phận, chống cũng chẳng được. Cứ sống thế này thôi.
- Tại sao cậu chiều Dung thế? Cháu thấy nó tiêu tiền như rác.Cậu im lặng không trả lời tôi.
Tôi tiếp tục:
- Dung cũng ngoan thôi nhưng tại cậu mợ chiều, nó chưa kiếm ra tiền nên không thấy quý. Trên đời này sướng nhất là tiêu tiền của người khác. Cậu không cẩn thận, một đứa con gái như nó dễ hỏng lắm. Lúc nãy bật ti vi, thấy vở kịch nói về Ngày thương binh liệt sĩ, nó tắt ngay, bảo xem cho phí điện, lảm nhảm toàn chuyện nhố nhăng. Cháu hơi bực. Một đứa phá phách như nó mà lo chuyện tốn điện? Có phải thế hệ nó quên hết rồi sao?
Cậu thở dài rút ra một điếu thuốc rồi châm lửa hút.
- Không ai chọn được bố mẹ và con cái, thậm chí cả vợ.
- Nhưng phải có biện pháp chứ? À, nghe nói vừa rồi cậu bị lừa?
- Cậu ký hợp đồng làm một con đường làng. Cậu thương tay Hoạt đang đói, nhường cho hắn làm. Ai ngờ hắn làm sai kỹ thuật, đường gì mà vừa mưa đã nổ bùm bụp. Họ túm cậu. Cậu lo xong rồi, đang tiến hành làm lại.
- Còn cô ấy? - Tôi dè dặt. Cậu im lặng rít thuốc. Một đốm sáng loé lên. Gió khe khẽ lùa qua kẽ tóc tôi, mát và êm dịu.
- Cô ấy lấy chồng rồi.
- Tại sao hả cậu? - Tôi giật mình.
- Cậu khuyên cô ấy và cô ấy nghe. Suy cho cùng, đợi cậu thì cô ấy được cái gì. Cô ấy yêu cậu không phải vì cậu giàu. Toàn bộ cuộc sống riêng cô ấy dành cho cậu. Mà tình cảm cậu chỉ dành cho cô ấy trong giờ hành chính thôi. Chiều tối là ở nhà lo việc gia đình. Vậy kéo dài thêm chỉ khổ cô ấy, cậu bỏ vợ lấy cô ấy chắc gì đã hay, mà cô ấy cũng không muốn cậu chia tay với mợ mày.
- Cậu có tiếc không?
Tôi nhìn cậu. Một cơn gió tạt qua, điếu thuốc lá nơi môi câu loé sáng.
- Cậu chỉ yêu một mình cô ấy.
- Hình như cậu già mất rồi.
- Ừ, cậu già quá rồi. Này cậu dặn, mai kia cậu chết đi, khi cho cậu vào áo quan, mày nhớ đục hai lỗ to ở hai bên ra nhé.
- Để làm gì hả cậu? Sao cậu cứ nói linh tinh cái gì đấy?
- Đục hai cái lỗ để tao chìa tay ra ngoài! - Cậu chợt cười phá lên.- Cậu làm thế để xem có ai đi qua còn túm chứ!
- Chết rồi, còn túm được ai?
Cậu lại im lìm.
- Cậu thò hai tay để mọi người thấy rằng cậu đi vào cõi chết bằng hai bàn tay trắng. Cậu không mang theo người lấy một xu bởi lúc ấy tất cả thành vô nghĩa.
Tôi thôi cười và im lặng nghe cậu nói. Cậu là người của sự tiến bộ, thích khám phá và đi lên, tại sao cậu luôn buồn?
Tôi hỏi:
- Một người như cậu đáng lẽ rất sung sướng, sao cậu lại khổ?
- Tại cậu nhiều ham muốn. Muốn nhiều tiền, muốn làm văn chương, muốn có một người yêu thực sự....
- Cậu đã có tất cả, thậm chí còn dư thừa đấy thôi.
- Bây giờ cậu sắp mất tất...
- Tại sao ạ? - Tôi hỏi vội
- Bởi cậu cô độc. Con cái không ai theo nghề và hiểu cậu, chúng không có nổi mười lăm phút tâm sự với cậu ngoài câu chuyện tiền bạc. Cậu mang vật chất cho chúng dư thừa, chúng chẳng cần làm ăn vất vả cũng đủ sống. Người yêu cậu thì đi lấy chồng vì đợi cậu có ích gì? Tiền của, ăn mặc, tất cả mọi nhu cầu vật chất đến một lúc nào cũng sẽ chán ngấy. Ai nhìn cậu cũng thấy cậu sung sướng. Còn bản thân cậu, cậu thấy cô độc. Theo cháu, thế có đáng buồn không?
- Cậu còn mong gì nữa khi mình là mơ ước của bao nhiêu người, và lý tưởng sống của cháu?
- Cậu muốn có tuổi trẻ để sống lại.
- Cháu chỉ thèm lúc về già sẽ được như cậu.
- Nhầm lẫn đấy. Đừng có nhắc lại những ngu xuẩn của người khác.
Tôi nhìn cậu. Ông như một người khác. Tôi giật mình tự hỏi: Đấy có phải là cậu - Trước đây bốn tháng?
Một tay giữ dây chuyền, một tay giữ bánh lái, ông lẩm bẩm:
- Gió to đấy.
Tôi đáp:
- Vâng, gió to. Sắp bão rồi.
Ông hơi cười, nheo mắt nhìn ra xa. Cuối trời, mây xám vần vũ. Mặt hồ sóng sủi sùng sục. Tôi hơi sợ, dò xét nhìn ông. Ông bình lặng, thoáng trầm ngâm như đang mặc niệm ai đó mới lìa đời. Gió đuổi sóng trên hồ, tất cả tạo thành một không gian dại như ngựa phi trên đồng cỏ.
Tôi nhẹ nhàng:
- Có lẽ phải về thôi, sắp bão rồi.
- Chưa đâu. Bây giờ mới là lúc sướng. Tớ cho thuyền ra xa đón gió. Nằm xuống đi không dây nó quạt cho vào đầu đấy. Tôi lẳng lặng nằm xuống. Trời mênh mông và bao la. Mây cuồn cuộn trên đầu như lốc xám xịt. Con thuyền dập dờn. Ông đang kéo dây, xoay chiều thuyền để xuôi theo luồng gió mới. Khuôn mặt từng trải và trầm tĩnh nổi bật trong không gian.
- Cậu biết hôm nay có bão à?
- Biết chứ.
- Biết mà cậu vẫn thuê thuyền?
Tôi hơi lo.
- Vớ vẩn, bão gì mà bão, có buồn ngủ thì ngủ đi, cậu cho sang bờ bên kia chơi.
- Thôi cậu, nhỡ ra không về kịp...
- Cậu chịu trách nhiệm. Tôi và ông im lặng. Tiếng gió đập phần phật vào cánh buồm đỏ thắm. Tôi nhăm mắt, bồng bềnh, lắc lư chao đảo và mê ly. Không có một chăn đệm nào êm ái và dịu dàng bằng sóng nước.
Tôi ngồi dậy, chúng tôi im lìm nhìn mỗi người một phía. Một góc Tây Hồ khói cuộn mù mịt trong lùm cây.
Ông hơi cười:
- Hôm nay ngày rằm, cháu có muốn vào phủ Tây Hồ thắp hương không?
- Cháu vô thần mà cậu. Cháu chỉ cần tiền thôi, nó sẽ mở tất cả các cánh cửa cho cháu. Và ao ước có một mái nhà như cậu. Thế là đủ.
- Chả đủ được. Nhà cậu thì đã ra cái gì. Vào thắp hương đi. Cậu giữ thuyền ở ngoài này!
Ông nói và lấy chân đã cái túi da đen dưới chân.
- Tiền đấy, cầm đi vào mua hương và công đức.
- Cháu không vào. Cháu chỉ thờ bố cháu ở nhà thôi, cháu cũng có biết khấn vái gì đâu. Thôi, đi cậu, có hạt mưa rồi.
- Thì đi! - Ông lại trầm ngâm, khom người đẩy thuyền ra xa bờ. Tôi cảm thấy loang trong không khí có mùi hương.
- Cháu yêu cái con bé hôm nay đến nhà đấy à?
Cậu hỏi ngoảnh mặt ra hướng khác. Tôi cười, cử chỉ đó tôi đã quen từ lâu. Mỗi khi cậu cho ai cái gì, giúp đỡ ai việc gì, mặt cậu đầy vẻ bẽn lẽn. Cậu mang cho người khác tiền y như cậu đi xin người ta vậy. Không bao giờ kể lể ban ơn.
- Yêu đương gì đâu cậu, bạn bè thôi. Trông nó được không cậu.
- Tao không thích con gái son phấn và đi mỹ viện. Hình như nó làm lại mũi, người thì thấp mà mặt mũi nom như tây, chỉ thiếu cái tóc vàng. Chơi với nó thì được chứ lấy loại đó làm vợ, ngủ cùng giường với nó thì kinh lắm, son phấn nhoè nhoẹt trông như ma. Tôi phá lên cười. Mặt hồ nổi sóng. Đất trời bao la hùng vĩ. Vắng ngắt, đơn độc một cánh buồm đỏ của cậu cháu tôi.
- Hôm nay cậu có chuyện gì bực ở cơ quan phải không? - Tôi hỏi.
- Chuyện vặt.
- Cậu kể đi.
- Cậu góp bảy tám trăm triệu vốn cùng lão Kháng, tổng cộng trên một tỉ, định xây khách sạn mini và lập trụ sở cho công ty liên doanh hàng điện tử. Đâu vào đấy rồi... thằng bên A dở quẻ. Nó có thợ. Nó bảo phải thợ của nó nếu không nó ngắt hợp đồng. Chó má, nó lôi thợ nó đến, thợ của cậu chết đói à?
- "Bên B là chùm khế ngọt, bên A trèo hái suốt ngày". - Tôi hát
- Rồi cậu xử thế nào?
- Phải chấp nhận thôi, mình phụ thuộc vào nó. Hồi chiều cậu vừa biếu một bộ giàn và đĩa lade cho lão bên A. Coi như xong. Đi ăn xúp lươn, hay ra Tống Duy Tân ăn gà tần?
- Thôi cậu ạ, mợ còn chờ cơm.
- Kệ xác mợ mày và nồi cơm quanh năm ngon hơn đặc sản. Ăn gì?
- Cháu thích nghe cậu nói chuyện. Hôm nọ đứng trú mưa vô tình cháu gặp một ông quen cậu, ông ấy bảo có thời cậu phải ra tòa, đúng không ạ? - Tôi hỏi.
- Đúng. Khi ấy cậu ít tuổi hơn cháu bây giờ.
- Tại sao?
- Cậu là lính đánh thuê, chúng sai cậu can một bản thiết kế cái nhà, cậu làm theo nó, lúc xây lên, nhà nghiêng, bọn nó bùng hết còn lại cậu, dù cậu là thằng làm thuê.
- Bọn nó thoát làm sao được?
- Kiểu gì chả thoát, chỉ có những thằng ngu như cậu ngày ấy mới lôi thôi. Nó ăn ốc, mình đổ vỏ. Ở đời chuyện đó thường lắm. Ai mà chả có lần bị. Đêm Nôen, cậu nằm trong trại giam. Nghe tiếng gió lạnh của mùa đông, thoang thoảng tiếng nói cười của bọn trẻ đi chơi Chúa Giáng Sinh, cậu tự thề rằng trong đời cậu chỉ đổ vỏ một lần thôi. Cậu không bao giờ quên cái cảm giác mất tự do của ngày ấy! - Mặt cậu già xọm, hằn những vết nhăn đau đớn.
- Tuần sau cháu vào Sài Gòn công tác, nhập rồi, xuất hạt điều, bây giờ loại đó đang ăn - Tôi lảng sang chuyện khác.
- Thế còn mẹ mày? - Cậu hỏi
- Mẹ cháu giờ ốm luôn, tai lại hơi nghễnh ngãng, hay cậu bàn với mợ cho mẹ cháu lên ở với cậu mợ những tháng cháu đi vắng, bao giờ về cháu đón.
- Không nên sống cảnh chị chồng em dâu. Ở riêng sướng hơn.
- Giá cháu được theo nghề như cậu.
- Cháu cũng như mọi người chỉ nhìn thấy những lúc cậu mang tiền về chứ không nhìn thấy cảnh cậu làm thế nào để ra tiền. Cậu đánh đổi cả cuộc đời lấy nó đấy.
Mưa lắc rắc, chéo xiên hắt vào chúng tôi. Phía chân trời ráng đỏ chạy vòng quanh như bao bọc lấy khoảng trời xám xịt trên cao. Con thuyền lướt vù vù, máu đỏ của cánh buồm bật lên trên sóng nước.
Tôi giục:- Về đi cậu, cháu sợ thuyền lật. Nhà thuyền họ réo loa từ lúc nãy.
- Sẽ không ai gọi nữa vì họ cũng mải chạy bão hết rồi, hồi mới tập cậu cũng uống nước như điên.
Cậu cho thuyền vào bờ sau khi lượn một vòng ra xa để tìm hướng. "Đi thuyền buồm là thế" - Cậu nói - Muốn xa bờ thì trước hết phải ra thật xa, sau đó vòng lại". - Lấy trong túi cậu vài chục, gửi cho bà giữ thuyền! - Ông nói và dắt chiếc xe mới cong.
Tôi lên xe, ông đèo tôi chầm chậm ra đường. Hai hàng phượng rồi đến những cây ban rũ rượi trong gió. Những người đi làm về lầm lũi đạp xe trốn chạy cơn bão. Ông và tôi im lặng. Ông như một người khác, trầm ngâm và già nua, mặc dù so với tuổi năm nhăm của mình, ông quá trẻ.
Tôi và cậu về đến nhà. Trong nhà đầy ắp tiếng cười, cả những tiếng chửi thề. Có một đám đông xúm quanh chiếu bạc ở góc phòng. Không ai ngẩng lên nhìn chúng tôi. Tôi thấy mặt cậu sầm xuống.
- Sao con Dung không đi học, con gái cũng cờ bạc à? Cút ngay. Tao thì phá tan cái ổ của chúng mày bây giờ! - Cậu quát.
- Con được nghỉ vì sợ bão to không chạy kịp!
- Dung đang học trường Đại học ngoại ngữ khoa tiếng Anh, hệ không chính quy.
- Nhà cửa tối om, chửi nhau nghe như hát thi, giải tán! - Cậu chống hai tay vào mạng sườn, mắt vằn lên.
- Bố cho con gỡ một tý, chiều nay thằng Quảng nó xơi của con "hai băng" rồi. - Một tiếng nì nèo và những tiếng quật quân bài đen đét.
Cậu quay người, đi lên gác. Qua chỗ để chiếc tivi và đầu video, cậu tiện tay bật chúng lên. Một khuôn mặt chảy dài với cái mũi sần sùi, nhoe nhoét máu hiện ra.
Những cái răng dài nhe nhởn hai bàn tay hủi đầy máu của con ma chuyên ăn thịt người đang tiến lại một cô gái đẹp nhất trần truồng. Bộ phim ma ăn thịt các cô gái đồng trinh. Phải nói trước Mỹ sản xuất phim ma rất thành công, đến nỗi một thằng thanh niên ba mươi tuổi như tôi cũng thấy hoảng. Cậu nhăn nhó, ấn nút tắt phụt. Miệng lẩm bẩm: Nhảm nhí.
Mợ tôi hiện ra ở cầu thang lên tầng hai. Mợ mặc một cái váy có hai dây, thắt ở eo và xoè ở mông. Khuôn mặt mợ xương xẩu, hai mắt to tròn do tác dụng của mỹ viện. Mũi mợ thẳng gồ lên, khuôn mặt căng bóng vì mợ mới đi căng da mặt. Tổng công trình đại tu của mợ đáng giá bốn triệu bạc, bằng một cây vàng. Mợ như một người sản xuất nước hoa. Ở đó là sự tổng hợp của nhiều loại nước hoa đắt tiền. Mợ giải thích với mẹ tôi: "Em dùng nhiều loại, có loại hơi hắc, có loại mùi ngọt như kẹo, có loại sang trọng. Mỗi loại một tí ngửi mùi dễ chịu lắm".
Mợ nhìn thấy hai cậu cháu, chì chiết:
- Gớm hôm nay bão to có khác, về sớm thế. Thế cậu thả mày ở đâu rồi lại đón về chứ gì? Chắc quẳng cho cháu một ít tiền, kiếm cho cháu một ả gái tơ rồi để cháu ngồi đó, cậu tếch với gái già của cậu.
- Bà lảm nhảm cái gì đấy? - Cậu nghiến răng.
- Là tôi vạch cái bộ mặt thật của ông để cho cháu ông thấy.
- Thôi, bà lui ra đi! - Ông nói và lấy tay gạt mợ sang một bên, chạy nhanh lên cầu thang gác như trốn khỏi một tai hoạ sắp giáng xuống.
Tôi im lặng nhìn ông biến vào căn phòng rè rè tiếng điều hoà. Một lúc sau, căn phòng tắt phụt đèn. Có tiếng nhạc phát ra, lúc đầu to, sau to dần. Tiếng trống phách đập rầm rầm như rung chuyển ngôi nhà bốn tầng.
Tiếng mợ tôi the thé:
- Điên rồ, đú đởn mãi rồi về rửng mỡ, nhạc nghe như chó kêu, điếc hết cả tai.
Tôi nói nhỏ:
- Cậu đang buồn, mợ đừng làm gì căng thẳng thêm.
Tôi đi lên gác, đẩy nhẹ cánh cửa vào phòng cậu. Cậu ngả người vào chiếc ghế xích đu quay mặt ra cửa sổ. Ngoài trời đang mưa, lúc to lúc nhỏ. Mưa trong cơn bão thất thường. Cây bàng già trước cửa oằn mình trong gió. Tôi lại gần, mặt cậu chìm lấp trong bóng tối, trong tiếng gào thét tàn phá của âm nhạc và gió bão. Có ánh nước ở mắt cậu.
Tôi ngồi xuống, hỏi nhỏ:
- Cậu muốn cháu đi đâu cùng cậu không?
- Muộn rồi.
Tôi nhìn ánh nước mắt lăn tăn trên mặt cậu.
- Cháu nghĩ là mình đi đâu đó, cậu sẽ đỡ buồn.
- Chả có chỗ nào đỡ buồn hơn chỗ nào. Thế cả.
- Cháu không hiểu một người như cậu mà không có đâu để đến?
- Nhiều chỗ lắm, nhưng đến để làm gì?
Cậu thở dài im lặng chìm lấp vào trong bóng đêm. Trong đôi loa thùng, giọng người đàn ông trầm ấm hát một bài về sự thất tình. Buồn bã não nề
Người ấy đi rồi?- Giọng cậu bỗng khản đặc.
- Ai đi cơ cậu? - Tôi hỏi nhưng cũng thầm đoán ra người đàn bà cậu yêu.
Người đàn bà mà mợ đánh ghen mấy lần. Cô ấy đi hẳn. Vào Sài Gòn sống và mang theo tất cả những gì cậu cần ở cô ấy.
- Cậu theo vào Sài Gòn tìm cô ấy.
- Tìm, tìm thế nào được? Cậu hiểu tính cô ấy. Cô ấy đã không muốn thì đừng có tìm cách mà gặp. Có những ngày đầy ắp niềm vui và sự may mắn, có ngày thì toàn chuyện khốn nạn. Hôm nay chẳng hạn.
Tôi im lặng vì không muốn đẩy thêm câu chuyện buồn bã này.
Tôi lặng lẽ đứng dậy chào cậu:
- Thôi cháu về đây!
- Đi làm sao được lúc mưa bão này?
- Không sao đâu cậu ạ, sức thanh niên, cháu về không mẹ cháu lo.
Tôi đi xuống nhà. Quây quanh chiếu bạc đến hơn chục người. Tiếng hét, tiếng cười nói như gắt như đang ở giữa chợ. Một cái bàn đầy thức ăn.
Mợ cầm tay tôi:
- Chiều nay cậu đi đâu đấy?
- Cháu và cậu đi xem cát.
- Xì, cát với chả đất, đừng lấy vải thưa che mắt thánh. Giấu ai chứ giấu thế chó nào được con già. Tao thì đẻ ra những trò đó.
- Mợ bĩu môi, nheo một bên mắt
- À, ở đây chén thịt chó mày. Hồi chiều, mấy thằng em mày vật ra thịt con Lu đấy. Ai lại nuôi chó ta chung với chó Nhật. Con chó Nhật của tao gần chục triệu, con kia nó nhẩy lên để chết à?
- Con Lu ở đâu ra hở mợ? - Tôi hỏi nhìn chiếc bàn dài, những đĩa Tàu hình bầu dục đựng một thứ thịt đen tai tái. Mùi thịt chó nồng nặc, tanh tanh.
- Hôm kia tự nhiên cậu mày đùng đùng đèo nó về. Nó đen và hôi trong cái rọ. Gớm, trông như chó dại. Cậu mày bảo mua nó về trông nhà. Nó chỉ là con chó mới lớn, trông thế quái nào được. Đến bec-giê Đức tao còn thèm vào nuôi nữa là chó ta. Suốt hai hôm nó tru lên nghe phát tởm. Mà này, tao để ý nó quen cậu mày lắm, cứ trông thấy cậu mày là nó ngoe nguẩy, nằm phủ phục. Cậu mày cứ đi một cái là nó tru như có người chết, tao mất cả ngủ. Tao nghĩ con chó này là của con đĩ nào đây, thế là thịt luôn. Hôm nay ngày rằm ăn được rồi, sáng nay tao đi xin rơm, bọn nó thui nhanh lắm. Con này non, đã kịp lớn hẳn đâu ăn ngon và mềm ra phết.
- Cậu có biết không hả mợ? - Tôi thẫn người.
- Trưa nay đi đâu về, phăm phăm lấy đĩa thịt quay của tao mang cho Lu. Từ ngày có Lu, ông ấy chăm về trưa cho nó ăn hơn. Ông ấy ra đến sân, thấy bọn trẻ con đang đốt rơm thui chó, ngoảnh lại thấy cái rọ không lăn lóc dưới đất, ông nghiến răng ném cả đĩa thịt quay vào tao. Tao tránh được. Tao chửi ngay cho một bài. May mà cái đĩa không trúng tao chứ không vô phúc cho ông ấy, nó mà trúng mặt tao, tao cầm dao chém ngay chứ chẳng tha. Ông ấy đi luôn rồi cùng về với mày đấy. Làm gì tao? Tao là chủ nhà này. Tự nhiên tha con chó điên của con đĩ nào về bắt tao nuôi, tao thịt ăn là tốt đấy. Tao nghi cậu mày lắm, chứ chó mới nuôi tại sao thân thế?
Tôi quay người, đi nhanh lên cầu thang, bỏ lại sau lưng tiếng xoe xoé của bà mợ. Nhạc ở phòng cậu vẫn ầm ĩ phát ra. Cậu mà tiếp tục ngồi trong không khí này một lúc nữa, chắc chắn sẽ điên. Tôi đẩy cửa vào, cái ghế trống không. Trong ánh sáng nhấp nháy của bộ đèn phát ra từ cái giàn cattssete, tôi nhìn thấy giường cậu trống trơn. Không có cậu. Tôi ra sân. Gió gào thét, rít rú trên đám dây điện. Gió quật lên tấm nhựa xanh. Phố xá mờ mịt mưa không một bóng người. Những ngôi nhà đóng im ỉm thu mình trong giá rét.
Cậu đứng tựa lưng vào tường, hai tay khoanh trước ngực. Trông cậu như hoá đá. Mặt cậu đầy nước. Tôi mong đó là nước mưa bắn vào chứ đừng phải là nước mắt.
- Vào đi cậu, mưa ướt hết bây giờ.
Im lặng. Gió phần phật như muốn bứt tất cả những gì nó gặp trên đường. Bỗng điện tắt phụt. ở góc phố tiếng loa truyền thanh ọ ẹ cất lên một giọng đàn ông rè rè: "Mọi người chú ý: Cơn bão số hai đã về đến Quảng Ninh và vùng trung du Bắc Bộ. Sở điện lực ra thông báo tất cả các đường dây cao áp phải chú ý thực hiện tốt mọi biện pháp phòng chống bão lụt, đề phòng tai nạn xảy ra trong mùa mưa bão này"...
- Y như hồi chiến tranh, loa báo mọi người chạy xuống hầm trú ẩn. Thật khủng khiếp.
Tôi đứng bên cậu, trong bóng đêm. Tiếng nhạc ồn ã trong phòng cậu đã tắt để lại cảm giác hụt hẫng. Bây giờ mới thấy gió mạnh. Dưới nhà, tiếng chân chạy rậm rịch, tiếng í ới gọi nhau, tiếng cười. Họ bắt đầu ăn thịt chó, trong ánh sáng của những ngọn nến.
- Mợ thịt của cậu con Lu rồi. Mọi chuyện đã qua, cậu cũng đừng trách mợ - Tôi trầm ngâm.
- Ừ, thịt rồi! - Cậu thở dài.
- Cậu lôi ở đâu ra nó đấy? - Tôi hơi vui hơn, bởi lẽ cậu đã bắt đầu nói chuyện.
- Của cô ấy.
- Sao? - Tôi hỏi.- Hôm kia cô ấy đưa nó cho cậu nuôi vì nó quấn cậu lắm. Nó xinh và khôn, theo cậu lóc cóc mỗi khi cậu đến! - Tiếng cậu bỗng khản đặc như tiếng một thanh niên vỡ giọng.
Tôi không còn biết nói gì nữa. Hôm nay đúng là ngày tận cùng của sự khốn nạn đến với cậu. Ướt sũng.
Tôi nắm tay cậu:
- Cậu vào nhà và ăn một cái gì đó đi, rồi uống một viên thuốc ngủ. Ngày mai cậu sẽ đỡ mệt. Thời gian sẽ làm cậu đỡ buồn.
Tôi bỗng thấy mình già dặn, chững chạc, lại dám dạy khôn một người như cậu.
- Cháu cũng thế, lần bố cháu mất, cháu và mẹ tưởng như không sống nổi. Nhưng rồi cậu thấy đây, mọi thứ đâu vào đấy cả.
- Mất một người chết khác, còn đây người cậu mất lại không chết. Nhìn thấy nhau nhưng không đến được với nhau.
Mưa ào ạt hắt vào chúng tôi. Mẹ tôi giờ này chắc đang ngóng tôi và lo lắng, may mà tai mẹ nghễng ngãng nên không nghe thấy tiếng rú của bão. Mẹ đỡ sợ.
Để cậu đứng một mình, tôi lầm lũi đi xuống nhà. Phòng ăn ồn ã. Họ khen thịt chó mềm, vì đó là chó con. Họ tự thấy khả năng làm thịt chó như thợ, và rủ nhau lúc nào hết tiền sẽ bán thịt chó, bóp chết bọn ở chợ Âm Phủ.
Tôi đi ra đường, đúng lúc gió giật mạnh nhất. Phải về với mẹ, dù căn nhà của tôi tồi tàn và không tiện nghi, nhưng nó ấm cúng. Mưa gió. Đường vắng ngơ ngắt. Chiếc xe đạp khô dầu rít lên vì nước mưa. Cả thành phố quằn quại trong cơn bão. Ba hôm sau, tôi lên tàu đi về phía Nam. Đất Sài Gòn đầy nắng.
Buổi chiều. Tôi đạp xe lên Hồ Tây. Mặt hồ xôn xao gió và gió, dịu dịu sóng lăn tăn, loang loáng màu ráng mỡ gà không quật quã như hôm nay. Tôi vào nhà thuyền. Từng tốp thanh niên cười túm vịn vào nhau xuống những chiếc thuyền con, rồi nhẹ nhàng lướt ra xa. Tôi đứng lặng nhìn. Cuộc sống thanh bình quá. Làng Nghi Tàm xanh um xa xa.
Bà giữ thuyền bảo:
- Cậu thuê thuyền gì?
- Cháu chỉ đến xem thôi chứ cháu có biết bơi đâu. Hôm nay không ai thuê thuyền buồm hả bà?
- Mấy ai biết bơi cái loại thuyền này đâu hả cậu. Đến nhân viên nhà thuyền tập chán chả xong. Hồi trước có một ông già thỉnh thoảng đến đây. Cái hôm bão to ông ấy cứ dứt khoát thuê. Tôi bảo chết thì sao? Cái ông ấy cười bảo tôi cao số lắm, chết làm sao được. Lâu nay không thấy đâu.Tôi im lặng nhìn ra xa. Dìu dặt lan ra tiếng nhạc ở nhà du thuyền. Thôi, chiều muộn rồi, phải về thôi. Vả lại bọn thanh niên cứ nhìn tôi như nhìn thằng dở người. Tôi lên xe, chậm chạp về tự hỏi: Không biết đến bao giờ nữa sẽ có một cánh buồm đỏ trên mặt hồ đầy sóng kia? Cánh buồm của cậu tôi.
🍀Nguyễn Thị Thu Huệ.
Tiệc trộm
NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Hường hiện ra ở cửa phòng riêng của ông Văn “Bố mẹ thằng Huy đến, anh xuống đi”. “Tôi đã nói là đi vắng rồi, sao cô luôn quyết trái ý tôi thế nhỉ”. “Nếu con anh cần xin việc, đến nhà sếp nó, bị chối phắt, anh sẽ thế nào? Làm gì cũng nên đặt mình vào phận người khác chứ”. Ông Văn nhìn, rồi đứng dậy. Hường má đỏ, mặc váy hai dây, ngực đầy phập phồng “Em đang vì anh đấy”.
Em đang vì anh đấy luôn là câu kết của Hường, sau những tranh luận, cũng là mệnh lệnh ngầm khi ông không đồng ý làm việc này việc kia. Lấy nhau gần hai mươi năm, ở cùng phòng dăm tháng, sau mỗi người một tầng. Hường vốn là hàng xóm nhà ông bà ngoại Văn. Mỗi năm, Văn về nhà ông bà vài lần, luôn gặp Hường đang làm giúp bà như dọn tủ sách, dỡ đồ trong bếp ra bắt chuột, hay cùng làm cơm cúng rằm. Chưa bao giờ Văn nhìn kĩ Hường. Một lần, bố mẹ nói “Tối nay sinh nhật ông đấy, không được trốn đâu”. Văn đành về, vì với anh, thời gian một ngày không bao giờ đủ. Đọc hàng chồng sách nghiên cứu, vào thư viện tra tư liệu, cả năm mới xong một công trình khoảng trăm trang, ngoài việc làm thường xuyên là lên lớp giảng về các chuyên đề văn hóa dân tộc.
Sinh nhật ông, là lí do gia đình giới thiệu Hường với Văn. Mâm cơm khá thịnh soạn và Hường ở lại ăn cùng. Anh cười “Sang chực cỗ nhà anh à, lô tô”. Hường hôm nay mặc áo sơ mi hoa, tóc thả thẳng, tay đeo đồng hồ. Má đỏ, môi hồng, mắt tô mí xanh nước biển. Lô tô là biệt hiệu của Hường. Người chưa thấy, đã nghe tiếng. Đi đứng xủng xoảng, ăn to nói lớn, khỏe mạnh.
Nửa năm sau, Văn cùng gia đình mang lễ sang hỏi Hường làm vợ. Từ cô học trung cấp Y bỏ việc, lấy Văn, thành vợ giáo sư. Thời kì đầu, bạn bè hay học sinh của Văn tới nhà, Hường chỉ mang nước, trái cây ra mời xong biến mất. Vài năm sau, cô ngồi cạnh chồng, phán thẳng vào việc của mọi người, từ kết cấu cũ của ngôi đình giờ bị thay mới, văn bia hay câu đối mất hết thay bằng hoành phi sáng choang.
Bốp bốp. Văn nhiều lần điên tiết, khách vừa khuất sau cánh cổng sắt là Hường ăn vả nổ đom đóm mắt. Biết chồng lên cơn điên, cô lặng lẽ rút vào phòng riêng, xem phim Hàn Quốc dăm phút là quên. Hết phim. Ra bếp, hấp óc tần thuốc bắc ngải cứu, bưng lên cho Văn, như không có chuyện vừa dính mấy cái tát trước đấy hai tiếng.
Cuộc sống vợ chồng của hai người lệch nhau hoàn toàn vì sự khác biệt văn hóa, tri thức và thói quen ứng xử - điều Văn không quan tâm và nghĩ là quan trọng trước khi lấy Hường. Ba năm nay, sau khi con gái duy nhất ra nước ngoài học, quan hệ của hai vợ chồng rẽ sang một hướng bất ngờ.
Hường ngoại tình.
Người này kém tuổi Văn, làm giám đốc một công ti xây dựng khá lớn. Ông nghe được chuyện này từ Vân, em gái “Anh phải rất bình tĩnh, chuyện cực kì hệ trọng, không nóng được. Chị Hường sau khi suy nghĩ kĩ, đã trình bày xin em tư vấn. Chị ấy yêu và kính trọng anh còn hơn bố đẻ, nhưng biết thân phận mình chỉ đáng làm tôi tớ cho anh. Chuyện sinh hoạt vợ chồng cũng căng. Anh và chị ấy li thân lâu quá rồi. Anh cũng chẳng quan hệ với ai, quá phí và không cân bằng sinh lí, hại người. Chị ấy không lí trí như anh, nên quan hệ với ông Hoành. Ban đầu chỉ đơn giản chuyện thể xác. Lâu dần, thấy hợp nhiều thứ khác. Chị ấy không biết làm sao, xin em lời khuyên. Quyết định thế nào do anh hết”. Văn khoắng cốc cà phê, uống từ tốn, im lặng. “Em đưa các phương án: 1/ Li dị - đi tay không; 2/ Gọi ông Hoành đến ba mặt một lời xong cấm quan hệ; 3/ Cho quan hệ với ông Hoành nhưng kín đáo và giữ nguyên cuộc sống như hiện tại với anh; 4/ Tha thứ, xí xóa hết, anh cho chị ấy quay về, chấm dứt ngoại tình”.
Văn ngồi im, không cảm xúc, như lần quyết định lấy Hường. “Anh chọn phương án nào, để em gặp chị ấy”. Vân nói một lèo như trút gánh nặng, nhìn anh trai, chờ đợi. “Tùy. Muốn thế nào cũng được”. “Ơ cái anh này. Chuyện lớn, anh cứ tùy. Ngày xưa, em đã nói anh tính kĩ việc nể bố mẹ chấp nhận lấy chị Hường. Bao năm sống như chết với vợ, anh không ngấm hay sao mà giờ đến thế này vẫn tùy?”. “Anh không quan tâm. Em biết đời anh chỉ yêu chị Nhâm. Không lấy được chị ấy, coi như xong. Thế nên, sau này, lấy Hường và sống thế nào không quan trọng. Đời anh chỉ cần được làm việc anh thích là đủ”. “Thế anh li dị đi, giải thoát cho cả hai. Xã hội giờ không khắt khe chuyện bỏ vợ đâu. Em sẽ giải thích với cháu Tuyền”.
Hai người ngồi lặng nhiều phút. Vân nhìn anh, hi vọng Văn có quyết định gì, nhưng có vẻ ông đang nghĩ chuyện khác. Rồi Văn nói “Có cái đình hơn hai trăm tuổi, xã phá xong, bê tông hóa, xây thêm tháp. Mai bọn anh phải đến ngay, hi vọng các tấm bia cổ vẫn còn”. “Ôi giời ơi. Chuyện sát sườn của anh, lo cho xong đi. Hay em quyết thay”. “Chuyện Hường á? Các cụ nói vạn sự tùy duyên. Hết duyên thì tan, có gì đâu mà em căng thẳng thế”. “Bỏ nhau, ai lo hậu phương cho anh? Lâu nay một tay chị ấy làm hết, giải quyết chuyện họ tộc giỗ chạp. Anh là trưởng, lại con trai độc. Chị ấy đi lấy chồng, anh sống thế nào”. “Người ta sống được, anh sống được. Anh ăn uống dễ. Hàng quán đầy”. “Già, ốm đau ai chăm. Anh làm ơn nghĩ đến anh đi, rồi hãy lo việc bảo tồn di tích và viết công trình”. Nước mắt em gái lăn dài, mặt cau rúm lại đau khổ, lo âu. Văn ái ngại nắm bàn tay Vân đang run cầm cập vì xúc động “Trước còn bố mẹ quyết. Giờ bố mẹ mất, em quyết thế nào, anh theo thế đấy”. “Em biết anh khinh chị Hường ít học, nhưng chị ấy ném vào đâu cũng sống. Còn anh, sống một mình không được. Kiểu anh, chả tự mò đi tìm vợ, ở vậy mãi là hâm đấy. Thôi anh cứ đi công tác, mọi việc để em lo”.
Bốn ngày sau khi lăn lóc hiện trường, lấy thông tin từ các cụ già nhất làng, đi tìm lại những bia đá bị mất, Văn về, hỉ hả vì kết quả thu được. Chưa kể nhóm ông đã gặp lãnh đạo huyện, xã yêu cầu dừng thi công đình mới, quay về bảo tồn tôn tạo ngôi đình cũ.
Ở nhà, Vân đã giải quyết với Hường, theo phương án 3: cho quan hệ trong bí mật, giữ hạnh phúc gia đình (bề ngoài) và Hường phải có trách nhiệm nghĩa vụ với ông Văn như lâu nay.
Đối mặt với một thay đổi lớn ẩn chứa dưới vỏ bọc bình thường, mọi chuyện không đơn giản như ông Văn nghĩ. Dù không yêu Hường, nhưng chuyện cô quan hệ với người đàn ông khác thỉnh thoảng cũng chạy qua trí não. Đúng máu chảy ruột mềm. Em gái đã quyết đúng. Nếu bỏ Hường, Văn không tự sống một mình lo mọi chuyện vì lâu nay Hường làm tất. Thường xuyên thay chồng tiếp những người khách ông không muốn gặp. Lúc như thư kí sắp xếp tài liệu, rồi soạn sẵn là phẳng quần áo Văn mặc hàng ngày, nhắc các cuộc hẹn, lo giỗ chạp nội ngoại, một mình thăm người ốm... Ông không bị sốc đột ngột khi nghe Vân nói chuyện này, mà nỗi đau nhú lên, cảm giác ấy từ ngày chia tay Nhâm, giờ quay lại. Ông không ghen điên loạn, mà âm ỉ lâu lâu xoáy tròn bụng như đau dạ dày. Ông, khi lấy Hường, rất lâu sau mới quen sống được với cô vì sự khác biệt. Quen kiểu lô tô rồi, giờ lại sống theo kiểu mới, là một vợ hai chồng. Đời quá trớ trêu. Người danh giá như ông, phải vài vợ song song mới đúng, đây lại ngược. Mà Hường là ai, bằng cấp không, xinh đẹp tuyệt mĩ không, văn hóa học thức cao không. Thế thì sao ông lại sống nhục thế này? Chấp nhận chuyện vợ mình, một người quá đỗi tầm thường công khai ngủ với thằng khác, chuyện như đùa, nhiều đêm ông chua chát cười khẩy bên chai rượu.
Ông bắt đầu mất ngủ. Người như mộng du, ám ảnh, kinh sợ và khinh bỉ Hường. Nhiều đêm, vừa tu rượu thẳng từ chai, ông mở ngăn kéo bàn, nơi cất những gì thuộc về kỉ niệm. Những tập các vi dít. Vài cuốn sổ nhật kí từ ba mươi năm trước, những lá thư của bạn bè, tập danh thiếp hay chiếc đồng hồ thời sinh viên, bút bi có khắc chữ thương tặng ông được bày hết lên mặt bàn gỗ. Cuốn nhật kí bìa cứng, giấy ngả vàng phần viết về Nhâm. “Ngày... 19...! Còn ba ngày nữa phải trả lời Nhâm, về việc đi Phú Yên thăm nhà nàng. Đi sao được khi hết phép năm rồi. Đã quyết gì đâu mà ra mắt các cụ, tự nhiên có thêm những quan hệ phải chăm sóc, trong khi mình đang vào dự án mới. Nhâm luôn là người quyết định mọi chuyện giữa hai người, giờ chưa sao, sau sẽ sao”. “Ngày… 19...! Nhâm biến mất. Đấy là cách Nhâm ra khỏi đời mình. Yêu Nhâm, nhưng không vì yêu mà bị coi thường. Mỗi khi mình không làm theo yêu cầu của Nhâm, là cắt đứt. Khi mình đã quen với chuyện chia tay, Nhâm lại xuất hiện như không có chuyện gì xảy ra. Lần này thì khác. Đã có chuyện xảy ra. Chào nhé, Nhâm, anh không tha thứ cho em thêm lần nào nữa. Quá đủ rồi”.
Cuốn nhật kí cho tới gần trang cuối cùng, phía trên có ghi tháng 12, Nhâm được nhắc thêm lần nữa: “Hôm nay Nhâm tới trả những kỉ vật mình tặng. Nhâm nói, không có duyên vợ chồng, thì làm bạn. Mình nói, điều đấy khó. Sao làm bạn được khi sau này, Nhâm sẽ yêu người khác, mình cũng vậy. Chẳng nhẽ bốn người gặp nhau tỉnh bơ như không có quá khứ ấy. Quá khứ, với mình luôn thật. Còn hiện tại, chưa chắc. Cầm những đồ Nhâm trả, thấy mất toi ba năm. Ba năm đẽo mất một cục cảm xúc. Sau vụ này, sẽ cẩn trọng chuyện yêu. Thấy ổn, lấy luôn cho xong, để thời gian đầu óc làm việc, bận chết đi được”.
Những năm gần đây, thỉnh thoảng bà và ông có gặp ở những cuộc họp lớp cũ, vài cuộc hội thảo. Sau bốn tháng từ lúc biết chuyện Hường có bồ, ông gọi điện hẹn bà Nhâm uống trà. Sau đấy, tốc độ gặp lại nhau tăng nhanh, từ hai tuần một lần, đến tuần hai lần. Họ, bao lâu nay, dù đi đến chân trời góc bể nào, cả hai đều có gia đình, nhưng kí ức về mối tình đầu cùng những kỉ niệm đều được nâng niu cất riêng một góc. Chồng Nhâm từ lâu quay sang tu tập, ăn chay, ngồi thiền. Có năm ông rời nhà sáu tháng lên núi vào chùa đọc sách không về. Con trai học nước ngoài. Bà Nhâm chủ yếu sống một mình, cùng hai con mèo.
“Mình đi biển đi, lâu lắm rồi anh chưa có khoảng nghỉ nào”. “Em biết resort này bình yên lắm, em chủ động đặt nhé”. “Giờ anh theo em. Không ngu như xưa chống lại để mất em. May giờ tìm lại được, không cho em thoát nữa”. “Sao ngày xưa không nghĩ thế, có phải tiết kiệm được mười mấy năm không”.
*
* *
Khi biết ông sẽ đi thực tế để khuây khỏa, Hường rất ủng hộ, mừng cuống khi thấy ông vui.
Chuẩn bị cho cuộc hẹn hò khiến ông háo hức, phấn khích. Cắt tóc, cạo râu, soạn những bộ quần áo đẹp nhất. Từ giày đến tất, quần lót hay lăn khử mùi hôi, viên ngậm bạc hà. Lần đầu tiên ông có cảm giác này, sau những ê chề của cuộc hôn nhân lười biếng. Hường xếp cho ông bảy gói sâm nước Hàn Quốc sáu năm, mỗi ngày một gói, một vỉ lọ atisô dùng pha với rượu trắng, vừa đảm bảo an toàn, lại có rượu ngon uống không lo rượu lung tung ngoài quán ngộ độc. Các loại thuốc huyết áp, đau bụng, tuần hoàn não…, nói chung không thiếu thứ gì. Suốt những ngày chuẩn bị, và lên đường, ông lảm nhảm với chính mình “Tại sao ta không như thế này, hai mươi năm trước? Chả thể có hai cuộc đời để biết khôn dại mà làm lại. Nhưng thôi, gần sáu mươi, chưa muộn. Đâu phải cứ lớn lên là hiểu giá trị của tình yêu và hôn nhân, nếu không tan nát do việc mình vô trách nhiệm với đời mình. Giờ phải khác”.
Phòng của hai người nằm trong khu resort bằng tre nứa xa thành phố du lịch. Sau lưng cao vút dãy núi, trước mặt bãi biển lặng ngắt riêng tư. Thiên đường địa giới. Ông viết câu đầu tiên vào cuốn sổ mới mang theo. Thói quen ghi nhật kí từ thời sinh viên tới giờ vẫn giữ. Thế này mới là cuộc sống. Cảm ơn trời phật, cảm ơn em - Nhâm của anh - đã cho anh hồi sinh.
Bà Nhâm cũng hồi hộp. Loáng thoáng trong không gian trong vắt của phòng khách nhỏ, kề bên phòng ngủ mùi hương bồ kết sả từ mái tóc uốn khéo, lớt phớt những sợi bạc pha màu bạch kim. Nhâm cười, khi ông nhìn và túm từng lọn tóc của bà “Cháu làm đầu gần nhà nói tóc cô ngày càng bạc nhiều. Cháu chải lai, tức là tăng thêm bạc nhưng màu ánh kim, bạc thật bạc giả lẫn vào nhau thành tự nhiên, cô không phải nhuộm đen nữa”. “Một phát kiến hay. Lấy độc trị độc”. Ông cười âu yếm nhìn bà.
Qua phòng khách, là ban công hướng nhìn ra biển cách đấy hơn chục mét. Lần đầu tiên, ông Văn ở sát biển đến thế. Bà Nhâm mang đi một vali to, như chuyển nhà. Bà cần mẫn bày bánh, nước ép trái cây, sữa hay cà phê, tất cả đều nguồn gốc organic. Những bịch hạt óc chó, đậu đỏ xếp đầy mặt bàn mây. Ông ngơ ngác “Những thứ này, ăn vào lúc nào mà em mang nhiều thế?”. “Bảy ngày, em tính kĩ rồi. Anh sẽ uống sữa, em ăn hạt với trái cây. Rau này em gửi nhà bếp, họ sẽ luộc giúp mình”. “Nhà hàng của khách sạn này rất nhiều món, mình cứ ăn cho tiện. Buffet sáng miễn phí, ăn no tới trưa. Em chu đáo nhưng vất vả quá”.
Bà Nhâm nhìn ông cười, nụ cười bao dung của người mẹ trước đứa con thiếu hiểu biết, ôn tồn “Tất cả những đồ ăn ngoài kia, là thực phẩm biến đổi gen, gây đủ loại bệnh. Sức khỏe của chúng ta phụ thuộc chính vào ăn uống hít thở hàng ngày. Ung thư ở Việt Nam cao gần nhất thế giới. Họa từ miệng vào. Bao năm nay em ăn chay, cơ thể em trong vắt tinh khiết. Anh nghe em đi, vẫn kịp”.
Oke, anh nghe em, ông Văn tự nhủ. Bảy ngày trước đã, chả đáng gì, không theo lại mất hứng Nhâm. Sau đấy, nếu cuộc tình này tiếp tục, tính sau. Ông cười cầu hòa. Nhưng cố vớt vát “Khách sạn năm sao, đồ ăn của họ chuẩn đấy em, toàn khách xịn mà”. “Em không nói họ mua đồ bẩn. Mà nói, nguồn gốc từ khi nuôi trồng đã hỏng rồi, ta không thể nạp vào người”.
Chuyện ăn uống chuẩn organic ông chỉ cầm cự được đến ngày thứ ba thì rình lúc bà đi xông hơi, lẻn xuống phòng ăn, gọi suất beefsteak đúp và pha ngay một lọ phi la tốp vào chai 30cc Vodka Nga, khoái cảm xơi và nốc. Trong lúc ăn, ông nhớ tới Hường. Ngày nào Hường cũng xách cặp lồng ra bà bán phở đầu ngõ xin tiết bò được hứng dưới cái rổ đựng thịt bò sống. Thường là nửa cặp lồng, cô mua thêm bát phở bắp gầu, xin chút nước dùng để chín phần nước tiết, kèm chục đầu củ hành. “Thịt bò giúp não khỏe. Anh dân chữ nghĩa, mệt óc lắm, không sướng như bọn tay chân chúng em. Ăn đều cực tốt chồng ạ”. Lần nào bưng tô phở có đủ dấm tỏi ớt lát và tô nước tiết để bên, Hường cũng xuýt xoa câu đó. Hai bữa còn lại trong ngày, luôn có thịt và dăm chén rượu ngâm. Giờ ăn các loại hạt và cơm gạo lứt, ông thấy người bâng lâng chơi vơi cảm giác khó tả. Không no, không đói, rệu rã, lười nghĩ, thích nằm khểnh nghe đài nhưng chả yên. Sau khi trốn Nhâm khoắng hết miếng bò dày 250 gram, ông như tìm lại chính mình. Rượu atisô ngày nào cũng uống, lần này sao thơm thấm thía.
Xong xuôi, ông chui vào toilet đánh răng súc miệng, khoan khoái nằm dài ra ghế tận hưởng lại hương vị món ăn như ăn trộm.
Chuyện ngủ, cũng organic. Đêm đầu tiên. Bà Nhâm mặc đồ lụa, đủ kín đáo nhưng gợi cảm. Ông thì pyjamas vải kẻ ô vuông, được ngâm giặt bằng nước xả hương hoa hồng của Thái, mùi hơi đậm giữa chốn tinh khiết khiến bà Nhâm hắt hơi bốn cái liên tục. Bà nhăn mặt “Vợ anh dùng nhiều chất tẩy độc hại quá, ung thư đấy”. Ông đã quen với những mùi hóa chất Hường thường xuyên dùng, nồng nặc mỗi khi cô lau nhà, chùi bếp hay xả quần áo. Thấy bà Nhâm nói vậy, ông ừ hữ “Cô ấy thích mùi thơm, có lẽ cho nước xả quá tay”. “Anh về phân tích cho vợ, hại lắm. Hít vào hàng ngày là ung thư đấy”. “Để anh bỏ quần áo ra”. Ông Văn vội nhảy xuống đất, trút quần áo, gập nhanh tống luôn vào tủ, đóng chặt. Còn trên người chiếc may ô, thơm mùi hoa hồng, ông cởi nốt, cất tủ. Chắc chắn quần đùi cũng nồng nàn hương hoa, nhưng không thể cởi, ông nhìn bà Nhâm, cười trừ, như trẻ con bị bắt lỗi làm bậy. Bà Nhâm bớt căng thẳng, tung cho ông cái chăn mỏng, cười nhoẻn nụ cười ngày xưa, mỗi lần bị ông cốc đầu tội lười trả sách thư viện.
Chăn đắp ngang ngực. Hai người nằm ngay ngắn trên chiếc sập. Ngoài kia, sóng vỗ êm đềm. Cửa ban công mở. Người ông dinh dính muối biển theo gió bay vào. Chân tóc buồn buồn, mồ hôi chảy. “Hay mình đóng cửa bật máy lạnh đi, anh hơi nóng”. “Không gì tốt bằng khí trời, lại trong lành thế này. Bên núi, bên biển không khói ô tô xe máy. Nằm im một lúc anh sẽ thấy mát. Cảm nhận thế nào về xung quanh do não quyết định. Anh nghĩ là mát, sẽ mát. Anh nghĩ, ôi nóng quá, sẽ toát mồ hôi ngay”. “Anh đang toát mồ hôi thật, không phải do nghĩ đâu em”. “Nằm im, bỏ chăn ra, tự nhiên, thả lỏng, anh thậm chí thấy rét đấy. Nhà em cả mùa hè không phải bật điều hòa, quạt phe phẩy số bé nhất, chả nóng, do em thấy mát”. “Oke, anh nghe em, nghĩ là đang mát, hi vọng sẽ mát”.
Dù đã tắm và lăn khử mùi, nhưng ông Văn vốn hay ra mồ hôi. Mùa hè, trừ lúc đi làm, hoặc bia rượu vỉa hè, về nhà ông tắm gội xong bật máy lạnh. Với ông, đêm nay quan trọng hơn đêm động phòng với Hường, vì tối đó ông uống say khướt, mặc nguyên quần áo chú rể nằm phịch ra giường ngủ như bị đánh thuốc. Bao đêm, ông nằm tưởng tượng về đêm nay. Ở tuổi U60 hẹn hò mối tình đầu dang dở, lại dân nghiên cứu trí thức, thật khó hòa nhập nếu không bước qua lằn ranh đầu tiên. Và, mồ hôi túa ra, nhơm nhớp dính vì gió muối khiến ông hoang mang, mất tự chủ. Bỏ chăn ra khỏi người, ông nhích đùi về phía bà Nhâm, gác nhẹ. Cảm giác va chạm đầu tiên khiến tim ông đập mạnh. Mùi tinh dầu từ phía bà bay sang làm ông thêm luống cuống. Rồi quay người, lấy hết nghị lực, ông vòng tay xuống gáy cho bà gối đầu lên, nghiêng người bà sang ông cũng nằm nghiêng, khẽ đặt môi lên trán bà. Bà Nhâm gầy, người mảnh, nằm gọn trong vòng tay ấp mặt vào ngực ông, tay vòng ôm lấy lưng ông Văn. Chợt bà giật phắt người ngồi luôn dậy, tóc rối tung “Lưng anh ướt sũng rồi. Anh thấy không, do thừa cân đấy, lại bia rượu lâu năm, bao chất độc ngấm vào người. Nguy hiểm quá”.
Ông Văn nuốt một hơi thở dài vào trong, chống tay ngồi dậy, vuốt lại tóc cho bà Nhâm, giọng khản đặc “Mấy chục năm nay, chưa bao giờ anh nằm mà không có máy lạnh em ạ”.
*
* *
Bảy ngày đi với Nhâm, ông hiểu ra một điều, không thể quay lại được quá khứ. Càng không thể lấy hiện thực bù đắp cho quá khứ. Nhâm vẫn là Nhâm, nghiêm khắc, chỉn chu, giờ nhiễm thêm sự kĩ tính của chồng, một dược sĩ ăn chay tập yoga và năm nào cũng nhập thất ngồi thiền. Khách sạn đặt bảy ngày sáu đêm. Sách hay chọn mang theo dăm cuốn, để hai người cùng đọc. Sổ ghi chép hai quyển, bút một nắm. Tất cả xếp nguyên không động đến ở góc bàn làm việc gỗ mun chạm trổ cầu kì. Nhiều lần, trong lúc bà Nhâm đi gội đầu, xông hơi, ông thấy mình như đang lạc vào cõi mộng. Không gì hoàn hảo hơn với người ham đọc ham viết như ông được sống trong căn phòng lớn, chia làm ba phần khéo léo bởi những bình phong gỗ chạm tinh tế. Phòng làm việc bên cửa sổ nhìn ra biển vắng, phòng ngủ thanh lịch rèm tơ tằm hoa sen thêu mềm, và góc phòng khách xinh xắn luôn có lọ hoa đại trắng thơm ngọt ngào. Đời ông chưa bao giờ tự do, sung sướng như những ngày này. Hường biết ông đi công tác những bảy ngày, cô vui như trúng số. Háo hức mua sắm các đồ dùng cho ông từ khăn mặt đến bàn chải đánh răng, gói lương khô đề phòng chưa đến bữa nhấm tạm vì ông hay hạ đường huyết. Vừa lau vali, xếp đồ, Hường vừa hát khiến ông cảm thấy, nếu mình đột nhiên biến mất, hay tốt nhất là chết, chắc Hường ăn mừng cả tháng.
Hoàn toàn tự do sống với người yêu trong mộng không như những kịch bản ông tưởng tượng. Khi mang những vỉ phi la tốp để pha rượu, ông nghĩ, hai người sẽ trải khăn ngoài bãi biển vào đêm trăng, nhậu với mực nướng, xoài xanh. Sẽ nói về những ngày đã qua, về hai cuộc hôn nhân thất bại (nếu không thất bại, sao lại hẹn hò sống thử với nhau ở tuổi này), nói về những đam mê, khát khao sự nghiệp, về những ngày tháng tới. Anh sẽ li dị Hường, cô ấy đã công khai sống với người khác. Cô ấy là người trung thực, tuy tầm thường nhưng tốt, biết anh mãi yêu em mà chưa một lần trách móc. Duyên số của anh và Hường đến thế thôi. Con gái anh định cư bên Nga luôn, nó luôn mong bố tìm lại chính mình và hạnh phúc. Ai cũng mong anh hạnh phúc em ạ. Anh sẽ bán nhà, chia cho Hường đầy đủ. Chúng ta là duyên trời định, dù muộn màng nhưng sống chất lượng còn hơn ở cùng nhà nhiều nhưng vô nghĩa. Chúng ta sẽ tạo ra những kí ức mới, đủ mạnh để xóa hết những năm tháng anh phí hoài vừa qua khi không ở bên em, Nhâm ạ.
Nếu ngồi bệt trên bờ cát, xé mực khô chấm muối chanh ớt cùng rượu mềm môi, chắc chắn ông sẽ nói những điều đó với Nhâm. Suy cho cùng, ai chẳng già và chết. Vậy, còn sống khỏe mạnh ngày nào, phải tận dụng làm điều mình ao ước, đúng không Nhâm.
Nhưng, đến ngày thứ năm, không có dấu hiệu họ sẽ nhậu ngoài bờ cát. Trong một ngày, ông thường rình lúc Nhâm ra góc chái nhà ngồi thiền hai tiếng lẻn xuống phòng ăn chén thịt. Đầu bếp Tây nên món nào thấm thía món đó. Chưa bao giờ ông được ăn ngon như vậy. Phần do bắt buộc ăn chay cùng Nhâm ba bữa, không uống rượu bia nên người ông luôn rỗng một cảm giác hoang mang. Thế nên, một đĩa gà rán kiểu Mĩ Latinh nước xốt béo ngậy bưng ra, kèm chai bia lạnh, ông không kịp nhai mà nuốt chửng. Đã quen với ông khách Việt Nam dễ tính phàm ăn, một mình xuống đánh nhanh thắng nhanh một suất đúp không bò thì gà, không gà thì tôm, mấy nhân viên phục vụ chạy quanh tíu tít vui. “Bác chắc bận lắm, lần nào chúng cháu thấy bác xuống ăn cũng nhanh gọn”. “Ừ, bác bận lắm. Bao nhiêu việc phải làm, điện thoại người ta gọi đến, ăn nhanh còn lên làm việc cháu ạ”. “Cháu chưa thấy ai đi nghỉ mà mang việc theo làm như bác”. “Số bác vất vả cháu ạ”. Ông cười hiền, ngoạm nốt miếng đùi gà thơm ngọt tận xương, tiện răng nhá luôn cái sụn vàng rộm.
Bữa tiệc trộm nhanh chóng kết thúc trong mười lăm phút. Thở phào, thỏa mãn. Ông cho phục vụ mỗi đứa mấy chục, chúng dạ ran, hẹn bác mai lại xuống với chúng cháu, nhà hàng còn nhiều món ngon lắm.
Ông đi thẳng ra biển, ngả người lên một cái ghế dài, nhắm mắt. Giờ mới là lúc tận hưởng sự ngọt ngào của thịt gà quay Tây Ban Nha kèm bia Corona lạnh. Từng tế bào đói khát của ông như được tiếp nhựa sống. Sau mỗi lần ăn vụng sau lưng bà Nhâm, ông thường ra đây nằm nghỉ, và nhớ Hường. Hường luôn học nấu các món ăn, cố không lặp lại trong tuần để ông không chán. “Đời người, ăn là một trong tứ khoái, tội gì không hưởng anh nhở”. Mỗi khi thấy ông chén ngon lành món mới cô nấu, nhấp chén rượu ngâm, mắt cô hấp háy cười. Họ hợp nhau chuyện ăn uống. Không hợp chuyện chăn gối. Lấy nhau gần hai mươi năm, vợ chồng ngủ cùng nhau không quá sáu tháng đầu. Hường có thói quen ngủ trong ánh sáng và vang tiếng tivi, phim truyện là tốt nhất. Ông thì ngược lại, phải thật yên tĩnh và tối đen mới ngủ được. Vài tháng sau khi cưới, mỗi người một phòng. Chuyện vợ chồng càng hiếm, nếu ông không thật say, không thể chạm vào người Hường vì cô có máu buồn, luôn hay ho hoặc hắt xì hơi đúng những lúc căng thẳng, xúc động.
*
* *
“Em nghĩ là anh đã uống rượu”. Bà Nhâm nghiêm khắc nhìn ông Văn. Ông Văn lúng túng. Ông không biết nói dối. Làm trộm thì được, chứ nói dối rất dở. “Em thấy hơi thở của anh có mùi hồng xiêm chín đêm qua”. “Vậy à, chắc hồi chiều anh có uống chai bia”. “Không, rượu, chính xác. Anh uống rượu gì?’’.
Đến thế này, ông đành phải thú nhận là có uống rượu, vì thèm. Phong cảnh đẹp quá, có chút rượu sẽ hay hơn. “Anh không thương thân anh, sao anh thương được em. Chuyện bé vậy anh không bỏ được, sao anh có thể từ bỏ thói quen sống buông thả rượu bia nhậu nhẹt bao năm qua”. Nhâm khóc, tức giận nuốt vào khiến mặt bà đỏ thẫm lại màu mào gà chọi.
Ông lặng lẽ bỏ ra ban công. Còn hai ngày nữa là rằm. Trăng mười ba hơi méo vàng suộm chéo góc trời. Còn hai ngày nữa cuộc hẹn hò kết thúc, ông vẫn chưa yêu được bà lần nào ngoài việc hôn lên trán trước khi ngủ và để đầu bà lên tay suốt đêm canh giấc. Vì ông luôn ướt sũng mồ hôi nên bà chấp nhận bật máy lạnh nhưng nhiệt độ thường cao hơn ngoài trời, chế độ gió nhẹ. Và, bà đắp chăn đến cổ, đầu gối lên tay ông, còn ông nằm ngoài chăn, pyjamas ngay ngắn. Nhiều đêm, ông chong mắt nhìn thạch sùng đuổi nhau bắt muỗi, tai ầm ì tiếng sóng biển như tiếng Hường giặt giũ vỏ chăn ga gối, tự biết, sẽ chẳng bao giờ ông đi vào được bà, dù chưa bao giờ, từ ngày yêu nhau thuở trẻ ông được ôm và gần bà đến thế.
Rồi ông lại thấy, cuộc tình bảy ngày của ông và bà đẫm màu ngôn tình, giống những phim Ấn Độ, Hàn Quốc Hường luôn bật tiếng để nghe, thỉnh thoảng kịch tính bỏ việc vào chùi nước mắt khóc thay nhân vật. Tất cả, căn phòng không thể bắt lỗi, bãi biển những đêm trăng không tiếng người phá đám, dãy núi đêm về chim hú vượn kêu, và hương hoa rừng quyến rũ. Người đàn bà ông giữ trong tim mấy chục năm nằm thiêm thiếp ngủ mềm trên cánh tay đông cứng của ông vì sợ cựa nhẹ nàng tỉnh giấc. Thật đến nỗi thành giả. Ông lâu lâu quay mặt, nhìn sâu vào khuôn mặt nghiêm nghị cả khi ngủ say của Nhâm, rồi lấy ngón tay vuốt nhẹ lên má bà, để xác nhận thêm một lần, tất cả là thật.
Vật chất quyết định ý thức. Nhâm lại nói, anh đã để vật chất lấn lướt ý thức, mình thành người sống bản năng. Nhiều đêm, ông ngồi ngắm Nhâm ngủ. Mặt Nhâm có nhiều nốt đồi mồi, miệng hơi mím. Hai bầu ngực phẳng lì không còn tràn đầy như hai mươi năm trước luôn muốn bung ra. Nhâm chưa bao giờ gần với ông như vậy, nhưng ông lại thấy, Nhâm chẳng phải là người thuở nào. Ông tưởng tượng ra viễn cảnh: hôm ấy, ông theo Nhâm về Phú Yên, thì hôm nay họ không thể nằm ở một nơi hoàn hảo thế này. Sau bữa tối cơm rượu thịt không organic no say, Nhâm sẽ ôm một máy tính, ông một máy, làm những việc của họ. Và đêm đến, gác chân lên nhau ngủ ngon lành.
Rồi lại nghĩ, nếu ngày ấy, mình đừng đặt nặng sự nghiệp là trên hết, coi thường chuyện lấy vợ kiểu mình đàn ông quyết hết, giờ này, giả dụ không lấy Nhâm, sẽ là một cô khác, Thanh - nghiên cứu sinh do ông hướng dẫn chứ không phải là Hường. Thanh không hấp dẫn như Nhâm, nhưng tầm cao hơn Hường nhiều nấc. Họ đã có vài tháng ngoài luồng sau khi ông lấy Hường, nhưng Thanh đi nước ngoài không về nữa.
Những suy nghĩ miên man khiến đêm trôi qua một cách êm đềm. Biển vẫn ầm ào sóng vỗ. Thỉnh thoảng có trận mưa đêm gió bần bật thổi trên những tán dừa, và tiếng cú già rúc phía núi.
*
* *
Quay về nhà, sau cú vượt ngục bất thành, ông thấy không nơi chốn nào dành cho mình. Ông cũng không thuộc về nơi nào. Quá khứ, hiện tại, tương lai đều kín chỗ cho những người khác. Ai vào chỗ nấy, thừa ra ông. Đến chơi nhà em gái, cả nhà đang vui, thấy bác Văn đến, im phắc. Lo lắng bao trùm từ người lớn đến trẻ con. Sao lại phải lo cho ông chứ? Chứng tỏ mình là người bỏ đi, không đem lại niềm vui cho ai. Tới viện nghiên cứu, nhân viên nào cũng liếc và né, vì chúng luôn không trả lời đủ, thấu đáo những câu hỏi của ông. Ông luôn không hài lòng về những báo cáo từ thực địa vì không ai đẩy mọi chuyện đến cùng. Mà có đẩy đến cùng như ông cũng chẳng để làm gì, vì chiến đấu giữ được góc đình này thì nơi khác phá nguyên cái chùa cổ, xây chùa mới xanh đỏ tím vàng, ốp đá hoa cương thay gạch. Và người dân, quan trọng là họ vẫn nườm nượp rầm rập cúng vái ngày càng đông, không quan tâm chùa mới lố bịch hay chùa cổ uy nghi dấu tích mốc son. Cứ đình chùa miếu điện là dân thập phương đạp lên nhau công đức ném tiền khấn lễ. Vậy, ông cố công dành một đời bảo vệ di tích, cho ai nhỉ. Bạn bè ai cũng bận. Người đi châm cứu do tê tay, người chăm vợ ốm, bố mổ. Ông luôn rơi vào những chiều hoang vắng, nhất là sau giấc ngủ trưa. Tỉnh dậy trong căn nhà ba tầng vắng không tiếng động, ngủ chợp ba mươi phút mà dài như cả năm. Hồi con đường trước cửa nhà mới láng xi măng, chiều đến bọn trẻ con hay đá bóng. Tiếng la hét lẫn trong tiếng quả bóng nhựa rơi trên sân khiến ông phát điên. Ông bắt Hường phải đuổi sạch bọn trẻ. Được vài ngày, chúng lại đá vì cả khu phố này không có sân chơi ngoài những con đường nhỏ giữa hai dãy nhà. Hường đuổi mãi không được, cứ đến giờ chúng sắp đá, mang nước ra dội. Giờ, ông lại thèm nghe tiếng bọn trẻ, tiếng gì cũng được, miễn là không im ắng thế này.
Sau bốn tuần dừng làm việc chuyên môn, chìm trong rượu thịt bù những ngày organic, Hường đi lễ tận Quảng Bình hai ngày, ông bỗng thôi thúc một khát khao, là gặp Hoành. Mình người lớn, lại trí thức, gặp sao để nó hiểu mình không ghen với nó. Đơn giản là gặp cho biết cái người đang chung vợ với mình thế nào. Chuẩn bị quà cho tình địch như đi thăm bạn tốt, chai rượu Chivas mười tám năm, cây thuốc lá ngoại học trò đi nước ngoài về biếu. Ông đến công trình Hoành đang làm. Không khó để gặp nhau, khi ông nói bảo vệ lên báo giám đốc Hoành có chú Văn, giáo sư sử học đến tìm. Ông chưa hút xong điếu thuốc nhằm chống lại sự chộn rộn khó gọi tên là gì trong đầu, thì Hoành xuất hiện. Ối chà. Người thế này bảo sao Hường mê đến nỗi chấp nhận ra đi trắng tay. Hoành cao lớn, dáng chắc nịch bụng phẳng, tóc cắt cua ba phân, râu quai nón mờ, lông mày ngang, rậm trên đôi mắt to. Hoành ra tận sảnh đón ông, cười tươi như bạn lâu ngày gặp lại. Thấy Hoành, mọi tưởng tượng của ông tan biến. Ông đã nghĩ, cái thằng mà Hường mê chắc đối nghịch với ông, đần độn u tối, vai u thịt bắp xôi thịt xô bồ, dung tục, hợp với tính cách của Hường. Nhưng Hoành trước mặt ông, lịch lãm như chính khách. Bắt gặp khuôn mặt thân thiện của Hoành, ông tự nhiên cười ngoác miệng. Nhìn họ, không ai có thể tưởng tượng ra đây là tình địch của nhau. Và, giữa họ là người đàn bà quá đỗi đơn giản, thậm chí là tầm thường.
Phòng làm việc của Hoành giống của mấy ông lãnh đạo tỉnh mỗi lần ông Văn gặp kiến nghị về chuyện giữ đình chùa cổ. Thấy rõ bài trí nghiêm cẩn chứng tỏ Hoành không tầm thường kiểu bày la liệt các đồ phong thủy sai cách như bọn trọc phú thiếu hiểu biết. Chính giữa phòng là cửa mở ra một cái sân trời. Những chậu hoa - phiên bản sinh đôi với đám hoa nhà ông đang trồng. Thấy rõ bàn tay Hường đặt ở nơi này. Bụng ông hơi quặn lại. Hoành vui vẻ, chủ động, chả có dáng một thằng chôm vợ người khác khi đối mặt với ông chồng chính thức. “Anh Văn uống rượu thuốc hay rượu Tây, tôi mới có khô nai đứa bạn gửi bên Lào về, mình nhậu đi”. “Rượu gì cũng được, từ sáng tôi chưa ăn gì, cũng đói”. Hoành nhanh chóng ra bàn, bấm điện thoại gọi “Mang cho anh li cốc, đồ nhậu, hai người, đầy đủ”.
Trong lúc đó ông Văn ra vườn đứng nhìn những chậu ngâu hoa chín vàng, cây đinh lăng tươi xanh ngày nào ở nhà Hường cũng vặt mấy lá cho ông ăn kèm thịt. Ông ngắm đám chậu cây, thấy nó có vẻ tươi xanh hơn ở nhà mình.
“Ta ngồi ngoài vườn cho thoáng, được không anh?”. “Tôi thế nào cũng được”.
Một cô gái cao ráo xinh xắn bưng khay đồ nhắm và bình rượu, hai cái cốc pha lê, duyên dáng chào ông Văn, rồi bày ra chiếc bàn gỗ đen bóng góc vườn. Đèn chùm bật. Hư ảo không gian mùa thu, hương hoa hoàng lan càng đậm. Cây hoàng lan hoa xanh. Nhà ông là cây cổ thụ, còn ở đây cây mới trồng, trong chậu gốm lớn. Khuôn mặt Hường hồng hào da rám nâu căng mịn hiện ra. “Đời em nghiện mỗi mùi hoàng lan. Hay là em cầm tinh hoa lan xanh này nhỉ”.
Nhìn mãi vào cây lan, quay sang, ông Văn bắt gặp ánh mắt Hoành nhìn mình. Hoành từ tốn rót rượu vào hai cái cốc, xô đá với những viên nhỏ tròn lấp lánh trong hai cốc nước suối bên cạnh. “Cảm ơn anh”.
Hoành cụng li, nói. “Sao lại cảm ơn tôi?”. “Cảm ơn anh vì mọi chuyện”. “Có gì đâu, đời là thế”.
Hai người ngồi trong bóng chiều chuyển dần sang tối. Những câu nói vu vơ không cụ thể chỉ họ hiểu đang nói gì. Ai cũng đủ văn minh để không nói trắng ra điều họ nghĩ.
Hết chai rượu, Hoành đi vào gọi tiếp chai nữa. Cầm chai rượu mới, ông rót thẳng vào bình thủy tinh, hỏi “Gần đây có quán chuyên đuôi bò hầm, anh ăn một bát nhỏ nhé”.
Đuôi bò là món khoái khẩu của ông. Hường thường mua về cho ông nhậu, rồi than “Em đoảng, học mãi không nấu ngon bằng hàng. Thôi, mua cho tiện”.
Ông Văn nhìn Hoành, cái nhìn thoát xác “Ok, tôi thích đuôi bò hầm”.
Hoành bấm điện thoại gọi nhân viên. “Mấy giờ anh phải về”. Ông Văn hỏi. “Tôi ở đây luôn. Trong kia có phòng ngủ. Độc thân, ở thế này cho tiện anh ạ”.
Thực sự ông Văn không biết nếu không nâng lên đặt xuống những cốc rượu thơm mềm môi thì sẽ làm gì tiếp. Càng lúc, ông càng khao khát tất cả dừng lại như thế này. Đang rất hoàn hảo. Không gian. Khung cảnh. Rượu ngon. Ông bạn nhậu tâm lí nói ít hiểu nhiều, đôi lúc ngồi im vẫn biết đối phương nghĩ gì. Còn gì hay hơn phút giây này chứ, nhất là không có gì đợi ông trước mặt.
Ông Văn đứng lên, tay cầm cốc rượu, đi ra góc vườn. Có một cái lồng chim. Con yểng đang đứng gật gù, mắt đen lóng lánh nhìn ông. Ông tắc lưỡi, kiểu chào quen thuộc. “N…N...hường đi vắng rồi. N…N...hường đi vắng rồi. Khẹc khẹc”. Con yểng có vẻ nhận ra ông, nghiêng cái đầu. Ông trêu “Hường ơi”. “N...N…hường đi vắng rồi. Khẹc khẹc”. Nó nhìn chòng chọc vào mặt ông, gằn giọng.
“Cô ấy nói anh không thích nó vì ồn ào, và mọi người gọi cửa hay bị nó nói đi vắng trong khi cô ấy có nhà, nên mang treo bên này”. “Tốt, nó hợp ở đây vui hơn bên nhà tôi”.
Chẳng nhẽ ông lại nói, cái gì sang đây cũng hợp hơn bên kia. Đến tao ngồi ở vườn nhà mày còn thích hơn về nhà tao nữa là con chim.
Bước thêm vài bước, từ tầng sáu nhìn xuống trung tâm thành phố. Góc này đúng ngã tư sáng rực đèn ô tô xe máy. Giờ tan tầm. Xe kẹt từng hàng dài. Chợt có cơn gió mang hơi mưa tạt qua, khiến ông Văn thấy nhẹ bẫng. Ừ đúng, thu sang lâu rồi. Một ngày là bốn mùa trôi qua. Ngồi đây lâu chút nữa, là mùa đông đến. Ông luôn mong mùa đông, nó khiến mình hưng phấn từ trong đến ngoài. Mọi ưu phiền tức bực cũng theo những cơn gió.
đông cuốn đi. Ông Văn quay lại nhìn Hoành đang đứng cạnh khá gần, giơ cốc rượu lên. Hoành cũng giơ cốc rượu. Chạm vào nhau nghe tiếng cạch nhẹ. Ông Văn ngửa cổ uống một hơi cạn đến đáy, rồi đưa cốc không cho Hoành. Hoành đỡ lấy, định quay về phía bàn lấy bình rượu rót tiếp thì ông Văn quay nhanh, lao người về khoảng không phía trước. Hoành ném luôn hai cái li không xuống đất vỡ tan, nhoài người lao theo túm lấy ông Văn, kéo lại.
*
* *
Hường sắp xếp như thế này.
Do hai ông chồng lằng nhằng kéo nhau phi từ tầng sáu xuống, may lại rơi đúng khu vui chơi của các cháu nên, một người - ông Văn, gãy xương vai, vẹo cổ, gãy xương đùi không liệt nhưng chưa tự đi lại được. Người kia - ông Hoành, chồng đốt xương sống dẫn đến liệt, phải ở chung một phòng để cô tiện chăm sóc cả hai. Hai người đã gặp nhau rồi, lại cứu nhau để sống, cô đội ơn cả hai, đời này kiếp này cô nguyện hầu hạ hết lòng. Hường đặt mua hai cái giường có chế độ nâng lên hạ xuống, khoét sẵn phần giữa để tiện đi vệ sinh tại chỗ, kê hai góc phòng như ở bệnh viện. Dưới mỗi chân giường đều có cái bô.
Ông Văn vẫn nhớ, khi tỉnh dậy trong phòng cấp cứu, người đầu tiên nhận ra là em gái. “Anh sống rồi”, cô nói được câu đấy rồi gục xuống ngực anh khóc. Văn ngoảnh nhìn ra khuôn cửa phòng bệnh. Bên ngoài, nắng vàng rực phủ lên những tán hoa muồng vàng. Mùa thu là mùa hoa muồng dài vàng suộm. Không có bất cứ cảm giác đau đớn nào. “Sao anh lại làm thế. Anh là trí thức, giáo sư nổi tiếng thành đạt, chẳng lí do gì mà thiếu suy nghĩ đâm đầu tự tử như thế”. Ông Văn im lặng. Chả nhớ gì. Chả nghĩ gì. Nằm im, nhìn hoa muồng - nhận ra được cây muồng tức là không mất trí nhớ - khiến ông sướng tê tái. Một lát. Hường vào, chưa thấy người đã thấy tiếng “May quá, anh Hoành cũng tỉnh rồi em ạ. Chị vừa gặp bác sĩ trưởng khoa nhờ hội chẩn lại cho hai anh. Cầu trời phật phù hộ, trí não cả hai bình thường. Toàn người giỏi mà mất trí nhớ thì tàn đời”.
Vân nhìn Hường, không chọn ra từ nào để nói cho phù hợp lúc này. Hường tiếp “Hội chẩn xong, nếu không có vấn đề gì lớn, chị xin cho hai anh về nhà. Ở nhà thoải mái em ạ”. “Chị định đưa anh Hoành về nhà anh Văn á?”. “Thì chị phải chăm cả hai, ở cùng chỗ mới tiện chứ. Công ti anh Hoành rất đầy đủ, nhưng chị không bỏ anh Văn ở nhà một mình được”. “Chị sẽ nói với hàng xóm và bạn anh Văn thế nào?”. Giọng Vân gay gắt, quả là quá sức chịu đựng của cô. “Chị sẽ nói, hai anh là bạn, say rượu, ngã từ trên cao xuống đất”. “Tại sao bạn anh Văn mà lại về nhà anh Văn cho chị chăm, chị nghĩ mọi người không biết suy nghĩ hay sao mà muốn nói gì cũng được?”. Im lặng. “Bây giờ chị phải làm gì khi anh Hoành cũng không có ai ngoài chị?”. “Chị đi quá giới hạn rồi đấy. Ai là chồng chị?”. “Anh Văn. Nhưng... với anh Hoành, là nghĩa. Em có chửi thế nào, chị cũng không bỏ mặc anh Hoành được”. “Vậy chị sang ở hẳn bên anh Hoành đi, tôi lo cho anh tôi”.
Bất chợt, Hường quỳ thụp xuống chân Vân, túm lấy chân cô, khóc “Chị lạy em. Từ ngày làm dâu nhà em, chị sống hết lòng hết dạ. Chuyện chị với anh Hoành, chị báo cáo em đầy đủ không giấu điều gì, em cho phép chị qua lại hai nhà, nên chị mới dám. Giờ ra thế này, chị không thể bỏ ai được, em cho phép chị hầu cả hai. Em còn gia đình, công việc, không thể chăm anh Văn được. Nếu em không cho chị đưa anh Hoành về nhà mình, chị sẽ chạy hai nơi, thuê thêm người giúp. Em đồng ý cho chị đi, Vân”.
Ông Văn nhắm mắt. Cơn đau đầu tiên dội đến. Đầu buốt nhói như có ai cầm con dao chọc vào và xoáy mạnh, ông chìm sâu vào những cơn mơ.
Hai ngày sau, Văn tỉnh lại. Khuôn mặt cậu em rể giãn ra. “Anh tỉnh lại rồi, may quá”. Ông thấy đầu óc mình thoáng đãng. Nhìn quanh, thấy mình nằm trong nhà mình, nhưng là phòng lớn bên cạnh phòng khách chính. “Anh về nhà hôm qua. Chị Hường muốn anh thoải mái”.
Suốt mười ngày đầu, ông Văn nghĩ đến cái chết. Tiếc như mua vietlott chệch một số mất vài chục tỉ. Nếu ông chết ngay lúc ấy, khi rượu đủ say, không gian quá hoàn hảo cho phút cuối no bụng không sợ bị thành ma đói có phải giờ này đang vi vu không. Ông tin người ta có linh hồn khi những kẻ phá đình chùa thường mấy đời nát bét. Chả phải vong linh những người muốn giữ chùa chiền vật chúng sao. Khi ông quay người lao xuống từ sân tầng sáu với một khoái cảm mãnh liệt, bởi chỉ có bên dưới kia, là tương lai của mình. Ai ngờ thằng khốn Hoành đã kéo mình lại. “Thỏa hiệp thời gian này thôi anh”. Vân thuyết phục “Em thấy ông Hoành không phải người xấu. Số phận trớ trêu đẩy hai người đến nước này, anh đừng nghĩ nữa. Mà... ông ấy vì cứu mạng anh nên bán thân bất toại như vậy, cũng là trả giá cho tội lăng nhăng với vợ người khác rồi”. “Anh cũng đang bán thân bất toại đây, anh phải trả giá vì điều gì?”. Văn hỏi. Vân lặng ngắt, cúi mặt. Rồi Văn gầm lên, giận dữ “Anh trả giá vì vô trách nhiệm với đời mình, đúng không? Nếu ngày ấy anh không gật đầu chiều bố mẹ, có phải đời anh giờ khác không?”. “Đừng bao giờ nói gia như, vì không thể quay lại hai mươi năm trước, anh hiểu không”, Vân cũng gào lên. “Chấp nhận hiện thực này đi, vì anh không còn cách nào khác khá hơn đâu”.
Văn im lặng, nhắm mắt.
Dạo này ông hay bị chảy nước mắt. Nói là khóc cũng đúng, mà không khóc cũng phải. Nước mắt cứ tự nhiên tràn ra, không kiểm soát cho nó dừng lại được. Vân cũng khóc. Cô nắm lấy bàn tay nhẽo ra của anh, thì thầm “Hôm nay anh hết phải dùng kháng sinh rồi, uống rượu không, em rót cho một chén”.
Rồi Vân và Văn cũng cưa hết một chai 35ml rượu sâm xuyên đá thơm dịu. Rượu chạy tới đâu, Văn đỡ chán đời đến đấy. “Đừng nghĩ nhiều anh ạ. Không mất trí là may rồi. Giờ anh cần ngồi lên và ra sân kia phơi nắng cho đỡ cớm. Cứ nhích dần từng bước một, thế thôi”. “Oke, nhích dần từng bước một”. Văn tợp thêm chén rượu, nước mắt lại tràn qua gò má.
Khi Văn tỉnh lại lần hai trong nhà mình, chợt nhìn sang chiếc giường bệnh giống của mình ở bên kia. Một thân hình to lớn chân bó bột, cổ đeo định vị đỡ bộ mặt băng kín. “Em đồng ý cho chị Hường mang ông Hoành về đây vài ngày. Ông ấy không có người thân. Nếu để ở bên kia, chị Hường sẽ vất vả chạy hai nơi”. “Em thấy chuyện này chấp nhận được à? Tại sao không có người thân?”. “Vợ anh ta đi nước ngoài làm tiến sĩ, ở lại luôn không về. Con cũng sang đấy với mẹ. Khi nào anh ấy khá hơn, sẽ đi, anh đồng ý nhé”. “Chướng lắm. Em cho anh sang nhà em, thuê người chăm anh. Anh mà ngồi dậy được sẽ tự lo liệu”. Vân thở dài “Vâng. Em thuê giúp việc ngay, mai đón anh sang luôn”.
Hường khóc lả người, gọi xe đưa ông Hoành về công ti khi biết ông Văn sẽ bỏ đi. “Cô ở bên đấy luôn đi, tôi lo cho mình được”. Ông Văn nói đúng một câu xong nhắm mắt lại. Lại là bi kịch khác, đấy là tuyển giúp việc. Người thật thà thì đần độn, ngay ngày đầu tiên dùng bếp ga suýt cháy nhà, do bật mấy lần ga bay ra, xong lấy diêm châm cho nhanh, lửa bùng lên may Vân dập kịp. Tuyển được người nhanh nhẹn thì vô cảm coi ông như lão già dịch béo ú, xúc cháo cho ông ăn tống cả vào mũi, miệng giục ông ăn nhanh, cháu bận lắm, không làm nhanh đến giờ phim trên vô tuyến bây giờ. Giải tán. Chọn bọn trẻ cho lành. Những đứa trẻ thoát li từ nhiều miền quê nghèo, hầu nó không xong, chả biết làm gì ngoài đứng cười khi thấy ông già to béo hàng ngày đái qua cái lỗ dưới lưng. Không ai hơn Hường. Ông Văn cay đắng. Sau hai tuần rời Hường, người ông bốc mùi khai thối, vài chỗ lở loét do nằm bất động. Ăn uống kém. Mất ngủ. Những chỗ bị thương khiến ông đau đớn. Hai vợ chồng Vân đã dùng hết ngày phép, thay nhau trông Văn, giờ không nghỉ được thêm nữa.
Sau một đêm trắng nốc hết chai rượu cùng Vân, nước mắt nhòe nhoẹt trên mặt hai anh em, ông đồng ý cho Hường mang Hoành về, đâu hoàn đấy. Hường về. Hai ngày sau, nhà cửa tinh tươm, ông hết khai thối. Và, thấm thía cuộc sống sẽ cay đắng thế nào nếu thiếu Hường.
Bi kịch nối tiếp bi kịch. Ông luôn phải tự cứu mình mỗi ngày bằng cách chìm vào quá khứ. Từ quá khứ vẽ lên hiện thực, là, hôm sinh nhật ông ngoại, ông bận không đến như bao lần, hoặc, ông đến và nhìn Hường mãi là đứa hàng xóm lô tô bỗ bã, đêm đó về ông không chấp nhận sự mối lái của bố mẹ một cách đơn giản thế, và, đừng nghĩ, ta là ta, không ai thay đổi được ta hết, bố mẹ còn chả làm gì được, nữa là vợ, lại là đứa tầm thường đơn giản thế. Tầm thường, là thói quen ngấm vào nhau nhất khi sống chung một nhà. Tầm thường là thứ khiến ta nhìn xuống, và khi nhìn xuống, thả lỏng, là khoái cảm mềm. Ai mà chả có góc hèn hạ kém cỏi bên trong, chỉ đợi gặp hoàn cảnh phù hợp để bung ra thôi.
Hai tháng sau.
Hường đúng chuẩn bác sĩ gia đình. Cô chế biến món ăn cho hai người như nhau. Họ cùng quen dần một loại nhạc bolero Lệ Quyên, Đàm Vĩnh Hưng, cùng xem phim Ấn Độ nghìn tập... Làm vệ sinh cho ông này ông kia xem, nếu không xem thì tự nhắm mắt lại nhưng tai lại nghe hết. Kể cả của quý của hai ông, Hường làm vệ sinh và nói về nó như bà nội nói về chim thằng cu cháu.
Hàng ngày, Hường đọc cho Văn nghe các thông tin liên quan đến công việc của ông, Hoành nằm nghe và góp ý. Hoành vốn dân xây dựng, chuyên chạy dự án giải phóng mặt bằng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đầy thực tế, ngược hẳn ông Văn thuần sách vở. Kèm theo những chuyện đình chùa cổ bị phá đi xây lại, chứng tỏ việc ông viết sách lưu giữ chùa cổ chả ý nghĩa gì với đời sống, Hường nói thế. Ông giận dữ, nếu ngày xưa khi ông còn khỏe, cô sẽ ăn một cái tát, hay chí ít là cốc bát vỡ, nhưng bây giờ, ông chỉ có thể nhắm mắt, ừ một cái để chấm dứt tranh luận, mà khi mới bắt đầu ông đã biết mình thua.
Quay sang Hoành, Hường giải quyết chuyện tiền bạc quyết toán với nhân viên, nghe báo cáo tiến độ xây dựng. Ốp sát bên thi công để kịp tiến độ bàn giao, xong về kể lại cho ông Hoành nghe. Họ thành một bộ ba, hòa nhập dần. Hai người đàn ông ghê gớm thuở nào giờ trông ngóng Hường như mẹ về chợ. Rời cô ra là điêu đứng, tối thiểu như đi tiểu không cố nhịn thì cũng vãi đầy ra như em bé và xấu hổ liếc nhìn nhau.
Chưa bao giờ ông Văn có thời gian quan sát và suy nghĩ về ai kĩ như với ông Hoành từ khi trở lại nằm chung phòng với nhau ở nhà ông. Thời gian trôi qua làm nhòe mọi cảm xúc trước khi cùng bay từ trên cao xuống đất, hai người trừ lúc ngủ, nói chuyện với nhau nhiều hơn. Nhiều đêm, họ cùng mất ngủ, nằm im đợi sáng. Một lần, ông Văn nói “Ông hại tôi. Nếu không bị liệt thế kia, tôi sẽ táng vỡ mặt ông”. Ông Hoành đáp lại, giọng ồm ồm do biến chứng “Giết được càng tốt” và cười khục khục. “Ông nên sống. Tôi thì đủ rồi. Chết sướng hơn”. “Ông lại ân hận rồi”. Ông Hoành từ tốn “Ân hận là chứng tỏ mình thất bại”. Ông Văn cười khẩy “Chả quan trọng. Thế nào cũng được, miễn không thế này”. “Tôi thì chưa bao biết giờ ân hận”. Ông Hoành nói xong nhắm mắt vờ ngủ, cắt đứt cuộc đối thoại ông biết sẽ chẳng đi đến đâu.
Bà Nhâm tới thăm.
Ông Văn cáu điên không cho vào, nhưng Hường lại mừng. Bà đến bên giường, nắm bàn tay ông đang run rẩy túa mồ hôi, vuốt nhẹ “Anh cố gắng tập thiền. Dậy được là dậy, tập đi. Phải đánh thức tiềm năng trong mình để vượt qua thử thách này”. “Ừ”. “Em nói anh cai rượu, không nghe em. Hai ông uống hết hai chai, hai lít bảo sao không lôi nhau bay lên”. “Ừ”. “Em có mang một số cuốn sách mới về khảo cổ rất đáng đọc, em dặn Hường đọc cho anh nghe”. “Cảm ơn Nhâm”. “Sắp tới em đi thực tế một tháng miền Trung. Về em đến”. “Không cần đâu, khi nào khỏe, anh tự gọi Nhâm”. “Thế cũng được”.
Tiễn bà Nhâm về, Hường gạ, vài ngày bà đến một lần, cho ông Văn vui vì bà có nhiều chuyện để nói với ông. Nhâm đồng ý. Bà dặn Hường thực hiện chế độ ăn chỉ organic cho hai người bệnh, lấy thực đơn từ ông chồng bà chuyên dinh dưỡng. Kinh khủng nữa, là hôm sau, Nhâm đưa chồng đến kiểm tra cho hai người. Ông mang theo một cái máy, đeo vào cổ tay Văn, tất cả các chỉ số mỡ máu, nhịp tim... hiện lên hết. Chồng bà Nhâm nhìn hai người đàn ông đúng là hai con bệnh cần chữa khẩn trương, và kê một sớ dài các đồ ăn kèm chữa bệnh cho Hường làm.
Trong lúc ba người ngồi bàn luận về việc cho ông ăn gì uống gì tập gì mỗi ngày, nước mắt ông Văn chảy ướt sũng hai tai, thấm đầy xuống gối. Ông cay đắng nhận ra mình, hay Hoành - hai người đàn ông mạnh mẽ ăn to nói lớn đã tự nhòe chính mình. Bất lực một cách hòa đồng, đoàn kết, ngầm bấu víu vào Hường như cứu tinh. Vì chỉ có Hường mới chu toàn cho cả hai, tự nhiên, thuộc việc, tâm lí và đơn giản. Mỗi lần Hường bế ông đặt lên xe, đẩy vào buồng tắm, lôi ra và tắm gội như mẹ tắm con, Văn nhắm mắt lại, tự coi như mình không còn là mình. Trong mọi cái xấu, chọn cái ít xấu nhất để thích nghi, ông luôn nhủ thế. Sau dăm lần cô lột trần ông ra, ông quen và bắt đầu chọc lại. Té nước vào Hường, lâu lâu, túm vào đầu ti thõng thượt làm Hường nhảy dựng lên. Cũng may là Hoành nằm liệt, phải tắm khô. Mỗi lần Hường lau người cho Hoành bằng nước gừng, gội đầu bằng dầu xịt khô, ông trở mình quay mặt vào tường hoặc ngồi xe lăn ngoài cửa, đọc báo. Để hàng xóm không nhòm ngó, cô gọi thợ làm thêm tấm che rào sắt, bên trong nhìn ra rất rõ nhưng bên ngoài không nhìn vào được.
Một ngày đầu đông.
Ông được đẩy ra ngoài hiên nhà, trên chiếc xe lăn, còn Hoành vẫn nằm trong giường do mông bị hoại tử, biến chứng từ một cái mụn vỡ ra do tiểu đường. Một cô gái khoảng ba mươi tuổi, thập thò bên ngoài nhìn số nhà. Thấy ông, cô hỏi “Bác cho con hỏi, nhà bác Văn ở đây đúng không?”. “Tôi là Văn, cháu cứ mở cổng, không khóa đâu”. Cô gái dắt chiếc xe đạp vào, nhìn Văn, ngập ngừng hơi run, lôi trong túi ra một cái phong bì bằng giấy xi măng rất dày. “Dạ, cháu là con mẹ Nhâm, bố Toàn. Hôm nay, bốn chín ngày mẹ cháu, cháu dọn đồ để hóa cho mẹ, thấy phong bì này, mẹ ghi là của bác. Cháu mang đến gửi bác ạ”. “Cháu là con Nhâm? Cháu vừa nói gì, ai mất bốn chín ngày?”. Giọng ông Văn nhẹ bẫng. “Mẹ cháu mất đã bốn chín ngày bác ạ”. “Làm sao Nhâm chết? “Dạ, mẹ cháu bị ung thư. Do phát hiện quá chậm, mẹ cháu lại không chấp nhận cho bệnh viện điều trị nên đi nhanh lắm ạ. Từ lúc đi khám phát hiện đến lúc mất, chưa được hai tháng”. Cô gái gạt nước mắt, mặt cúi gằm. Ông Văn run cầm cập đỡ cái phong bì dày trên đùi đã teo lại sau tai nạn. Trên mặt phong bì, chữ của Nhâm “Tài liệu này của giáo sư Văn - xin mọi người không tự tiện mở đọc”.
Con gái Nhâm sau khi nắm tay chúc ông sức khỏe, nói tro cốt mẹ cháu đã thả xuống sông Hồng sáng nay theo di nguyện của bà, quay xe đạp định đi. Ông Văn vội nói “Cháu ơi, bác muốn gửi cái này cho mẹ”. Cô gái quay lại. “Cháu chạy vào bàn kia, bác có cắm cành lan, sáng nay vợ ác hái trên cây xuống. Cháu giúp bác, mang về đặt lên bàn thờ và thắp giúp bác nén hương. Bác bây giờ, không đi đâu qua cái cổng kia được cháu ạ”. Cô gái sau thoáng do dự, đi vào nhà, nhấc cành lan với từng chùm hoa xanh vàng thơm ngọt rồi đi ra. Cô nâng trên tay, thì thầm “Cháu sẽ mang về cho mẹ, cảm ơn bác”. Cô nhẹ nhàng xếp lại chiếc túi vải, đặt cành hoa nằm ngay ngắn, dắt xe đi.
Nhiều cơn gió bay qua cây hoàng lan cổ thụ góc vườn. Hương thơm do gió thổi bay đi rất xa, những người sống ở cuối phố mỗi lần gặp Hường lại khen, nhà cô có cây lan tây thơm quá. Vài lần, Hường phải đứng từ ban công tầng ba với người bẻ cành lấy hoa, lầu bầu “Người trồng không được ngửi, béo người đâu đâu”. Chắc không muốn béo người đâu đâu nên Hường rút kinh nghiệm, trồng bên công ti Hoành một cây lan đầy hoa trong chậu.
Ông lại thấy, nhờ những cơn gió thổi đi thổi lại khiến hương hoa thơm mùi man mác, không gắt gỏng như hương từ những cành tươi Hường bẻ cắm giữa nhà. Nhìn sâu vào từng tán lá, cố phân biệt đâu là hoa, đâu là lá, giống cảm giác khi ông ngồi ngoài vườn ở công ti của Hoành, thấy hiếm có loại hoa nào màu xanh như lá cây chỉ vàng khi chín. Hơi ngửa người, phong bì nặng trĩu trên đùi, ông sẽ không bao giờ mở. Lần đầu tiên, ở tuổi sáu mươi, ông ân hận là mình đã ghi nhật kí, và cất giữ nó. Ông muốn ngồi thế này mãi, nhưng biết là không thể. Trong nhà, ông Hoành đang rung cái chuông gọi Hường. Ông Văn nhắm mắt lờ đi vì biết sức ông Hoành cũng chỉ lắc được vài cái là thôi.
Lát nữa, Hường đi chợ về, việc đầu tiên là cô cõng ông lên gác, mở Ngăn kéo Kỉ niệm, lấy hết các thứ trong đó, và nhờ cô đốt chúng đi.
Ông Hoành không lắc chuông nữa, gọi “Hường ơi, Hường”.
Ở góc sân, ngay trên đầu ông Văn đang ngồi, con yểng già được mang trở lại nhà ông, mắt long sòng sọc ngó cổ vào phía trong cãi ông Hoành. “N...N…hường đi vắng rồi. Khẹc khẹc”.
Ông Văn ngửa cổ nhìn nó, lẩm bẩm “Ừ, Hường đi vắng rồi” .
Tháng 9/2018
N.T.T.H
Giữa hai người đàn ông
Trương Văn Tuấn
🍁Đám trẻ bắt đầu mang chuyện về người đàn ông hay đứng chờ ở ngã ba Rồng ra bàn tán. Quá khứ của người đàn ông được lắp ghép nên: con chủ tiệm vàng, đẹp trai, học nhiều quá nên phát điên. Thông tin này khiến vài đứa thích thú: Thấy chưa! Xấu trai, học dốt như tao có cái lợi.
Nhưng ở một phiên bản khác, câu chuyện lại gây hào hứng hơn: Ông ấy bị thất tình. Người yêu đi lấy chồng nên ông ấy phát điên như vậy. Ông điên từ thời trẻ, đến sau này em gái ông đi lấy chồng, ba mẹ mất thì ông bắt đầu ở một mình. Ngôi nhà tường khang trang nhất xã những năm 1990 thành ra hoang phế dơ bẩn. Mỗi ngày người em gái tạt ngang đó một lần, để lại cơm và đồ ăn.
Đám trẻ đang mường tượng ra cô gái kia xinh đẹp, độc đáo đến dường nào mà đến con bà chủ tiệm vàng cô ta cũng không thèm thì bà Nhì bước ra khỏi võng, đằng hắng cắt ngang:
– Nhiều khi chỉ là bệnh hoạn bất thình lình mà thành điên. Bàn chi, lỡ sai mang tội lắm tụi con!
Đám trẻ đành chuyển qua đề tài ác liệt hơn: Dạo này nghe nói có những tên biến thái rạch đùi nữ sinh, con kia giờ vừa đau vừa sợ.
Bà Nhì là nội của Hà, một trong số học sinh lớp 10 kia. Nhà Hà ở xã Long Hưng B nhưng chỉ thi đậu vào mỗi trường Long Hưng A. Nhà cuối xã này, đậu vào cái trường nằm ở cuối xã kia, huyện lộ dài dằng dặc nên con Hà ở hẳn nhà nội cho gần trường.
Ngày con Hà về đây học thì ba nó bắt đầu bồn chồn lo lắng. Rồi đã có lúc cuối tuần con bé về nhà, coi mấy cảnh chia ly cách trở trên phim, nó đã nhắc lại chuyện người điên đứng chờ ở ngã ba Rồng. Những kỷ niệm ngày cũ lại có dịp dội về trong ba nó.
Hai mươi năm trước, Được cũng là học sinh của trường cấp 3 Long Hưng A – nhưng là cái trường cũ, nhỏ thấp.
***
Đám con trai đứng trên lầu trỏ xuống sân:
– Cứ con nhà giàu học giỏi thì cặp với con nhà giàu học giỏi thôi – Chúng bàn tán về đôi trai gái đang quay lưng về dãy phòng học.
– Thằng nào ngồi với con Oanh lớp mình đấy? – Được chỉ nhận ra mỗi cô hoa khôi lớp.
– Tống Minh Quân – Rồi cậu học trò đó kêu lên – Con nhà giàu đến cái tên cũng khác người.
– Ờ – Được gật gù.
Rồi cả đám quay sang Được:
– Phan Văn Được, mày Được là được cái gì mà con gái lớp mày đi cặp với trai lớp khác?
Đám nam sinh lớp 12 cười phá lên rồi xô đẩy, xông vào đấm đá nhau túi bụi.
– Được nè! Được cái mỏ mày nè!
Chiều hôm đó Được ở lại chơi đá banh nên về trễ. Trên con đường quê mù mịt bụi, trước mắt Được là một đứa cũng mặc đồng phục trường đi lững thững. Đó là Quân. Chắc nó sắp thành “rể” lớp này, không cho đi ké người ta lại nghĩ mình ghen ăn tức ở – Được nghĩ vậy nên thắng xe lại.
– Đi không?
Quân mồ hôi nhễ nhại trả lời bằng cái gật đầu dứt khoát.
– Xe ông đâu?
– Mất rồi.
– Trời! Để đâu mà mất.
– Quán kem.
– Uổng quá!
– Ừ.
Quân bất ngờ đập tay mấy cái liền lên lưng Được:
– Gì vậy?
– Cát.
– À, tại mới đá banh xong.
– Ông đi ngang ngã ba
Rồng không?
– Có.
– Mai ông đi ngang cho tôi quá giang được không? Mai chưa mua xe kịp.
– Được.
– Ông tên gì?
– Được.
– Tôi hỏi ông tên gì?
– Phan Văn Được.
– À. Tôi tên Quân.
***
Sự thật là chưa đầy 24 giờ sau mất xe, Quân đã được mẹ mua cho chiếc mới. Cơ bản bà Ngà không muốn mắc nợ ai cả vì điều đó không hợp với danh giá của một chủ tiệm vàng.
– Tự đạp mỏi chân.
Nhưng Quân giải thích với mẹ vậy rồi chạy biến ra ngã ba chờ Được tấp xe vào đón.
Đôi khi sau trận đá banh mệt nhừ, Được sẽ đặt hai chân mình lên sườn xe, chỉ lo việc cầm lái, Quân ngồi phía sau với chân lên đạp.
Rồi có lần Quân đứng đợi đến 30 phút vẫn không thấy Được đâu đành vào nhà lấy xe tự đi học.
Chiều đó Quân tìm đến tận nhà Được thì thấy bạn mình đang trùm mền.
– Ông làm gì trong đó?
– Xông cho hết cảm. Ông có trễ học không?
– Có, trễ một tiết.
– Ông ngu quá, đợi lâu phải quá giang người khác chứ. Đứng đợi hoài làm gì.
– Đã nói đợi thì phải đợi chứ ông.
Chiều đó Quân ở lại ăn cơm ở nhà Được. Cơ bản giữa những đứa trẻ hồn nhiên không có sự phân biệt giàu nghèo. Mọi thứ ở nhà Được đều là một mảng màu khác, nhưng không làm Quân nghĩ ngợi gì ngoài việc vui vẻ. Quân hào hứng khi thấy Được ngồi chồm hổm bưng tô cháo to. Hóa ra bạn của mình khi ăn là ngồi như vậy, ngồi ngay nơi đây, cầm muỗng thế kia, tốc độ ăn thế đó.
Có những hôm Quân lấy xe đạp của mình, rời nhà từ sớm để vào chỗ Được, cùng ăn cơm trưa rồi chở nhau đi học, chiều lại đưa bạn về tận nhà. Đôi lần sau giờ học Được cũng ghé lại nhà Quân, lăn lê trên nền nhà đọc truyện tranh.
***
– Hôm nay bắt ông chở bốn lần có mệt không? – Quân hỏi sau một ngày vừa học chính khóa, vừa học phụ đạo.
– Mỏi chân thấy mẹ.
Khi ấy Được đang nằm dài ở giữa nhà Quân, xắn quần lên tận đầu gối cho mát, đọc nốt các trang truyện tranh còn lại. Quân nhìn Được nhưng hắn không nhìn lại mình, chỉ chú tâm vào truyện.
Quân cúi người xuống đặt môi lên bắp chân của Được. Được giật thót người co chân lên.
– Nhột! – Được kêu lên.
– Trả công đó – Quân đỏ bừng mặt.
– Thằng khùng, nhột thấy mẹ!
– Hình như nó có điện phải không ông – Quân lắp bắp.
Mặt Được cũng đang đỏ lên.
– Không biết, nhà tui chưa có điện.
Được đặt quyển truyện lên kệ, nói: Thôi về đây, rồi nhảy từ hiên nhà ra giữa sân.
Sáng hôm sau Được đi học khi trời còn chưa sáng tỏ, cắm mặt chạy vù vù qua ngã ba.
Rồi hôm sau cũng thế.
Đám con trai lớp bên sang hỏi sao Quân hai ngày không đi học, rồi gửi Được quyển tập nhờ mang về cho Quân chép bài.
Được không ngờ có đứa lại lì và liều hơn cả mình.
– Sao con không chờ nó đi học? Nó than mệt rồi nghỉ luôn hai ngày nè – bà Ngà vừa mở cổng vừa hỏi.
Được phải nói dối là đi sớm chở cá khô cho mẹ.
Quân ngồi khoanh tròn trên ghế xem ti vi, không hề tỏ ra hào hứng.
– Không đi học thi rớt ráng chịu – Được đặt hai quyển tập lên bàn nói trống không.
– Mai có chở không?
– Quân đột ngột la lớn làm Được giật mình.
Được ngập ngừng:
– Không biết.
Được định hôm sau lại đi học sớm – nhưng không sớm quá, sớm vừa phải, nếu gặp Quân ra đón thì chở, không thì thôi.
Nhưng Được tính không bằng Quân tính. Sáng hôm sau vừa bước ra khỏi giường, Được đã nghe tiếng Quân chào mẹ mình. Quân cứ làm vậy suốt một tuần, Được đành chịu thua:
– Để tui ra chở ông đi, ông đừng vô đón nữa, xa lắm.
Thi thoảng Quân đánh liều hỏi lại:
– Có phải nó có điện không?
– Tôi không biết.
– Nhà ông mới có điện hôm qua mà.
– Tôi chưa bị giật lần nào.
. ***
Tối nọ, em gái Quân thủ thỉ với mẹ:
– Anh Quân hôn anh Được đó.
– Nói bậy! – Mẹ Quân quát làm con bé im luôn.
Nhưng hai tuần sau ba Quân thấy con trai mình nắm chặt tay thằng bạn, nài nỉ ở chơi thêm chút. Ông đạp cửa phòng đang khép hờ quát: Thằng Được đi về liền!
Hai đứa trẻ líu ríu đứng xa ra.
– Mai mốt khỏi qua đây nữa! Thằng Quân tự đi học! – Ông ra lệnh.
Hôm sau bà Ngà gặp bà Nhì ngoài chợ thì bắt đầu mắng như tát nước:
– Thằng con chị mất dạy lắm! Tui cấm, cấm tuyệt đối! Nó còn rủ rê con tôi nữa là biết tay tôi! Nghen, nghen!
Bà Nhì hớt hải về hỏi con:
– Chuyện gì?
Được xanh tái mặt mày, chỉ chực khóc.
Rồi bà Nhì tự đưa ra giả thiết: Thằng Quân bận ôn bài để thi học sinh giỏi sử cấp tỉnh. Còn Được là đứa nhà không mấy khá giả, học vừa phải. Đẳng cấp khác nhau, không nên chơi cùng nhau.
Hai đứa trẻ bắt đầu chìm trong sợ hãi và xấu hổ. Chúng sợ người ta biết.
Tránh mặt được ít hôm, giờ chơi Quân lân la lại gần lớp học của Được đứng nhìn vào. Được theo ra cầu thang.
– Giờ phải làm sao?
– Thôi đừng gặp nữa.
Quân mếu máo nhìn theo Được.
Chỉ là một lần gặp chớp nhoáng, nhưng chuyện đó vẫn đến tai gia đình Quân. Bà Ngà chỉ tay vào phòng:
– Đừng nghĩ là tao không biết! Một lần nữa là tao nhốt ở nhà cả đời!
***
Ba vợ của thầy hiệu trưởng mất. Giáo viên cho học sinh nghỉ nửa buổi để cùng nhau đi viếng.
Quân đánh liều đạp xe vèo ngang cổng nhà, chạy một mạch đến nhà Được.
– Về đi! – Được nài nỉ.
Quân lắc đầu.
Hai đứa trẻ im lặng ngồi bên mâm cơm với các món ăn đạm bạc. Được bỏ miếng cá vào chén Quân, thúc:
– Ăn nhanh rồi về.
Quân gật gù, mắt đỏ hoe.
Ông bà Ngà mỗi ngày đều tiễn con ra cổng và cuối buổi lại đứng chờ con về để xem chừng Quân có đi cùng ai không.
Quân về vẫn sớm hơn giờ thực tế nhưng đã thấy ba mình đứng chờ ở đó. Ông đã biết hôm nay trường cho nghỉ sớm, lại thấy Quân về từ hướng nhà Được.
Thằng bé lủi thủi vào phòng. Ông bước theo đóng ầm cửa lại. Quân biết là ông đang kéo dây xích để khóa cửa phòng của mình, nhưng mặc kệ. Rồi tiếng xe máy ông vọt đi.
Ông ra chợ Rồng. Bà Ngà nghe chồng kể lại thì kéo nhanh cửa tiệm vàng lại, hầm hầm đi đến sạp khô của bà Nhì.
– Tui đã nói sao? Hả! – Bà Ngà gầm lên.
Ông Ngà đưa tay hất sạp khô một phát tung lên rồi rơi xuống nằm lộn ngược.
Chưa kịp hiểu chuyện gì, bà Nhì đã bị bà Ngà sấn đến, túm lấy tóc vật ngang, ngã nhào ra đất. Bà Ngà tay giữ tóc tay kia tát liên hồi.
– Tao đã dặn mày dạy con mày. Hả, hả, hả!
Mỗi cái hả của bà là một cái tát.
Người ta bu lại can ngăn. Vợ chồng bà Ngà thở hồng hộc bỏ về kèm câu cảnh cáo:
– Mày dạy con mày nha!
Được hay tin, ngồi sau xe người hàng xóm ra đến chợ Rồng thì đám đông đã vãn, ông Nhì đang chăm lo cho vợ. Được chỉ biết sững mắt lên nhìn những vết bầm trên mặt mẹ mình, tóc tai bà rũ rượi, quầy khô lật nhào. Hắn không biết nói gì, làm gì lúc này.
Ông Nhì thấy con trai thì sấn lại định đánh, bà Nhì níu lại:
– Thôi mà…
Người ta nghĩ hai đứa trẻ chơi với nhau nhưng có gây hấn, vậy là người lớn cũng gây hấn cùng nhau. Một vài người ngoài chợ xua tay:
– Con về nhà trước đi, ở đây có mấy chú phụ dọn.
– Về trước đi con!
Được quay lưng đi theo lời mẹ rồi dần chạy như điên. Miệng gầm gừ những tiếng ư ử đau đớn rồi to dần thành tiếng hét uất ức.
Được chạy đến không còn sức nữa thì ngã phịch xuống.
Chiều đó người ta tìm thấy cậu nằm bất động trên đê. Mũi chảy máu đọng vũng trên đất, hai tròng mắt thì vằn đỏ tia máu.
***
Ông Ngà nhốt Quân đến tận trưa hôm sau vẫn chưa mở cửa.
Được về nhà thì kêu đau nửa đầu và mờ một mắt nhưng không chịu đi khám, chỉ muốn nằm, mặt quay vào vách. Ông Nhì cũng không nỡ trách con nữa. Được bảo là do tự mình bị thế, không ai đánh đập gì cả. Nhưng máu nhiều dường đó và đầu đau đến thế khiến mọi người lo lắng.
Một người hàng xóm đành ra nhà bà Ngà thật tình hỏi: Anh chị có lỡ tay đánh thằng bé không, để ba mẹ nó biết mà mang đi chữa, chứ để lâu lỡ nó bị gì nguy kịch?
Bà Ngà nghe vậy thì nổi xung thiên chửi tới tấp cái kẻ đi lo chuyện thiên hạ kia.
Tiếng chửi vọng vào đến phòng của Quân.
– Nói anh nghe, chuyện gì vậy? Không nói là anh buồn lắm – Quân nài em gái.
Con bé thấy anh mình tiều tụy quá đành nói thật:
– Hôm qua mẹ nắm đầu mẹ anh Được, đánh nhiều lắm. Anh Được cũng sắp chết rồi.
Quân gầm lên điên dại rồi úp mặt khóc. Khóc thì có gì đáng sợ! Bà Ngà đã ăn trưa xong nên thản nhiên ra lại tiệm vàng, ông Ngà đưa đứa con gái nhỏ đi học chiều.
Ông trở về ghé mắt vô phòng thì nghe tiếng lầm rầm ở góc tường:
– Tại sao? Tại sao?…
Mười đầu ngón tay của Quân đã tróc móng. Miệng Quân dính đầy máu, những thanh dầm nhỏ đâm li ti lên môi. Quân đã cào tay vào vách, nhe răng cắn, cạp những then cửa.
– Tại sao, tại sao… – Quân cứ lầm bầm.
Ông bà Ngà đưa Quân đi chữa khắp nơi nhưng chỉ ngăn được việc Quân hỏi tại sao và thôi làm những hành động khiến bản thân tổn thương. Sự tỉnh táo mãi mãi không thể tìm lại.
Được thấy xấu hổ với ba, với mẹ và với tất cả mọi người. Chính con trai đã khiến mẹ bị người ta đánh. Điều đó quá khủng khiếp! Ba hôm sau Được về nhà nội ở Long Hưng B. Và không về lại đây nữa. Một bên mắt của Được cũng mù dần. Không ai làm gì cả, do cơn phẫn uất mà sinh tai biến – Được nhớ rõ ràng như thế.
Được có vợ, sinh con.
Quân vẫn hay ra ngã ba Rồng đứng chờ thứ gì không rõ.
Em gái Quân có chồng ra sống riêng ở cạnh đó. Ba mẹ lần lượt mất, Quân bắt đầu sống một mình, không còn ai nhắc nhở, việc đứng chờ càng diễn ra thường hơn.
***
Ơn trời, chừng ấy năm, đường về nhà ở Long Hưng A được mở thêm tuyến mới chứ không chỉ có riêng một lối đi qua ngã ba Rồng nên Được cũng thi thoảng về nhà thăm ba mẹ.
Công việc chính của Được là làm mộc, rảnh thì đi hái các loại thuốc nam về phơi trong sân chùa, dành bán lại cho người cần dùng.
Hôm nay vừa rải mớ cỏ vòi voi, nhãn lồng ra sân thì Được nhận cuộc gọi từ nhà trường. Cô giáo bảo bé Hà bị tên biến thái rạch đùi. Mấy hôm nay khu vực Long Hưng A đã xôn xao về việc có những tên côn đồ như thế, áp xe vào rồi dùng vật sắc nhọn tấn công đùi nữ sinh.
Không ngờ chuyện này lại rơi vào con gái mình! Được hốt hoảng thay đồ, chạy một mạch đến bệnh viện huyện.
Đến cổng bệnh viện thì anh lại nhận được cuộc gọi của chính con gái mình:
– Ba ơi, cô giáo nhầm. Lớp có hai Hà…
Như vừa trút khỏi gánh nặng ngàn cân, anh thở phào ờ ờ rồi quay về.
Giờ Được mới nhớ mình đã đi ngang ngã ba Rồng. Đui một mắt trái dường như đã là điều thuận lợi để khi nãy anh không phải nhìn sang bên kia đường. Nhưng giờ trên đường về, dù rẽ hướng nào tại ngã ba này thì một khi đã nhớ ra, con mắt còn lại của Được sẽ không thể lơ đi nếu có ai đó đứng bên đường.
Nếu Quân thấy thì sao, nếu Quân gọi tên, nếu Quân chạy theo?
Được rú ga, quyết định lao qua thật nhanh. Được chỉ nhìn về phía trước, nhưng rõ ràng vẫn thấy có ai đó đứng bên đường vì con lộ cứ trống băng. Được thấy cái dáng đó từ xa, gần dần, rồi mới xẹt ngang.
Đừng nhìn tôi Quân ơi. Đừng gọi tôi. Đừng đuổi theo tôi.
Được chạy về đến nhà vẫn còn bần thần.
***
Được sang Long Hưng A hái thuốc, cách ngã ba Rồng 3 km. Vừa hái vừa tự hỏi có ai nhận ra mình không.
Được lại sang Long Hưng A hái thuốc, cách ngã ba Rồng 2 km. Vừa hái vừa thăm chừng xem có gặp lại những người quen xưa cũ không.
Được lại sang Long Hưng A hái thuốc, cách ngã ba Rồng 1 km. Vừa hái vừa nghĩ ngợi. Chắc người ta chưa hề biết ngày đó, tháng đó, năm đó có hai kẻ như thế, mà dù có biết chắc người ta cũng đã quên mất rồi.
Sau hai ngày mưa rả rích trời bắt đầu nắng đẹp thuận lợi cho việc phơi phóng, Được lại sang ngã ba Rồng hái thuốc.
Được hái một bao cỏ vòi voi, một ít nhãn lồng và bắt đầu nhổ cây trinh nữ. Được nhổ dọc theo lối đi, vừa nhổ vừa di chuyển, nhổ đến khi đầy một bao lớn, hai bàn tay rớm máu thì đã đến được chỗ Quân đang đứng.
Được ngồi bẹp bên vệ đường, ngó trước sau rồi ngập ngừng gọi.
– … Quân.
Quân đứng thơ thẩn nhìn ra phía xa, không để ý gì đến kẻ đang ngồi dưới chân mình.
Được tháo nón khỏi đầu, quẹt mồ hôi trên trán:
– Quân! Ông nhớ tôi không?
Quân vẫn không nhìn lại.
– Quân, nhìn sang đây nè! – Được lớn tiếng hơn.
Quân quay lại nhìn Được rồi lững thững bước đi xa ra, tiếp tục nhìn ra đường. Quân cứ ngỡ Được gọi để xua đuổi, không cho mình đứng đấy nữa.
– Được nè. Nhớ không Quân?
Quân đưa mắt nhìn Được đầy dè chừng, pha chút cáu gắt rồi lại lơ đi tiếp. Tóc Quân đã khô vàng nắng cháy, lún phún vài sợi bạc. Khuôn mặt đã đen đúa và già đi mất rồi, dưới cằm và quanh miệng lưa thưa râu. Những móng tay, móng chân không quá dài nhưng vì lâu ngày chưa cắt nên viền lên những đường đen của đất. Hẳn đây là bộ đồ Quân cho rằng đẹp nhất, hẳn là đôi dép kia là sạch sẽ nhất phù hợp để đi học nhưng vẫn không thể nào cứu vãn được khuôn mặt và dáng người đờ đẫn của Quân.
Một chiếc xe máy chạy ngang nên Được cúi mặt xuống nhổ thêm hai bụi trinh nữ to đầy gai nhọn.
Ngước lên định gọi Quân lần nữa nhưng nước mắt Được đã giàn giụa trên khuôn mặt trung niên đen nhăn:
– Quân ơi… – Được kêu khe khẽ rồi không nói nổi lời nào nữa.
Được ngồi bệt xuống vệ đường khóc nức nở như đứa trẻ.
Quân chờ mười mấy năm đã quen với việc chờ chứ không nhớ là mình chờ ai. Quân đứng đấy chờ chừng ấy năm nên quen với hết thảy cỏ cây, bụi rậm, cột điện, cột đèn nơi này nhưng đã quên mất mặt người mình muốn chờ.
***
Thấy một đám trẻ con đi ngang, Được lau mắt đứng dậy vội vàng kéo các bao cỏ chất lên xe.
Sau lưng anh đám trẻ con râm ran đọc những câu thơ mà chúng nhặt nhạnh trên mạng internet.
Đứa đi trước hỏi:
"Đố ai nằm võng không đưa,
Đố ai gặp lại người xưa không nhìn.
Đố ai quên được chữ tình,
Đố ai quên được bóng hình người xưa."
Đám trẻ đi sau ngân nga:
"Người chết nằm võng không đưa
Người mù gặp lại người xưa không nhìn
Người điên quên được chữ tình
Người khùng quên được bóng hình ngày xưa"
Những câu thơ đó vờn sau anh như những con sóng lăn tăn đuổi nhau vào bờ. Anh không mù hẳn, anh chỉ hư một mắt.
***
Vợ anh nói với con gái:
– Chú Quân là bạn học hồi xưa của ba. Chú học hành, thức đêm nhiều mà sinh bệnh.
Lâu lâu Được lại ghé chỗ nhà Quân, giúp bạn mình dọn dẹp nhà cửa. Đôi khi Được bày thức ăn ra bàn xong nhưng Quân vẫn còn đứng chờ ở ngoài cổng. Anh lại đi ra nhắc bạn mình:
– Vô đi ông! Bạn ông nghỉ học rồi.
Giữa hai người đàn ông, ngoài tình yêu ra còn có tình bạn.