ĐIÊU TÀN CUNG XƯA
Tường thành xiêu đỗ dưới núi xanh
Lá uá, gạch vôi, ngói điêu linh
Nghìn năm lặng lẻ nằm yên dấu
Thử hỏi bao lần khóc chiến chinh?
Bao năm nằm lặng vẻ tan hoang
Có phải đây còn vết cung sang?
Hay chốn binh trường ngời uy vũ
Vạn người chiến sĩ vẫn hiên ngang
Bên kia bia đá của ai đây?
Sơn son nếp khắc bụi vương bay
Hàng chử mờ in bao dấu nổi
Phải lời hiệu triệu của Sơn Tây?
Ngai vàng điện ngọc ấn rồng son
Cớ sao vắng ngắt cảnh tan hoang?
Chốn củ vua quan bàn việc nước
Bây giờ vắt vẻo nhện giăng ngang
Ngự uyển ngày xưa đây vườn xưa
Mẫu đơn, huệ, cúc thắm tươi hoa
Cớ sao nay vắng vườn khô héo?
Non bộ đâu rồi? Chỉ đá rơi...?
Ngăn tường cách biệt cả bể dâu
Hồ sen khô cạn nước in sâu
Rêu mốc xanh rờn lời ếch nhái
Tựa ngàn than thở gởi đời sau
Trải mấy thu rồi trãi mấy năm?
Thái Phi gót ngọc bước xa xăm
Cớ sao để rớt cành trâm gảy?
Cảm khách đa tình lạc bước thăm
Công chúa đâu rồi công chúa ơi?
Huyền Trân thuở ấy ai chung đôi?
Chế Bồng Nga có còn ôm tất dạ?
Yêu nàng công chúa tình chưa phôi?
Sương mai nhỏ giọt rớt trên vai
Cung nử đâu rồi dáng bi ai?
Cớ sao ngọc nát cành trâm gảy?
Lảnh cung mờ mịt dấu tàn phai
Thế sự qua rồi, Ôi! Nước non
Lầu vàng, điện ngọc, Ấn rồng son
Sụp đổ bao nhiêu tầng thế hệ
Vẳng về trong gió vạn hồn oan...
Tướng tài cho mấy cũng phôi pha
Thành cao cho mấy cũng can qua
Anh hùng một thưở danh lưu tự
Khách nhớ người xưa lệ bổng sa
Ghi dấu anh hùng bao nét son
Máu thù quân giặc có còn loang
Chiến công ghi trên từng thước đất
Triều đại qua rồi đây chốn hoang...
Lưu niệm cho một ngày đi xem thành lủy đỗ nát ở Huế.
Minh Nguyệt