2018-06-27, 12:43 PM
Để thành nhà phê bình
Nguyễn Duy Cần
“Phê bình kẻ khác là chính mình phê bình mình.”
- William Shakespeare
***
“Người ta luôn luôn được khen hay bị chê, nhưng không mấy ai được người ta hiểu...”
- F. Nietszche
***
- William Shakespeare
***
“Người ta luôn luôn được khen hay bị chê, nhưng không mấy ai được người ta hiểu...”
- F. Nietszche
***
"Phê bình bằng cách chế nhạo, thường là do sự nghèo nàn cằn cỗi của tâm hồn."
- La Bruyère
- La Bruyère
***
"Óc hẹp hòi là những đầu óc không thể hiểu được, hoặc không chịu tìm hiểu những gì mình không ưa thích."
- P. Masson-Oursel
- P. Masson-Oursel
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT ĐỂ CÓ THỂ TRỞ THÀNH NHÀ PHÊ BÌNH ĐỨNG ĐẮN
I. “Phê bình, dễ; nghệ thuật, khó”[19]. Nói thế có đúng, mà cũng có sai. Đúng, là khi người ta phê bình theo lối các nhà phê bình cẩu thả, thiếu lương tâm, phê bình theo cao hứng của lòng ưa ghét tự nhiên: Hễ thuận với trình độ hiểu biết của mình thì cho là đúng, nghịch với trình độ hiểu biết của mình thì cho là sai. Sai, là muốn xứng đáng là nhà phê bình, phải là một kẻ sành sỏi trong nghề viết văn, một bậc “thầy”, hay ít ra là một người bạn đồng tài với tác giả mà mình muốn phê bình. Phê bình ở đây cũng ngang hàng với sáng tác.
Phê bình văn học là nghệ thuật phê phán một tác phẩm văn học. Phê bình gia là kẻ, sau khi đọc xong một tác phẩm văn học, có một thái độ chê khen rõ rệt về giá trị của tác phẩm ấy.
Vì văn hóa rất bao la, không ai có thể thông suốt được tất cả, nên phê bình mới có chia ra từng ngành chuyên môn: Phê bình văn chương, lịch sử, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, hay kịch trường...
II. Nhà phê bình có nhiều hạng, nhưng để được đơn giản hơn, xin tạm chia làm hai hạng:
Hạng phê bình nệ nguyên tắc và hạng phê bình tự do.
Nói rằng “tự do” không có nghĩa là phê bình không nguyên tắc, vì không sao phê bình được nếu không dựa vào một nguyên tắc nào, mà thực sự là phê bình không câu chấp theo một nguyên tắc nhất định tuyệt đối nào cả, một cách máy móc.
Nói đến phê bình nệ nguyên tắc, là muốn ám chỉ hạng nhà phê bình mà tiếng Pháp gọi là “critiques dogmatiques”. Đó là những nhà phê bình có sẵn một mớ nguyên tắc tiên thiên “mẫu” về văn chương cũng như về tư tưởng một chiều và tuyệt đối, nghĩa là họ đã có sẵn một mớ thành kiến cũ hay mới, hữu thần hay vô thần, duy tâm hay duy vật về luân lý, chính trị, văn chương... dùng làm điển hình. Sự phê bình của họ thường câu chấp hẹp hòi và cuồng nhiệt. Nhân danh một nguyên tắc mà họ xem là lý tưởng tuyệt đối, họ bắt buộc mọi người cùng ở trong một khuôn khổ hoạt động tư tưởng và tình cảm như họ, nếu có ai đi lạc ra ngoài khuôn khổ ấy, sẽ bị họ “chỉnh huấn” lại, và bị đàn hặc lên án, không tiếc lời mạt sát.
Lối phê bình này mà đi quá độ là lối phê bình của các nhà văn mà bao giờ cũng lấy “nghệ thuật vị nhân sinh”, “duy vật sử quan”, “giai cấp đấu tranh” làm tiêu chuẩn. Họ làm cái việc của anh chàng Procuste trong thần thoại Hy Lạp. Procuste là một tướng cướp rất lợi hại và vô cùng độc ác. Y có một cái giường mà người ta gọi là “giường của anh Procuste” (lit de Procuste). Bất cứ bắt được tù nhân nào, anh cũng đem đặt lên giường ấy: Nếu vừa vặn thì được, trái lại, nếu dài thì bị chặt bớt đi, còn nếu ngắn hơn thì bị kéo dài ra cho đúng với khuôn khổ. Bởi vậy, có một số phê bình gia thích dùng thủ đoạn kém lương thiện nầy là chuyên môn cắt xén đoạn mạch của bài văn hoặc câu văn để bắt tác giả nói lên những gì họ không có nói, để mà mỉa mai, chế nhạo, để mà xuyên tạc vu cáo và lên án đàn hặc.
Phần đông những nhà “phê hình nệ nguyên tắc” nầy đều có một số tác phẩm nào, hay một lý thuyết nào mà họ cho là hoàn toàn lý tưởng dùng làm điển hình tuyệt đối, nghĩa là họ không thể chấp nhận có được một quan niệm nào khác. Và mỗi khi nghiên cứu một tác phẩm nào mới ra đời, họ đem ra so sánh với những tác phẩm điển hình ấy, ký chú những dị đổng, rồi đem ra sắp xếp thành hạng loại và phê phán.
Những nhà phê bình nầy thường có những phê phán của một vị quan tòa xử án, của một giám khảo chấm thi để kiểm soát sự hiểu biết của thí sinh có thuộc lòng bài vở trong chương trình hay không, để rồi cho điểm thứ.
Nhà phê bình nệ nguyên tắc thường hay lấy sự ưa thích riêng của mình để chống đối lại sự ưa thích riêng của kẻ khác. Hoặc vì tính khí, hoặc vì bị giáo dục, bị ảnh hưởng của học thuyết nầy học thuyết nọ, họ có những hiếu ố cá nhân rất hẹp hòi câu nệ. Là vì họ có một cái vốn văn hóa rất kém, thiếu chiều rộng, nên họ không thể thưởng thức nổi những gì họ không ưa thích. Họ thường là những chiến sĩ hẹp hòi mù quáng của một chủ nghĩa hay lý thuyết nào. Tuy bị gò bó trong những thành kiến triết học hay chính trị, nhưng lắm khi nhờ đó họ cũng có can đảm thoát ly khuôn sáo của thời đại, vượt lên xa nhãn thức lầm lạc hẹp hòi của những kẻ đồng thời và dám nhìn việc đời một cách sâu xa bao quát hơn, nhờ biết suy nghĩ theo một hệ thống tư tưởng cao siêu và cách mạng.
Nhà phê bình nệ nguyên tắc cần phải nhớ kỹ điều này: Đời là một cuộc biến chuyển bất tận (không biết phải thật là một cuộc tiến hóa bất tận chăng, nhưng chắc chắn là một cuộc chuyển biến mới lạ mãi. Như vậy, nhà văn là kẻ sống trong dòng nước chảy và chảy mãi không ngừng. Như vậy, đừng ràng buộc họ phải lưu lại ở một bến nào.
Nhà phê bình tự do, không phải là nhà phê bình không nguyên tắc, mà là nhà phê bình ít bị nô lệ theo một nguyên tắc nhất định tuyệt đối nào cả. Họ là người có một cái vốn học thức cực kỳ rộng rãi, có một đầu óc tương đối, nhìn thấy được tất cả bề mặt bề trái của sự đời. Phê bình của họ là lối phê bình tương đối có tính cách lịch sử.
Họ không phải là vị quan tòa xử án theo một đạo luật hình thức nào, theo một tiêu chuẩn truyền thống tư pháp nào. Họ không phải là một vị giám khảo như những vị giám khảo của một cuộc thi giải thưởng văn chương mà nơi đây thể thức đã được quy định trước, để tuyên truyền hay để phê phán, lên án một chính kiến nào... Guy de Maupassant có nói: “Nhà phê bình xứng đáng với danh từ cao đẹp của nó phải là người không thuộc về khuynh hướng nào cả, không có những ưa thích riêng tư nào cả, không thiên kiến gì cả, và như nhà chuyên môn xem tranh, họ chỉ đánh giá các bức tranh theo giá trị nghệ thuật của mỗi thứ. Sự thông hiểu của họ thật rộng rãi, họ có thể tạm thời quên hẳn cá tính của họ, cái bản ngã của họ với tất cả tấm lòng ưa ghét riêng tư của họ để mà thẩm định cái chân giá trị của những tác phẩm mà họ phê bình.”
I. “Phê bình, dễ; nghệ thuật, khó”[19]. Nói thế có đúng, mà cũng có sai. Đúng, là khi người ta phê bình theo lối các nhà phê bình cẩu thả, thiếu lương tâm, phê bình theo cao hứng của lòng ưa ghét tự nhiên: Hễ thuận với trình độ hiểu biết của mình thì cho là đúng, nghịch với trình độ hiểu biết của mình thì cho là sai. Sai, là muốn xứng đáng là nhà phê bình, phải là một kẻ sành sỏi trong nghề viết văn, một bậc “thầy”, hay ít ra là một người bạn đồng tài với tác giả mà mình muốn phê bình. Phê bình ở đây cũng ngang hàng với sáng tác.
Phê bình văn học là nghệ thuật phê phán một tác phẩm văn học. Phê bình gia là kẻ, sau khi đọc xong một tác phẩm văn học, có một thái độ chê khen rõ rệt về giá trị của tác phẩm ấy.
Vì văn hóa rất bao la, không ai có thể thông suốt được tất cả, nên phê bình mới có chia ra từng ngành chuyên môn: Phê bình văn chương, lịch sử, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, hay kịch trường...
II. Nhà phê bình có nhiều hạng, nhưng để được đơn giản hơn, xin tạm chia làm hai hạng:
Hạng phê bình nệ nguyên tắc và hạng phê bình tự do.
Nói rằng “tự do” không có nghĩa là phê bình không nguyên tắc, vì không sao phê bình được nếu không dựa vào một nguyên tắc nào, mà thực sự là phê bình không câu chấp theo một nguyên tắc nhất định tuyệt đối nào cả, một cách máy móc.
Nói đến phê bình nệ nguyên tắc, là muốn ám chỉ hạng nhà phê bình mà tiếng Pháp gọi là “critiques dogmatiques”. Đó là những nhà phê bình có sẵn một mớ nguyên tắc tiên thiên “mẫu” về văn chương cũng như về tư tưởng một chiều và tuyệt đối, nghĩa là họ đã có sẵn một mớ thành kiến cũ hay mới, hữu thần hay vô thần, duy tâm hay duy vật về luân lý, chính trị, văn chương... dùng làm điển hình. Sự phê bình của họ thường câu chấp hẹp hòi và cuồng nhiệt. Nhân danh một nguyên tắc mà họ xem là lý tưởng tuyệt đối, họ bắt buộc mọi người cùng ở trong một khuôn khổ hoạt động tư tưởng và tình cảm như họ, nếu có ai đi lạc ra ngoài khuôn khổ ấy, sẽ bị họ “chỉnh huấn” lại, và bị đàn hặc lên án, không tiếc lời mạt sát.
Lối phê bình này mà đi quá độ là lối phê bình của các nhà văn mà bao giờ cũng lấy “nghệ thuật vị nhân sinh”, “duy vật sử quan”, “giai cấp đấu tranh” làm tiêu chuẩn. Họ làm cái việc của anh chàng Procuste trong thần thoại Hy Lạp. Procuste là một tướng cướp rất lợi hại và vô cùng độc ác. Y có một cái giường mà người ta gọi là “giường của anh Procuste” (lit de Procuste). Bất cứ bắt được tù nhân nào, anh cũng đem đặt lên giường ấy: Nếu vừa vặn thì được, trái lại, nếu dài thì bị chặt bớt đi, còn nếu ngắn hơn thì bị kéo dài ra cho đúng với khuôn khổ. Bởi vậy, có một số phê bình gia thích dùng thủ đoạn kém lương thiện nầy là chuyên môn cắt xén đoạn mạch của bài văn hoặc câu văn để bắt tác giả nói lên những gì họ không có nói, để mà mỉa mai, chế nhạo, để mà xuyên tạc vu cáo và lên án đàn hặc.
Phần đông những nhà “phê hình nệ nguyên tắc” nầy đều có một số tác phẩm nào, hay một lý thuyết nào mà họ cho là hoàn toàn lý tưởng dùng làm điển hình tuyệt đối, nghĩa là họ không thể chấp nhận có được một quan niệm nào khác. Và mỗi khi nghiên cứu một tác phẩm nào mới ra đời, họ đem ra so sánh với những tác phẩm điển hình ấy, ký chú những dị đổng, rồi đem ra sắp xếp thành hạng loại và phê phán.
Những nhà phê bình nầy thường có những phê phán của một vị quan tòa xử án, của một giám khảo chấm thi để kiểm soát sự hiểu biết của thí sinh có thuộc lòng bài vở trong chương trình hay không, để rồi cho điểm thứ.
Nhà phê bình nệ nguyên tắc thường hay lấy sự ưa thích riêng của mình để chống đối lại sự ưa thích riêng của kẻ khác. Hoặc vì tính khí, hoặc vì bị giáo dục, bị ảnh hưởng của học thuyết nầy học thuyết nọ, họ có những hiếu ố cá nhân rất hẹp hòi câu nệ. Là vì họ có một cái vốn văn hóa rất kém, thiếu chiều rộng, nên họ không thể thưởng thức nổi những gì họ không ưa thích. Họ thường là những chiến sĩ hẹp hòi mù quáng của một chủ nghĩa hay lý thuyết nào. Tuy bị gò bó trong những thành kiến triết học hay chính trị, nhưng lắm khi nhờ đó họ cũng có can đảm thoát ly khuôn sáo của thời đại, vượt lên xa nhãn thức lầm lạc hẹp hòi của những kẻ đồng thời và dám nhìn việc đời một cách sâu xa bao quát hơn, nhờ biết suy nghĩ theo một hệ thống tư tưởng cao siêu và cách mạng.
Nhà phê bình nệ nguyên tắc cần phải nhớ kỹ điều này: Đời là một cuộc biến chuyển bất tận (không biết phải thật là một cuộc tiến hóa bất tận chăng, nhưng chắc chắn là một cuộc chuyển biến mới lạ mãi. Như vậy, nhà văn là kẻ sống trong dòng nước chảy và chảy mãi không ngừng. Như vậy, đừng ràng buộc họ phải lưu lại ở một bến nào.
Nhà phê bình tự do, không phải là nhà phê bình không nguyên tắc, mà là nhà phê bình ít bị nô lệ theo một nguyên tắc nhất định tuyệt đối nào cả. Họ là người có một cái vốn học thức cực kỳ rộng rãi, có một đầu óc tương đối, nhìn thấy được tất cả bề mặt bề trái của sự đời. Phê bình của họ là lối phê bình tương đối có tính cách lịch sử.
Họ không phải là vị quan tòa xử án theo một đạo luật hình thức nào, theo một tiêu chuẩn truyền thống tư pháp nào. Họ không phải là một vị giám khảo như những vị giám khảo của một cuộc thi giải thưởng văn chương mà nơi đây thể thức đã được quy định trước, để tuyên truyền hay để phê phán, lên án một chính kiến nào... Guy de Maupassant có nói: “Nhà phê bình xứng đáng với danh từ cao đẹp của nó phải là người không thuộc về khuynh hướng nào cả, không có những ưa thích riêng tư nào cả, không thiên kiến gì cả, và như nhà chuyên môn xem tranh, họ chỉ đánh giá các bức tranh theo giá trị nghệ thuật của mỗi thứ. Sự thông hiểu của họ thật rộng rãi, họ có thể tạm thời quên hẳn cá tính của họ, cái bản ngã của họ với tất cả tấm lòng ưa ghét riêng tư của họ để mà thẩm định cái chân giá trị của những tác phẩm mà họ phê bình.”
Voltaire, trong quyển Dictionnaire Philosophique, cũng có nói: “Nhà phê bình hay nhất là một nghệ sĩ có học nhiều và có nhãn thức rộng không thành kiến, cũng không tật đố. Như thế cũng khó mà tìm ra được rồi!”
Tóm lại, nhà phê bình tự do là người tìm hiểu và cố làm cho kẻ khác cùng hiểu, nghĩa là họ là người có một cái tài thông cảm đặc biệt, biết ra khỏi con người của mình và thoát khỏi cái bản ngã bẩn chật cùng thành kiến và lòng ưa ghét riêng mình để hiểu biết những cái hay, cái dở của kẻ khác qua tác phẩm của họ. Như vậy, nhà phê bình này phải có một khiếu lịch sử, nghĩa là một đầu óc hiểu biết vượt thời gian và không gian, không thuộc người của một nước nào, một dân tộc nào, của một thế hệ hay thời buổi nào.
Ngoài hai hạng trên, lại còn có một hạng mà tôi cho là ngoại hạng vì họ không có một lý thuyết nào rõ ràng vững chắc, họ lại cũng không có tài thông cảm và vượt lên trên mọi học thuyết tư tưởng.
Họ là hạng lầm lẫn phê bình với chống đối. Họ là hạng tật đổ, hạng bất tài chuyên dùng những thủ đoạn tiểu nhân xuyên tạc, chê dè kẻ khác để nâng cao mình lên. Họ là hạng bị tự ti mặc cảm: Bất cứ một nhà văn nào có tên tuổi hoặc có tài ba hơn họ, đều bị “nọc độc” và “búa rìu” của họ. Nếu là cùng bè, cùng nhóm thì họ khen đáo khen để; trái lại nếu không là bè phái thì họ tìm đủ thủ đoạn để dìm xuống tận bùn lầy. Những nhà phê bình này tai hại không nhỏ đối với nền văn học nước nhà đang phôi thai.
Không riêng gì ở nước nhà, và cũng không riêng gì ở đâu và ở thời buổi nào, hạng phê bình gia này là những tai họa thường xuyên mà không một nhà văn nào tài hoa trên thế giới lại thoát khỏi nanh vuốt của họ. Trước đây, tôi có lần nhắc đến Napoléon đệ nhất đã dùng biện pháp nào chặn đứng lại bọn họ: “Những tờ báo hiện nay lại không phải phê bình để làm cho người ta chán cái dở, ưa cái hay, ghét cái xấu, ưa cái tốt, không phải phê bình để hướng dẫn những kẻ còn thiếu kinh nghiệm, nâng đỡ khuyến khích những tài năng chớm nở, để phục hổi danh dự xứng đáng cho những tác phẩm đứng đắn mà bị chìm trong sự lạnh lùng và quên lãng của dân chúng; tất cả những gì họ phê bình đểu để làm nản chí, để mà phá hoại”.
Montesquieu, tác giả Vạn Pháp Tinh Lý, cũng phải mất bình tĩnh đối với họ: “Về những nhà văn thiếu tài kích bác tôi kia, tôi xin nói: Tôi là cây sồi to, dưới gốc có những con cóc bò đến để phun nọc độc của chúng”.
Chateaubriand thư cho bà de Stael thân mật bảo: “Sách của bà sắp được xuất bản, thế là bà lại sắp chịu một cơn dông tố dữ tợn”. Đó là ông muốn ám chỉ sẽ bị các nhà phê bình đang chực để mà mạt sát.
Racine, tâm lý hơn, nói: “Tất cả những bài phê bình ấy là của bốn năm nhà văn bất tài bất hạnh, tự mình không làm sao được người ta chú ý đến. Họ chờ cơ hội có một quyển sách nào thành công để xúm nhau công kích. Tuyệt nhiên không phải vì tật đố. Họ căn cứ vào đâu để được ganh tị chứ? Họ làm thế với lòng mong ước sẽ được người ta trả lời, và nhờ thế họ sẽ được đưa ra ánh sáng, vì bấy lâu nay sách vở của họ đã dìm họ mãi suốt đời trong bóng tối.”
Gustave Flaubert nói: “... Cần gì phải để ý đến những tiếng kêu ré của những con sáo ấy? Thật mất thời giờ để đọc những nhà phê bình (...) Tôi đã có đủ sức để chứng minh trong một luận đề rằng từ trước chưa có một bài phê bình nào ra hồn, rằng việc đó không lợi ích gì cho ai cả, mà chỉ cốt để quấy rầy tác giả và làm u mê người đọc, rằng người ta sở dĩ đi làm nhà phê bình khi nào người ta không làm văn nghệ được, cũng như khi người ta không làm được chiến binh, người ta đi làm cái nghề điểm chỉ.”
Shelley thì cho rằng: “Một nhà văn thất bại biến thành một nhà phê bình, cũng như một tay đi ăn trộm thất bại biến thành một tay đi bắt trộm”. William Shenstone lại nói: “Rượu lạt để lâu ngày biến thành giấm; nhà thơ thất bại trong nghề thường lại dễ biến thành những nhà phê bình chua chát”.
Jules Payot, trong quyển Le Travaiỉ Intellectuel et la Volouté, có viết: “Tôi có thể quả quyết rằng, về phần tôi, tôi đã đọc có trên mấy trăm bài phê bình sách của tôi, nhưng trừ vài ba bài có tính cách ngoại lệ, hầu hết đều chứng tỏ rằng chưa có một ai đọc kỹ sách tôi. Bởi vậy Herbert Spencer đến phải cấm nhà xuất bản của ông không cho gởi sách của ông cho các nhà báo (...). Họ (các nhà phê bình) vì phải đọc hối hả một quyển sách mà có khi công phu xây dựng có trên vài ba mươi năm, lại chỉ được đọc qua loa trong vài tiếng đồng hồ (...) Thay vì sáng tác, họ đi làm cái việc phê bình những sáng tác của kẻ khác và cũng không sao dẹp nổi lòng ganh tị ngấm ngầm của họ. Cái tính đố kỵ ấy, ngay nhà phê bình Sainte Beuve cũng còn mắc phải: Ông ta chỉ thích khen những nhà văn tầm thường, mà đối với các bậc anh tài thì ông tỏ ra rất hằn học chua chát”.
Mark Twain, trong quyển Tiểu Sử Tự Thuật của ông, lại còn đi quá xa, đến nỗi dám hạ một câu vô cùng cay độc này: “Cái nghề phê bình về văn thơ nhạc kịch là cái nghề hèn hạ nhất trong tất cả các nghề”.
Tại sao lại có hiện trạng xấu xa bỉ ổi ấy, mà phần đông nạn nhân đều là những bậc tài hoa như Racine, Montesquieu, Gustave Flaubert, Disraeli, Guy de Maupassant, Shelley, MarkTwain...?
Dale Carnégie trong quyển How To Stop Worrying có nói: “Địa vị càng cao bao nhiêu, thì đời càng thích mạt sát bấy nhiêu. Ông Hoàng xứ Galles, bây giờ là công tước Windsor... khoảng 14 tuổi, đang học trường Hải quân Dartmouth ở Devonshire. Một hôm, các sĩ quan thấy ông khóc, liền hỏi duyên cớ. Mới đầu ông giấu, sau ông thú rằng bị các bạn học đá đít. Sĩ quan hiệu trưởng bèn quở rầy bọn kia và bảo họ rằng hoàng tử không mách, nhưng ông muốn hiểu tại sao họ không đá đít những học sinh khác mà lại nhè hoàng tử mà xử như vậy?... Họ thú rằng họ làm vậy là để sau này giữ chức thuyền trưởng trong hải quân của Hoàng gia họ có thể khoe rằng hồi nhỏ đã đá đít Hoàng đế. Ông lại nói: “Schopenhauer trước kia đã viết: “Những kẻ hèn kém thấy thỏa thích vô cùng khi họ vạch ra được những lỗi lầm cùng những tật nhỏ của hạng người xuất chúng”.
Muốn trở thành một nhà phê bình đứng đắn, cần nên tránh xa lối phê bình ganh tị này do “tự ti mặc cảm gây ra”. Sainte Beuve một phê bình gia trứ danh của văn học giới Pháp, có một sức học rất rộng, một nhãn thức sâu sắc tinh tế, dẫn đầu một cuộc cách mạng về một nghệ thuật phê bình thế kỷ thứ 19, thế mà cũng không tránh được lòng ganh ghét, nhỏ nhen, thiên lệch, ích kỷ trước sự thành công rực rỡ của những bè bạn của ông mà một số tác phẩm phê bình của ông đã đánh giá sai lầm về Musset, Balzac, Stendhal, Baudelaire... Thật đáng tiếc không biết chừng nào!
Tóm lại, nhà phê bình tự do là người tìm hiểu và cố làm cho kẻ khác cùng hiểu, nghĩa là họ là người có một cái tài thông cảm đặc biệt, biết ra khỏi con người của mình và thoát khỏi cái bản ngã bẩn chật cùng thành kiến và lòng ưa ghét riêng mình để hiểu biết những cái hay, cái dở của kẻ khác qua tác phẩm của họ. Như vậy, nhà phê bình này phải có một khiếu lịch sử, nghĩa là một đầu óc hiểu biết vượt thời gian và không gian, không thuộc người của một nước nào, một dân tộc nào, của một thế hệ hay thời buổi nào.
***
Ngoài hai hạng trên, lại còn có một hạng mà tôi cho là ngoại hạng vì họ không có một lý thuyết nào rõ ràng vững chắc, họ lại cũng không có tài thông cảm và vượt lên trên mọi học thuyết tư tưởng.
Họ là hạng lầm lẫn phê bình với chống đối. Họ là hạng tật đổ, hạng bất tài chuyên dùng những thủ đoạn tiểu nhân xuyên tạc, chê dè kẻ khác để nâng cao mình lên. Họ là hạng bị tự ti mặc cảm: Bất cứ một nhà văn nào có tên tuổi hoặc có tài ba hơn họ, đều bị “nọc độc” và “búa rìu” của họ. Nếu là cùng bè, cùng nhóm thì họ khen đáo khen để; trái lại nếu không là bè phái thì họ tìm đủ thủ đoạn để dìm xuống tận bùn lầy. Những nhà phê bình này tai hại không nhỏ đối với nền văn học nước nhà đang phôi thai.
Không riêng gì ở nước nhà, và cũng không riêng gì ở đâu và ở thời buổi nào, hạng phê bình gia này là những tai họa thường xuyên mà không một nhà văn nào tài hoa trên thế giới lại thoát khỏi nanh vuốt của họ. Trước đây, tôi có lần nhắc đến Napoléon đệ nhất đã dùng biện pháp nào chặn đứng lại bọn họ: “Những tờ báo hiện nay lại không phải phê bình để làm cho người ta chán cái dở, ưa cái hay, ghét cái xấu, ưa cái tốt, không phải phê bình để hướng dẫn những kẻ còn thiếu kinh nghiệm, nâng đỡ khuyến khích những tài năng chớm nở, để phục hổi danh dự xứng đáng cho những tác phẩm đứng đắn mà bị chìm trong sự lạnh lùng và quên lãng của dân chúng; tất cả những gì họ phê bình đểu để làm nản chí, để mà phá hoại”.
Montesquieu, tác giả Vạn Pháp Tinh Lý, cũng phải mất bình tĩnh đối với họ: “Về những nhà văn thiếu tài kích bác tôi kia, tôi xin nói: Tôi là cây sồi to, dưới gốc có những con cóc bò đến để phun nọc độc của chúng”.
Chateaubriand thư cho bà de Stael thân mật bảo: “Sách của bà sắp được xuất bản, thế là bà lại sắp chịu một cơn dông tố dữ tợn”. Đó là ông muốn ám chỉ sẽ bị các nhà phê bình đang chực để mà mạt sát.
Racine, tâm lý hơn, nói: “Tất cả những bài phê bình ấy là của bốn năm nhà văn bất tài bất hạnh, tự mình không làm sao được người ta chú ý đến. Họ chờ cơ hội có một quyển sách nào thành công để xúm nhau công kích. Tuyệt nhiên không phải vì tật đố. Họ căn cứ vào đâu để được ganh tị chứ? Họ làm thế với lòng mong ước sẽ được người ta trả lời, và nhờ thế họ sẽ được đưa ra ánh sáng, vì bấy lâu nay sách vở của họ đã dìm họ mãi suốt đời trong bóng tối.”
Gustave Flaubert nói: “... Cần gì phải để ý đến những tiếng kêu ré của những con sáo ấy? Thật mất thời giờ để đọc những nhà phê bình (...) Tôi đã có đủ sức để chứng minh trong một luận đề rằng từ trước chưa có một bài phê bình nào ra hồn, rằng việc đó không lợi ích gì cho ai cả, mà chỉ cốt để quấy rầy tác giả và làm u mê người đọc, rằng người ta sở dĩ đi làm nhà phê bình khi nào người ta không làm văn nghệ được, cũng như khi người ta không làm được chiến binh, người ta đi làm cái nghề điểm chỉ.”
Shelley thì cho rằng: “Một nhà văn thất bại biến thành một nhà phê bình, cũng như một tay đi ăn trộm thất bại biến thành một tay đi bắt trộm”. William Shenstone lại nói: “Rượu lạt để lâu ngày biến thành giấm; nhà thơ thất bại trong nghề thường lại dễ biến thành những nhà phê bình chua chát”.
Jules Payot, trong quyển Le Travaiỉ Intellectuel et la Volouté, có viết: “Tôi có thể quả quyết rằng, về phần tôi, tôi đã đọc có trên mấy trăm bài phê bình sách của tôi, nhưng trừ vài ba bài có tính cách ngoại lệ, hầu hết đều chứng tỏ rằng chưa có một ai đọc kỹ sách tôi. Bởi vậy Herbert Spencer đến phải cấm nhà xuất bản của ông không cho gởi sách của ông cho các nhà báo (...). Họ (các nhà phê bình) vì phải đọc hối hả một quyển sách mà có khi công phu xây dựng có trên vài ba mươi năm, lại chỉ được đọc qua loa trong vài tiếng đồng hồ (...) Thay vì sáng tác, họ đi làm cái việc phê bình những sáng tác của kẻ khác và cũng không sao dẹp nổi lòng ganh tị ngấm ngầm của họ. Cái tính đố kỵ ấy, ngay nhà phê bình Sainte Beuve cũng còn mắc phải: Ông ta chỉ thích khen những nhà văn tầm thường, mà đối với các bậc anh tài thì ông tỏ ra rất hằn học chua chát”.
Mark Twain, trong quyển Tiểu Sử Tự Thuật của ông, lại còn đi quá xa, đến nỗi dám hạ một câu vô cùng cay độc này: “Cái nghề phê bình về văn thơ nhạc kịch là cái nghề hèn hạ nhất trong tất cả các nghề”.
Tại sao lại có hiện trạng xấu xa bỉ ổi ấy, mà phần đông nạn nhân đều là những bậc tài hoa như Racine, Montesquieu, Gustave Flaubert, Disraeli, Guy de Maupassant, Shelley, MarkTwain...?
Dale Carnégie trong quyển How To Stop Worrying có nói: “Địa vị càng cao bao nhiêu, thì đời càng thích mạt sát bấy nhiêu. Ông Hoàng xứ Galles, bây giờ là công tước Windsor... khoảng 14 tuổi, đang học trường Hải quân Dartmouth ở Devonshire. Một hôm, các sĩ quan thấy ông khóc, liền hỏi duyên cớ. Mới đầu ông giấu, sau ông thú rằng bị các bạn học đá đít. Sĩ quan hiệu trưởng bèn quở rầy bọn kia và bảo họ rằng hoàng tử không mách, nhưng ông muốn hiểu tại sao họ không đá đít những học sinh khác mà lại nhè hoàng tử mà xử như vậy?... Họ thú rằng họ làm vậy là để sau này giữ chức thuyền trưởng trong hải quân của Hoàng gia họ có thể khoe rằng hồi nhỏ đã đá đít Hoàng đế. Ông lại nói: “Schopenhauer trước kia đã viết: “Những kẻ hèn kém thấy thỏa thích vô cùng khi họ vạch ra được những lỗi lầm cùng những tật nhỏ của hạng người xuất chúng”.
Muốn trở thành một nhà phê bình đứng đắn, cần nên tránh xa lối phê bình ganh tị này do “tự ti mặc cảm gây ra”. Sainte Beuve một phê bình gia trứ danh của văn học giới Pháp, có một sức học rất rộng, một nhãn thức sâu sắc tinh tế, dẫn đầu một cuộc cách mạng về một nghệ thuật phê bình thế kỷ thứ 19, thế mà cũng không tránh được lòng ganh ghét, nhỏ nhen, thiên lệch, ích kỷ trước sự thành công rực rỡ của những bè bạn của ông mà một số tác phẩm phê bình của ông đã đánh giá sai lầm về Musset, Balzac, Stendhal, Baudelaire... Thật đáng tiếc không biết chừng nào!
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore