GÓP NHẶT HOA THƠM.
(2021-11-03, 11:23 AM)tuyetvan Wrote: RS

Ở xứ băc mỹ, con nít đồ chơi nhiều, nhưng lớn lên nó đâu cạn phước 

Con của Vân hồi nhỏ quá chừng đồ chơi, bây giờ thấy nó cũng hạnh phúc bên chồng con

Suytu

Thankyou
Reply
CHÚ ĐẠI BI & "OM MA NI PAD MÊ HUM" CỨU MẮT MÙ LẠI SÁNG.

(Chuyện linh ứng có thật của Ni Sư Thích Nữ Lệ Phát - Trụ trì chùa Châu An).



Tôi là ni sư Thích Nữ Lệ Phát trụ trì chùa Châu An số 498/1/2 Lê Quang Định, Phường 1, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
Xin kể ra đây một sự mầu nhiệm linh ứng có thật 100% về oai thần lực của chú Đại Bi và chú "OM MA NI PAD MÊ HUM", để quý tu sĩ cùng Phật tử trong và ngoài nước khi đọc xong bài viết này sẽ phát tâm trì niệm thần chú để cùng cộng hưởng phước báu của chư Phật.

Tôi xin nói sơ về nguyên nhân nào mà tôi trì chú. Vị đạo sư truyền dạy là ai? Vị đó đạo hạnh như thế nào? Vì muốn học một pháp môn nào, phải chọn vị thầy dạy có tài, có đức, đạo hạnh song toàn, để mình gởi phần linh hồn đúng không quý vị?
"Vào năm 1992, Chân An Tự chúng tôi tiếp một vị tu sĩ từ hải ngoại về. Thầy đến để tặng quà cho một số tăng ni trẻ nghèo hiếu học (gần 30 vị).
Chiếc Honda chở thầy dừng lại. Tôi hồi hộp nhìn xem vị tu sĩ như thế nào? (Lúc đó có rất ít tu sĩ hải ngoại về nước). Một vị ngoại quốc ốm cao, dáng thanh thoát, đầu đội nón tai bèo, chân mang dép da, áo tràng nâu đã bạc mầu sương gió. Thầy là người Pháp sinh tại Việt Nam. Một sự kinh ngạc vô cùng! Nhìn thầy không khác quý cha dòng FRANCISCO khổ hạnh từng ở tại Việt Nam giúp đỡ dân nghèo rất nhiều. Niềm tôn kính xâm chiếm tâm hồn tôi.

Đại đa số quý thầy cô ở nước ngoài về ăn mặc sang trọng không khổ chê, còn vị nầy sao khổ hạnh thế? Thầy trang nghiêm ngồi vào ghế. Sau lời giới thiệu và nói ý định giúp đỡ chư tăng ni đang thiếu thốn để đặng đi học. Thầy đứng lên phát biểu. Lời nói thầy sao mà êm dịu, nhã nhặn, nhắc nhở chư tăng ni trẻ, ráng giữ đạo hạnh tu học, chớ buông giải đãi. Ở nước ngoài tu cực lắm, chớ phải sung sướng gì đâu... Thầy cầm từng phong thư (Một Trăm Ngàn Đồng) trao từng vị.
Thấy hạnh của Thầy khiêm hạ như thế! Sau cuộc họp mặt thân mật, Thầy ra về. Hình bóng vị tu sĩ khổ hạnh nầy làm tôi suy nghĩ mãi. Làm sau hầu chuyện với Thầy một lần để tìm hiểu hạnh tu của vị nầy? Công việc thầy quá bận rộn, không có thời giờ rảnh, biết chừng nào ghé lại đây? Tôi thầm van vái Phật cho con đặng hầu chuyện với vị nầy.
Tự nhiên tuần sau Thầy ghé chùa Từ Quang ban đêm để thăm thầy Nhật Thiện. Thầy muốn ở lại nhưng bên đó khó khăn về chỗ ở, thế là thầy sang Châu An xin ở lại một đêm. Trong khi đại chúng dọn phòng cho thầy, tôi mời thầy ngồi để tìm hiểu về thầy.
Tôi hỏi:
- Bạch Thầy! ở Việt Nam rất khổ, mục đích vượt biên qua Tây Phương để tìm cuộc sống thoải mái cho mình và giúp đỡ người thân. Trái lại nguyên nhân nào Thầy xuất gia vào đạo một cách đại hùng đại lực vậy?

Lúc đó Thầy mới tâm sự một cách chân thật về một quãng đời ấu thơ cho đến khi vượt biên đến xứ người và cuối cùng xuất gia vào đạo.
Thầy nói:
- Tôi nhập thất ba năm, ba tháng, ba ngày, ba giờ ở tu viện Phật giáo Tây Tạng bên Pháp. Mãn kỳ nhập thất tôi đi khắp nơi để thuyết giảng giáo lý mà tâm tôi lại chứng ngộ trong khoảng thời gian mật thất.
Tôi thưa:
- Về tình bạn, Thầy may mắn gặp các vị đạo sư chỉ dạy những gì trong mật thất? Mong Thầy thương những kẻ còn u ám mê mờ, xin Thầy dạy cho. Hoặc sau nầy có tài liệu nào hay về đạo xin thầy gởi cho, để chúng con tham khảo học với.
Thầy gật đầu và nói:
-  Trong mật thất tôi đặng truyền dạy chú Đại Bi và chú OM MA NI PAD MÊ HUM bằng cả tâm lực, và luyện một số động tác Yoga để trợ sức khỏe.

Thầy chỉ dạy tôi cách bắt ấn "Tứ Đại Ngũ Châu” khi trì chú và các phương pháp đặc biệt để mở các Sara. Tôi ghi nhớ bên tai nhưng đầu óc không quan tâm lắm, có ý coi thường câu thần chú đó.
Thầy ở lại Việt Nam vài tháng. Cái hạnh của Thầy không bút mực nào tả hết. Càng gần Thầy mới thấy kính phục, một hạnh Bồ Tát thể hiện thật sự, chớ không phải đầu môi chót lưỡi. Thầy in mấy trăm triệu tiền kinh sách, dẫn đoàn đi khắp nơi để cúng dường. Những chùa xa xôi hẻo lánh cách lộ 1,2,3 cây số, mặt trời nắng chang chang hoặc mưa dầm dề, một mình Thầy tay xách nách mang đi đến đó để cúng dường kinh sách và tiền (khi ấy chúng tôi trong đoàn không ai chịu xuống đi với Thầy, vì nắng mưa, mệt). Một hai tiếng đồng hồ sau Thầy mới lội bộ ra, nhìn Thầy nét mặt hoan hỉ lạ thường. Thầy cười bảo:
- Kinh sách là giáo pháp Phật, phải ban truyền khắp nơi để bá tánh hưởng chung.

Đi đến bất cứ chùa nào nghèo, thiếu thốn gạo ăn, chùa nào thiếu nước uống, cần khoan giếng, nơi nọ cần hồ chứa nước, hoặc chùa bị dột nát, Thầy đều hỗ trợ đúng nhu cầu. Thầy đều nhiệt tâm giúp đỡ đồng bào nghèo khổ đói rách, có bao nhiêu tiền trong túi Thầy lấy ra cho hết, có khi năm bảy chục ngàn có lúc cả trăm ngàn. Khắp nơi nhờ Thầy thuyết pháp. Thầy giảng giáo pháp như tằm nhả tơ. Mọi người nghe xong đều giác ngộ, Thầy cho kinh sách xem đó mà gắng tu.
Tôi nghĩ:
"Vị sư nầy đã đi đúng hạnh từ, bi, hỷ, xả, đạo lực rất thâm hậu. Mình phải bắt chước tu thôi".
Nói thế chớ công việc chùa bận rộn. Rồi Thầy trở về Pháp...

Còn hai tháng rưỡi nữa là đến Tết Quí Dậu (1993), đột nhiên mắt tôi bị đau. Tôi vội vàng đi khám phòng mạch tư Bác Sĩ Kính chuyên khoa về mắt ở dốc cầu Kiêu. Bác sĩ cho uống thuốc và nhỏ, nhưng mắt tôi càng ngày càng nặng thêm, nhức nhối lắm, một chút ánh sáng cũng không chịu nổi. Dù Bác Sĩ khám đi khám lại nhiều lần, thay đổi thuốc liên tục cũng không có khả quan. Cuối cùng Bác Sĩ bảo tôi bị nhiễm si vi trùng rất khó chữa. Việt Nam không có đủ phương tiện, phải đi nước ngoài mới có điều kiện chữa khỏi. Lời tuyên bố của Bác Sĩ làm tôi rụng rời tay chân muốn xỉu.
Tôi ra về với tâm trạng chán nản, đau khổ, tuyệt vọng. Hỡi ơi! Nghiệp báo gì mà nặng nề thế! Nỗi đau đớn này không có bút mực tả hết. Tôi đã khóc rất nhiều, thầm nghĩ tuổi trẻ có làm gì nên tội: 17 tuổi xanh, một nữ sinh Gia Long yêu kiều duyên dáng, đã cắt bỏ mái tóc xanh, trở thành Ni Cô trẻ tại chùa từ năm 1963 có tạo điều gì thất đức với ai đâu? Nghiệp chướng gì mà con trả nặng quá, Phật ơi cứu con!!!
Trong một thoáng kém suy nghĩ tôi định tìm cái chết, bèn bảo đệ tử mua cho được một vỉ thuốc ngủ, đệ tử thấy vậy cũng mua. Buổi sáng tôi cầm vỉ thuốc là đã có quyết định rồi... Thì buổi chiều tôi nhận được tài liệu của thầy Phật Đạo từ Pháp gởi qua. Đệ tử mở ra đọc cho tôi nghe. Đó là bài giảng về thần lực mầu nhiệm của chú Đại Bi và chú "OM MA NI PAD MÊ HUM" do đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng tại Pháp; dịch qua tiếng Việt ngữ do Phật tử Phạm Công Thiện.

Nghe xong tôi bừng tỉnh nghĩ rằng tại sao? Tại sao mình không trì chú? Nhờ oai thần của mật chú vàà Đức Quán Thế Âm cứu mình. Tôi quyết tâm trì chú, nương nhờ thần chú, cầu mong giải nghiệp.
Thế rồi tôi lần mò đi đốt ba cây hương trong bong tối của tịnh thất, đến bàn thờ tổ quỳ tha thiết cầu xin Đức Quán Thế Âm chứng minh con trì chú Đại Bi và chú "OM MA NI PAD MÊ HUM" để giải nghiệp báo thân bệnh hoạn của con. Sau lời nguyện tôi ngồi xếp bằng tay kiết ấn "Tứ Đại Ngũ Châu” mà thầy Phật Đạo chỉ dạy.
Lạ lùng thay, tôi vừa bắt ấn xong thì tay ấn tự nhiên run rẩy, rồi toàn thân tôi cũng rung lên. Tôi sợ quá! bộ mình phạm thượng điều chi đây nên có hiện tượng kỳ lạ nầy? Hôm trước Thầy cũng dạy, mình bắt ấn đâu thấy sao? Tôi liền giật tay ra cũng không thể ra được. Định tâm, suy nghĩ, hay là bắt ấn, Phật chứng cho mình rồi?
Năm phút sau, từ từ thân tôi không còn rung nữa. Tôi bắt đầu đem hết tâm trí ra trì 108 biến chú "OM MA NI PAD MÊ HUM" và 21 biến Đại Bi thần chú. Tiếp dó, tôi quỳ lạy Đức Quán Thế Âm xin thỉnh nước cúng Phật xuống, một ly tôi uống, một ly tôi lau lên mặt và nhỏ vô mắt. Sáng hôm sau, tôi mở mắt ra thì thấy mắt mình bớt nhức rất nhiều...
Bát đầu từ hôm đó, ngày tôi trì chú bốn thời: 8 giờ sáng, 2 giờ chiều, 7 giờ tối, 12 giờ đêm. Làm y như trên qua ngày thứ hai, khi bắt ấn tay tôi không còn thấy run nữa, mắt đã không còn nhức.
Ngày thứ ba, tôi thấy mắt mình vô cùng dễ chịu... Ngày thứ tư, mát tôi nhìn rõ được trong bóng tối. Ôi mầu nhiệm vô cùng! Tôi lại càng nhập tâm trì chú hơn.
Ngày thứ năm, mắt tôi bắt đầu tiếp nhận được ánh sáng ban ngày mà không còn thấy khó chịu như trước, ánh sáng lọt qua mắt dầu nhỏ cũng không thấy lóa mắt.
Qua ngày thứ sáu, tôi hé cửa nhìn được ra bầu trời, thấy đôi mắt dễ chịu hẳn...
Ngày thứ bảy, sau khi tôi trì chú xong, tôi mở cửa bước ra sân nhìn tất cả cảnh vật trong chùa. Ôi! Quá sung sướng! Nỗi vui mừng này không có ngôn từ nào để diễn tả. Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu mạng cứu bệnh con rồi!!! Oai thần lực của thần chú vô cùng mầu nhiệm linh ứng...
Quý Thầy, Sư Cô cùng Phật tử vào thăm ai cũng kinh ngạc trước sự hết bệnh của tôi một cách thần diệu. Đôi mắt tôi tìm lại được ánh sáng và vị ân nhân trợ giúp tôi là Thầy Phật Đạo. Dưới sự gia hộ của Đức Quán Âm mà thầy Phật Đạo đã gửi tài liệu cho tôi đúng thời điểm, đúng lúc khi tôi hoàn toàn tuyệt vọng.
Tôi mong rằng, sau này có cơ hội tôi có thể sang tận trời Âu để đảnh lễ tạ ơn Thầy, cùng chia sẻ niềm vui mừng khôn xiết của kẻ chết đi đặng sống lại. Trên đây là một câu chuyện mầu nhiệm linh ứng về thần chú Đại Bi và chú "OM MA NI PAD MÊ HUM"giải đặng nghiệp chướng... và TÔI ĐÃ HOÀN TOÀN KHỎI BỆNH".
(Ni Sư Thích Nữ Lệ Phát)
Reply
NẾU GẶP RẮN BẠN SẼ LÀM GÌ?
Hạnh Đoan

Có lần vào trang Fb (tên gì tôi quên mất), thấy đăng bài “Rắn vào chùa khi mọi người đang sắp tụng kinh, thế là chú tiểu đập chết con rắn”.
Tôi đọc những lời thiên hạ vô tư bình, mà xót xa:
- chú Tiểu này lanh trí giỏi quá!
- Cho sả ớt gừng là có món ngon…
v.v… và v.v…
Rất nhiều lời comment toàn là khen ngợi,  ủng hộ, hành động sát sinh này, dù trang Fb đó là của Phật tử up bài, đa số thuộc Phật giáo, nhưng do tôi  đọc lướt qua nên tôi không còn nhớ tên fb hay nguồn để chia sẻ.
Theo tôi, chú tiểu này đã không được dạy kỹ và chưa thâm nhập về giới bất sát của Phật, (giới đầu tiên trong ngũ giới dành cho người Phật tử) mà ngay từ thuở tuổi còn bé tí, khi chưa qui y tôi vẫn được gia đình nhắc nhở đến ghi sâu trong óc là : KHÔNG ĐƯỢC GIẾT CON GÌ.
Bây giờ tôi sẽ kể các câu chuyện ( nếu bạn đã biết rồi thì ôn lại vẫn tốt) để nhớ kỹ vì sao mình phải giữ giới không sát sinh nghiêm nhặt.


Chuyện thứ nhất - Ngài Tuyên Hóa kể:
Sáng nay có người ở Việt Nam dẫn hai đứa bé tới gặp tôi, nói sức khỏe chúng không được tốt, mong tôi giúp chúng mọi sự thuận lợi như ý cát tường.
Tôi vừa nhìn đã nhận ra hai đứa bé này thần kinh không bình thường, bèn hỏi chúng có từng sát sinh không? Sau khi mẹ chúng nghe tôi giảng giải một hồi, bà hiểu ra và kể:
Trước đây có một cây đại thọ, lúc họ chặt đi thì thấy dưới cây có hai con rắn, nhưng chúng đã chui vào trong hang.
Lúc đó hai đứa bé này đã lấy nước sôi đổ vào hang cho hai con rắn chết.
Sau việc làm đó, con trai cả của họ tự nhốt mình trong phòng, mấy ngày sau cháu ra ngoài thì phát bệnh thần kinh. Đứa con trai đầu như thế, đứa thứ hai cũng vậy, cả hai đều bị bệnh thần kinh, bà mẹ hi vọng tôi có thể giúp họ hóa giải việc này.
BỆNH NÀY LIÊN QUAN TỚI SÁT SINH. DO HỌ HÀNH XỬ QUÁ TÀN NHẪN, KHÔNG CÓ LÒNG TỪ BI! HAI CON RẮN ĐÃ CHUI VÀO HANG RỒI, THẾ MÀ HỌ CÒN ĐỔ NƯỚC SÔI HẠI CHẾT.
Hai con rắn này vốn là hai anh em, bị họ hại bỏng chết, thì bản thân họ cũng phát bệnh điên.
Nghiệp sát sinh lãnh báo ứng rất nặng. Cứ giết chóc rồi bị báo: hỗ tương sát, hỗ tương báo, đây là việc rất bi thảm của thế giới, dù mọi người không hiểu, không tin là tạo nghiệp sát sẽ phải lãnh ác báo, nhưng chuyện báo thù đền nợ không ngừng xảy ra, tạo thành quốc chiến, tạo thành nghiệp sát hại lẫn nhau! Nghiệp sát càng sâu, tội tạo càng nặng, nên cứ giết chóc mãi không ngừng.
Viết đến đây tôi chợt nhớ hồi tôi mười bốn, gia đình bạn Dung của tôi (ở thôn quê) bán nhà cho bà Thu. Con trai trưởng bà Thu là Dũng, khi đó khoảng mười tám tuổi, nhìn thấy trong khu vườn rậm cỏ có con rắn bò vào, liền đập chết rắn. Do gia đình bạn Dung cũng giữ giới không sát sinh nên thuở giờ, họ không hề giết rắn, và cũng không để ý là có loài rắn hiên diện trong vườn hay không.
Sau khi giết rắn được thời gian, Dũng từ một thanh niên mạnh khỏe giỏi võ bỗng bị bệnh động kinh và trở nên yếu xìu, sống giống phế nhân.
Lúc đó tôi và bạn tôi không hề nghĩ Dũng bị báo ứng, nhưng sau khi đọc câu chuyện ngài Tuyên Hóa vừa kể, tôi đã suy gẫm khá nhiều về vấn đề này.
Tại sao có người giết rắn nhiều mà không thấy bị báo gì, có người giết ít hay mới giết rắn lại bị báo? Đây là tùy thuôc phúc phần, ân oán nợ cũ nhiều ít. Báo ứng tất nhiên là phải có, chỉ đến sớm hoặc muộn mà thôi. Và việc giết nhằm rắn linh hay rắn tu thì báo ứng đến lại càng nhanh và khốc liệt.


Chuyện thứ hai -THẦN RỪNG (1)

Chuyện này xảy ra ở Cà Tum (giáp ranh Cam Bốt-Tây Ninh), từ nhiều năm về trước.
Cô Tám là người chứng kiến toàn bộ sự việc, đã kể lại rằng:
Lúc đó trong xóm cô người ta rủ nhau qua Cam làm mì khô. Nhóm người này gồm mấy thanh niên và phụ nữ.
Trong nhóm có bà Năm tuổi khoảng 60, cũng đi theo để nấu cơm cho mọi người.
Khi họ tới vùng đất (giáp ranh Cam Bốt): Một bên thì có cây cối nhiều, một bên thì có đất trống rất tiện để phơi mì, nên họ dừng lại đóng trú tại đây.
Mới đầu cả nhóm làm việc bình thường.
Một bữa chiều nọ, bà bếp tiến ra phía sau đi tiểu còn đám thanh niên thì ngồi nhậu. Khi ra sau bà bếp vô tình  thấy con rắn đang nằm cuộn tròn trong một cái hốc dưới gốc cây.
Bà bếp liền chạy vô báo cho đám thanh niên hay, các thanh niên liền cầm cây ra bắt và đập chết con rắn. Khi họ lôi con rắn to ra, phát hiện có rất nhiều trứng rắn.
Bà bếp liền ôm nguyên ổ trứng rắn vô bếp luộc và làm thịt con rắn to kia để làm mồi nhậu cho mấy ông thanh niên và bà cũng ăn chung. Chỉ duy có cô Tám là không ăn.
Đến 22 giờ mọi người đi ngủ.
Lúc này không phải mùa mưa nhưng tới nửa đêm thì trời nổi giông bão, mưa to gió lớn kéo tới. Mọi người ngủ ở phía trước, còn bà bếp nằm phía sau. Đang say giấc thì mọi người nghe tiếng “ẦM!” thật to.
Họ liền chạy ra sau thấy phía sau góc nhà có một cây to bị mưa gió xô ngã, cây đổ xuống đè chấn ngay cổ bà bếp khiến bà chết ngay tại chỗ.
Bà bếp chết rồi thì mưa gió liền tạnh.
Mọi người rất sợ, họ vội dở cây lên đem xác bà bếp ra chất lên xe máy cày mini chở về nhà.
Từ rừng về đến làng thông thường chỉ cần đi khoảng hai tiếng là tới, thế nhưng đêm đó họ đi hoài không ra khỏi rừng, cuối cùng cả nhóm phải vái van thần rừng thì họ mới ra được khỏi rừng và  tới quốc lộ. Tính ra họ khởi hành từ ba giờ khuya nhưng đến mười giờ sáng mới về tới làng.
Họ về rồi thì gia đình bà bếp lo khâm liệm, mướn đạo tỳ phụ việc… thì một ông đạo tỳ bỗng bị nhập, khuôn mặt và mắt ông đỏ phừng, ông phẫn nộ chỉ vào nhóm thanh niên làm mì thét lên:
-Tụi bây mất dạy lắm, dám đập đầu con tao. Rồi ông đưa tay chỉ vào xác bà bếp trách mắng:
Còn con mụ này lấy nguyên ổ trứng đem luộc giết hết cháu tao, còn sả thịt con tao làm mồi nhậu…Đáng lẽ tao quật chết tụi bây ngay tại đó…
Hôm nay tao tới  đây đem theo đủ binh lính nè, hiện thời có cả vong hồn con mụ bếp mất nết kia, nó đang bị trói khóc hù hụ xin lỗi um trời mà tao chưa thả ra kìa…
Bây giờ tao tới đây là để quật chết tụi bây!
Nhóm thanh niên giết rắn nghe vậy hoảng hốt bỏ chạy, người dân tới phụ đám tang cũng kinh hoàng bỏ chạy.
Cô Tám liền rượt theo bảo những người phạm tội: Tụi bây có chạy đàng trời cũng không thoát nạn được. Chi bằng nên quay lại xin lỗi, van cầu thần tha thứ cho.
Mọi người liền quay về quỳ lạy, van xin ông thần rừng tha mạng. Hứa sẽ cúng lễ tạ tội…
 Thần nói: Ngay từ đầu con tao không làm hại gì ai, mà các ngươi quá độc ác, tàn nhẫn giết con, cháu tao ăn, nên giờ tao chỉ muốn quật chết các ngươi thôi!
Đám người phạm tội lạy lục xin tha, họ năn nỉ riết, cuối cùng thần đồng ý tha lỗi và cấm họ từ đây không được giết chóc tàn nhẫn rồi thần xuất ra.
Mọi người liền mua đồ cúng lễ tạ lỗi thần..
xong đám tang họ cũng mang lễ phẩm tới gốc cây nơi chỗ giết rắn mà lạy tạ lỗi.

Chuyện thứ Ba-RẮN NGHE PHÁP
Ngày Chủ nhật, 20 tháng 6 năm 1982, đúng lúc cử hành Pháp lễ trên đường đến chánh điện đại chúng phát hiện có một con rắn lục có vằn nằm ngay nơi cửa trước Ðại điện, dài khoảng ba bốn bộ, hình dạng rất nhỏ và dài.  Mọi người sợ không dám tiến vào. Vị Tăng giám thị là Thầy Hằng Vô, định đem con rắn vứt ra ngoài. Lúc đó ngài Tuyên Hóa  cũng đang tiến lại, Sư phụ mỉm cười bảo: "Không cần làm vậy, tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, con rắn tới là để thân cận Tam Bảo, vì muốn nghe Pháp, ta không nên đuổi nó!"
Kỳ lạ thay con rắn này không giống như những con rắn bình thường khác, mình nó trườn dài ra mặt đất, tuy có trăm người bước qua mình, mà nó không có sợ hãi gì cả, nó hết sức thuần thục và hiền lành. Khi Hòa thượng lên đài thuyết Pháp thì Ngài dạy rằng: "Kêu con rắn đó vào đây mà nghe Pháp đi." Con rắn nghe như vậy thì lập tức tiến vào, nó bò từ từ vào đến ngay giữa Chính điện không hề làm kinh sợ những người hai bên, rồi từ nơi Ðại điện ở phía trái nó bò qua bên phải, rồi mới nhiễu quanh tượng Phật một vòng, xong từ từ nằm phục xuống ở Pháp tòa, cũng giống như là quỳ trước tượng Phật vậy, nằm im nghe Pháp. Hòa thượng mới khai thị cho nó như vầy:
Tất cả chúng sinh
Đều có Phật tính
Đều có thể thành Phật.
Hòa thượng giải thích:
Hôm nay con rắn mà các vị gặp ở Phật điện cũng là một chúng sinh. Song do nó thị hiện thân rắn, nên chúng ta thấy sợ, thấy mà không nhận thức, thậm chí còn bị lừa nữa. Rắn này tới đây chỉ để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, nghe Kinh, nếu không vậy thì sao nó vào đây mà hết sức hiền hòa, nằm phủ phục chẳng động đậy gì cả nơi bục cửa?
Tuy nhiên, lấy mắt nhìn thì nó chỉ là con rắn nhỏ; kỳ thật rắn này có sức thiên biến vạn hóa; có thể ẩn hình, có thể thu nhỏ, biến lớn, lại biết đằng vân giá vũ, bay qua lượn lại trong không trung. Chúng ta không thể biết được bản lĩnh của nó. Rắn này tương lai tu hành thành công cũng sẽ đắc Ðạo. Phật kinh có đề cập tới Thiên Long Bát Bộ, thì rắn này thuộc một trong tám bộ đó: tức là Ma Hầu La Già (Ðại mãng xà).
Có lần trong Vạn Phật Ðiện có một vị Tỳ Kheo Ni nói rằng: "Mấy ngày trước, khi đi ngang qua Ðại Hỷ Xả Viện tôi thấy đuôi con rắn này thò ra ngoài, cho nên tôi lấy cây gắp bỏ vô hộp gỗ, định đem đi xa rồi thả để nó đừng gây hại người. Ai ngờ chỉ quay đầu lại, mở hộp ra thì rắn đã biến mất rồi. Rõ ràng rắn không cách gì có thể thoát ra được, nhưng lạ thay, thật là nó có thần thông."


Chuyện thứ Tư:- ÔNG TỔ THẦN RẮN (2)

Khang là con dì hai sống bên quê vợ ở  Long an, làm nghề điện lạnh tiệm rất khá. Anh còn ký hợp đồng bảo trì, gắn máy, bơm gas... với bên Điện Máy Xanh nên lịch làm việc dày đặc.
Hôm đó anh thấy trong cục máy lạnh cũ có năm sáu con rắn lục làm tổ, anh lôi ra đập chết và làm mồi nhậu cùng bạn bè và lính mình ngay tối đó.
Hôm sau anh đi bảo trì máy lạnh cho khách.
Do cục nóng treo trên cao, mới đầu nhân viên của anh xem không sao, nhưng tới khi anh lên xem thì bị té nặng, đến nổi sập cả mái hiên nhà người.
Anh được chở đến bệnh viện, bác sĩ khám thấy anh không sao bèn cho về nhà.
Nhưng khuya đó anh lên cơn co giựt giữ, vợ sợ quá vội đưa anh đi cấp cứu.
Mới đi được một đoạn thì vợ Khang nhận điện thoại dì mình, bảo phải gọi cho ngoại khang gấp.
Dì bảo mình nhìn thấy lúc đưa Khang ra xe, đứng kế bên Khang co hai vong nam trẻ, dì không biết họ theo hại hay giúp? Nên thúc hối  phải gọi cho bà ngoại của Khang ngay
Ngoại khang theo đạo Cao Đài và ăn chay trường. Bà có hai con trai đã chết, thỉnh thoảng nếu được khẩn cầu thì họ sẽ về nhập xác bà làm từ thiện, trị các bịnh cho dân…
Trước khi Khang té bà ngoại đã mơ thấy khang bị tai nạn. Lòng rất sợ nên ngày nào bà cũng tụng kinh cầu cho Khang bình an.
Khi bà hay tin khang té, bà liền thắp hương cho hai con trai, cầu xin con mình hãy phù hộ cho Khang, thì ngay lúc này bà bị thành phần vô hình nhập vào, xưng là ông Tổ thần rắn lục, nói rằng:
Ta thấy Khang có hiếu, gia đình  nhà các ngươi biết tu nên ta cho đệ tử vào chỗ Khang ở để tu tập và hộ khang làm ăn. Các ngươi có bao giờ thấy cục nóng của máy lạnh có rắn ở không? Nhưng ta đã cho lũ đệ tử rắn vào ở để tu và phù hộ Khang phát tài (đúng là Khang công việc rất đắt khách, càng làm càng phát) vậy mà tên Khang ngu si lại tàn nhẫn giết đệ tử ta làm mồi nhậu.
Vì vậy mà lúc nó trèo lên sửa cục nóng, ta đã xô nó té. Đáng lẽ là để cho nó chết, nhưng do ngoại nó cả tuần nay ngày đêm luôn cầu nguyện cho nó nên ta chưa nỡ bắt, song hiện thời hai đệ tử ta đang túc trực trong bệnh viện kè kè theo nó…
Mẹ Khang  nghe vậy kinh hoảng, liền lạy lục van xin  ông tổ thần rắn tha mạng con mình, hứa sẽ lập bàn thờ cúng lễ và đợi Khang bình phục sẽ bắt khang lạy tạ lỗi, xin thần tha mạng.
Thần nói:
-Được, ta thấy tội nên tha, ta sẽ kêu đệ tử về, nhưng kể từ đây nếu Khang mà giết một con rắn nào nữa thì ta sẽ bắt mạng nó ngay lập tức.
Ông Tổ thần rắn vừa xuất ra thì cậu của Khang nhập vào xác bà ngoại Khang,  nói với mẹ Khang:
 Chị Hai! Là em đỡ cho Khang lúc nó bị thần xô té đó, nếu không thì Khang chết rồi, vì uy lực của ông tổ thần rắn này rất mạnh.
Khang ngu dữ quá! Chị nhớ nhắc nó từ đây không được giết rắn, không được ăn thịt rắn nữa.
Sau đó khang lành mạnh lại. Các bác sĩ trong bệnh viện thấy Khang đang bịnh nặng mà tự dưng hồi phục nhanh chóng ai cũng ngạc nhiên.
Khang sau khi về nhà đã lập tức cúng lễ tạ lỗi với thần rắn và các con vật mình giết. Kể từ đó khang không dám sát sinh nữa.
Xem xong các chuyện này, bạn nghĩ mình có nên giết rắn hay không?
Phụ lục lời khuyên của Chu an sĩ:
Người đời đều cho rằng rắn là loài hại người, cứ sợ không giết được hết, Thậm chí còn cho rằng nếu mình không giết chết rắn, e  sẽ lưu họa về sau.
Thế nhưng họ không xét kỹ rằng: Hành vi giết chết rắn chẳng phải là họ tự gieo thù chuốc oán thêm sâu nặng hay sao?
Do người ta hiểu biết quá nông cạn, họ chỉ thấy trong hiện kiếp chứ không rõ chuyện đời sau, nên mới nảy sinh quan niệm cho rằng: Mọi việc chỉ xảy ra trong một đời này thôi.
Nếu rắn làm hại bạn, ắt bạn đã có gieo nhân xấu từ đời trước.
Nếu không có ác nhân đời trước, chắc chắn rắn sẽ không hại bạn, cần gì phải  lo xa sợ rắn làm hại mà ra tay giết nó?
Giả như rắn có muốn hại bạn, thì cũng không nên giết nó.
 Vì  do đời trước Rắn bị bạn làm hại, nên đời này nó mới tìm đến trả thù, nếu bạn giết nó thì oán hận đời trước nó chưa báo được, lại bị bạn gieo thêm oán thù đời này. Thế chẳng phải là bạn đang tạo nhân để được lãnh tiếp tai họa hai đời chồng chất hay sao?
Vì vây bạn nên suy xét kỹ, đừng gieo nhân ác, đừng sát sinh. Nếu bạn cứ sát sinh, một khi ác báo ập tới, bạn sẽ không trốn được. Lúc đó đừng than: Tôi sống hiền lành mà tại sao cứ bị gặp hoạ? Thật sự bạn không hiền, vì nếu hiền, bạn đã không sát sinh tàn nhẫn.

(1) và (2) là Viết theo lời My Su kể
Reply


Reply
TIN HIỂU NHÂN QUẢ.


Thọ mạng quý vị vốn là 100 tuổi, nhưng vì làm điều bất chánh nên mới ba bốn mươi tuổi đã hưởng hết, phải ra đi. Vì sao không giữ phước báo lại để hưởng từ từ, mà lại hưởng hết nó trong vài ngày?
"Người người tin nhân quả, chính là đạo đại trị của thiên hạ. Mọi người không tin nhân quả, là nguyên nhân đại loạn của thiên hạ”. Hai câu này nói quá tuyệt.
Suốt đời ngài Ấn Quang làm công việc này, khiến hàng hậu nhân chúng ta xem được có thể tỉnh ngộ. Muốn cứu thiên tai trước mắt của xã hội, phải làm sao? Hiểu rõ nhân quả, thiên tai sẽ được hóa giải, tuyệt đối không dám làm việc xấu nữa.
Trong Thập Thiện Nghiệp Đạo nói sát đạo dâm, có dám phạm chăng? Không dám phạm, vì sao vậy? Vì giết người phải đền mạng. Hiện nay nhiều thiếu nữ tùy tiện đi nạo phá thai, nếu họ hiểu rõ về nhân quả sẽ sợ hãi không dám làm. Một lần nạo phá thai là nợ một mạng người, quý vị nợ họ một mạng, tương lai phải trả cho họ. Phá thai hai lần thì phải trả hai mạng, không phải là không sao. Người thông linh nhìn thấy, thấy sau lưng quý vị có hương linh nhỏ đi theo, quý vị không sợ được chăng? Dùng thủ đoạn không chính đáng mưu đoạt tài vật của người khác, tất cả đều phải trả lại tiền. Bởi thế người hiểu được nhân quả tâm luôn bình đẳng, thanh tịnh, họ rất rõ ràng.
Người ở thế gian có thiệt thòi chăng? Không có, có chiếm được lợi ích chăng? Cũng không có. Cổ nhân nói: “thiệt thòi là phước”. Chiếm được lợi ích rồi cũng phải trả lại, vậy thì quý vị chiếm được lợi ích gì? Đời sau khi trả nợ phải trả luôn phần tiền lời, nên người hiểu nhân quả sẽ không dám tái phạm.
Hôm nay quý vị làm quan, phát tài lớn là số mạng quý vị có. Nếu số mạng không có, vì sao người khác không phát tài, người khác không làm quan lớn, vì sao quý vị làm? Đây là nhân quý vị tu được trong đời quá khứ, đời này cảm ứng được quả báo, không có gì khác. Đã là trong số mạng có, vấn đề này đọc Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ rõ ràng minh bạch. Bởi thế Ấn Quang đại sư ấn tống sách Liễu Phàm Tứ Huấn rất nhiều, mấy chục vạn cuốn, trong sách nói rõ về đạo lý này. An phận giữ mình, thời tiết nhân duyên thành thục, phú quý tự nhiên đến, quả báo liền hiện tiền. Dùng thủ đoạn không chánh đáng để âm mưu đạt được, cũng đạt được, đạt được vẫn là của quý vị. Ví dụ nói phước báo của quý vị có thể hưởng thụ được 100 năm, dùng thủ đoạn bất chính đạt được, khiến phước báo 100 năm ta chưa hưởng hết đều tiêu tan hết, mới mười hai mươi năm ta đã dùng hết rồi, số mạng không còn nữa. Hết rồi phải làm sao? Không còn, thọ mạng liền đến. Thọ mạng quý vị vốn là 100 tuổi, nhưng vì làm điều bất chánh nên mới ba bốn mươi tuổi đã hưởng hết, phải ra đi. Vì sao không giữ phước báo lại để hưởng từ từ, mà lại hưởng hết nó trong vài ngày? Quý vị là người thông minh, người có trí tuệ đó chăng? Cổ nhân nói: “hết lộc thì người chết”, thọ mạng ta vốn chưa hết, nhưng lộc đã tận, nghĩa là chúng ta đã hưởng hết tài phú trong số mạng của mình, đạo lý chính là như vậy.
Người có phước báo lớn như các bậc đế vương ngày xưa, họ có thể hưởng phước được bao nhiêu năm? Hưởng được mấy trăm năm, quý vị nói phước họ tích lũy được sâu dày biết bao, con cháu mấy mươi đời cũng hưởng không hết phước. Người bây giờ không hiểu nhân quả, không xem những cuốn sách này, cho rằng chết là hết. Chết là hết thì còn gì tốt hơn, con người cần gì phải cực khổ như thế? Thực tế mà nói, hiểu được nhân quả mới biết sau khi chết thật đáng sợ, phiền phức không thể tả! Nếu tạo nghiệp bất thiện thì đến địa ngục, đến ngạ quỷ để chịu tội, khi chịu hết tội lại sanh đến nhân gian để trả nợ. Nợ mạng trả bằng mạng, nợ tiền trả tiền, đến lúc đó quả là đáng thương. Giết người nhiều đọa vào đường nào? Biến thành gì? Biến thành con phù du trong cõi súc sanh, phù du là loại trùng nhỏ bơi lội trên mặt nước. Quý vị thấy nó bơi lội trên mặt nước, thọ mạng của nó chỉ có mấy tiếng đồng hồ. Vì nợ mạng người quá nhiều, giết quá nhiều người, khiến quý vị một ngày phải đền mạng một hai lần. Ngày nào cũng trả, phải trả hết nợ mà mình gây ra cho người khác, quý vị xem có đáng sợ chăng! Bởi vậy người hiểu được nhân quả thường luôn sợ hãi, không dám làm việc xấu. Quả báo quá đáng sợ, đặc biệt là tam đồ ác báo.
Từ đây chúng ta có thể thấy, phương pháp bí mật cứu tế hàng phàm phu, phương pháp bí mật đầu tiên chính là nhân quả. Đức Phật giảng về nhân quả vô cùng tận tường. Nhưng chúng ta tin rằng không phải cổ nhân sơ suất, vì Đạo giáo nói cũng đã đủ dùng. Phật giáo nói là đạo lớn, đạo lớn làm sao để liễu sanh tử xuất tam giới, làm Phật làm tổ. Nhân quả là thuộc về đạo nhỏ, những gì Đạo giáo nói là đủ, Phật giáo ở bên cạnh vỗ tay, hoan hỷ tán thán.

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA – Tập 141 __(((卍)))__
Giảng Kinh Vô Lượng Lần Thứ XI - Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Reply


Reply
RS

Không biết ngoài VN ra, còn có nước nào cúng xe không? hay chỉ VN thôi .. theo RS thì hành động này đúng hay sai

Ở đây, Vân đâu thấy ai cúng xe đâu, RS nghĩ họ có nên bắt chước VN cúng xe không? 

Suytu

Người đẹp không nói chuyện gì cả vậy? Nên Vân cũng tò mò suy nghĩ của người đẹp như thế nào
Reply
SỰ NGUY HIỂM CỦA KHẨU NGHIỆP

(Chuyện 6 kiếp ly kỳ của Thôi Phánh )
Tôi là Thôi Phánh, một tay tán gái có hạng. Tên của tôi nghe rất là ngộ, vì tôi là người Hoa sống trên đất Việt, nhưng mà kệ tôi có cái tên lạ thế nào, hễ cô nào lọt vào mắt xanh của tôi, là thế nào tôi cũng cua đổ được.
Kiểu người như tôi thì mấy ông thầy bói thường bảo là sinh nhầm cái giờ có sao đào hoa chiếu. Mãi đến gần đây khi gặp được một cơ duyên đặc biệt, tôi mới biết chẳng phải như vậy. Đó là do một nhân quả kéo dài 6 kiếp trước của tôi mà ra, chuyện khá là ly kỳ, còn ly kỳ hơn mấy lần gặp ma mà tôi đã kể cho Quang Tử viết truyện lần trước.
Tôi sinh năm 1966, lớn lên trong một gia đình có truyền thống Phật giáo, tại khu Bến Đình, thành phố Vũng Tàu. Nhưng mà bạn đừng nghĩ rằng, hễ sinh ra trong gia đình Phật tử, ông bà cha mẹ hay niệm Phật đi chùa thì con sinh ra sẽ ngoan, sẽ sống đúng như giáo lý Phật dạy. Như tôi đây, tôi chẳng có ngoan gì lắm đâu.
Tâm lý tôi khá là nặng về dâm dục, có lẽ là mạnh hơn những người khác. Chẳng thế mà tuổi trẻ tôi nổi tiếng với những thành tích trăng hoa mây mưa, quen hết cô này đến cặp với cô khác, ăn nằm với người này người khác, nhiều đến mức tôi khó lòng mà nhớ hết được tên từng cô. Đến khi lấy vợ cũng phải lấy đến ba cô vợ mới chịu thôi.
Tôi cũng có may mắn được một vị chân sư giáo hóa, mà dần cũng tỏ ngộ được Phật Pháp, hiểu được đạo lý Nhân quả. Tự soi lại mình, tôi biết mình trăng hoa như vậy, là phạm vào giới tà dâm, nhưng mà tôi không dừng lại được.
Bạn đừng có nghĩ rằng, nhận ra một việc làm đó là sai, thì con người ta sẽ thôi không làm nữa. Đó là một ảo tưởng của những kẻ ngây ngô, thích “vào rừng mơ bắt con tưởng bở”.
Vì thực tế, đa số hành động của con người bình thường, bị chi phối bởi tình cảm, bởi nhu cầu, bởi cảm xúc bên trong “trái tim”, chứ không chịu tuân theo lý trí, sự hiểu biết của “bộ não”.
Trừ ra những người tinh thần cực mạnh, có ý chí quật cường mới khống chế được tình cảm, dục vọng thôi, mà mấy người đó thì hiếm lắm.
Biết mình đang phạm tội dâm, ấy mà vẫn phạm nhiều lần, tôi thật rất áy náy. Chẳng biết vì sao tôi nặng ái dục đến mức vậy.
Tôi cứ ôm giữ điều trăn trở ấy mãi trong lòng, và thường xuyên lạy Phật, niệm Phật, niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” , xin Người cho tôi được biết nguyên do của hai việc này.
Sau mấy chục năm cầu nguyện, cuối cùng chư Phật - chư Bồ Tát thương tình đã thị hiện khiến cho tôi được thấy thật. Đó là ngày 15/10/2019, tôi được chư Phật gia hộ mà có được một giấc mơ tiền kiếp.
Trong giấc mơ ấy rất sống động, rõ ràng, khác với giấc mơ mờ nhạt bình thường, cảm giác ở đây chân thật y như cuộc sống thực vậy.
Kiếp đó là vào thời Tống bên trung Quốc, tôi được sinh làm con trai của tể tướng. Từ nhỏ đã lớn lên trong nhung lụa, lớn lên nhờ thế lực của cha ( cha tôi lại còn là thân thích của Hoàng thượng), tôi lại được làm quan lớn. Chẳng cần mô tả nhiều chắc bạn cũng hình dung ra về sự uy quyền và sung sướng của tôi.
Mà khổ, sướng quá thì thường sinh tật. Trừ những ai có nguyện lực sâu dày thôi, chứ hầu hết khi hưởng phước báo nhiều thì con người ta dễ dàng trở nên ích kỉ, tham lam, kiêu căng, ác độc…
Sẵn quyền lực trong tay, tôi tha hồ muốn làm gì thì làm. Trong phủ của tôi, ngoài thê thiếp ra, còn có rất nhiều a hoàn, nữ tỳ xinh đẹp. Tôi thì lại háo sắc, thế nên tôi đã nhiều lần cưỡng hiếp các cô nữ tỳ trong phủ, tổng cộng là 5 cô.
Họ chịu ấm ức, tủi nhục trong lòng, mà chẳng biết thưa với ai. Ai sẽ cho họ công bằng, khi mà kẻ hãm hại họ là con tể tướng, là thân thích với vua ? Thế nên 5 cô nữ tỳ đành nuốt hận vào tim, chỉ biết câm lặng nguyền rủa tôi mà thôi.
Nhưng mà vũ trụ tự có sự công bằng của vũ trụ, sự công bằng ấy mang tên là luật nhân quả, và cái luật nhân quả này thì cực kỳ thẳng thừng và khốc liệt. Có thể phải chờ lâu, nhưng chắc chắn quả báo sẽ tới, kẻ cưỡng hiếp sẽ phải bị cưỡng hiếp, đó là luật.
Hình ảnh thay đổi, và tôi thấy kiếp sau đó hiện ra. Tôi đầu thai làm một cô bé nhà nghèo. Phước báo được làm thân nam, được làm quan làm tướng, có uy quyền, có giàu sang phú quý...đã hết sạch.
Do tôi phá quá mà, có phước báo quyền lực, tài sản trong tay, không chịu đem làm việc thiện, lại sa đọa trong tội lỗi, thì phước báo sẽ hết sạch, kèm thêm những quả báo khốc liệt chờ đón, đó là quy luật.
Năm tôi- tức cô bé nhà nghèo đó lên 12 tuổi, mẹ tôi chết. Không bao lâu sau tôi bị chính cha ruột cưỡng hiếp, ông ta hành hạ tôi đủ kiểu cứ như thể tôi là kẻ thù vậy.
Rồi cuối cùng, ông ta bán tôi vào lầu xanh, lấy tiền tiêu xài. Cuộc đời tôi cứ tàn tạ, chết dần chết mòn trong chốn thanh lâu đầy tủi nhục.
Cứ thế liên tiếp 5 kiếp liền, kịch bản giống hệt nhau, tôi sinh làm con gái nhà nghèo, 12 tuổi mẹ chết, cha ruột cưỡng hiếp rồi bán vào lầu xanh, bị người đời giày vò và khinh bỉ.
Chắc không nói bạn cũng đoán được nhân quả đã an bài như thế nào với tôi. Đúng vậy, 5 cô nữ tỳ bị tôi cưỡng hiếp khi làm con tể tướng, đã đầu thai lại làm 5 người cha trong 5 kiếp liên tiếp sau đó.
Họ đã trả thù tôi bằng cách cưỡng hiếp tôi rồi bán vào lầu xanh lấy tiền.
Nếu chỉ nhìn sự việc hạn hẹp trong mỗi kiếp đó, như cách những kẻ thiển cận vẫn nghĩ, người ta sẽ lên án 5 người cha ấy là những kẻ táng tận lương tâm, là đồi bại, là vô nhân tính, rồi than trời trách đất đủ kiểu.
Nhưng khi nhìn nhận sự việc một cách tổng thể nhiều kiếp sống, một tầm nhìn xa, xuyên suốt luân hồi đầy trí tuệ, ta thấy được vũ trụ luôn tuân theo quy luật công bằng của nó, một sự công bằng thẳng thừng, đầy khắc nghiệt, và chúng ta gọi đó là quy luật Nhân Quả Nghiệp Báo.
Có thể nhiều người không thích cái cách mà luật nhân quả vận hành, hoặc chê là luật nhân quả sao lâu quá, sao không cho quả báo trong một kiếp luôn đi. Hay cảm thấy kinh sợ vì độ khốc liệt của nó.v.v... Rồi lại tự đặt ra đủ các câu hỏi “ nếu như”, “ giá mà”...
Còn tôi, với tư cách vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ, chỉ là đổi vai sau mỗi lần chuyển kiếp, tôi nhận ra luật nhân quả, vốn là một quy luật khách quan của vũ trụ, chẳng phải do ai tạo ra để mà than vãn, mà trách cứ được. Chúng ta sống trong vũ trụ ấy, thì phải tuân theo quy luật, thế thôi.
Giống như mặt trời trời mọc ở hướng đông, lặn ở hướng tây, tỏa nắng trên Trái Đất, chỗ nhiều nắng quá thì thành sa mạc nóng bức, chỗ ít nắng quá thì đóng băng lạnh giá.
Đấy là quy luật tự nhiên, đã sống trên trái đất, thích hay không thích cũng phải chịu, chỉ có kẻ ngu mới đi kiện mặt trời vì cái tội làm chỗ nóng, chỗ lạnh như vậy.
Đối với các quy luật tự nhiên, chúng ta chỉ có thể tìm hiểu kĩ lưỡng, hiểu rõ quy luật vận hành và thích nghi, như các nhà khoa học vẫn làm. Còn bạn, bạn muốn làm một kẻ than vãn, oán trách quy luật tự nhiên, hay muốn làm một người hiểu rõ quy luật tự nhiên và thích nghi, cái đó tùy bạn chọn lựa.
Trở lại với câu chuyện, năm kiếp liền tôi chịu quả báo thê thảm. Ở tiếp thứ năm, tôi đã đầu thai sang Việt Nam. Giống 4 kiếp trước, 12 tuổi thì mẹ chết, cha ruột cưỡng hiếp rồi bán vào lầu xanh.
Gần chỗ lầu xanh ấy, có một ngôi chùa do một Ni sư trụ trì. Do tôi có duyên với Phật pháp từ nhiều kiếp ( có thể do nhân cúng dường nhà sư trước khi chết), nhìn thấy chùa là lập tức sinh tâm cung kính, mến mộ.
Ngoài những lúc phải tiếp khách, khi rảnh rỗi, tôi thường leo lên núi, đi tìm hái những cây thuốc. Công việc ấy ấy rất vất vả và nguy hiểm. Rắn rết thì khắp nơi, lại hay phải cheo leo trên những vách đá hiểm trở, nhưng một khi tôi đã quyết tâm thì không gì cản được.
Hái được thuốc rồi thì đem về bán cho các các hiệu thuốc đông y, cũng chả được bao nhiêu tiền, gom góp nhiều lần cũng chỉ được vài đồng bạc lẻ.
Tôi đến trước chùa, muốn vào trong để đem tiền bán thuốc cúng dường Tam Bảo, nhưng nghĩ mình thân thể ô nhục, tôi không dám bước vào mà chỉ đứng mãi ở cổng chùa. May gặp lúc sư cô trụ trì đi ngang, thấy tôi cứ đứng mãi đó nên lại gần hỏi chuyện:
- Sao con không vào chùa mà cứ đứng mãi đây ?
Tôi vừa nói, mà nước mắt cứ rơi lã chã, kể lại hết sự tình từ bé đến giờ. Kể xong tôi khẩn khoản :
- Con xin sư cô hãy đem số tiền này vào cúng dường Tam Bảo, và khấn với đức Phật giúp con, đây là tiền mồ hôi do con lao động chân chính mà có để cúng dường, xin chư Phật chứng minh.
Sư cô nghe tôi nói xong thì cũng cảm động muốn rớt nước mắt, sư cô ôm tôi vào lòng mà nói :
- Chư Phật nhận cái tâm của con, chứ người đâu có dùng đến những phẩm vật. Đồng tiền này Phật sẽ chứng, con yên tâm.
Vài hôm sau, tôi lâm trọng bệnh. Mụ tú bà chẳng thèm quan tâm chữa trị gì cho tôi cả, nghĩ rằng tôi sắp chết, chẳng còn giá trị sử dụng gì, nên cho người quăng tôi ra đống rác như một món phế thải.
May sao gặp lúc sư cô hôm trước đi cầu siêu ở làng kế bên, trên đường về đi ngang qua đống rác chỗ tôi nằm. Thấy tôi như vậy sư cô liền đem về chùa, tìm cách thuốc thang chữa trị đến khi khỏi hẳn.
Sư cô cho tôi trú ngụ ở một cái chòi cất sau chùa, ở cùng với tôi còn có hai cô gái ăn xin khác, cũng là sư cô thương tình cho ở nhờ trong chùa, không phải lang thang vất vưởng ngoài đường.
Hai cô ăn xin ấy, giờ tôi tạm đặt tên cho dễ gọi (chứ kì thực tôi không nhớ kiếp trước họ tên gì) một cô tên An, một cô tên Bảo, cũng trạc tuổi tôi. An thì thương tôi hơn, đi xin được cái gì ngon thì đều về chia cho tôi ăn cùng. Đã vậy lại còn hay chăm sóc tôi tận tình, bón cơm, đút thuốc, giặt giũ quần áo… giúp tôi khi tôi còn chưa khỏi bệnh.
Còn Bảo thì chỉ vui vẻ ngoài miệng thôi, chứ không giúp tôi gì cả. Đến khi tôi bình phục, thì họ trở thành hai người bạn thân của tôi.
Một hôm vào buổi trưa, cả 3 ngồi trong chòi ăn trái cây, chuyện trò tán dóc. Bảo nhìn tôi rồi buột miệng nói:
- Nhìn cô đẹp như vậy, cô mà làm đàn ông, thì tôi sẽ chấp nhận làm vợ, có con thì tôi sẽ tự nuôi.
Thực ra đây chỉ là câu nói đùa, luyên thuyên giết thời gian cho vui. An nghe thế cũng cao hứng thêm vào :
- Ừ, nếu cô mà là con trai, tôi cũng sẽ làm vợ cô, con tôi cũng sẽ tự nuôi, không buồn bực gì cô.
Mấy câu nói giỡn chơi, tưởng chừng như vô thưởng vô phạt, giống bao câu nói đùa vốn luôn đầy rẫy trong cuộc sống, ấy thế mà nhân quả không thể bỏ sót.
Bọn tôi nói rồi quên, nhưng nghiệp báo lại chẳng hề quên, vẫn lặng lẽ an bài cho những kiếp sau từ những câu nói đùa ấy. Cụ thể như thế nào, đến cuối truyện bạn sẽ rõ.
Lại kể thêm, hồi đấy có một cô Phật tử hay đến chùa thắp hương lễ bái. Cô ta tên Cúc, nhà thì cũng chẳng khá giả gì, ấy vậy mà tính nết kiêu kỳ, khinh bỉ mấy kẻ nghèo hèn chúng tôi ra mặt. Dạng người này tôi cũng chẳng ưa tiếp xúc gần.
Xong ‘cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng’, hôm đó cô Cúc đi chùa, dẫn theo cậu em trai. Cậu này trông thấy tôi nhan sắc yêu kiều, mắt cứ dán chặt vào tôi mà nhìn say đắm, thấy tôi ở đâu là cứ lẽo đẽo bám theo.
Cô chị - tức là Cúc thấy vậy thì gai mắt. Xông đến kéo cậu em mình lại, tiện thể chỉ vào mặt tôi mà nguyền rủa:
- Nhà ngươi hết cái kiếp này cũng đừng mong lấy được chồng. Mà có lấy được chồng, thì người ta cũng chỉ chơi cho có con, rồi bỏ đó trong nuôi mà thôi.
Nói xong Cúc còn liếc tôi với ánh mắt đầy mỉa mai rồi quay lưng kéo cậu em đi. Không dưng lại bị người ta nguyền rủa một cách vô lý như vậy, tôi giận tím người, ánh mắt tóe lửa, nhìn theo bóng cô ta đầy căm hận.
Kiếp đó tôi cũng không sống thọ, một thời gian sau, tôi lại lâm bạo bệnh rồi qua đời.
Đến đây thì tôi tỉnh dậy, bồi hồi nhớ lại, tôi thấy mọi việc còn rõ in như đang ở trước mắt. Trầm ngâm thật lâu, xâu chuỗi mọi việc, tôi chợt kinh nhạc nhận ra, những kiếp trước ấy liên hệ chặt chẽ đến kiếp này của tôi như thế nào.
Kiếp trước tôi gắng sức lên núi hái thuốc, lấy tiền ấy thành tâm cúng dường Tam Bảo. Nhờ phước đó, những nghiệp chướng thủa xưa được tiêu trừ.
Kiếp này tôi sinh làm đàn ông, lớn lên trong gia đình Phật tử. Từ thời còn trẻ đã làm đâu trúng đó, tiền bạc dư giả. Và cho đến tận bây giờ, sự nghiệp tôi luôn thuận buồm xuôi gió, làm ăn phát đạt.
Kiếp này tôi lấy đến ba cô vợ. Cô vợ thứ nhất quê ở Tiền Giang, chính là cô gái ăn xin tên Bảo, do kiếp trước nói đùa, buột miệng rằng: “Nhìn cô đẹp như vậy, cô mà làm đàn ông, thì tôi sẽ chấp nhận làm vợ, có con thì tôi sẽ tự nuôi.”
Nói thế thôi mà giờ thành vợ thật, ây luật nhân quả thật không phải thứ giỡn chơi được. Ngẫm lại cả đời tôi tuôn ra không biết bao nhiêu câu nói đùa như vậy, lại đầy những câu nguy hiểm… Chết thật, sau này theo Nghiệp lực nhân quả đều sẽ thành hiện thực hết. Nghĩ đến đây mà toát hết cả mồ hôi, từ giờ nói năng phải cẩn thận mới được.
Sau này tôi với cô vợ đầu tình cảm nguội lạnh dần, rồi ly hôn. Đó là vì kiếp trước, tôi không nợ ân nghĩa của cô ta nhiều. Con thì cô ấy nhận nuôi, xong tôi thỉnh thoảng vẫn gửi tiền về chu cấp.
Cô vợ thứ hai, quê ở Trà Vinh, thật là oan gia ngõ hẹp, chính là Cúc - cô Phật tử kiêu kỳ, từng nguyền rủa tôi “có lấy được chồng, thì người ta cũng chỉ chơi cho có con, rồi bỏ đó trong nuôi mà thôi.”
Tôi lấy cô ta về, hễ cô ta mở miệng nói câu gì, là kỳ lạ lắm, tôi liền nổi nóng, chửi mắng thậm tệ, chửi cho cô ta “tắt bếp” mới thôi. Gia đình tôi khi đó không khác chi cái địa ngục, cả năm chẳng được mấy ngày trôi qua yên bình. Đó là vì nhân duyên kiếp trước, oán hận nhau, nguyền rủa nhau mà kết thành ác duyên.
Trong khi thiện duyên khiến người ta hội ngộ với nhau trong vui vẻ, thân ái. Thì ác duyên, cũng có thể khiến người ta đến với nhau, thậm chí làm vợ chồng, làm người thân trong nhà, nhưng sẽ toàn là những mâu thuẫn, những cãi vã, oán hận nhau, cho đến khi hết duyên, hết nợ mới rời xa ra được.
Đó là nỗi khổ mà trong kinh Phật gọi là Oán Tắng Hội – ghét bỏ mà cứ phải gặp.
Cuộc hôn nhân đầy tiếng chửi bới ấy nhanh chóng kết thúc. Tôi lại li dị, con cô ta nhận nuôi. Sau đó cô ta cắt liên lạc, tôi muốn gửi tiền chu cấp cũng không biết gửi đường nào.
Nhân quả có một điều rằng, chửi mắng người ta như thế nào, chính mình sẽ bị như thế đó. Và cô ta đã nhận được đúng những gì cô ta nguyền rủa người khác trong tiền kiếp.
Tôi lấy người vợ thứ ba, quê ở Mỹ Tho, chính là An đầu thai. Giống như Bảo, trong lúc đùa vui, An cũng nói : “Nếu cô mà là con trai, tôi cũng sẽ làm vợ cô.”
Câu nói ấy là nhân, mà kiếp này cô ấy thành vợ của tôi là quả. Nhân quả như bóng theo hình không sai chạy. Hơn nữa An kiếp trước chăm sóc tôi rất nhiều, nên tôi mang nợ cô ấy. Giờ thành vợ chồng, thì tôi thương cô ấy, chăm lo cho cô ấy nhiều hơn hết. Ngay cả khi cô ấy nổi nóng nó chửi tôi, thì tôi cũng chỉ cười xòa, chẳng hề cáu giận. Tôi luôn là người chiều chuộng, quan tâm, lo lắng cho cô ấy đủ điều, thế nên gia đình cũng yên ấm đến giờ.
Hồi còn trai trẻ, tôi đi qua biết bao nhiêu cuộc tình, với người nào, tôi cũng có cảm giác như đã quen từ lâu. Tôi với họ gặp nhau, yêu đương, ân ái, rồi nhanh chóng chia tay. Giờ thì tôi đã biết, những cô bạn gái ấy, chính là những khách làng chơi, đã qua đêm với tôi trong năm kiếp làm làm gái lầu xanh.
Suốt nhiều kiếp của tôi đều có dính líu liên quan đến ái dục, không cưỡng hiếp thì lại làm gái lầu xanh, tạo thành một thói quen xấu thâm căn cố đế, Phật pháp gọi là tập khí. Chẳng trách tôi lại nặng về ái dục đến như vậy.
Giờ thì mọi khúc mắc của tôi đều đã được giải đáp. Chung quy đều là do luật nhân quả sắp xếp một cách chính xác từ chính những việc tôi đã làm trong trong các kiếp quá khứ.
Kiếp kiếp nối nhau đảo qua, lộn lại. Khi thì tạo phước, rồi hưởng phước. Trong khi hưởng phước thì bản ngã bốc khởi, tạo ra nhiều tội, rồi lại chịu quả báo, thành một chuỗi vòng lặp bất tận, nối nhau vô số kiếp dài dằng dặc.
Nhưng mà để làm cái gì ? Luân hồi nhiều kiếp như thế rốt cuộc tôi thu nhặt được những gì?
KHÔNG GÌ CẢ !
Sinh mạng, tiền tài, danh vọng, quyền uy, nhan sắc, sức khỏe... chết rồi đầu thai một cái, là tan thành khói bụi. Kể cả phước báo, hay nghiệp chướng, người ta hay nói là có thể đem theo qua kiếp sau. Nhưng rồi sao, qua nhiều kiếp thì nó cũng hết thôi.
Mọi thứ sẽ tan biến hết không chừa lại gì, giống như trẻ con xây lâu đài trên cát, mỗi đợt sóng thủy triều lên sẽ cào bằng tất cả. Đời là vô thường.
À, đúng rồi, có một thứ trường tồn lâu dài, đó là đau khổ. Không cần biết sinh ra ở đâu, thân phận ra sao, kiếp nào cũng đầy những sinh - lão- bệnh- tử, vui thì chóng qua, buồn thì mau đến, cạm bẫy cám dỗ thì giăng đầy, chết được sinh thiên thì khó, chứ vào địa ngục thì liên tục.
Cái luân hồi này thật là khắc nghiệt, chẳng thế mà đức Phật dạy, cần phải tu hành để thoát khỏi luân hồi sinh tử sao ?
Bây giờ thì tôi mới nhận ra, thâm ý sâu xa của Phật pháp, không phải như người đời vẫn tưởng, đạo Phật là để người ta đến xì xụp khấn vái, cầu tài cầu lộc, cầu bình an, hay cầu siêu thoát… những cái đó chỉ là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh tìm về gieo duyên với Phật.
Còn mục đích thực sự của Phật pháp, là giúp chúng sinh giải thoát khỏi luân hồi, vĩnh viễn không còn sinh lão bệnh tử khổ đau muôn kiếp nữa.
Thật là sâu xa, thật là vi diệu, thật may mắn cho tôi vì từ nay tôi đã ngộ ra được chân lý ấy, mà dần buông bỏ, mà dần tu tập hướng đến Giải Thoát.
Nhưng thật tiếc thay, ngoài dòng đời rộng lớn, bao la người với người kia, sẽ có mấy ai có thể hiểu được. Cứ mãi chìm sâu trong dục vọng mà trầm luân sinh tử, khổ đau muôn kiếp, chẳng biết đến bao giờ mới tìm đường thoát ra ?
( Quang Tử, viết lại từ lời kể của Thôi  Phánh)
Reply
... chị Rau Sam ... chi biết Ni Sư Thích Nữ Lệ Phát kể chuyện rất chính xác vỉ chi cũng sém đui do cái tật làm biếng mũ nón mắt kính ... may phước là ông bác sĩ của chi chữa được cho chi  ... dù sao thì cũng chỉ lành được một mắt, còn một mắt yếu cho nên chi thường phải ăn gian mỗi khi đến DMV renew bằng lái ...  Grinning-face-with-smiling-eyes4 ... sau 75 nhiều người phải liều mạng xông ra biển ... Công Giáo thì thấy Phật Quan Âm ... Phật Giáo thì được Đức Mẹ cứu giúp .... người nhà còn ở lại VN thì được nhờ đi tạ ơn ... chi có người bà con là con một cầu tự nên má Cô lo tích phước cho Cô, Bà hiến đất xây chùa, thỉnh tượng ... sau 75 Cô bị đau thương hàn nặng liệt một chân ngày nào cũng khóc ròng vì không đi được thì làm sao kiếm ăn nuôi con ... một ngày Cô nằm thấy Đức Mẹ hiện trên ngọn một cây ở quê nhà, cây này từng bị bão gãy mà không chết, ngọn cây lại quay lên lại được nên thuở bé Cô với bạn bè hay bứt lá chơi đồ hàng, thấy Đức Mẹ Cô ngồi bệt xuống đất ôm chân kêu: Đức Mẹ chữa chân cho con với ... Đức Mẹ cúi xuống vuốt chân cho Cô, Cô vùng dậy chạy vô nhà kêu: ra coi, ra coi Đức Mẹ chữa chân cho tui nè ... mấy người trong nhà chạy ra thì không thấy ai! Cô nói: mới đây mà, Đức Mẹ mới chữa chân cho tui đây mà ... Thức dậy Cô cũng nghĩ chỉ là chuyện chiêm bao nên ráng bó dép vô chân liệt rồi lết đi ra sân ga quanh quẩn ai nhờ lặt vặt gì thì ráng làm ... một ngày có người kêu: Ủa ... chân chị lành rồi hả, chị đi chữa ở đâu vậy ? Cô ngó xuống chân mình, rồi nhớ chuyện chiêm bao ... Có người nghe Cô kể chuyện xong thì nói: tui sắp đi tạ ơn Đức Mẹ, chị có muốn đi với tui không ... tạ ơn Đức Mẹ rất đơn giản ... chỉ mua bông ... chi kể tùm lum hùn với chị ... chị có phiền không chị Rau Sam ...  Grinning-face-with-smiling-eyes4 ...
Reply
Rất vui khi nghe Schi kể chuyện cảm ứng có thật. Mình tin tưởng ngoài thế giới của mình còn có các cảnh giới cao hơn hay thấp hơn. Khi mình cầu nguyện thì nhận được sự giúp đở của các vị ở cõi giới cao hơn. Vì vậy khi mình tụng niệm Công phu hằng ngày xong mình phải nhớ hồi hướng phước lành đến cho các chúng sanh ở cõi giới thấp hơn như  người khổ ,súc sanh, cây cối,địa ngục, ngạ quỹ, a tu la, các vong linh vất vuỡng chưa siêu thoát.
Reply


Reply


CÓ MỘT LOÀI VẬT BỊ ÁN TỬ HÌNH chỉ vì nó đang kiếm ăn cho nó, cho con nó !

Nó không phải THÚ CƯNG của ai nên không có người CHỦ nào cho ăn.
Vậy tại sao nó kiếm ăn lại bị giết 1 cách tàn nhẫn nhỉ ?
Cái bẫy đó sẽ làm gãy xương của nó, nhưng nó không chết mà sẽ rất đau đớn trong nhiều giờ nhiều ngày. Hãy thử đặt bản thân mình bị dính bẫy thì sẽ cảm nhận thế nào (RẤT ĐAU ĐỚN)
Cái bẫy đó cũng có thể gập xuống ngay dạ dày hoặc nội tạng của nó, nội tạng bị dập nát nhưng cũng không chết ngay và cũng sẽ rất đau đớn trong nhiều giờ nhiều ngày.
Và giống loài nó rất bền bỉ và chịu đựng rất tốt đến mức đau đớn như vậy vẫn sống liên tục 2 3 ngày nữa trong cái bẫy trước khi tắt thở.
Nếu nhà bạn ít chuột thì bạn sẽ phải sạch sẽ hơn và ngăn nắp hơn cũng như hạn chế thức ăn thừa !
Nếu không thể sống chung hòa thuận với chuột thì bạn cũng đừng sát hại chúng.
Phía sau 1 chú chuột Mẹ bị giết chết là cả 1 đàn con đang chờ bú, nghĩa là bạn đang giết hại cả 1 gia đình !
PHÀM LÀM VIỆC GÌ CŨNG PHẢI NGHĨ ĐẾN HẬU QUẢ CỦA NÓ [Image: 1f64f_1f3fe.png]
Xin hãy quý tiếc sinh mạng của chúng sinh - xin đừng sát sinh hại mạng [Image: 1f64f_1f3fe.png][Image: 1f647_1f3fb_200d_2642.png]
Xin Thường niệm: A DI ĐÀ PHẬT
Giữ Tâm Thiện Thế Giới Hoà Bình
Cre : tâm sự người tu sĩ
Reply
CHUYỆN GÌ ĐÃ XẢY RA VỚI  POMPEII
THÌ CŨNG CÓ THỂ XẢY RA VỚI CHÚNG TA !


Năm 79 sau công nguyên, núi lửa Vesuvius ở bờ biển phía đông của miền Nam nước Ý phun trào, tro núi lửa cực độc phủ trùm khắp nơi với nhiệt độ lên đến 5000 độ C. Dòng dung nham tuôn chảy cùng những trận động đất kinh hồn, mọi người thấy trời đất như trong ngày tận thế.
Đối với người Pompeii, một thành phố ở gần đó thì đó không phải “như”, mà đúng là tận thế thực sự. Chỉ trong mười mấy tiếng, thành Pompeii xa hoa mỹ lệ và thị trấn Herculaneum đã bị thiên nhiên tiêu diệt, khoảng 20.000 người  bị nhấn chìm trong dung nham và tro núi lửa.
Hàng ngàn năm sau, các nhà khảo cổ vào năm 1738 mới khai quật được các tàn tích, và phát hiện ra câu chuyện bí ẩn bị chôn vùi dưới lớp đá núi lửa đã nguội lạnh.
Vì đâu có thảm kịch này ? Chỉ là ngẫu nhiên, hay đằng sau đó là một quy luật ?
Ngay sau đây, bạn sẽ có đáp án.
Pompeii được xây dựng vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, bởi người Oscan. Pompeii có khi là một quốc gia độc lập, có khi thuộc sự cai trị của La Mã.
Với vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thương, lại có khí hậu quanh năm nắng ấm dễ chịu, thiên nhiên ưu đãi phong phú sản vật, Pompeii nhanh chóng phát triển kinh tế, trở thành một hải cảng cực kì giàu có, phồn thịnh. Nó thu hút những người  thượng lưu giàu có, quyền lực ở mọi nơi đến xây dựng những chốn ăn chơi, nghỉ dưỡng, giải trí, vậy nên dân cư ngày càng trở nên đông đúc, sung túc hơn.
Mọi thứ đến đây có vẻ rất tuyệt vời, chẳng phải bao nhiêu người vẫn luôn mơ ước được như thế sao ?  Vậy ta cùng xem khi giàu có rồi thì người dân Pompeii nghĩ gì?  Và làm gì?
Có một quy luật được cài đặt sẵn trong tâm lý con người, đó là : khi con người ta quá đầy đủ về vật chất, họ sẽ lao vào hưởng thụ sung sướng. Hưởng chán dục lạc này, họ sẽ đi tìm dục lạc mạnh hơn, mới hơn để hưởng thụ tiếp, hết ăn đến uống, hết uống, đến tình dục, hết tình dục đến giết chóc … cấp độ ngày càng tăng dần để tìm cảm giác khoái trá, cứ thế nối tiếp bất tận. Đó là một quy luật.
Và nếu như không có một GIÁO LÝ MANG TÍNH TRÍ TUỆ đủ sức mạnh để ảnh hưởng, để răn dạy, kìm hãm dục vọng, con người  ta tự nhiên sẽ bị dục vọng nhấn chìm, khiến cho đạo đức suy đồi không phanh.

Rất tiếc, người dân Pompeii đã không có một hệ thống giáo lý như vậy. Họ vô thần, không tin, không quan tâm đến quy luật vũ trụ, tâm linh thần thánh, nhân quả nghiệp báo, đạo đức tu dưỡng… gì hết.
Điều dân Pompeii tôn thờ duy nhất là: HƯỞNG THỤ CHO TRỌN VẸN HẾT HÔM NAY.
Trên các hiện vật được khai quật, người  ta tìm thấy những câu khẩu hiệu được khắc trên đồ vật, trên tường… khắp nơi như sau :
“ Hãy tận hưởng cuộc sống, vì ngày mai nào ai biết được”
“Kiếm tiền là niềm vui”
“ Rượu vang và phụ nữ hủy hoại cơ thể chúng ta, nhưng ngoài những điều đó ra, cuộc sống còn có ý nghĩa gì ?”

Họ nghĩ như vậy, và đây là những gì người  dân Pompeii đã làm, hãy xem để thấy quy luật tôi vừa nói trên có đúng không ?
Đầu tiên phải nói đến việc ăn uống.
Dân Pompeii đặc biệt chú trọng việc thỏa mãn vị giác. Khi đã quá no đủ, mà tiền bạc thì vẫn còn thừa mứa, dân Pompeii đã ra sức sưu tầm và chế biến đủ loại sơn hào hải vị độc – lạ như : lưỡi cò, gan chim dạ oanh, nhím biển Tây Ban Nha, hươu cao cổ Bắc Phi, hồng hạc Địa Trung Hải .v.v…
Họ ăn bất chấp mọi thứ, miễn là cái lưỡi thấy thỏa mãn. Thậm chí, họ còn cho lươn biển ăn thịt những người  nô lệ bị giết, vì cho rằng như thế thịt lươn sẽ ngon hơn.
Nhà hàng mọc lên chi chít khắp nơi, các bữa tiệc vương giả nối nhau không ngớt. Người người, nhà nhà thi nhau ăn uống, đổ dồn tâm huyết vào việc chế tạo rượu ngon cùng những của lạ. Khiến Pompeii một thời được coi là “kinh đô rượu” của Địa Trung Hải.
Xong chưa hết, dân Pompeii còn chế ra cả tư thế ăn riêng, sao cho thật sung sướng, đó là trào lưu “nằm ăn”.
Những người  giàu có, quyền thế sẽ nằm nghiêng trên những phiến đá cẩm thạch, lót nệm êm, xung quanh là đầy nô lệ đứng phục vụ, để tận hưởng những bữa tiệc xa hoa thâu đêm suốt sáng, ngày này qua tháng khác.
Nếu đã ăn uống quá no nê mà tiệc chưa muốn tàn, họ lại tìm nhiều cách nôn ói hết thức ăn ra, để có thể tiếp tục ăn uống.
Và họ ăn với một sự lãng phí khủng khiếp để thế hiện đẳng cấp, một chùm nho cắn một trái rồi vứt cả chùm, một tảng thịt quý hiếm chế biến công phu, cắn một miếng rồi vứt cả tảng xuống đất.
Tiếp đến, người Pompeii còn khiến thế giới kinh ngạc về độ dâm loạn.
Khi khai quật tàn tích, các nhà khảo cổ tìm thấy đủ các loại tranh bích họa, tượng điêu khắc miêu tả các cảnh khiêu dâm trắng trợn, tục tĩu được bài trí ở khắp mọi nơi, từ trên tường nhà, đến xưởng sản xuất, đến nhà hàng, nhà trọ, đến cả đèn đường, ly rượu… Chúng miêu tả những cảnh dâm loạn tập thể, từ già trẻ nam nữ, đến đồng tính, thậm chí cả người  giao hợp với thú vật.
Nó cho thấy dân Pompeii đã không còn một chút e ngại, dè dặt nào, mà với họ, sự dâm loạn đã trở thành một điều tự hào để họ phô trương và bảo tồn thông qua các bức điêu khắc.
Cảnh trụy lạc dường như không ngớt tại 25 nhà thổ (lầu xanh) từ xa hoa đến bình dân, cùng rất nhiều các phòng tắm xông hơi chung cả nam lẫn nữ, chưa kể nhà riêng. Các nhà khảo cổ khi nghiên cứu di thể của dân Pompeii, họ ngạc nhiên khi thấy ngay cả những đứa trẻ Pompeii cũng mắc bệnh giang mai, đủ để thấy tình trạng dâm loạn ở xã hội Pompeii nghiêm trọng như thế nào.
Và đỉnh điểm, khi các thú vui xác thịt không còn làm người  ta thỏa mãn, thì dục vọng sẽ bị đẩy lên đến mức độ nghiêm trọng nhất,  tàn ác nhất : vui sướng trên đau khổ của người  khác.
Một đấu trường với sức chứa 12.000 người  được dựng lên, đủ để chứa 60% dân số Pompeii, nó còn có trước cả đấu trường La Mã nổi tiếng đến 50 năm.
Đây không phải chỗ thi đấu thể thao gì cả, mà là đấu trường chém giết sinh tử giữa các tù nhân, nô lệ và thú dữ. Dân Pompeii thường tụ họp về đây để xem những trận đấu đẫm máu “một sống một chết”, hò reo khoái trá, và coi đó là một thú vui, một phần quan trọng của cuộc sống.
Từ đó các hoạt động buôn bán nô lệ càng trở nên nhộn nhịp, những người  nô lệ bị giam nhốt, tra tấn, bị đem ra hành hạ nhằm mua vui, bị đối xử không khác gia súc.
Đọc đến đây, hẳn nhiều người  phải thốt lên kinh ngạc trước mức độ suy đồi đạo đức nghiêm trọng của dân Pompeii.
Đừng nói đến những người tôn sùng những giới luật, các điều răm cấm của Đạo Phật, Đạo Nho… ngay cả những người vô thần, dễ dãi nhất trong xã hội hiện nay cũng cảm thấy bàng hoàng trước những kỉ lục của Pompeii.
Tham lam – lãng phí - dâm loạn - sa đọa – tàn ác – ngu muội… mọi thứ đều được dân Pompeii phá kỉ lục thế giới. Họ cứ thế sống trong một thời gian dài hàng thế kỉ, xa hoa và sa đọa. Khiến cho không ít người có lương tri phải hoài nghi về quy luật công bằng của vũ trụ, phải ngửa mặt lên trời than thở : “Vì sao trời không có mắt ?”
Thực ra, quy luật Nhân quả nghiệp báo của vũ trụ thì không có sai, “ông trời thì vẫn luôn có mắt”, xong mọi thứ cần có thời gian, rồi việc gì phải đến sẽ đến.
Vào ngày 8/2 năm 62 sau công nguyên, một trận động đất mạnh đã xảy ra, phá hủy nhiều tóa nhà. Xong dân Pompeii không thấy đó là vấn đề gì cả. Họ xây dựng lại và tiếp tục cuộc vui bất tận của họ.
Những trận động đất nhỏ ngày càng diễn ra nhiều hơn, thậm chí ngọn núi Vesuvius cách thành phố 10 km về phía Bắc đã tỏa ra một làn khói trắng như một lời cảnh báo cuối cùng, xong mọi người  còn bận vui chơi hưởng thụ, nên chẳng ai quan tâm.
Ngày 24/8 năm 62, khi ngọn núi lửa Vesuvius vỡ òa trong sự giận dữ, dân Pompeii mới thực sự biết như thế nào là “Nghiệp quật”.
Những dòng dung nham nóng bỏng tuôn trào, tro núi lửa bốc lên mù mịt, che kín trời, bao phủ toàn bộ mặt đất hàng chục km quanh đó, với nhiệt độ thiêu đốt lên đến 5000 độ C.
Bầu trời tối sầm lại, sấm chớp đùng đoàng, mặt đất rung chuyển, những tiếng nổ ầm ĩ, đất đá lẫn dung nham rơi xuống từ bầu trời như những cơn mưa, cảnh tận thế cực kì đáng sợ ập đến nhanh không tưởng.
Tất cả mọi người  không kịp chạy đi đâu cả, tro bụi núi lửa với nhiệt độ khủng khiếp vụt đến, bao vây mọi ngóc ngách, mọi kẽ hở, phủ lên từng người một lớp tro bụi nóng, rồi đông cứng mọi người dân Pompeii ở tư thế cuối cùng của họ.
Hiện nay, người  ta tìm thấy thi hài của họ được phủ một lớp đá núi lửa, như những bức tượng xi măng, người  nằm co quắp, người  quỳ xuống như van xin, người  ôm con giãy giụa. Và người  ta còn tìm thấy một thi hài, trong phút cuối, anh ta đã nhanh tay viết vội mấy dòng chữ lên tường : “Tội ác dẫn đến diệt vong”
Chỉ trong mấy tiếng đồng hồ, mọi con người, mọi vật, mọi sự xa hoa tráng lệ đã bị dung nham, đất đá, tro bụi thiêu đốt và nhấn chìm. Pompeii bị xóa sổ khỏi dòng lịch sử, phải đến hàng ngàn năm sau mới nhân loại mới khai quật được tàn tích của họ.
Đối với đa số, kết cục này đã là quá khủng khiếp. Xong với những ai hiểu được quy luật nhân quả luân hồi, thì họ biết, thảm cảnh trên chỉ là khởi đầu cho những hình phạt khủng khiếp và dài hạn hơn trong địa ngục, một cái chết trong tích tắc chưa thế xóa sạch được nghiệp quả của họ đã tạo.
Tuy nhiên, câu chuyện về những người  dân Pompeii Quang Tử kể với các bạn hôm nay, không phải là để chúng ta lên án họ. Việc kết án, hãy để dành cho các quy luật vũ trụ. Họ đã chịu trách nhiệm với những sai lầm đã phạm.
Ngược lại, chúng ta cần phải cảm ơn họ, vì những bài học quý giá mà hết sức sống động họ đã để lại cho hậu thế, cho chúng ta.
NHỜ CÓ HỌ, ta hiểu được rằng : quả nhiên, trên đời có tồn tại quy luật NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO. Quy luật này đến rất chậm, nó không xảy ra ngay lập tức, không phải khi dân Pompeii tạo bao nhiêu nghiệp tà dâm, giết chóc... thì  ngay hôm sau, tháng sau sẽ có ngay khổ đau đến với họ. Mà kết cục xảy đến sau rất nhiều năm, nhiều chục năm, nhiều trăm năm. Thời gian quả báo đến rất khó biết, xong ta có thể biết rằng : chắc chắn nó sẽ đến. Với người  dân Pompeii, nó đã đến thật kinh hoàng.

NHỜ CÓ HỌ, ta hiểu được rằng vật chất trên thế gian này thật Vô thường, phù phiếm. Nay vẫn còn đang giàu có, với thành quách nguy nga, vật chất thừa mứa, sung sướng phủ phê, thì mai người  Pompeii đã bị nhấn chìm trong nham thạch, xóa sổ trên bản đồ thế giới. Nếu lại lấy cái vật chất phù phiếm ấy làm mục tiêu sống, thì thật là sai lầm.
NHỜ CÓ HỌ, ta hiểu được rằng : ĐAM MÊ HƯỞNG THỤ LÀ ĐẦU MỐI TAI HỌA, nó kích thích lòng tham phát triển, mà khi lòng tham trong con người  ta đã được kích phát, rất khó mà kiềm chế lại. Từ tham ăn, tham uống, đến tham dâm dục, rồi biến thể dần thành những thú vui trụy lạc, tàn ác.
Như người  dân Pompeii, họ không phải là những người  có tâm lý khác với chúng ta đâu, chỉ là họ có đủ phước báo, có đủ cơ hội để phát triển, đẩy sự hưởng thụ thăng cấp lên dần, đến những cấp độ cao nhất, cuối cùng, chỉ những cuộc dâm loạn tập thể, những đấu trường đẫm máu mới khiến họ cảm thấy thỏa mãn.
Đừng trách họ, vì rằng nếu ta sinh vào hoàn cảnh đó, chưa chắc ta đã thoát ra khỏi vòng xoáy hưởng lạc, mà thanh cao hơn đâu. Vậy nên, nếu bạn thấy cuộc sống còn nhiều khó khăn, cố gắng mãi mà chưa thành triệu phú, tỉ phú, bạn hãy hiểu rằng, xét trên khía cạnh kìm hãm dục lạc, điều đó lại đang có lợi cho bạn.

NHỜ CÓ HỌ, ta hiểu được rằng : có được những PHƯỚC BÁO như giàu sang, quyền quý, thiên nhiên ưu đãi, cuộc sống sung sướng... thực ra là là một điều RẤT NGUY HIỂM.
Trừ khi con người ta được giáo dục, được rèn luyện mà có được một cái Đức rất lớn, đủ mạnh để kiểm soát những khối phước báu, những tài sản, những quyền lực ... nếu không, phước báo sung sướng sẽ biến con người  ta thành những kẻ sa đọa, mê mờ, ngạo mạn không còn nghe theo lương tri gì nữa.
Và từ đó, ta cảm thấy biết ơn, vì trong xã hội chúng ta đang sống vẫn còn có Đạo Phật, để dạy cho ta biết về quy luật Nhân quả, về những hậu quả thảm khốc khi ta làm sai, dạy ta những phương pháp, những con đường đi chân chính.
Và ta cảm thấy biết ơn, vì xã hội, nhà trường, nhà nước và rất nhiều con người  vẫn đang cố gắng, duy trì không để đạo đức biến mất như người  dân Pompeii đã bị. Họ vẫn hàng ngày đấu tranh với cái ác, với những thế  lực ngầm đang tìm cách làm suy đồi đạo đức xã hội qua những phim đồi trụy, những game độc hại, những trào lưu buông thả, sa đọa, những cuốn sách, video tuyên truyền sai lệch .v.v... tất cả nhằm để tránh một thảm cảnh đã xảy ra với Pompeii.
Rất tiếc rằng, không phải ai cũng học được những bài học mà người  Pompeii để lại. Suốt dòng lịch sử , vẫn không ngừng có những dân tộc, những nhóm người, những con người sa
đọa vào hưởng thụ, dâm dục, giết chóc... để rồi có những kết cục thê thảm.
Reply
GIANG HỒ MỘT THỜI… VÀ THẢM CẢNH KHI VỀ GIÀ


Luật Nhân Quả luôn tồn tại trong thế giới này, nhưng nó diễn tiến rất chậm, nhiều năm, nhiều chục năm, thậm chí nhiều kiếp sau quả báo mới đến. Điều đó khiến nhiều người không tin rằng nhân quả là sự thật.
Xong đôi khi, có những sự báo ứng nhãn tiền, diễn ra nhanh chóng trước mắt ta, giống như một lời tuyên bố hùng hồn, dù muốn tin hay không luật nhân quả vẫn luôn tồn tại.

Nhà ông Năm Rô ở đường Võ Duy Ninh, quận Bình Thạnh, TP – HCM là một ví dụ điển hình. Nhắc đến nhà ông, là người ta thấy ngay được sự báo ứng nhanh chóng của luật nhân quả.
Trước kia, khi còn trẻ, ông Năm là một tay xã hội đen cộm cán, chuyên bảo kê, đâm thuê chém mướn, không việc ác nào mà ông không làm. Vợ của ông dựa hơi chồng cũng hống hách vô cùng, gặp ai cũng chửi bới người ta bằng những từ ngữ khó nghe.
Do gia đình ông quá dữ dằn nên ai ai cũng khiếp sợ và không dám tiếp xúc để tránh phiền phức. Được nước, ông càng lấn lướt không xem ai ra gì. Hai ông bà sanh được sáu người con. Cuộc sống cứ thế dần trôi, những đứa con của ông cũng lớn lên và lập gia đình. Đứa con trai thứ hai lấy vợ và sinh được một thằng cháu trai đích tôn. Quả thật, nhờ phúc phần nào đó còn sót lại, nên nhà ông mới sinh được cháu đích tôn nối dõi tông đường.
Nhưng có phúc mà không biết bồi bổ, vun đắp, cũng như cây không tưới nước thì cây sẽ dần dần khô héo và chết. Gia đình ông Năm cũng vậy, liên tiếp những tai ương bắt đầu giáng xuống dồn dập vào gia đình ông sau những năm tháng làm đủ chuyện xấu ác.
Anh con trai cả bị ung thư. Khi bệnh ở giai đoạn cuối, anh cùng bạn bè ngồi nhậu cho khuây khoả, bà mẹ thấy vậy thì ra chửi như tát nước vào mặt, không hiểu tại sao tự dưng anh ộc máu tươi chết ngay tại chỗ.
Con trai thứ hai và con dâu của ông trở chứng, theo rủ rê của đám bạn nên bị nghiện xì ke ma túy, tiền bạc kiếm được bao nhiêu đều đốt hết dâng nàng tiên nâu. Cho đến một ngày cả hai đều phát hiện mình bị vướng phải căn bệnh thế kỉ HIV, bị căn bệnh dày vò mấy năm, rồi cả hai đều phải chết khi tuổi còn xuân. Đứa cháu đích tôn cũng không thoát khỏi nghiệp báo, cũng nghiện, cũng HIV giống như ba mẹ của nó và chết khi tuổi còn quá trẻ.
Còn anh con trai thứ ba cũng có bệnh trong người, làm việc nặng không được phải sống bám vào vợ. Cô con gái út thì mắc bệnh thế kỉ HIV nên chết. Cô có đứa con trai thì mắc chứng bệnh giống bệnh down. Ngoài ra , ông bà còn có hai đứa cháu ngoại sau này đều phải sang Campuchia làm gái.
Về phần hai ông bà ( hiện khoảng 70 tuổi), giờ sống cảnh già cô quạnh, cuộc sống nghèo túng, chứng kiến con cháu kẻ chết người sống, gia đình li tán, chẳng đứa nào sống chung chăm sóc, lòng dạ tan nát.
Những căn bệnh bắt đầu kéo nhau tới dày vò đêm ngày, làm thân thể ông bà ngày càng héo hắt. Cả hai ông bà đều bị bệnh tiểu đường, riêng bà thêm bệnh khớp và đau cột sống. Ngày trước bà vênh mặt chửi người ta bao nhiêu, giờ thì lưng còng, đầu khum xuống gần đụng đầu gối.
Đáng ra, khi tuổi về già thì có con cháu nương tựa, giờ hai vợ chồng già chỉ biết dựa vào nhau mà sống.
Những người xung quanh ai thấy cũng đều cho đây là quả báo. Câu chuyện được họ đem ra làm đầu đề mỗi khi bàn về nhân quả. Đừng nghĩ cuộc đời sẽ mãi bằng phẳng, để rồi đến khi nghiệp xấu tới có hối cũng không kịp.
Có thể bạn sẽ thắc mắc, ông bà Năm tự làm tự chịu, sao tai họa lại đổ xuống đầu con cháu?
Thực ra, toàn cảnh bức tranh quả báo rất lớn, những gì ta thấy ở hiện tại chỉ là một phần nhỏ. Trước mắt, do nghiệp báo của ông bà chiêu cảm khiến những đứa con có sẵn nghiệp xấu sinh vào làm con cháu họ, chứ không phải tại ông bà Năm mà chúng phải gánh nghiệp.
Việc chứng kiến con cháu li tán, kẻ chết người sống, và những bệnh tật tuổi già mới chỉ là hoa báo, còn quả báo chính thức, cực kì khủng khiếp thật ra đang chờ họ ở bên kia thế giới trong ba ác đạo ( địa ngục, quỷ đói, súc sinh), và ở nhiều kiếp sau nữa.
Vậy mà trên đời vẫn có rất nhiều kẻ vẫn hay vỗ ngực tự đắc ta đây là dân giang hồ,  ta đây chơi với băng này đẳng kia... Haizz , thật không biết là tự hào vì cái gì?

____________________
GIANG HỒ KHÉT TIẾNG "LÂM CHÍN NGÓN"
VÀ CÁI KẾT THẢM

Là giang hồ khét tiếng Sài Gòn nhiều năm và không coi Năm Cam ra gì nhưng đến cuối đời, Lâm "chín ngón" lại chết đau đớn trong nồi cám heo.
Theo Đại Lộ, giang hồ khét tiếng Lâm "chín ngón" tên thật là Lê Ngọc Lâm, sinh năm 1945 tại Hà Tây cũ, theo gia đình di cư vào Sài Gòn lúc mới 9 tuổi.
Năm 12 tuổi, Lâm thành trẻ bụi đời, được đưa vào làng cô nhi Thủ Đức. Tại đây, Lâm đã lần ra ngoài, nhập vào đám quân bụi đời, bán báo trước làng cô nhi...
Năm 1963, Lâm sống lang thang, được Đại Cathay, một tên giang hồ có tiếng thời bấy giờ nhận vào băng du đãng mới nổi lên ở khu Da Heo, Quận 1. Có chút học thức, đánh đấm giỏi, lại lỳ đòn, Lâm nhanh chóng được Đại Cathay tin dùng. Không bao lâu, Lâm trở thành trợ thủ đắc lực của Đại.
Trong một lần theo Đại Cathay đi đánh nhóm giang hồ khác, Lâm đã liều chết để mở đường cho đại ca thoát chết. Tuy nhiên, Lâm bị đối thủ chém đứt một ngón tay và từ đó gã có cái tên Lâm "chín ngón".
Cuối năm 1966, hàng loạt du đảng cộm cán ở Sài Gòn bị bắt, trong đó có Đại Cathay và Lâm "chín ngón". Đầu năm 1967, Đại Cathay cùng một số đối tượng tổ chức vượt ngục và bị bắn chết.
Cuối năm 1969, Lâm được tự do, băng nhóm của Đại Cathay lúc này cũng đã tan rã, không còn chỗ cho Lâm "chín ngón" dựa. Không đủ sức “khôi phục lại giang sơn” như lời dặn của đại ca Đại Cathay, Lâm "chín ngón" đã trở thành một tên cướp khét tiếng khiến người dân lúc đó hoang mang. Gã phóng xe 67 đi cướp giật của những người mới từ ngân hàng đi ra với túi xách tiền. Số tài sản hắn cướp được có khi lên đến hàng trăm cây vàng. Tất cả hắn đều đổ vào những thú vui chơi bời, trác táng, hết tiền lại đi cướp.
Năm 1970, Lâm "chín ngón" bị tóm cổ tống vào tù. Trong tù, Lâm lại thể hiện bản lĩnh của một tay xã hội đen khi nhảy tới nắm đầu, giật cây bút đâm thẳng vào đầu tướng cướp nổi tiếng Điềm Khắc Kim đang là trùm trong nhà lao lúc bấy giờ.
Trận quyết chiến này đã đưa Lâm "chín ngón" lên ngôi “ông trùm nhà lao". Khi bị giam ở nhà lao Chí Hòa, Lâm lại ra tay hạ sát Chương "khùng" - đàn em của tội phạm khét tiếng khác là Cương "võ sĩ", vốn là võ sĩ quyền anh, từng thượng đài nhiều trận ở khắp miền Nam và Campuchia.
Một hôm, Lâm đang ngồi thì đàn em vào cấp báo võ sĩ Cương đang qua "hỏi tội". Mấy tên đàn em vội dúi vào tay đại ca con dao lá lúa để nghênh chiến đối thủ.
Sau khi quát Lâm, Cương "võ sĩ" tung cú đấm như trời giáng vào mặt đối thủ nhưng bị Lâm "chín ngón" nắm cổ áo, cầm dao đâm trúng tim khiến gã giang hồ tử vong tại chỗ.
Năm 1988, Lâm "chín ngón" được trả tự do sau gần 20 năm tù tội.
Ra tù, Lâm “gác kiếm” rời khỏi giang hồ. Tuy nhiên, cuộc sống khó khăn vây quanh khiến đường về của Lâm trắc trở, gập ghềnh. Năm 1993, Lâm cưới vợ và sinh con. Lâm mở quán thịt chó bình dân trên đường 3/2, quận 10 để mưu sinh.
Lúc ấy ở Sài Gòn, Năm Cam đã trở thành thế lực ngầm số một. Thế nhưng, Lâm "chín ngón" lại không xem Năm Cam ra gì, vì trước năm 1975, Năm Cam là đàn em “tép riu” của Lâm. Bị đánh bật khỏi các cảng cá ở Vũng Tàu, Lâm "chín ngón" nghi là có bàn tay của Năm Cam. Vì vậy mà đi đâu, Lâm cũng rêu rao thoá mạ, công khai chửi bới Năm Cam.
Cuộc đời của Lâm "chín ngón" sang một ngã rẽ khác khi một sự cố bất ngờ xảy ra vào tối ngày 14.7.1999.
Khoảng 8 giờ hôm đó, Lâm chở vợ và đứa con trai 6 tuổi đi ăn tối thì bất ngờ một tên thanh niên chạy tới tạt một ca axit vào mặt gã. Lâm ôm mặt quằn quại, đau đớn.
Sau nhiều tháng chạy chữa ở Bệnh viện Chợ Rẫy, vết thương tạm lành nhưng khuôn mặt Lâm bị biến dạng khủng khiếp. Có điều đặc biệt là dù bị tai nạn khủng khiếp nhưng Lâm vẫn không hề báo công an hay tố cáo một đối tượng nào.
Sau tai nạn, nhiều người thấy Lâm "chín ngón" trở thành một con người khác hẳn, không nói, không cười, suốt nhiều năm chỉ ở lì trong một căn nhà nhỏ ở ngoại thành. Lâm không nhắc lại chuyện cũ nhưng đôi lúc, chỉ thở dài và nói một mình rằng: Ân oán giang hồ thì phải trả nhưng vẫn " cảm ơn trời" vì kẻ nào đó, dù có hiểm ác thì vẫn "hạ thủ lưu tình", không làm tổn hại đến vợ con.
Ngày 12.12.2001, ông trùm Năm Cam bị bắt. Cho đến lúc này, Lâm "chín ngón" mới đi tố cáo Năm Cam là kẻ chủ mưu vụ tạt axit năm xưa.
Tại phiên tòa xét xử Năm Cam và đồng bọn một năm sau đó, Lâm "chín ngón" đã ra trước tòa tố cáo tội ác của bọn chúng.
Thế hệ giang hồ sau này chẳng kiêng nể gì bậc đàn anh từng có số má như Lâm "chín ngón", nên cuộc đời gã rơi vào tuyệt vọng, chán chường.
Cuối tháng 10.2006, trong một lần bức bách, Lâm đã giã từ cõi đời mang nặng nghiệp chướng do mình gây ra một cách thê thảm.
Anh N.V.T, người làm công cho gia đình Lâm "chín ngón" ở trang trại kể về ngày cuối đời của chủ nhân: "Nấu rượu xong, tôi nấu thêm nồi cám heo. Sau đó, tôi ra tắm cho heo. Tôi quay lại chỗ nồi cám heo thì nhìn thấy một cánh tay người giơ lên. Quá hoảng sợ, tôi cấp báo cho những người xung quanh và chính quyền địa phương biết”.
Cơ quan chức năng đã đến làm việc, vớt người trong nồi cám heo ra và xác định đó chính là Lâm. Liền sau đó, họ phong tỏa hiện trường, đồng thời triệu tập những người liên quan về trụ sở lấy lời khai. Sau đó, thi thể Lâm được đưa về quán thịt chó tại đường 3/2 để phúng viếng và đưa đi hỏa thiêu tại lò thiêu Bình Hưng Hòa. Một kiếp giang hồ chấm dứt thê thảm như vậy, phần nào cho ta thấy sự hiển hiện của nhân quả.
Nhật Hoàng (báo Một thế giới)
Reply


Reply