Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống (3-4)
Đức Phật kể rằng từ thời Giáo Pháp của Ngài chấm dứt lúc 5.000 năm (kể từ lúc Ngài viên tịch), Giáo Pháp hết rồi thì bắt đầu chúng sanh sống mông muội, ác đức, tuổi thọ xuống. Xuống còn 10 rồi bắt đầu lên đến một a tăng kỳ. Rồi nó lại bắt đầu giảm. Giảm cho đến 80.000 thì lúc đó đức Phật Di Lạc ra đời. Điều đặc biệt là lúc Bồ tát Di Lạc ra đời thì ngài là con trai duy nhứt của vị quan thái sư trong triều. Vị đó chính là thầy của ông vua Chuyển Luân vương tên là Sankha (nghĩa là xà cừ). Điều đặc biệt nữa là Bồ tát Di Lạc có 32 tướng tốt thì vua Chuyển Luân vương này cũng có 32 tướng tốt. Trong cùng một nơi, trong cùng một hành tinh không thể có 2 Chuyển Luân vương, ông này đi ông kia mới đến được, dầu đó là cha con. Hai Chuyển Luân vương mà cùng có mặt thì được nhưng cùng cai trị thì không. Nhưng một vị Phật và một vị Chuyển Luân vương thì ok, một vị là thầy, một vị là đệ tử. Chư thiên nhân loại ai cũng biết chuyện đó hết. Nhắc lại khi tuổi thọ chúng sanh còn 80.000 thì trên trời Đâu Suất Bồ tát Di Lạc xuống làm con trai của quan Thái phó.
Kể chuyện vua Chuyển Luân vương này trong một kiếp xưa có hai cha con làm nghề thợ gỗ trong rừng. Họ gặp một vị Phật Độc Giác. Tuy họ không biết đây là Thánh nhân nhưng một lòng quý kính chăm sóc hộ trì cúng dường tứ sự. Làm cốc liêu, y áo, thuốc men thực phẩm cho ngài. Khi họ chết thì công đức hộ trì một vị Phật Độc Giác phước báu không thể nghĩ bàn, nên cả hai sanh về trời. Ở trên trời hết tuổi thọ thì người cha sanh trở lại ở tiếp trên trời. Còn người con sanh về cõi nhân loại làm vị Chuyển Luân vương tên là Mahapanada. Phước vị này quá lớn nên Đế Thích lúc đó phải cho một vị thiên tử xuống hóa hiện ra một tòa lâu đài nguy nga, vừa ý thích cho vua này sử dụng.
Người con này làm Chuyển Luân vương một thời gian thì hết tuổi thọ ổng về trời. Trong Kinh nói lẽ ra những lâu đài được hóa hiện thần thông hoặc do phước báo mà tự xuất hiện thì khi người chủ sử dụng không còn sống nữa thì nó cũng tự biến mất theo. Tuy nhiên trường hợp này lại khác.
Các vị nhớ, người cha tiếp tục ở cõi trời còn người con ở cõi nhân loại làm Chuyển Luân vương. Khi người con này hết tuổi thọ về trời thì người cha sử dụng tiếp lâu đài này. Kinh nói do phước báo của người cha quá lớn tác động lại và một phần cũng do cái nghiệp của người cha là phải xài đồ cũ. Quý vị hỏi tôi tại sao thì cái này là nghiệp bất khả tư nghì không thể hiểu được. Nhiều khi trong lúc tạo phước tạo nghiệp cái tâm có chút gì đó trục trặc, mà nhiều khi bản thân mình không nhận ra. Thường ở những người phiền não nhiều. Thí dụ người tánh bỏn xẻn dầu họ hoan hỷ làm phước nhưng trong đáy lòng họ có vài cái trục trặc. Rồi người tánh sân hận nhiều, khi họ làm phước như đi quét chùa. Lúc quét cũng vui vẻ quét nhưng do cái máu sân nhiều quá, đang quét thấy miếng đờm dãi cũng bực mà cái bực đó kéo dài cả tiếng sau mới hết. Trong khi người tánh sân ít thấy vậy thì thôi giải quyết là xong, thí dụ như vậy. Thì mai này quả lành nó trổ, phước có hưởng nhưng trong hưởng quả đó cũng có cái trục trặc.
Tôi lưu ý bà con là mình càng ít phiền não thì phước báo mình càng ok, càng viên mãn. Còn phiền não nhiều thì lúc mình làm thiện thì nó cũng có nhiều cái vướng. Do mình có thiện tâm như thế nào, cái ác tâm như thế nào nó mới có ảnh hưởng qua lại mật thiết đến nghiệp mà mình đã tạo trữ, hàm dưỡng. Mình sân nhiều thì trong quả bố thí cũng có nét của tánh sân. Mình tham nhiều lúc mình phục vụ cũng để lại cái quả người tham nhiều. Mình ganh tị nhiều, lúc đi nghe Pháp trau giồi trí tuệ nghe bằng tâm ganh tị thì mai này nó cũng thông minh trí tuệ mà bị trục trặc. Đó là tôi ví dụ thôi nghe!
Thì người con sanh về trời thì đến đời Phật Thích Ca Mâu Ni người con sanh xuống làm một triệu phú tên là Bhakdacci. Bhakdacci này đi theo Phật và đắc được Lục thông. Một ngày kia, trên đường đi hóa Đạo cùng với Đức Phật đi ngang ngôi làng cũ. Lúc đó vua chúa dân chúng tiếp đón Đức Phật rất trọng thể. Đức Phật hỏi ngài Bhakdacci một câu, là ý Ngài muốn cho mọi người thấy. Bhakdacci lúc đó mới xuất gia, trai tăng xong không chịu ngồi kế Đức Phật mà vị này ra rừng ngoài bờ sông ngồi một mình. Thì chư tăng nói ông này mới tu sao chảnh dữ, hỏng biết thiền bao nhiêu, ngay lúc có Thế Tôn có chư tăng ở đây mà không chịu ngồi, lại đi ra ngoài rừng ở bờ sông ngồi là sao. Đức Phật biết chư tăng không hiểu vị này là ai nên có thái độ vậy. Nên lát sau ra bến đò gặp vị này, vị này đảnh lễ thì Đức Phật nói “Bhakdacci, ngày xưa có một thời ngươi ở đây phải không?”. Bhakdacci nói dạ phải. Đức Phật nói ngươi thời đó là Chuyển Luân vương Padana. – Dạ đúng. Ngài nói tiếp: “Ngươi cũng có một lâu đài. Lâu đài ngươi còn ở đây mà”. – Dạ phải. Lúc đó ngài đảnh lễ xin phép Đức Phật rồi dùng thần thông bay ra giữa sông, ngài đưa chân kẹp tòa lâu đài nhấc lên khỏi mặt nước cho mọi người thấy. Lúc đó có rất nhiều ốc, rùa, tôm, cá có trong đó nó rớt ra sợ hãi đau đớn. Đức Phật ngài mới nói “Đủ rồi Bhakdacci hãy trả mọi thứ trở về vị trí cũ. Đừng làm kinh động chúng sinh”.
Xong rồi chuyện đó qua đi, sau đó người con Niết bàn. Còn người cha hết tuổi thọ cõi trời thì xuống cõi người sau khi trồi lên hụp xuống đủ cõi thì đến đời Phật Di Lạc người cha làm Chuyển Luân vương Sankha. Lúc đó cái lâu đài người con dùng tiếp tục xuất hiện cho người cha sử dụng. Nhưng một thời gian ổng cũng bỏ ngôi, ổng đi tu theo Phật Di Lạc, ổng ở trong rừng trong hang chớ không ở lâu đài của Mahapadana nữa.
Như vậy xuyên suốt nội dung bài Kinh này Đức Phật ngài nói đến một số vấn đề rất quan trọng. Đó là sự kế thừa một cách thông minh và đầy trách nhiệm của thế hệ sau đối với thế hệ trước.
Kết thúc bài Kinh ngài dạy rằng:
Giống như các hoàng tử của Chuyển Luân vương, thế hệ này sang thế hệ khác luôn sống trong tinh thần truyền thừa, kế thừa một cách thông minh đầy đủ trách nhiệm đối với vương nghiệp của phụ vương. Cũng vậy, bất cứ ai tự nhận mình là học trò, là đệ tử học Phật thương Phật, quý Phật, kính Phật tin Phật thì hãy tiếp nối truyền thống cao đẹp của ngài bằng cách tiếp tục tu tập 37 Phẩm Bồ đề. Ngài dạy rằng khi tu tập đúng như vậy thì sẽ được những lợi ích như sau: sẽ được tuổi thọ, nhan sắc, an lạc, tài sản và sẽ được quyền lực.
Các vị nghe vậy thì thấy kỳ quá. Đức Phật kêu mình buông mà sao giờ Ngài hứa với mình là hãy tu tập như vậy để được những thứ đó, thì kỳ quá phải không? Không phải vậy đâu, mình hiểu nhầm đấy thôi. Trong Kinh có nhiều chỗ, lời chúc phúc của chư tăng là ‘Mong cho người được sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh…’ Mà cứ hết thế hệ này đến thế hệ khác đọc như vậy thấy ngồ ngộ vậy thôi. Thật ra trong Kinh này cả những cái ‘sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh…’, tất cả những cái đó được Đức Phật định nghĩa khác đi nhiều lắm.
Tôi nhắc lại, khi nào chúng tỳ kheo tu tập 37 Phẩm trợ bồ đề thì chúng tỳ kheo sẽ được những lợi ích tuổi thọ, nhan sắc, tài sản, quyền lực là:
1- Sẽ được tuổi thọ. Sống lâu đây là ngụ ý vị đó tu tập Bốn thần túc: Dục, Cần, Tâm, Thẩm.
* Dục như ý túc: Dục là sự thiết tha trong thiện pháp. Thiện pháp gồm có hai: hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là mong cho mình được cái này được cái kia trong cõi luân hồi => Thiện hữu lậu. Còn thiện vô lậu là nhất tâm cầu giải thoát, nhất tâm cầu giác ngộ. Nhất tâm trong thiện pháp nói chung được gọi là Dục như ý túc.
* Cần như ý túc: là sự nỗ lực trong mục tiêu lánh ác hành thiện.
* Tâm như ý túc: là các tâm thiện có được trong lúc mình hành thiện. thí dụ người không biết giáo lý thì rất có thể chỉ hành thiện bằng tâm thiện ly trí thọ xả vô trợ. Còn người biết giáo lý, có hàm dưỡng, tu tập thì họ sẽ làm phước bằng tâm thọ hỷ hợp trí vô trợ. Tâm như ý túc nó còn bao gồm tất cả tâm đổng lực thiện. Như người có đắc thiền thì họ nghe Pháp, họ hành thiền Vipassana cũng khác người không đắc thiền. Nếu là một bậc Thánh, dầu là thánh hữu học hay La Hán thì lúc các vị làm một việc gì đó thì tâm lực lúc vị đó đang thực hiện cũng không giống người phàm phu. Biết trong room nghe kịp không? –Tâm như ý túc ở đây là các loại tâm thiện được sử dụng trong lúc làm các điều lành. Còn đối với vị La Hán thì cái thiện đó chuyển qua Duy tác, là Tố. Tức tâm này sẽ được dùng làm những việc mà lẽ ra phàm phu phải làm bằng tâm thiện. Và tâm Tố này làm được những việc giống như tâm thiện làm, có một điều nó không để lại kết quả đời sau kiếp khác, bởi đây là tâm của một người đã hiểu rõ Bốn đế một cách rốt ráo, triệt để.
(còn tiếp)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống (4-4)
Cho nên một người đã hiểu rốt ráo triệt để Bốn Đế thì làm gì có thể tạo ra ba hành. Cái mấu chốt là chỗ này. Hỏi tại sao La hán chỉ có tâm Tố, tâm duy tác mà không có tâm thiện? Bởi vì hễ còn có tâm thiện là còn dính trong ba hành (phúc hành, phi phúc hành và bất động hành). Một vị La Hán đã quán triệt rốt ráo và triệt để Bốn đế thì làm gì có vô minh. Mà không có vô minh thì làm gì có hành. Mà hễ còn có thiện (còn có phúc hành) thì nó mới còn có 32 tâm quả, trong đó có tâm tái tục đầu thai. Vì có tái tục đầu thai nó mới có lục căn, lục xúc, 6 thọ, 6 ái, bốn thủ, hai hữu… Còn người ta đã hiểu rốt ráo Bốn Đế thì đâu còn đủ điều kiện tâm lý để tạo các nghiệp thiện ác. Chỗ này nó sâu vô cùng sâu, nghe!
* Thẩm như ý túc: là trí tuệ được vận dụng, tận dụng trong lúc hành thiện.
Vị tỳ kheo nào thành tựu 4 như ý túc này là vị đó có tuổi thọ. Chú giải nói là mai này khi thành La Hán rồi ngoại trừ trọng nghiệp, đoạn nghiệp thì vị A La Hán có thể kéo dài tuổi thọ của mình bằng năng lực của thiền định, của thần thông. Năng lực đó chỉ có được ở người thành tựu Bốn như ý túc này ở cấp độ vô cùng vững mạnh, bởi vì cái dục phải mạnh, cái tâm phải mãnh liệt. Ý chí con người một là đủ xài, hai là nó yếu, ba là dư thừa. Có những người họ không tha thiết gì hết là người đó thiếu Dục như ý túc. Mình phải biết chỗ này. Dầu thành thánh rồi đi nữa mà nhiều vị Dục như ý túc họ không đủ mạnh để làm việc gì hết. Nên có những vị A La Hán không có thần thông, họ thì cái gì cũng muốn buông hết. Nhưng riêng những vị mà có hàm dưỡng nhiều đời họ đặc biệt lắm. Khi nào cần buông thì một, hai, ba: phủi tay. Nhưng khi nào cần làm việc thì họ cũng lập tức có ngay một tâm trạng thích hợp để làm việc đó. Thí dụ trong room này chúng ta không ai có thể nào ngồi xuống chơi xếp hình Lego hay lấy bút màu vẽ tầm bậy tầm bạ nguệch ngoạc như mấy đứa nhỏ được. Tuy nhiên nếu chúng ta đang chơi với một đứa bé mình thương thì mình cũng phải ngồi bệt xuống sàn xếp hình với nó, cũng chơi những trò tào lao với nó. Mà lúc chơi mình cũng vui hết mình mà không có gượng.
Ở đây cũng vậy. Có nhiều việc vị La Hán có lục thông thì không có cần như đi thuyết Pháp độ sinh mà phải chịu trời nóng, bị chúng chửi, ăn đồ ăn thiu, bị chó rượt…tuy nhiên vì độ sinh, vì thương vị đó cũng làm. Thì lúc đó không phải vì tâm thiện mà cái tâm ngài dùng là tâm Tố.
2- Thứ hai khi sống đúng lời Phật thì mình sẽ được an lạc. An lạc đây chính là an lạc trong Bốn thiền. Tại sao an lạc đây được chỉ cho thiền? – Là bởi vì an lạc có ba:
- Thứ nhứt là an lạc của người hưởng dục. Ở cõi dục hạnh phúc là phải thấy cái này, phải nghe, ngửi, nếm, đụng, có liên hệ tới 5 dục mới thấy sướng. Nó là thứ hạnh phúc cần phải tìm kiếm, phải đầu tư, phải lệ thuộc rất nhiều điều kiện hoàn cảnh. Còn an lạc của thánh nhân là kiểu hạnh phúc nằm giữa phàm và thánh, của người vừa chấm dứt cơn bịnh trầm kha. Là an lạc của một người vừa trút được gánh nặng phải mang vác sau một ngày trời khó nhọc.
Tôi vẫn nói hoài, hạnh phúc, một là có được cái gì đó. Hai là không có cái gì đó. Hạnh phúc của thánh nhân là an lạc của người không có cái gì đó, buông được cái gì đó, buông hết phiền não. Tu đà hườn biết rằng ta có dễ duôi cách mấy thì cũng không đi quá 8 kiếp. Nhị quả Tư đà hàm biết rõ rằng ta có dễ duôi cách mấy cũng chỉ còn trở lại cõi Dục một lần nữa thôi. Tam quả biết rằng ta có ra sao đi nữa thì khi bỏ thân nhân loại này ta sẽ vĩnh viễn không bao giờ trở lui cõi Dục nữa. Còn vị La Hán khi chứng rồi thì biết rằng chỉ cần ta hắt một hơi ra thì ngàn thu muôn kiếp vĩnh viễn không bao giờ còn trở lui cõi hiện hữu này nữa.
Nên niềm an lạc của vị Thánh vị đó có được là từ chỗ buông, là mất cái gì đó.
Còn mình thì hạnh phúc là có cái gì đó. Hạnh phúc cõi Dục là phải lệ thuộc rất nhiều điều kiện hoàn cảnh. Ở cõi thiền, hạnh phúc không còn lệ thuộc hoàn cảnh như cõi Dục nhưng nó còn là thứ hạnh phúc tạm gọi là của tục đế, của cái gì đó có thiệt (thiệt đó là thiền). Còn hạnh phúc của thánh nhân thì là của người đã rũ bỏ gánh nặng, đã vĩnh biệt căn bịnh nan y đã hành hạ ngài bao nhiêu triệu tỷ ức kiếp luân hồi. Bây giờ ngài biết ngài hết bịnh. Ngay cả một bậc thánh sống an trú trong thiền ngài cũng an lạc hơn khi ngài không sống trong thiền.
Có một lần ngài Assaji bịnh nặng quá. Đức Phật đến thăm, hỏi Assaji có chịu đựng nổi không? Ngài Assaji nói rằng ‘Con từng có đắc thiền, nhưng con lại không trau giồi. Hôm nay trong cơn đau này nếu mà con còn giữ được 4 tầng thiền trước đây thì trong cơn đau này con đã không đau như vậy’. Lúc ngài nói như vậy ngài đã là vị A La Hán rồi, thưa quý vị.
Có nghĩa là nếu an trú trong các tầng thiền Chỉ thì vị đó đạt được nhiều an lạc, mà A La Hán mà không đắc thiền không có được. Nhớ, chuyện này quan trọng lắm. Tức là A La Hán không còn tâm sân, không còn sợ chết nhưng khi đau quá vị đó sống trong tâm thân thức thọ khổ. Riêng người đắc thiền dầu là phàm, mà họ muốn chịu đựng một cơn đau, họ chỉ cần búng ngón tay, khẩy một móng tay là họ nhập định liền không còn thấy đau đớn.
Cho nên Đức Phật ngài dạy nếu tu đúng các ngươi sẽ được an lạc. An lạc đây là an lạc trong thiền.
3- Khi sống đúng lời Phật sẽ được nhan sắc. Nhan sắc đây không phải trán cao mắt sáng, mũi cao, da mịn, răng trắng, môi hồng … Mà nhan sắc là vẻ đẹp đức hạnh của một người có Giới. Một người có tăng tướng là có sự trang nghiêm có giới, có định, có niệm, có tàm, úy, từ tâm, có trí tuệ thì tự nhiên mình nhìn là mình muốn đảnh lễ. Trường hợp đó Đức Phật gọi là nhan sắc của tỳ kheo, dầu vị đó không có ngoại diện đặc biệt. Còn dầu mình có ngoại diện mà mình không có hàm dưỡng, dầu có đẹp đi nữa Du Tử Lê gọi đó là cái nhan sắc lầm than!
4- Tỳ kheo hành đúng lời Phật thì vị đó sẽ có được tài sản lớn. Tài sản đây là 4 vô lượng tâm. Hôm qua tôi nói là tôi mong trước khi chết tôi vẫn còn đủ thời gian để tôi tu 7 năm thiền quán và 7 năm từ tâm là vậy đó. Bởi với thời gian tu rốt ráo, tu miên mật, hôm nay tôi nhắc bà con, muốn tu cái này thì phải có cái gan lìa bỏ, cắt đứt triệt để hoàn toàn những mối quan hệ với bạn bè, thân quyến. Tin tôi đi, bà con còn động tới phone, facebook, còn email, còn alo còn mấy cái đó thì tôi dám hứa một điều là bà con đừng hòng tu Tứ vô lượng tâm.
Trong Kinh Tăng Chi đức Phật ngài dạy: “Này các tỳ kheo, dầu có đãi cơm cả một đại chúng vô số người cũng không bằng công đức của một người mà trong thời gian buông nắm bàn tay mà tu tập Từ vô lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm, Bi vô lượng tâm, Xả vô lượng tâm”.
Các vị có nghe kịp không, bàn tay các vị nắm và buông, cái thời gian nắm và thả tay đó mà tu tập từ bi hỷ xả thì công đức còn hơn mình đãi ăn một đại chúng countless people. Dễ sợ như vậy! Công đức vô lượng. Tu tâm từ đời sau sanh ra sức khỏe vô địch, nhan sắc vô địch, quan hệ xã hội vô địch, coi như mình có ánh mắt có cái nhìn khiến thiên hạ không thể từ chối. Các vị lên internet tìm chữ ‘11 quả báo từ tâm’ sẽ thấy hết hồn. Người từ tâm nhiều thì khi chết không hoảng loạn. Người từ tâm nhiều thì nhập định dễ hơn những người khác. Vì khi anh thiếu lòng từ với chúng sanh anh dễ bị bồn chồn, áy náy, ray rứt và sợ hãi, âu lo vô cớ. Nhưng người sống có từ tâm mãnh liệt thì họ ngồi đâu cũng ngồi với tâm trạng một người mẹ giữa bầy con của mình. Các vị hiểu không, hồi nhỏ tôi không hiểu lớn đọc Kinh mới hết hồn chỗ này: không có đề mục nào bì được với đề mục từ tâm về điểm này. Ngoài chuyện tu Tứ Niệm Xứ là con đường giải thoát tôi không dám nói tới chớ riêng cái đề mục mình đính kèm tu mỗi ngày là niệm Phật, niệm chết và niệm từ bi, niệm bất tịnh. Trong đó có cái là khi từ tâm quý vị đến mức tự tại vô ngại thì mình đi đến đâu đi nữa mình cũng ngồi với tâm trạng một người mẹ giữa đám con của mình. Hay chỗ đó, đặc biệt lắm. Cho nên tôi muốn cuối đời mình có 7 năm tu từ tâm. Dĩ nhiên trong lúc mình tu Tứ Niệm Xứ mình cũng có thể có từ tâm, nhưng không rốt ráo bằng chuyên chú từ tâm 7 năm và Tứ Niệm Xứ 7 năm. Nếu trong room này bà con nào tự xét thấy mình còn đủ 14 năm thì nghe lời tôi làm thử đi. Thứ đó chết là không cầu siêu gì hết, tự động bốc hơi, mà bốc hơi là tha hồ đi chơi! Cho nên nói Tứ vô lượng tâm là tài sản lớn của tỳ kheo.
5-Sẽ được sức mạnh, quyền lực:
Sức mạnh, quyền lực của tỳ kheo chính là Thánh trí La Hán. Trên đời này không có sức mạnh nào có thể cưỡng lại cái chết. Chỉ có thánh trí La Hán khi đã Niết bàn rồi thì vĩnh viễn không còn tái sinh. Nhớ điểm đó. Thứ hai nữa, nếu trên đời này mình không là thánh nhân thì mình còn bị chư thiên ma vương, bị phiền não tấn công, nhưng đối với vị La Hán thì không, vị này không còn phiền não nữa.
Cho nên một người tu đúng lời Phật thì sẽ được nhan sắc, tài sản, hạnh phúc và sức mạnh quyền lực. Bốn cái đó là phải hiểu như tôi đã giải thích ở trên.
Ok, chúc các vị một ngày vui. Hẹn lại ngày mai, chúng ta sẽ học. Thứ sáu chúng tôi giảng cho quý vị xong buổi chiều 7g chúng tôi lại bay tiếp. Chuyến này về Mỹ tôi ‘chạy show’ coi như khủng khiếp. Giảng A Tỳ Đàm cứ một chỗ giảng một tuần, mà nhờ vậy rút được kinh nghiệm. Kinh nghiệm chỗ nào? – Đó giờ mình giảng theo sách hoặc giảng theo cái mình thích. Còn bây giờ mình đổi qua giảng theo cái mà người ta cần. Khác nhau vậy đó, hồi đó mình bán món hàng mình có bây giờ mình bán món người ta yêu cầu.
Ok, chúc các vị một ngày vui, một đêm an lành nhiều mộng đẹp./.
Mục Lục các Bài Giảng
(Hết)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
27. Kinh Khởi thế nhân bổn
(Agganna sutta)
--ooOoo--
27. KINH KHỞI THẾ NHÂN BỔN
128. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH KHỞI THẾ NHÂN BỔN?
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại nước Xá-Vệ (Savatthi), nơi giảng-đường Lộc-Mẫu (Migàtamàtu) trong vườn Thành-Tín viên-lâm (Pubhàràma). Lúc bấy giờ vào buổi chiều, sau khi thiền-tịnh, Thế-Tôn đang đi đến giảng-đường, thì có hai tân Tỳ-kheo là Vàsettha (Bà-tất-tra) và Bhàradvàja (Bà-la-đoạ) đến thưa-thỉnh.
Nhơn nói về các Bà-la-môn tự-hào cho rằng giai-cấp của họ là cao-qúi nhứt, sanh ra từ cửa miệng của đấng Phạm-Thiên và chê-bai các giai-cấp khác sanh ra từ bàn chơn của vị nầy, đức Phật mới thuyết Kinh Khởi Thế Nhân Bổn để giảng rõ sự chuyển-thành của thế-giới nầy từ lúc sơ-nguyên cho tới khi phân-chia ra thành các giai-cấp trong xã-hội. Ngài nói: ''Trong bốn giai-cấp, vị Tỳ-kheo là bậc A-la-hán, lậu-hoặc đã diệt-tận, đạt tới chánh-trí giải-thoát. Vị ấy được gọi là tối-thượng trong tất cả giai-cấp.''
129. NỘI-DUNG KINH KHỞI THẾ NHÂN BỔN.
A.- Ý Chánh: Các hữu-tình từ cõi Quang-Âm thiên đến thế-giới nầy, lần lần bị các ác-pháp làm ô-nhiễm, phân ra bốn giai-cấp. Trái với quan-niệm tự-tôn của giai-cấp Bà-la-môn, chỉ có các bực Sa-môn đắc quả A-la-hán mới là tối-thượng.
B.- Phân đoạn: Kinh có thể chia ra ba phần:
1. Phần I: Bà-la-môn chỉ trích việc Vàsettha đi tu:
- Thế-Tôn hỏi Vàsettha, vốn thuộc gia-tộc Bà-la-môn xuất-gia, đã bị các Bà-la-môn chỉ-trích việc đi tu theo giai-cấp Sa-môn như thế nào?
- Vàsettha nói quan-niệm tự-tôn về giai-cấp của Bà-la-môn cho rằng họ sanh từ cửa miệng đấng Phạm-Thiên, còn các giai-cấp khác sanh từ bàn chơn vị nầy.
- Đức Phật bảo, Bà-la-môn do thai-sanh, sao lại bảo là sanh ra từ cửa miệng của Phạm-Thiên;
- Trong bốn giai-cấp: Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá và Thủ-đà-la, giai-cấp nào cũng có người thiện, kẻ ác; chỉ có vị Tỳ-kheo đắc A-la-hán mới là tối-thượng.
- Vua Ba-tư-nặc kính-trọng Như-Lai, đó là vì vua biết kính-trọng Pháp tối-thượng.
2. Phần II: Thế-giới nầy ở giai-đoạn chuyển-thành:
- Có nhiều chúng-sanh hữu-tình từ cõi Quang-Âm-thiên thác-sanh qua thế-giới nầy. Họ tự có hào-quang, nuôi sống bằng hỷ, phi hành trên không;
- Sau nhiều ngàn năm, loài hữu-tình đó nếm vị đất thấy ngon, ăn vào, từ đó ánh hào-quang của họ bị mất đi, và mặt trời hiện ra, có ngày đêm và thời-tiết;
- Sau nhiều ngàn năm, hương vị đất biến mất, có nấm đất nổi lên, rồi lần-lượt các loại cây leo, sau đến các loại lúa. Vì nuôi sống bằng các chất đó, thân-thể họ trở nên cứng-rắn, sắc đẹp có sai-biệt nhau, có nam-tánh, nữ-tánh rồi sanh ra các hạnh dâm.
- Lần lần các ác-pháp xuất-hiện: tích-trữ thực-phẩm, trộm cắp và tranh-đấu bằng gậy, đá...
Có nhiều hữu-tình họp nhau lại, chọn người đứng-đắn, được tôn-trọng nhứt, để ủy-nhiệm ra cầm đầu họ. Do đó xuất-hiện các danh-từ Mahà-Sammato (Mahà= lớn; sammato=ủy-nhiệm), Khattiya (Sát-đế-lợi= chủ ruộng vườn) Ràja (Vua= bực làm cho người khác hoan-hỉ với Pháp). Từ đó danh-từ Khattiya, Sát-đế-lợi, trở thành giai-cấp cao nhứt trong xã-hội xưa.
- Có nhiều hữu-tình loại-bỏ các ác-pháp, cất chòi lá trong rừng để tu thiền. Họ được gọi là Bà-la-môn (Bràhmana) và danh-từ Jhàyakà, tu Thiền, xuất hiện. Có người trong hạng nầy không tu Thiền, đi xuống thị-xã để làm sách (ghi thành các tập Kinh Vệ-đà). Từ đó danh-từ Bràhmana, Bà-la-môn, trở thành giai-cấp thứ hai trong xã-hội, hoặc họ tu Thiền, hoặc họ phúng-tụng Kinh-sách Vệ-đà.
- Một số hữu-tình làm các nghề-nghiệp khác như săn bắn hoặc các nghề hèn-mọn. Do đó hai danh-từ Vessà (Phệ-xá= các nghề sai-khác) và Suddà (Thủ-đà-la =các nghề hèn-mọn) trở thành hai giai-cấp thấp nhứt trong xã hội xưa.
3. Phần III: Các vị xuất-gia làm Sa-môn:
- Trong bốn giai-cấp: Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la, giai-cấp nào cũng có người từ bỏ gia-đình, xuất-gia làm Sa-môn;
- Họ theo Chánh-Pháp tu-tập, giữ gìn chánh-hạnh, khi chết được sanh lên cõi Trời.
- Trong bốn giai-cấp nầy, có vị Tỳ-kheo tu-tập Bảy Giác-chi, diệt-trừ hoàn-toàn các ác-pháp, ngay trong cõi đời nầy, chứng quả-vi A-la-hán, được gọi là tối-thượng trong tất cả các giai-cấp.
Đức Phật kết thúc bài Kinh bằng cách đọc lên bài Kệ được vua Trời Đại-Phạm tuyên-thuyết:
Chúng-sanh tin giai-cấp
Sát-đế-lợi tối-thắng.
Ai đủ cả Trí, Đức,
Tối-thắng giữa Nhơn, Thiên.
130. TRÍCH-ĐOẠN: THẾ-GIỚI TỪ SƠ-NGUYÊN ĐẾN KHI PHÂN-CHIA THÀNH CÁC GIAI-CẤP.
... Nầy Vàsettha, các loại hữu-tình ấy hội-họp lại và than phiền: Nầy các bạn, các ác-pháp đã hiện ra giữa các loài hữu-tình. Chúng ta trước kia (từ cõi Quang-âm-thiên đến đây) do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào-quang, phi-hành trên hư-không, sống trong sự quang-vinh và sống như vậy trong một thời-gian khá dài... Sau (đó) vị của đất hiện ra, ... có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu bẻ đất từng cục bằng tay để ăn. Vì bẻ đất bằng tay từng cục để ăn, nên hào-quang biến mất; ... mặt trời, mặt trăng hiện ra, các chùm sao hiện ra..., nên ngày, đêm hiện ra, ... nên thời-tiết và năm hiện ra. Chúng ta thưởng-thức vị đất, lấy đất làm món ăn trong một thời-gian khá dài. Khi các ác-pháp khởi lên giữa chúng ta, vị đất biến mất, nấm đất hiện ra. Nấm đất nầy có sắc, có hương, có vị. Chúng ta bắt đầu thưởng-thức nấm đất ấy,... trong một thời-gian khá dài. Vì các ác-pháp khởi lên giữa chúng ta nên nấm đất biến mất;... có cây leo hiện ra, ... biến mất nên lúa mọc tại khoảng trống hiện ra, không có cám, không có vỏ, có mùi thơm và hột trơn nhẵn... những hữu-tình ấy... lấy lúa làm chất ăn, trong một thời-gian khá dài, ... thân-hình họ trở nên cứng-rắn hơn và sắc đẹp của họ lại càng sai-biệt. Về phái nữ, nữ-tánh xuất hiện, về phái nam, nam-tánh xuất hiện... Do sự kuyến-ái, họ làm các hạnh dâm...
... Có vị hữu-tình bản-tánh biếng-nhác, giữ gìn phần của mình, đánh cắp phần của người khác, và thưởng-thức phần ấy. Người ta bắt người ấy, quở-trách ... đập anh ta bằng tay, ... bằng đá, bằng gậy. Nầy Vàsettha, bắt đầu như vậy, lấy của không cho xuất hiện, quở trách xuất hiện, nói láo xuất-hiện, hình-phạt đập đánh xuất hiện...
... Nầy Vàsettha, các loại hữu-tình ấy hội-họp lại (và bàn-tính): Chúng ta hãy đề-cử một người có sắc đẹp nhứt, được ái-mộ nhứt, (đứng ra) khiển-trách khi đáng khiển-trách, hay tẩn-xuất khi đáng tẩn-xuất. Chúng ta sẽ dành cho Người một phần lúa của chúng ta... Do đó người được lựa chọn là Mahà-sammato, bực đại-diện được ủy-nhiệm và danh-từ Khattiya, Sát-đế-lợi, (chủ ruộng vườn) được khởi lên. (Sau đó), có các vị cất chòi trong rừng để tu Thiền..., đó là các Bràhmana, Bà-la-môn, và danh-từ nầy khởi lên từ đó. (Về sau nữa) các hữu-tình chọn các nghề-nghiệp khác, nên danh-từ Vessà, Phệ-xá, xuất-hiện; và các người làm nghề hạ-tiện nên danh-từ, Suddà, Thủ-đà-la được xuất-hiện... Trong bốn giai-cấp nầy, chỉ có các vị Tỳ-kheo tu-tập theo Pháp, sống chế-ngự thân, miệng, ý, tu-tập Bảy Giác-chi, đắc quả A-la-hán, diệt-tận các lậu-hoặc, nên được gọi là tối-thượng trong tất cả giai-cấp ...
131. HỌC KINH KHỞI THẾ NHÂN BỔN NÊN CHÚ-Ý ĐẾN ĐIỂM NÀO?
1. Cũng như Kinh Ba-Lê, (kinh số 23 trong Trường-Bộ Kinh), Kinh Khởi-Thế Nhân Bổn bàn về thời-kỳ sơ-nguyên của thế-giới nầy, nhưng chú-trọng nhiều hơn đến lối sinh-hoạt và sự phân-chia giai-cấp của các chúng-sanh. Đây là bản Kinh quan-trọng, được xem như là bản trần-thuyết chánh-thức của đức Phật về nguồn-gốc của thế-giới nầy. Tuy nhiên, như đức Phật thường nhắc đi nhắc lại, Ngài biết các tri-kiến nầy và nói ra cho các vị Tỳ-kheo để biết mà thôi, chớ Ngài không hề chấp-trước vào các tri-kiến ấy; và nhờ chẳng chấp-trước nên tâm Ngài mới được hoàn-toàn an-tịnh.
2. Kinh nầy nhằm đả-phá quan-niệm tự-tôn của giai-cấp Bà-la-môn, nghĩ sằng rằng họ từ cửa miệng đấng Đại-Phạm Thiên sanh ra, còn các giai-cấp khác sanh từ nơi bàn chơn của vị ấy. Sao họ lại chẳng biết sự thai-sanh của loài người, từ bụng mẹ sanh ra?
3. Điểm son chói-lọi nhứt trong lịch-sử nhơn-loại là Phật-giáo đã đi tiền-phong trong vấn-đề xoá bỏ giai-cấp xã-hội. Trong Giáo-hội của đức Phật, vị đệ-tử thọ-giới Tỳ-kheo trước được coi cao hơn kẻ thọ-giới sau. Trong hàng đệ-tử, có đủ bốn hạng giai-cấp, như các vị hoàng-tử vừa mới xuất-gia vẫn phải kính-lễ người thợ cạo cũ của họ đã thọ-giới Tỳ-kheo trước họ.
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong-tn3.htm
--ooOoo--
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Khởi Thế Nhân Bổn (1-2)
Kinh Khởi Thế Nhân Bổn
Quote:Kalama tri ân bạn- loantrinhtp & buithibuukim ghi chép.
23/02/2022 - 02:00 - loantrinhtp
Sáng nay chúng ta học tiếp bài kinh Khởi Thế Nhân Bổn. Có đôi điều phải nói sơ qua trước khi đi vào nội dung bài kinh, tức là từ góc nhìn của cái người sinh trưởng trong thời đại khoa học, liếc mắt qua cái nội dung bài kinh này ở Chánh văn thì có đôi điều, đôi chỗ chúng ta có thể khó mà hình dung, khó mà chấp nhận, chẳng hạn như nói về cái buổi đầu sáng thế, tức là buổi đầu hình thành cái gọi là thế giới này. Nhiều lần chúng tôi đã có nói qua cái cosmology tức là vũ trụ quan của Phật giáo Nguyên thủy nó không có giống với Bà la môn giáo, cũng không giống với Cơ đốc giáo, không giống với nhiều cái tôn giáo khác.
Ở đây chúng tôi đã có nhiều lần nói là cái trái đất của mình nó chỉ là một cái hạt lựu trong cái trái lựu gồm nhiều hạt, và có vô lượng cái trái lựu như vậy. Vô lượng có nghĩa là đếm không xiết đếm không xuể, không có thể kể ra cái số lượng vũ trụ bằng con số mà mình có thể hình dung nhe. Cho nên khái niệm đầu tiên là cái hành tinh của mình nó chỉ là một hạt lựu trong trái lựu và có vô lượng trái lựu như vậy. Và mỗi trái lựu như vậy nó trải qua 4 giai đoạn thành-trụ-hoại-không. Nói nôm na là giai đoạn hình thành của nó rồi giai đoạn phôi kết của nó (buổi đầu đó), rồi sau đó bắt đầu có mặt trời mặt trăng, các vì sao và hôm nay chúng ta biết ánh sáng của các vì sao thực ra nó là phản quang của mặt trời, kể cả mặt trăng cũng vậy, cái mà mình thấy ánh sáng ở các thiên thể đó chỉ là cái ánh sáng mặt trời và cái ánh sáng đó muốn tới được trái đất của mình phải trải qua thời gian rất là dài mặc dù tốc độ ánh sáng rất là nhanh, nó tới 300.000km/s nhe. Cho nên khi mà nói rằng có sự xuất hiện của mặt trời, mặt trăng, của các tinh tú, các vì sao thì mình phải hiểu ngầm với một cái sự kết hợp như vậy đó.
Mỗi một cái trái lựu, tức mỗi một cái hành tinh như chúng ta đang sống ở đây nè thì nó cũng có một cái buổi đầu hình thành, hình thành như các vị biết thấy trong Chánh kinh, tức là mỗi một lần cái hành tinh của mình nó có mặt là nó phải trải qua những cái giai đoạn do duyên nghiệp của chúng sinh cộng với nguyên tắc vận hành của vũ trụ, của pháp hữu vi nói chung.
Tôi không gọi hành tinh mà gọi là trái lựu á, mỗi trái lựu như vậy nó có cái buổi bắt đầu, bắt đầu đây không hiểu theo nghĩa thế gian được, bắt đầu là sự hình thành một cái mới và trước đó, ở cái không gian trước đó nó đã có một cái khác và cái đó nó bị hoại đi, hoại bằng cách là nó bị lửa cháy hoặc nước làm cho tan rã hoặc gió làm cho băng hoại nhe. Cứ 7 lần hoại bằng lửa thì có một lần hoại bằng nước, 7 lần hoại bằng nước thì có một lần hoại bằng gió. Hoại bằng lửa có nghĩa là tự nhiên xuất hiện mặt trời thứ 2, 3, 4, 5, 6, 7 và với nhiệt độ của 7 mặt trời cùng lúc nung nấu thì chẳng những hành tinh này mà suốt toàn bộ những cõi Dục thiên lên tới cõi Sơ thiền nó đều cháy rụi hết. Còn hoại bằng nước nó lên tới cõi Nhị thiền. Hoại bằng gió nó lên tới hết cõi Tam thiền. Đây là những khái niệm trong kinh quý vị học cho biết, có thể thấy trong Chánh văn nhe.
Sau khi nó hoại rồi thì cái chỗ trống, cái chỗ mà trước đây nó là hành tinh đó thì nó chỉ còn là một khoảng không tăm tăm mù mù, cái khoảng không đó nó kéo dài một thời gian rất là dài, thời gian đó được gọi là không kiếp, thành-trụ-hoại-không thì cái không đó nó kéo dài một thời gian dài tương đương với cái thời gian mà nó hình thành trái đất mới thế giới mới. Nó hình thành bằng cách nào? Tức là có một trận mưa lớn, trận mưa lớn đó nó tự nhiên xuất hiện và bao nhiêu nước nó dồn lại một chỗ hình thành nên một khối lơ lửng đen ngòm và hoàn toàn trong bóng tối. Thì khối nước này mỗi lúc theo thời gian nó cô đặc lại, nó đông cứng lại, dần dần nó thành ra là trái đất, lúc đó mọi thứ vẫn là mịt mù, trước khi mà trái đất hoại á thì những chúng sinh trên hành tinh này nè họ tự nhiên theo cái quy luật họ tu tập. Có một số khá đông họ tu tập thiền định họ sinh về cái cõi Quang âm thiên, một cái tầng Phạm thiên nằm ngoài sức hủy hoại của lửa, phần còn lại những chúng sinh nào không thể sanh về cõi Phạm thiên thì họ chuyển qua một cái vũ trụ khác, chuyển qua một cái vũ trụ khác, chuyển qua một cái vũ trụ khác… rồi cứ như vậy mà vần xoay đi từ nơi này sang nơi khác.
10/03/2022 - 03:28 - loantrinhtp
Còn những chúng sanh nào sanh về cõi Quang âm thiên sau một thời gian họ mới sanh trở xuống làm nhân loại, trong hình hài của nhân loại họ có hào quang. Và họ xuất hiện bằng cách nào? Không có phải do cha sanh mẹ tạo mà là tự nhiên xuất hiện, trong Kinh gọi là Hóa sinh. Có nghĩa là tiên tổ của nhân loại buổi đầu xuất hiện trên trái đất này bằng hình thức tự xuất hiện, tiếng Pali gọi là Opapātika, có nghĩa là Hóa sinh, họ có hào quang và họ di chuyển bằng thần thông, thần thông này không phải do thiền định mà thần thông này do phước nghiệp, tiếng Pali gọi là (kammavipākajā iddhi) có nghĩa là thần thông do nghiệp sinh. Giống như là thần thông của Ngạ quỷ, Atula, Càn Thác Bà những cái hạng đó họ có thần thông, thần thông đó không phải do thiền định mà là do cái phước nghiệp sanh vào chủng loại đó tự nhiên họ có những khả năng đó, đi xuyên tường, xuyên đất, độn thổ, lặn nước, bay chỗ này chỗ kia như ý… thì cái phần Chánh văn các vị thấy rồi.
Từ chỗ sống bằng niềm hoan hỷ của tự tâm dần dần họ tình cờ họ ăn, họ nếm lại cái đất, đất lúc mới hình thành nó có vị ngon, nếm rồi từ đó họ có cái lòng tham đắm và hào quang nó mất đi, từ cái hào quang nó mất đi nó có mặt trời, mặt trăng bla bla bla…
Đó là cái đại khái, một lát nữa tôi sẽ quay lại cái này nhe. Còn bây giờ thì tôi quay lại Chánh kinh. Chánh kinh kể rằng một thời Thế Tôn ở tại ngôi chùa tên là chùa Đông Phương, mà chùa này là của bà Visākha, bà Visākha là một đại thí chủ tín nữ, giống như ông Cấp Cô Độc đại thí chủ bên nam giới vậy đó, tức là bên thiện nam có ông Cấp Cô Độc đệ nhất đàn tín, thì bên tín nữ thì có bà Visākha là đệ nhất đàn tín. Cách đây 100 nghìn đại kiếp bà cũng đã từng quỳ dưới chân một Đức Phật và bà nguyện trở thành một vị đại thí chủ cho một Đức Phật nào đó trong tương lai và do cái phước nghiệp đó sau nhiều đời sanh tử cuối cùng mới đến đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì nàng sanh lại làm một tiểu thư trong một gia đình rất là giàu có, giàu ghê lắm, ông ngoại của Visākha coi như là giàu có muôn hộ, tính theo cái thời đó đó như vậy là tỷ phú đó, tức là không thể giàu hơn nữa, giàu lắm.
Hồi nhỏ lúc 7 tuổi nàng đi chùa nàng nghe Pháp rồi nàng đắc Tu đà quờn, lúc đó mới 7 tuổi à. Rồi tới hồi lớn lên đi lấy chồng, lấy cậu công tử tên là Puṇṇakavaddhana có nghĩa là Phước Trí. Trong Kinh nói nàng mạnh lắm, cái sức mạnh của nàng bằng 5 con voi và tuy mạnh như vậy nhưng mà nàng không có cái cơ bắp giống như vận động viên, vẫn tiếp tục mảnh mai, người dong dẩy thon gọn chứ không phải cơ bắp trùng trục như nam giới mặc dù nàng rất là mạnh. Thì trong Kinh nói nàng mạnh đến mức mà ví dụ như là nàng có có thể dùng sức mạnh của mình chặn đứng một con voi đang chạy tới, chiều cao nàng không bằng nhưng cái sức á, nàng có thể lấy ngón tay nàng chận cái trán con voi làm cho nó chết tại chỗ, cái sức mạnh như vậy đó. Đây cũng là cái chuyện đọc cho biết vậy thôi chứ còn tui không có ý kiến về cái này nhe.
Và đặc biệt là nàng có một cái ngoại diện rất là đẹp, tóc đẹp, da đẹp, răng đẹp rồi cơ thể đầy đặn đúng chỗ, có nghĩa là chỗ nào cần thẳng thì thẳng, cần cong thì cong chỗ nào cần lõm thì lõm chỗ nào cần nhô thì nhô, đại khái như vậy, tôi kể kỹ như vậy vì chính vì trong Kinh nói như vậy. Thật đẹp, có nghĩa chỗ nào cần đầy chỗ nào cần khuyết thì nó được phân bố hợp lý. Da đẹp, da của nàng không ai bì được hết. Răng đẹp, tóc đẹp, tứ chi đều đẹp cho nên nàng được đặt cái tên là Visākha. Vi ở đây có nghĩa là visesa là đặc biệt-special, còn sakha ở đây có nghĩa là tay chân tứ chi nói chung tay chân đầu đều đẹp hết gọi chung 4 cái đó lại, hai tay hai chân đầu gọi là sakha nhe. Vì cả 5 cái đều đẹp hết cho nên gọi là Visākha. Visākha có nghĩa là kiều diễm hay là tuyệt mỹ, hay là thiên kiều hay là … chữ Visākha nó có nghĩa là vậy đó. Thì nàng lớn lên nàng đi lấy chồng, có một lần đó… tại vì nàng đã đắc Tu đà quờn lúc 7 tuổi rồi cứ vậy thỉnh thoảng đi chùa, rồi đi lấy chồng thì đi vào làm dâu trong một gia đình không có đức tin Phật pháp, chuyện dài lắm tôi chỉ kể vắn tắt thôi, và nàng đã tìm đủ cách để mà đưa ông cha chồng vào đạo và ông cha chồng ổng tên là Migāra, ổng thương ổng quý nàng, ổng mang ơn nàng đã giúp ổng trở về với Chánh pháp cho nên ổng gọi nàng là mẹ, ổng nói rằng trong cái quan hệ xã hội thì con là con dâu của bố nhưng trong đời sống tinh thần thì bố coi con giống như người mẹ tái tạo ra bố, cho nên bố có thể xem con như người mẹ vậy đó, từ đó nàng Visākha có một cái ngoại hiệu là (Migāramātā) Migāradhatu có nghĩa là má hay mẹ của ông Migāra.
Rồi có lần nàng đi chùa rồi cái nàng đem theo một cái áo, người nàng khoác một cái áo được kết toàn bằng bảo châu mà quý không, bảo thạch ngọc quý, thì cái áo đó nặng lắm, trong Chú giải có kể rõ kim cương nặng bao nhiêu, ngọc trai nặng bao nhiêu, mã não, hổ phách bla bla bla… nặng bao nhiêu, bao nhiêu, cái áo nặng lắm, chỉ có một mình nàng có thể khoác được cái áo đó, trùm từ trên đầu trùm cho tới cái mu bàn chân, bà con có biết cái mu bàn chân? Bàn chân mình nó có cái lưng của nó đó gọi là cái mu bàn chân nhe. Tiếng Pali gọi là pādapiṭṭhiya, piṭṭhi là cái lưng, pada là cái chân, pādapiṭṭhi có nghĩa là cái mu bàn chân, từ ở trên đầu trùm xuống tới dưới, cái áo nặng lắm, rồi khi nàng khoác cái áo đó vào đến chùa nàng nghĩ rằng trước mặt Thế Tôn và chư Thánh Tăng mà mình mặc cái áo có vẻ se sua thế này nó không có hợp đạo, cho nên nàng mới tháo cái áo ra nàng đưa cho cô hầu giữ rồi nàng ăn mặc đơn giản vào lạy Phật, nghe Pháp, đảnh lễ Chư Tăng, cúng dường bla bla… Xong rồi thì nàng mới đi về, lúc đi về ra khỏi chùa rồi nàng mới nhớ cái áo mới kêu cái cô hầu hỏi cô hầu cái áo đâu rồi, cô hầu mới nói chết rồi, em bỏ quên cái áo trong chùa rồi, thì nàng mới nói nàng hầu thế này: Nếu em trở vào mà em thấy cái áo nó nằm ở chỗ nào đó thì mình lấy, nhưng nếu mà Chư Tăng đã chạm tới, Chư Tăng đã lấy cái áo đó đem cất dùm thì chị không có mặc cái áo đó được nữa mà cái áo đó Chư Tăng đã chạm tay vô thì chị cúng luôn. Đó là Kinh nói, bởi vì nàng đã là một vị Tu đà quờn, kể cho bà con nghe chuyện này không hề có cái ý xúi bà con làm như vậy, mai mốt bỏ quên đồ trong chùa rồi mấy sư đem cất dùm cái mình cúng luôn, tui cái vụ này hông có xúi nhe. Ví dụ như quý vị cúng một cái túi LV, Gucci mấy ông sư lấy mấy cái đó làm cái gì nhe. Cho nên là cái cô hầu cổ quay vô thì thấy mất áo, thì gặp Ngài Anan, Ngài Anan hỏi: Có phải trở lại lấy cái áo hay không? Bả nói phải, cô chủ kêu con vô lấy cái áo - Cái áo ta cất dùm rồi (cái đồ quý mà hổng có để tùm lum). Ngài mới đưa cho cổ cái áo thì cổ mới đem về đưa cho Visākha, cổ nói là Ngài Anan đã giữ như vậy, thì cổ nói không được rồi, cái áo này chị phải làm phước luôn, bây giờ Chư Tăng làm sao mà nhận cái này được, thế là bả mới phát mãi, có nghĩa là bả đem bán đấu giá cái áo đó, bán cái áo đó được 9 triệu đồng vàng, kinh khủng chưa, 9 triệu đồng vàng, nàng mới lấy cái số tiền đó nàng cất cái chùa, một cái chùa rất là lớn, theo như trong đây kể đó hả chỉ riêng cái dãy lầu, tầng trệt là 500 phòng, cái tầng trên 500 phòng tổng cộng lại là 1.000 phòng, rồi chưa kể là trong đó có đủ thứ hết. Trong chùa đó bên cạnh cái dãy lầu này nàng còn cất bao nhiêu là cái công trình khác, gọi theo cái từ của mình bây giờ là cái building, là cứ 500 cái này 500 cái kia 500 cái nọ bla bla… nguyên một cái miếng đất mà Đông Phương Tự nó lớn đến mức mà coi như là phải mất 4 tháng mới đi hết cái chùa đó, nhớ nhe, nhớ cái đó, nếu mà đi hết từng phòng á thì phải mất 4 tháng, cái chùa Đông Phương của Visākha đó. Còn riêng cái chùa Kỳ Viên của ông Cấp Cô Độc nếu mà đi hết các phòng phải mất tới 9 tháng, nhe.
Mà hôm nay chúng ta về Ấn Độ chúng ta vô chùa Kỳ Viên chúng ta thấy một mảnh đất nhỏ xíu, điều đó cho thấy 2 chuyện: thứ nhất là miếng đất nguyên thủy nó to hơn miếng đất bây giờ rất là nhiều, bây giờ người ta chỉ thu gọn trong một miếng nhỏ thôi, tức là họ thấy chỗ nào nó còn có cái tàn tích kiến trúc thì người ta gom gọn cái đó để mà cho du khách tham quan chứ thật ra miếng đất nguyên thủy của chùa Kỳ Viên nó lớn lắm, bởi vì trong đây nói đi 9 tháng mới hết cái chùa Kỳ Viên, hết các phòng á. Đông Phương của Visākha đó là phải mất tới 4 tháng mới đi hết các phòng, còn chùa Kỳ Viên thì phải mất 9 tháng mới đi hết các phòng. Các vị có thể không tin thì tôi nói luôn là cái Tử Cấm Thành của Trung Quốc á nó có tới 9.999 phòng, các vị tưởng lấy con số 9.999 các vị chia cho 365 các vị coi coi nó mất bao nhiêu năm, hình như khoảng 20-21 năm gì đó, riêng cái Tử Cấm Thành, nhiều lắm. Còn ở đây mỗi ngày một phòng 9 tháng mới hết, chùa lớn lắm. Rồi chuyện kể tới đó thôi.
20/03/2022 - 07:27 - buithibuukim
20:38
Chánh Kinh ghi: một thời Thế Tôn ở ngôi chùa Pubbarama, ngôi lầu Migara (lầu có 1.000 phòng). Lúc bấy giờ Vasettha và Bharadvaja sống giữa các tỳ kheo và muốn trở thành tỳ kheo. Hai vị này là ai? – Chú giải nói hai vị này là hai vị Bà la môn còn rất nhỏ tuổi, chưa được 20 tuổi, cho nên không được thọ giới Tỳ kheo mà phải thọ giới sa di. Chánh Kinh không nói chuyện này.
Trong Đạo mình có ba trường hợp không phải là tỳ kheo nhưng được sống chung giữa các tỳ kheo:
1- Titthiyaparivasam: mình là ngoại đạo mà trong thời gian tập sự tu theo Phật giáo.
2- Apattiparivasam: là tỳ kheo phạm trọng giới đang trong thời gian phục hồi giới phẩm, trong lúc đó không còn là tỳ kheo 100% nhưng vẫn còn được phép sống bên cạnh các tỳ kheo.
3- Aparipunnavassatta: là mình chưa đủ tuổi thọ giới tỳ kheo nhưng mình phải là Sa di. Trường hợp này vẫn được sống bên cạnh tỳ kheo.
Hai vị Sa di này xuất thân từ gia đình thế gia vọng tộc, giàu có muôn hộ (mỗi người có 400 triệu đồng vàng). Họ đều tinh thông Tam Vệ Đà, và trở thành Phật tử lúc nghe được bài Kinh Vasattha (trong Trung bộ Kinh, bài 98). Sau đó họ nghe bài Kinh Tam Minh (của Trường bộ Kinh, bài 13) thì họ quyết định đi xuất gia luôn.
Buổi chiều nay khi họ nhìn thấy Thế Tôn từ trên lầu bước xuống đi kinh hành trong bóng mát tòa lầu thì họ đi theo sau lưng Ngài. Thấy vậy, Ngài hỏi: "Các ngươi xuất thân từ Bà la môn rồi đi tu như vầy có bị người ta nói gì hay không?" Họ nói: "Dạ có, họ chửi tụi con dữ lắm, họ chửi thế này thế kia bla bla bla …Họ nói dòng dõi Bà la môn cao quý mà bây giờ tụi con bỏ sáng mà về tối, bỏ cao mà về thấp. Họ bảo tụi con không chịu theo Tam Vệ Đà mà đi theo Thế Tôn rồi đầu cạo trọc lóc, ôm bát ăn xin, bla bla bla. …"
Đức Phật mới nói rằng thật ra giai cấp là khái niệm sai lầm. Làm gì có chuyện giai cấp nào cao hơn giai cấp nào. Giá trị thật sự của con người không nằm ở chỗ xuất thân.
Chỗ này mình mượn bên Tăng Chi Bộ một chút: Đức Phật ngài dạy ngọn lửa được đốt lên từ loại gỗ nào thì lửa cũng là lửa. Một người dầu có xuất thân thế nào nhưng khi biết được Chánh Pháp, tu học hành trì đàng hoàng, thì chính đời sống Đạo nghiệp tâm linh đó là ngọn lửa. Còn xuất thân của họ không quan trọng bằng Đạo nghiệp họ có được. Cũng giống như lửa được nhen lên từ loại gỗ nào thì gỗ đó không quan trọng, lửa nào cũng nóng giống nhau. Quan trọng là có lửa hay không. Đó là trong Tăng Chi.
Trở lại bài Kinh này, Đức Phật ngài dạy giá trị mỗi cá nhân nằm ở Chánh Pháp mà người đó sở hữu được, hành trì được, hàm dưỡng được chớ không phải là xuất thân của người đó. Ngài nói giống như vua Pasenadi cũng dòng vua như Thế Tôn, cũng là người chủ quản một quốc độ như Thế Tôn trước khi xuất gia. Nhưng sở dĩ vua Pasenadi đối với Thế Tôn có một lòng kính tin tuyệt đối là bởi vì vua nghĩ đến giá trị Chánh Pháp. Vua nghĩ đến việc Thế Tôn thành tựu những Pháp tánh, những hạnh lành mà vua không có được. Thế là vua có một niềm kính tin Thế Tôn khó ngờ.
Trong Tương Ưng kể rằng một ngày vua đến thăm Phật trung bình 5 lần. Có nhiều lần vua thương Thế Tôn, kính Thế Tôn đến mức vua quỳ xuống, vua lấy cái môi của mình mà hôn lên bàn chân Thế Tôn với tất cả niềm thương kính vô bờ. Một ông vua mà đi lạy một ông vua khác mà bây giờ lại hết là vua rồi thì quý vị nghĩ coi nó lạ cỡ nào. Phải nói rằng dòng Thích Ca là một bộ tộc nhỏ. Cũng là một vương quốc nhưng nhỏ so với xứ Kosala của vua Pasenadi. Trong 16 xứ của Ấn Độ đương thời thì Kosala là xứ giàu nhứt, mạnh nhứt về kinh tế, chính trị, quân sự. Ấy vậy mà vị quốc vương Kosala, vua Pasenadi, đối với Thế Tôn một niềm kính tin như vậy đó.
Nên Đức Phật ngài dạy rằng giá trị mỗi con người nằm ở Chánh Pháp chớ không phải xuất thân. Ngài xác định với hai vị Sa di như vậy xong Ngài nói thêm: Bà La Môn cho rằng giai cấp vua chúa được sanh ra từ ngực của Phạm thiên, giai cấp Bà la môn được sanh ra từ miệng của Phạm thiên. Giai cấp thương gia được sanh ra từ đầu gối, giai cấp tiện dân được sanh ra từ bàn chân Phạm thiên. Ngài nói quan điểm này là sai. Vì các ngươi cũng thấy rõ rồi. Thấy rằng các nữ Bà La Môn cũng đi lấy chồng, cũng gần gũi đàn ông, có mang rồi sanh con. Gia cấp nào cũng do cha sanh mẹ đẻ chớ đâu từ Phạm thiên tạo ra.
Rồi nhân từ chỗ nói về giai cấp, Ngài mới nói nguồn gốc từ đâu mà có khái niệm giai cấp. Ngài kể chuyện hình thành thế giới, từ buổi đầu sáng thế mọi sự nó ra sao. Và tôi xin nhắc lại lần nữa chữ ‘sáng thế’ đây là sự bắt đầu của một kiếp trái đất. Mai này trái đất bị hoại đi thì một trái đất khác hình thành thế vào chỗ trống đó. Chớ không phải nói đầu tiên tuyệt đối, mà chỉ của giai đoạn trái đất này thôi.
Thì đầu buổi giảng tôi có nói sơ sơ rồi. Trái đất mình tồn tại một thời gian nào đó thì nó tự động biến mất. Thời gian tồn tại đó là kiếp trụ. Khi nó bị băng hoại tan rã thì là kiếp hoại. Khi nó hoại mất thì còn là khoảng không tăm tăm mù mù không có gì hết gọi là kiếp không. Kiếp không kéo dài đến một lúc nào đó sẽ qua giai đoạn kiếp thành, là sự hình thành trái đất mới ở vào vị trí cũ. Mỗi giai đoạn vậy (thành, trụ, hoại, không) dài bằng nhau. Cứ như vậy, từ miên viễn thiên thu, từ bao đời kiếp thì thế giới vận hành theo trật tự đó.
Chúng ta cũng biết là có vô số trái lựu trôi nổi trong khoảng không bao la không bờ mé đó. Theo mô tả trong Kinh, mỗi vũ trụ có một mặt trăng một mặt trời.
*1.000 vũ trụ hợp thành => Tiểu thiên thế giới.
*2.000 tiểu thiên => Trung thiên thế giới
*3.000 trung thiên => Đại thiên thế giới
Có vô số đại thiên như vậy. Cứ một nhóm (group) ngàn tỷ đại thiên như vậy một lần nó tiêu hoại bị hư là hư một lúc. Nó hoại như vậy. Nó hoại xong trên chỗ trống đó lại hình thành cái mới. Và có rất nhiều cái ngàn tỷ như vậy, chớ không phải ngàn tỷ này là hết! Các vị hỏi bao nhiêu mới đi hết cái giới hạn? – Thì không! Trong Kinh không hề nói cái giới hạn của cái gọi là thế giới. Mà các vị tưởng tượng đi, làm sao có giới hạn được. Bởi vì nếu mình nói rằng hết cái này thì không còn nữa, vậy đằng sau nó là cái gì? – Chỉ nghĩ vậy thôi đã đủ điên rồi!
(còn tiếp)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Khởi Thế Nhân Bổn (2-2)
Cho nên mình chỉ cần nhớ một cách đơn giản thôi:. Là trong Kinh Vô Ngã Đức Phật ngài dạy: “Dầu sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn xa gần, thô tế, thắng liệt, quá khứ hiện tại vị lai, trong hay ngoài tất thảy đều là vô ngã vô thường. Cái gì cũng do duyên mà có. Có rồi phải bị mất (vô thường). Mà cái gì vô thường thì cái đó bất toàn, bất toại (khổ). Mà cái gì bất toàn bất toại, lại vô thường nữa thì cái đó không đáng để mình gọi nó là ‘tôi’ là ‘của tôi’. Bây giờ mình có đặt chưn đến bao nhiêu cái vũ trụ, bao nhiêu cái thiên hà đi nữa thì nó cũng chỉ quẩn quanh chừng đó”
Trong Kinh nói mỗi trái lựu ( mỗi một thế giới) có nhiều hột. Mỗi hột là một cõi nhỏ trong đó. Thí dụ trái lựu mình có 4 hành tinh nhân loại, có 6 cõi Dục thiên, 16 cõi Sắc giới, 4 cõi Vô sắc thì ở các trái lựu khác cũng y chang như vậy đó. Dĩ nhiên có những thay đổi cần thiết. Thí dụ như ở trái lựu này đang có nền văn minh chuyên về không gian, thì ở hành tinh ở trái lựu khác thì nhân loại ở đó người ta đang thành tựu những bước đi khoa học về biển. Rồi có những hành tinh có những thành tựu khoa học về phương diện khác nữa. Có vô số chuyên ngành về khoa học được phát triển ở vô lượng vũ trụ. Cho nên dựa theo Kinh thì chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng nền văn minh của chúng ta không phải là nền văn minh cô đơn duy nhứt trong vũ trụ bao la. Có điều là xa quá nên chúng ta không thể tìm đến với nhau mà thôi.
Trong Kinh nói rằng trong vô lượng vũ trụ đó, xa lắm. Có nhiều group mà mỗi group có ngàn tỷ vũ trụ. Mà có nhiều ngàn tỷ như vậy, xa thiệt là xa mới có một Phật ra đời. Chúng ta biết có những vị Đạo sĩ đắc thiên nhãn. Khả năng thiên nhãn của họ có hai nhóm: nhóm một, họ thấy những trái lựu khác ngoài trái lựu này mình đang ở. Các vị đâu có tin rằng mặt trời, mặt trăng rồi sao Venus rồi Mars … tất cả cái đó đều nằm trong một trái lựu thôi. Dễ sợ chưa? Rồi có những vị Đạo sĩ đắc thiền họ nhìn xuyên qua vỏ trái lựu đó. Họ thấy còn vô số những trái lựu khác. Họ mới nói thế giới này là vô biên.
Mà tại sao Đức Phật nói rằng thấy thế giới vô biên là một tà kiến? – Là bởi vì họ nhìn thấy cái vô biên đó bằng góc nhìn ngã chấp: “Tôi thấy, khả năng thấy đó là của tôi, tôi đang sống trong trái lựu của tôi, thiền định thần thông này là thành quả tu học của tôi, và tôi là người sở hữu những thành quả đó.Tôi đang quan sát thế giới. Tôi có những khả năng mà người khác không có” bla bla bla … Nghĩ như vậy được gọi là tà kiến.
Rồi có những Đạo sĩ họ không có khả năng nhìn xuyên qua lớp vỏ trái lựu đó. Trong Kinh nói mỗi một thế giới như vậy được bao bọc bằng một lớp vỏ hợp kim bên ngoài. Còn bên trong lòng trái lựu đó (tôi gọi trái lựu cho quý vị dễ hình dung) có mặt trời mặt trăng. Có những vị Đạo sĩ thiên nhãn họ khả năng không thể nhìn xuyên qua được thì họ nói thế giới này là hữu biên. Nghĩa là thế giới này bị nhốt trong cái lồng, trái cầu tròn. (Chúng tôi đang giảng quý vị nghe vừa Chánh Kinh vừa Chú giải nghe).
Gom gọn lại nội dung bài Kinh, Đức Phật ngài kể từ chỗ hình thành trái đất có những chúng sanh đầu tiên xuất hiện. Sau đó khi đời sống người ta có nhiều nhu cầu, nhiều đam mê thì dần dần con người mất đi linh giác: hào quang mất, khả năng bay nhảy mất, phải đi bằng chân, làm việc bằng tay. Dần dần mới để ý những cái khác nhau như cơ thể mình không giống người kia, rồi gọi là nam là nữ, (giống như chuyện Thánh Kinh Adam và Eva). Buổi đầu thức ăn có sẵn trước mắt. Rồi từ từ nảy sinh vấn đề sở hữu, rồi trộm cắp, ý niệm chủ quyền. Từ khi có sở hữu mới nảy ý niệm chủ quyền => nảy sinh các tệ nạn. Để giải quyết tệ nạn nảy sinh vấn đề pháp luật. (Trang Tử,Lão Tử (Trung Hoa) nói sống trở về với thiên nhiên thì không cần tới pháp luật). Nhưng khi có toan tính (cơ tâm) thì đời sống chuyển qua cơ khí và cơ giới, từ đó hình thành cơ xảo. ‘Cơ khí cơ giới’ đây không hiểu theo nghĩa bây giờ là technology, industry mà phải hiểu theo từ Hán xưa. Cơ khí là biết nghĩ đến các phương tiện làm việc. Từ những tính toán (cơ trí) phương tiện làm việc đó dẫn đến cơ xảo. Nghĩa là con người bắt đầu nghĩ đến đủ thứ chuyện: phòng vệ, cảnh giác, lừa đảo, tấn công người khác bằng đủ trò này nọ, ma mãnh lật lọng.
Đam Mê và Bất Mãn
Đó là nói thế giới ở mức độ vĩ mô. Còn ở mức vi mô, ngay trong bản thân mình, nếu mình sống đơn giản thì mình sẽ không có nhiều rối rắm. Chính vì con người có đam mê nên có bất mãn.
- Khi có đam mê thì theo đuổi những cái mình thích.
- Có bất mãn thì tìm đủ cách để mình chạy trốn cái mình ghét.
Ngay trong đời sống này, chỉ riêng việc theo đuổi cái mình thích là đã phiền rồi, còn nói gì chuyện giải quyết cái mình ghét.
Như vậy, toàn bộ đời sống chúng sinh từ góc độ triết học hay đạo học thì nó là một chuỗi dài, là hành trình theo đuổi cái mình muốn và chạy trốn cái mình ghét, thế là hình thành nên nền văn hóa, văn minh, rồi có pháp luật, có khoa học.
Ban đầu khoa học đơn giản là tìm cách thỏa mãn nhu cầu vật chất như làm sao có thể đi nhanh hơn, chuyển tải hàng hóa, vật dụng nặng, chở nhiều hơn. Từ đó nghĩ ra bánh xe. Chuyện nghĩ ra cái bánh xe là nhân loại đã mất bao nhiêu triệu năm, quý vị biết không? Rồi nghĩ ra thùng xe, trục xe, chiếc xe. Tóm gọn, văn hóa văn minh, chính trị, tâm lý học, triết học, đạo học, tôn giáo v.v…là nảy sinh ra từ nhu cầu vật chất của chúng sinh.
- Khổ thay, nhu cầu vật chất thì biết bao giờ đủ.
- Còn nhu cầu tâm linh thì khổ thay, chủng tử tà kiến ở phàm phu quá mạnh đi.
Mà chư Phật thì lâu lâu mới có một vị ra đời. Nhu cầu tâm linh có mà không có đường hướng giải quyết nên nảy sinh tà giáo, ma đạo đầy dẫy trên hành tinh này. Chính trị, văn hóa cũng vậy. Để giải quyết nhu cầu nào đó người ta mới tạo dựng ra những thứ đó, những thứ đó mới có cơ hội hình thành.
Thì nội dung theo Chánh Kinh bà con thấy rồi, tôi chỉ đúc kết chung lại như vậy thôi. Đức Phật ngài cho biết rằng có vô lượng trái lựu trôi nổi trong vũ trụ. Mội trái lựu có kiểu vô thường thành, trụ, hoại, không. Cái cũ mất đi nhường chỗ cho cái mới. Thế giới loài người hình thành từ một đời sống đơn giản theo năm tháng với sự tác động của phiền não, với sức đẩy của cái gọi là tập khí sanh tử đã nảy sinh nhu cầu trốn khổ tìm vui. Nảy sinh nhu cầu theo đuổi cái mình thích và trốn chạy lìa bỏ cái mình ghét. Chỉ từ hai chuyện này, chạy theo cái thích, trốn bỏ cái ghét mà chúng ta có nguyên một lịch sử nhân loại mấy ngàn năm với bao nhiêu thứ trong đó. Nào là chính trị, văn hóa, khoa học, tôn giáo… Mỗi lần chư Phật ra đời thì chúng ta – những người hữu duyên mới có cơ hội nhìn thấy à thì ra mình có mặt một cách vô ích trong một cái cõi tào lao! Tất cả những thứ mình thích - ghét cũng tào lao. Mình có thỏa mãn được cái thích, trốn được cái ghét thì cuối cùng cũng chỉ là tào lao! Chỉ là sự vô vị tẻ nhạt.
‘Samsara’ là vòng luân hồi. Nghĩa đen là sự trùng phục, tái hiện, lập lại mãi hoài những thứ vô vị tẻ nhạt từ đời này sang kiếp khác.
Người hữu duyên là gì?
– Người hữu duyên là những người ngay trong cái tẻ nhạt triền miên đó họ có lúc ngồi yên lại, họ nhận ra và họ chán nó, sợ nó. Giây phút chán sợ đó được gọi là giây phút họ gieo trồng chủng tử giải thoát.
Khi không có Phật ra đời thì những người chán sợ sanh tử đó lại chia ra nhiều phái nhiều hạng.
- Thường kiến: Có người theo tà kiến đi tôn thờ một đấng chí tôn vô thượng nào đó, mong sanh về một cõi nào đó, tin rằng mình có một cái tôi thế nào đó, bla bla bla …
- Đoạn kiến: Còn có người cũng chán sợ cuộc đời nhưng do tác động của đoạn kiến: khuynh hướng tâm lý cho rằng cái gì tôi không chứng minh được thì cái đó không có. Cho nên họ nghĩ thích thì cứ thích nhưng chết rồi là hết. Là vì họ không thấy được nhân quả báo ứng luân hồi không thấy được kiếp trước kiếp sau. Không thấy hàng khuất mày khuất mặt. Không tin trên đời có những người do công phu tu tập hàm dưỡng mà trở thành thánh nhân, chấm dứt phiền não, chấm dứt sanh tử. Họ chỉ tin những gì họ có thể nhìn thấy, sờ chạm chứng minh được mà thôi.
Có nghĩa là cũng sống trong dòng chảy miên viễn của dòng luân hồi, nhưng kẻ hữu duyên và người thỉnh thoảng biết dừng lại để biết nhìn quanh tìm cách nhảy ra khỏi dòng chảy đó.
Còn đa phần, thậm chí là tuyệt đại đa số chúng sinh phàm phu là tận hưởng hết mình trong cảnh giới của mình.
- Con giòi thấy đống phân là số một.
- Con chó thấy khúc xương là số một.
- Con mèo thấy con chuột,
- con rắn thấy ếch nhái là số một.
- Trong mắt người nam, người nữ mình thương là số một.
- Trong mắt người nữ, người nam mình thương là số một.
- Kẻ ham tiền thấy tiền,
- tham ăn thấy thức ăn,
- kẻ thích quyền lực thấy quyền lực là số một, bla bla bla…
Trên dòng chảy đó chúng ta không hề biết rằng mình chỉ là con kiến bám theo lá me cũng có, bám lá mít cũng có, bám lá bàng, lá chuối cũng có.
Chúng ta quên mất một chuyện đã là LÁ thì sớm muộn gì cũng MỤC. Và đã là lá trên dòng chảy thì mình chỉ là một phiêu vật trên đó mà thôi. Chẳng có gì đáng để đắm đuối đam mê, nắm níu hết.
Nhưng khổ thay chúng ta không thấy được cái đó. Nên lâu lâu có một Đức Phật ra đời Ngài mới nói cho mình biết, thì mình tu hành để lìa bỏ dòng chảy đó. Nếu không có Phật ra đời hoặc có Phật ra đời mà mình không đủ duyên. Vì cái chán của mình chưa đủ nên chưa đủ công đức (ba la mật). Cái chán chưa đủ thì hành trang giải thoát cũng không đủ.
Phật là gì?
– Phật tiếng Pali là ‘sattasaro’ là tinh hoa của chúng sinh. Phật cũng là Buddha.
Sattasaro là: Satta: chúng sinh, sara: cốt lõi, tinh hoa => ‘Sattasara’ là tinh hoa của chúng sinh. Ngài Minh Châu dịch là ‘hữu tình tinh hoa’. Tức là trái đất này có đất đá cát, bùn sình nhưng cũng có kim cương. Chư Phật chính là kim cương trong cái đám chúng sinh.
Có nghĩa là trong vô lượng chúng sinh trôi nổi tự nhiên có người thấy chán: ‘Ủa mình ăn vậy hoài rồi mình chết hả? Mình đi làm rồi về ăn, ăn xong rồi đi làm. Đi làm cuối cùng rồi già thì vô nhà già nằm đó chờ ngáp ngáp rồi đi luôn?’ Họ nghĩ họ nản. Trong đám nản đó lại chia nhiều nhóm: có người rượu chè be bét tìm quên thế sự, tìm quên thực tại không tìm ra lời đáp. Hạng thứ hai, họ chán đời quá tìm quên bằng cách đi hưởng thụ.Hưởng thụ cũng là cách để quên. Rồi có kẻ tìm quên ở tôn giáo, ở những hướng dẫn tâm linh mà cũng tào lao thuộc giới cấm thủ: tin ông này bà kia, thờ cúng khấn nguyện tùm lum hết.
Trong số hàng tỷ người mới có một người thật sự nhàm chán sanh tử.
Tôi xin bà con bình tĩnh lại nghe chỗ này. Thật ra những người miệng nói tin Phật chớ chưa chắc biết sợ sanh tử.
Chẳng qua họ nói đời là khổ vì họ thấy bịnh họ ngán. Họ thấy nghèo, thấy nợ nần, thấy thù oán, thấy pháp luật, họ thấy nóng lạnh, gai góc hầm hố… họ ngán thôi. Chớ nếu mà bây giờ họ sống được 8.000 tỷ năm, muốn gì cũng được thì quý vị tưởng tượng đi sẽ có bao nhiêu người chán sợ hiện hữu?
Cho nên phải xét lại. Cho nên nói hàng tỷ người mới có một người thực sự chán sợ sanh tử là vậy.
Khổ là sao?
– Khổ có ba:
- sự có mặt của cái làm mình khó chịu là khổ.
- Sự vắng mặt của cái làm mình dễ chịu cũng là khổ (hồi nãy nó mát giờ hết mát, đó là khổ).
- Thứ ba, mọi sự có mặt trên đời bằng cách lệ thuộc vào vô số điều kiện nhân duyên. Chính sự lệ thuộc đó là một cái khổ. Cái khổ này không phải là cái feeling nữa mà là cái tình trạng. Không có bao nhiêu Phật tử chịu hiểu cái này. Thật ra cái khổ về cảm giác (khó chịu của thân tâm) chỉ là một trong ba cái khổ thôi.
Trong cuộc đời này tất cả mọi cái từ nhỏ tới lớn đều phải lệ thuộc rất nhiều điều kiện mới có được. Nó đòi hỏi và cần đến bao nhiêu là nhân duyên mới có được.
Chính vì thấy chỗ này các bậc thượng căn mới chán. Trong khi mình, trong room này nè, even me, mình chỉ sợ cái gì làm thân tâm mình khó chịu thôi. Chớ lúc đang vui, đang yêu đời làm sao mình thấy khổ được ? Làm sao mình thấy sự có mặt này là tẻ nhạt, là vô vị, vô nghĩa, vô ích cho được?
Cho nên tôi nói trên đời này có bao nhiêu người tin Phật?
– Rất là ít.
Mà trong số những người tin Phật đó có bao nhiêu người hiểu được chữ ‘khổ’ ĐÚNG như Đức Phật đề nghị?
Trong room mình nãy giờ có nghe chỗ này không ta? – Nghe để hiểu chữ KHỔ trong đạo Phật, để hiểu tới nơi nó khó như vậy, nghe!
Cho nên quý vị nghe sơ quý vị ngạc nhiên tại sao giảng Kinh ‘Khởi thế nhân bổn’ mà nãy giờ tôi nói cái gì không mắc mớ gì hết? – Mắc mớ chứ sao không mắc mớ. Mình nói sự hình thành đời sống và vũ trụ. Và mình nói luôn cả đường thoát.
--ooOoo--
Có một chuyện vô cùng quan trọng.
Để đúc kết bài Kinh này Đức Phật có nhắc rằng để kết thúc cái khổ, chúng ta chỉ có một con đường duy nhứt ĐÓ LÀ TU TẬP.
Tu tập cái gì? Tu 37 phẩm trợ đạo (tức 37 bồ đề phần)
– Chánh Kinh đoạn 30 có ghi: “Sau khi tu tập bảy pháp Giác Chi”! Động trời chưa?
Các vị nghĩ như thế nào khi Đức Phật ngài dạy rằng giá trị con người nằm ở giá trị Chánh Pháp mà họ hàm dưỡng được, chớ không nằm ở giai cấp, ở xuất thân.
Thế giới này được hình thành do bởi phiền não của chúng sanh, do nhu cầu của chúng sanh, nên muốn hết khổ phải tu tập Thất Giác Chi . Các vị thấy có ác hay không?
Tại sao Thất Giác Chi mà tôi nói là ‘ác’?
Cái chữ Pali ‘Bodhipakkhiya’ (Bồ đề phần).
Thất Giác Chi là gì?
– Là Niệm giác chi, Trạch giác chi, Hỷ giác chi, Tĩnh giác chi, Cần giác chi, Định giác chi, Xả giác chi .
Mà ở đây nói diệt trừ các phiền não thì phải tu bảy pháp Giác chi. Các vị nghe có ác không?
– Trong khi bản Pali của người ta cái Thất Giác Chi là ‘Bojhanga’.
Còn ở đây: Bodhipakkhiya’ là ‘Bồ đề phần’. Ở đây Đức Phật ngài nói 37 Bồ đề phần – 7 nhóm pháp Bồ đề phần.
Xin hỏi trong room này có ai còn giữ bản tiếng Việt in trước 1975 hay không? Bản in Trường bộ Kinh, màu bordeux đỏ đỏ? Các vị giở lại bản in, ở đây tôi không có, thì không biết trong đó chỗ này ghi chữ gì? Chứ trong Pali rõ ràng người ta kêu ‘Bodhipakkhiya’: bảy nhóm pháp, chớ không phải 7 pháp. Mà trong bản tiếng Việt này để là Bảy pháp Giác Chi coi có chết không! Những gì tôi nói các vị có nghe kịp không?
Bảy Giác Chi là: Niệm – Trạch – Cần – Hỷ – Tĩnh – Định – Xả giác chi.
Còn 7 nhóm pháp Bồ đề phần là: Tứ niệm xứ – Tứ chánh cần – Tứ như ý túc – Ngũ căn – Ngũ lực – Thất Giác Chi – Bát chánh Đạo.
Thất Giác Chi chỉ là một nhóm trong 37 phẩm Bồ đề (37 chia có 7 nhóm). Vậy mà trong đây để là tu tập Thất giác chi, có ‘ác’ không!!!
Bây giờ tôi cho là đã giảng xong bài Kinh Khởi Thế Nhân Bổn với những điều cần nói. Hẹn các vị lại ngày mai. Nếu được ngày mai mình nói tiếp, còn không mai mình qua bài Kinh khác, bài Tự Hoan Hỷ, nội dung cũng có điểm tương tự bài Kinh này.
Tôi cho rằng bài Kinh giảng hôm nay là cái kiểu giảng có lẽ kỳ cục nhứt , là chúng tôi giảng không bám chặt vào Chánh Kinh. Ok, chúc các vị một ngày vui, một đêm an lành nhiều mộng đẹp./.
Mục Lục các Bài Giảng
(hết)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
28. Kinh Tự hoan hỷ
(Sampasàdanìya sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong28.htm
--ooOoo--
28. KINH TỰ HOAN-HỶ.
132. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH TỰ HOAN-HỶ?
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại làng Na-lan-đà (Nàlanda), trong khu rừng Pàvàrikambavana. Lúc bấy giờ, tôn-giả Xá-lợi-phất (Sariputta) đến bạch với Thế-Tôn: ''Bạch Thế-Tôn, con tin-tưởng Thế-Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, trong quá-khứ, hay tương-lai cũng như ngay trong hiện-tại, chẳng thể có một vị Sa-môn, Bà-la-môn nào vĩ-đại hơn Thế-Tôn về phương-diện giác-ngộ.'' Đức Phật quở tôn-giả đã ''đại-ngôn'', trong khi còn chưa biết được tâm-tư của chư vị Thế-Tôn, lại quá gan-dạ ''rống lên tiếng rống của con sư-tử '' !
Trong bản Kinh nầy, bằng lời-lẽ chơn-thành, với tấm lòng ngưỡng-mộ sâu-xa vào đức Bổn-sư, tôn-giả Xá-lợi-phất đã lần-lượt trình-bày các điều mình nhận-xét về truyền-thống Chánh-Pháp mà Thế-Tôn đã khéo thuyết-giảng cho các Tỳ-kheo khéo hành-trì: các thiện-pháp trong 37 phẩm trợ-đạo, các vấn-đề nhập thai, ký-tâm, kiến-định, tinh-tấn trong đạo-hạnh, giới-hạnh, phương-pháp giảng-dạy, thường-trú-luận, túc-mạng-trí, sanh-tử-trí, các loại thần-thông, v.v... Vì thấy rõ và biết chắc Thế-Tôn đã chứng-đạt tất cả các pháp Ngài giảng-dạy, và nếu muốn, Ngài có thể''đạt được đầy-đủ và dễ-dàng sự an-lạc hạnh-phúc ngay trong hiện-tại, do bốn cấp Thiền-định mang lại.'', nên Tôn-giả mới dám nói lên lời nói ''đại-ngôn'' ở trên: chẳng có ai vượt thắng Ngài nỗi, kể từ xưa cho đến nay và cả trong tương-lai nữa. Đức Phật lắng nghe và khen Tôn-giả đã trả lời Ngài một cách thuận pháp và đúng pháp.
Do đó, Kinh nầy mới mang tên Tự Hoan-Hỷ, để nói lên lòng hoan-hỷ của tôn-giả Xá-lợi-phất đối với Thế-Tôn.
133. NỘI-DUNG KINH TỰ HOAN-HỶ.
A.- Ý Chánh: Lòng hoan-hỷ của Tôn-giả Xá-lợi-phất đã nói lên sự ngưỡng-mộ chơn-thành đối với Thế-Tôn và Chánh-pháp giác-ngộ và giải-thoát mà Ngài đã truyền-dạy cho đời.
B.- Phân đoạn: Kinh có thể phân ra ba phần:
1. Phần I: Đức Phật quở Tôn-giả Xá-lợi-phất đã ''đại-ngôn.''
- Đức Phật: Còn chưa biết được tâm-tư của chư Phật, sao dám nói chẳng có ai hơn được Thế-Tôn?
- Tôn-giả Xá-lợi-phất: Tuy con chưa biết tâm-tư chư Phật, nhưng con biết truyền-thống về Chánh-Pháp, nên đặt trọn vẹn lòng tin vào giáo-pháp của Thế-Tôn.
2. Phần II: Tôn-giả Xá-lợi-phất trình-bày Giáo-pháp của Đức Phật:
- Truyền-thống về Chánh-Pháp: tất cả các bậc Thế-Tôn trong thời quá-khứ hay vị-lai đều diệt-trừ năm Triền-cái, an-trú vào bốn Niệm-xứ, thành-tựu bảy Giác-chi và chứng-ngộ Vô-thượng Chánh-đẳng-giác.
Thế-Tón đã khéo thuyết-giảng:
- các thiện-pháp và 37 Phẩm Trợ-Đạo: bốn Niệm-xứ, bốn Chánh-cần, bốn Như-ý-túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác-chi và thánh-đạo Tám ngành;
- 12 nhập-xứ: mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp;
- bốn loại nhập-thai: (1)không biết mình nhập vào bụng mẹ; (2)không biết mình an-trú trong bụng mẹ, (3) không biết mình ra khỏi bụng mẹ (4) biết tất cả ba giai-đoạn của sự nhập thai.
- bốn loại ký-tâm: (1) tỏ lộ ra hình-tướng, (2) qua tiếng nói, (3) do suy-tầm tư-duy; (4) do nhập-định;
- bốn loại kiến-định: (1) quán thân, biết 32 phần trong thân-thể; (2) quán thân biết các chỗ bất-tịnh trên và trong thân; (3) quán dòng tâm-tư không gián-đoạn như đang an-trú; (4) quán dòng tâm-tư không gián-đoạn như đang không an-trú.
- Bảy Giác-chi (1) niệm, (2) trạch-pháp, (3) tinh-tấn, (4) hỷ, (5) khinh-an, (6) định, (7)xả;
- bốn tiến-bộ trong việc tu-hành: (1) hành-trì khổ, chứng ngộ chậm; (2) hành trì khổ, chứng ngộ mau, (3) hành-trì lạc, chứng ngộ chậm, (4) hành-trì lạc, chứng ngộ mau.
- chánh-hạnh trong lời nói: lời nói từ-hoà, sáng-suốt, đáng được giữ-gìn, đúng thời.
- giới-hạnh của con người: thành-tín, không lừa gạt, không lấy lợi cầu lợi, hộ-trì các căn, ăn uống tiết-độ, hành-động ôn-hoà, luôn giữ chánh-niệm, tỉnh-giác, chịu đựng , không tham-dục.
- đường-lối giảng-pháp tùy căn-cơ của đệ-tử, dạy bốn đạo-quả: (1) Dự-lưu, (3) Nhứt-lai, (3) Bất-lai, (4) A-lahán và Niết-bàn;
- vấn-đề Thường-trú luận: biết bản-ngã và thế-giới thường-trụ vào (1) nhiều đời; (2) nhiều kiếp (3) nhiều thành-kiếp và hoại-kiếp;
- vấn-đề thần-thông: túc-mạng-trí, sanh-tử-trí, và hai loại thần-túc-thông hữu-lậu và vô-lậu.
3. Phần III: Tôn-giả Xá-lợi-phất giải-bày lòng hoan-hỉ về sự tin-tưởng vào Thế-Tôn và Giáo-pháp của Ngài.
- Xá-lợi-phất: Không có một ai có thể chứng biết hơn Thế-Tôn về các pháp và các vấn-đề trên.
- Tôn-giả Udàyi: Kỳ-diệu thay ! Như-Lai có đại-thần-lực nghiêm-túc như vậy, mà không tự mình nói ra.
- Thế-Tôn: Nầy Xá-lợi-phất, nếu có kẻ ngu nào còn nghi-ngờ đối với Như-Lai, Ngươi nên nói các pháp phân-biệt nầy, thì sự nghi-ngờ của họ sẽ được trừ-diệt.
- Như vậy, Tôn-giả Xá-lợi-phất nói lên lòng HOAN-HỶ của mình đối với Thế-Tôn.
134. TRÍCH-ĐOẠN: NIỀM KÍNH-TÍN ĐỐI VỚI TÔN-SƯ
- Bạch Thế-Tôn, những gì có thể đạt được bởi một thiện-nam-tử có lòng tin, có tinh-tấn, có kiên-trì... đều được Thế-Tôn chứng-đạt... Thế-Tôn không có đam-mê các dục-lạc... đê-tiện, hèn-hạ, thuộc phàm-phu, không xứng bực Thánh, không có lợi-ích. Thế-Tôn cũng không đam-mê tu-hành khổ-hạnh, ... không xứng bực Thánh, không có lợi-ích. Thế-Tôn có thể đạt được, nếu Ngài muốn, một cách dễ-dàng, một cách đầy-đủ, sự hạnh-phúc ngay trong hiện-tại, do bốn Thiền-định đem lại.
Bạch Thế-Tôn, nếu có ai hỏi con: ''Nầy Hiền-giả Sariputta, trong thời quá-khứ, ... trong thời vị-lai, có vị Sa-môn, Bà-la-môn nào còn lớn hơn, còn sáng-suốt hơn Thế-Tôn về sự giác-ngộ?'' Được hỏi như vậy, con trả lời: Không ! Bạch Thế-Tôn, nếu có ai hỏi con... trong thời quá-khứ, ... trong thời vị lai, có vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể bằng Thế-Tôn về vấn-đề giác-ngộ, con trả lời: Có ! Bạch Thế-Tôn, nếu có ai hỏi, trong thời hiện-tại, có vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể bằng Thế-Tôn về vấn-đề giác-ngộ không, ... con trả lời: Không !
Bạch Thế-Tôn, nếu có ai hỏi con: ''Vì sao Tôn-giả Sariputta một mặt xác-nhận là có, một mặt lại xác-nhận là không có?'' ...con sẽ trả lời: ''Nầy Hiền-giả, trước mặt Thế-Tôn, tôi có nghe nói, từ nơi Ngài tôi có ghi nhận: ''Trong thời quá-khứ..., trong thời vị-lai, có các vị A-la-hán Chánh-đẳng-giác bằng Ta về phương-diện giác-ngộ. ... (và)... Không có trường-hợp, không có sự-kiện, trong một thế-giới, hai vị A-la-hán Chánh-đẳng-giác cùng xuất-hiện ở đời, không trước, không sau. Sự-kiện như vậy không thể xảy ra.''
Bạch Thế-Tôn, có phải khi được hỏi và trả lời như vậy, con đã nói lên đúng ý với Thế-Tôn, không có sai-lạc, không có hiểu-lầm Thế-Tôn? Có phải con đã trả lời thuận pháp, đúng pháp? Có phải không một đối-phương hợp-pháp nào có thể tìm ra lý-do để chỉ-trích phê-bình?
- Nầy Sariputta, được hỏi và trả lời như vậy, Ngươi đã nói lên đúng ý với Ta, không có sai-lạc, không có hiểu-lầm. Ngươi đã trả lời thuận pháp và đúng pháp. Không một đối-phương hợp-pháp nào có thể tìm ra lý-do để chỉ-trích phê-bình. (...)
135. HỌC KINH TỰ HOAN-HỶ, CHÚ-Ý ĐIỂM NÀO?
1. Một đệ-tử quá sùng-tín vị bổn-sư thường hay đề-cao vị thầy của mình. Tôn-giả Xá-lợi-phất khi bộc-lộ lòng hoan-hỷ của mình được tu-hành với một bậc đạo-sư chẳng có ai có thể vĩ-đại hơn được, đã nói lên với lời-lẽ chơn-thành các sự-thật về giác-ngộ và chứng-đắc của vị Thầy mà mình mến-phục. Thái-độ nầy đáng cho ta suy-gẫm và noi theo, khi còn nhiều kẻ khác chẳng ngượng-mồm khoe-khoang ''thành-tích tưởng-tượng'' mà vị sư-phụ họ đã lôi kéo họ vào ''đạo'' của ông ta.
2. Tôn-giả Udàyi khen đức Phật có đại-thần-lực như vậy mà không tự mình tỏ lộ ra, trong khi đó nếu có một du-sĩ ngoại-đạo nào, tự mình chứng được dầu chỉ có một pháp, họ đã giương cờ gióng trống lên rồi ! Tôn-giả thật biết cách khen thầy mình !
3. Sự vĩ-đại của đức Phật, được chứng-minh qua Giáo-Pháp của Ngài đã thực-hành và giảng-dạy, đâu cần gì bày-vẽ thêm nhìều việc nhiệm-mầu, huyền-bí để ''lóa mắt'' thiên-hạ. Đừng tưởng coi Ngài như một bực thần-linh mà được Ngài sẽ ''độ cho''. Không đâu ! Làm thế, chỉ khiến thanh-danh Ngài bị suy-giảm mà thôi, hàng Phật-tử chúng ta nên ghi nhớ lấy điều ấy.
--ooOoo--
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Tự Hoan Hỷ (1-2)
Kinh Tự Hoan Hỷ
Quote:Kalama tri ân bạn buithibuukim ghi chép.
11/03/2022 - 10:23 - buithibuukim
KINH TỰ HOAN HỶ - Sampasadaniya sutta
Theo Chú giải, một ngày kia ngài Xá Lợi Phất sau giờ cơm trưa, ngài tìm chỗ thanh vắng nghỉ trưa bằng cách nhập Thiền Quả.
Tôi nhắc lại .
Thí dụ vị Tu đà hườn nhập Thiền quả bằng cách họ sống trong tâm Sơ quả Tu đà hườn.
Vị Tam Quả thì nhập Quả Định bằng cách an trú trong tâm Tam Quả suốt thời gian họ đã chú nguyện.
Ngài Xá Lợi Phất nhập Thiền Quả A La Hán ra sao ?
Thí dụ bây giờ 12g trưa, vị đó chú nguyện trong 2 tiếng đồng hồ mình chỉ sống bằng một loại tâm duy nhứt, thí dụ đó là tâm La Hán Quả.
Thì làm sao vô đó được? Thì tùy vào căn tánh mỗi vị, có vị thì quan sát hơi thở, có vị quan sát tâm, có vị quan sát thọ (quán hơi thở, thọ quán, tâm quán).
Thí dụ nói về hơi thở đi. Thì quán hơi thở ra vô, vị đó thấy rõ rằng hơi thở đang ra dài, vô dài, ra ngắn vô ngắn. Vị đó biết rõ cái trước cái sau. Vị đó biết cái tâm biết hơi thở trước không phải là tâm biết hơi thở sau. Khi quan sát vậy, vị đó thấy được tam tướng trong hơi thở nói riêng và trong danh sắc nói chung. Đó là quan sát danh sắc qua khía cạnh tam tướng.
Tiếp theo là 4 sát na tâm chuẩn bị, cận hình, thượng tứ, chuyển tập xuất hiện theo cái cách mà vị đó đắc Đạo.
- Sát na chuyển tập là trong lúc đắc Đạo đưa mình từ phàm qua Thánh, từ tầng Thánh thấp lên tầng Thánh cao.
- Còn chuyển tập trong quá trình nhập thiền quả là chuyển tâm mình từ cái cảnh Dục giới qua cảnh Niết bàn.
- Xong rồi ngài mới an trú trong đó suốt thời gian mà ngài đã định trước.
Trong suốt thời gian đó ngài chỉ sống bằng một loại tâm đó, tâm Tứ Quả của ngài thôi.
Sau khi ngài xả Định ra xong thì ngài trở lại bình thường mắt có thể thấy, tai có thể nghe.
--ooOoo--
Hôm nay sau khi ngài Xá Lợi Phất xả Định xong, ngài nhớ lại chuyện tiền thân của ngài.
Cách đây một a tăng kỳ ngài đã gặp Đức Phật , ngài đã phát nguyện ra sao, đã tu ba la mật ra sao suốt một a tăng kỳ 100.000 đại kiếp. Cuối cùng ngài đắc Sơ quả với sự hướng dẫn của ngài Assaji (ngài thấy 4 Đế, 12 Duyên khởi), sau đó ngài đi xuất gia, nghe bài Kinh Trường Trảo (Trung Bộ 74), nghe xong ngài đắc A La Hán, thành tựu trí tuệ bậc nhất trong hàng Thinh Văn.
Ngài thấy ngài thành tựu Giới- Định- Tuệ, giải thoát giải thoát tri kiến ra sao, ngài thấy hết. Ngài thấy rằng trong hội chúng Thinh Văn của Thế Tôn không ai hơn được ngài . Ngài nghĩ xa hơn nữa là mình như vậy đó mà bậc Đạo Sư còn hơn mình rất nhiều lần. Ngài thấy thêm rằng nếu trong thế gian này nếu có một vị Phật nào khác trong quá khứ hay vị lai thì chắc chắn rằng chỉ có bằng Thế Tôn chớ không ai hơn được Thế Tôn . Ngài suy nghĩ vậy thấy hoan hỷ, thấy thêm là niềm hoan hỷ này, với nhận thức này mình có thể chia sẻ cho ai? Ngài thấy chỉ có Thế Tôn thôi. Nên ngài vào đảnh lễ Thế Tôn và kể lại suy nghĩ của ngài .
Trong Chú giải nói: “Seyathapi nama mahajano “mahasamuddo gambhiro uttano” ti jananattham yottani vateyya, tattha kod byamappamanam yottam vatteyya, kod dve byamam…”
Giống như đại dương mênh mông và sâu thẳm, khả năng xác định độ rộng và chiều sâu của biển tùy thuộc vào phương tiện mình có. Như mình ra biển bằng chiếc xuồng ba lá thì không thể đi xa được, chỉ đi ra khỏi bờ một ít thôi, và xác định độ sâu rộng của biển theo khả năng của chiếc xuồng ba lá. Nghĩa là tùy phương tiện mình có mà mình xác định được phần nào cái sâu cái rộng của biển.
Cũng vậy, người không phải là chư Phật nhận xét về Phật theo khả năng mình có.
Chú giải nói rõ: Cho dầu
- 100 hay 1.000 vị Tu đà hườn thì cũng không thể hiểu Đức Phật bằng vị Tư đà hàm Nhị quả.
- 100 hay 1.000 vị Tư đà hàm cũng không hiểu Đức Phật bằng vị Tam Quả.
- 1.000 vị Tam Quả cũng không hiểu Đức Phật bằng vị Tứ Quả.
- 1.000 vị La Hán thường không hiểu Đức Phật bằng 80 vị đại đệ tử.
- Mà 80 vị đại đệ tử cũng không hiểu Đức Phật bằng hai vị đệ nhất Thinh Văn.
- Trong hai vị đó thì ngài Mục Kiền Liên không hiểu được Đức Phật bằng ngài Xá Lợi Phất.
- Và cho 1.000 người như ngài Xá Lợi Phất thì cũng không hiểu Đức Phật bằng một vị Phật Độc Giác.
- 1.000 vị Phật Độc Giác thì cũng không thể hiểu được Đức Phật Chánh Đẳng Giác bằng bản thân các vị Chánh Đẳng Giác.
Hôm nay ngài Xá Lợi Phất mới căn cứ vào khả năng của ngài mà ngài thấy đức Phật bao nhiêu thì ngài vào trình bày với Đức Phật. Ngài trình bày đơn giản suy nghĩ, ngài thưa với Phật rằng: “Theo con hiểu thì trong quá khứ, trong vị lai không một vị nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn về trí tuệ và đức hạnh”. Bằng thì có – Trong Chú giải có kể thêm vậy: bằng thì có chứ còn hơn thì không. Tức giữa chư Phật với nhau không có sự hơn kém.
Đồng ý là ngài nói đúng, nhưng với phong cách, với tâm tư của vị Chánh Đẳng Chánh Giác thì Thế Tôn không có đơn giản chấp nhận lời tán thán đó. Ngài hỏi lại ngài Xá Lợi Phất đã biết gì về chư Phật thì ngài Xá Lợi Phất thưa rằng đúng là con không hiểu gì về chư Phật như là Thế Tôn hiểu. Nhưng trong chỗ hiểu của con thì nhiều lắm là chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai chỉ bằng Thế Tôn chớ không có ai hơn được Thế Tôn. Ngài mới trình bày những cái ngài hiểu về Đức Phật.
Thí dụ ngài nói : Con biết chính xác tất cả chư Phật đều phải thành tựu Giới- Định và Tuệ để trở thành Chánh Đẳng Giác.
Thành tựu Giới là thân khẩu ý không có cái gì sai lầm. Thành tựu Định là phải dứt hẳn 5 triền cái mới có được các tầng thiền chứng. Phải có tu tập 4 Niệm Xứ, 7 Giác Chi chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thì con nghĩ rằng tất cả chư Phật giống nhau ở điểm đó. Trong bài Kinh ngài kể từng điều như vậy:
Ở đoạn số 3:
Ngài xác định với Thế Tôn: Theo chỗ con thấy, thuyết Pháp ở đời thì không ai hơn được Thế Tôn. Khi Thế Tôn trình bày con đường giải thoát thì không ai nói khác được. Đó là Thế Tôn dạy về 37 Phẩm Bồ Đề, Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh cần, Bốn như ý túc, Năm Căn Năm Lực, 7 Giác Chi, Bát Chánh Đạo.
Chỗ này chúng ta phải quay lại một chút với Kinh Mi Tiên Vấn Đáp. Trong đó ngài Na Tiên có nói rằng Đức Thế Tôn đã làm được việc mà không phải ai cũng có thể làm được. Chỉ có chư Phật với nhau mới có thể làm được. Đó là ngài ĐỊNH HÌNH NHỮNG CÁI VÔ HÌNH. Có nghĩa là lúc còn bé mình nhìn thế giới này theo cách nhìn của một đứa bé. Là có ông bà cha mẹ rồi có đồ ăn thức uống, có con chim con cò, có hoa trái … theo nhận thức của đứa bé. Lớn lên chúng ta đi vào đời, chúng ta học hành theo trường lớp, thầy bạn sách báo chúng ta biết thêm một mớ nữa.
Một ngày kia chúng ta có chuyện vui thì chúng ta nhăn răng cười, chúng ta có chuyện buồn thì đổ nước mắt khóc. Trong những lúc vui nhứt mình không biết gì về cái vui của mình, mà lúc đau khổ nhứt mình cũng không hiểu biết gì về nỗi đau của mình. Mình sống như con cá lia thia trong lồng kính hoàn toàn mù tịt không biết gì hết. Mình cứ cho mình là trí thức, là chuyên gia về chuyên ngành đặc biệt nào đó, một lãnh vực chuyên môn nào đó, bla bla bla…Nhưng lúc tuổi già nó đến, bịnh nó đến thì mình hoàn toàn mù tịt.
Nói chung là nhìn thế giới theo cái kiểu một đứa trẻ, thậm chí còn nhìn theo cách nhìn của một người điên.
Thế giới thì có hai cách nhìn.
- Nhìn như thế nào để được an lạc giải thoát.
- Nhìn như thế nào để bị đau khổ, bị dính mắc, bị nặng nề.
Phàm phu thường là chọn cách nhìn để cho mình bị dính mắc. Chọn cách nhìn để mình bị đau khổ, để bị tham bị sân.
Cái khó của vị Chánh Đẳng Giác là mắt ngài nhìn thế giới như mình nhưng ngài biết rõ là thích trong cảnh sắc là sắc ái, sẽ gieo chủng tử cho việc mình có được con mắt trong kiếp sau. Tham ái trong 6 trần là cái ‘visa’ để chúng ta sanh tử. Các nghiệp thiện ác nó là hành trang mình mang theo vào các quốc gia mình có visa. Chuyện này không phải ai cũng thấy được. Tức mình nhìn thế giới mình thấy nó là nó chớ không biết gì hơn. Chỉ thấy nó như con mắt mình thấy. Mình nhận biết nó như tai mình nghe được, mình ngửi, nếm, sờ chạm, suy nghĩ được theo cái kiểu của mình.
Mà cái khó đây là Đức Thế Tôn sống trong cuộc đời này, ngài quan sát chúng sanh ngài thấy rõ
- đây là con đường để đi làm trùn dế.
- Ngài nhìn sinh hoạt của chúng sanh ngài biết con đường này là trở thành chư thiên,
- đường này trở thành Phạm thiên,
- thành người giàu,
- người nghèo,
- đây là con đường dẫn đến sanh tử,
- đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt sanh tử.
Trong khi đó những cái ngài quan sát cũng là những cái chúng ta nhìn thấy. Mình cũng thấy người khác vui buồn, thấy người khác ăn uống, sinh hoạt, thấy người già trẻ, khỏe đau y như ngài nhìn,.
Nhưng ngài nói cho mình biết: đây
- suy nghĩ này là Thất Giác Chi.
- Suy nghĩ này là Bát Chánh Đạo.
- Suy nghĩ như vầy là Tứ Niệm xứ,
- là tham,
- là sân,
- là hoài nghi,
- trạo hối,
- phóng dật…
Những cái đó rất khó.
Ngài Na Tiên nói rằng cũng nhìn thế giới này như mọi người nhìn thấy, nhưng Đức Thế Tôn vạch rõ cho biết bản chất mọi thứ là gì, cái nào là con đường dẫn đến cảnh giới nào; vì đâu có nụ cười đó; vì đâu có giọt nước mắt đó. Vì đâu chúng sanh an lạc và đau khổ. Vì đâu chúng sanh sanh tử và giải thoát. Cái này rất là khó!
Tôi nhớ Goethe, thi hào Đức cũng nói một câu giống vậy: “Thiên tài là gì? Thiên tài là người có khả năng định hình những thứ vô hình”. Thí dụ trước khi có những Mozart, Chopin, Beethoven thì âm nhạc thế giới nằm hẳn trong bóng đêm nhận thức về âm nhạc. Chính những thiên tài ra đời họ cho mình biết chỉnh thùng đàn đó, sợi dây đàn đó, phím đàn đó, trục đàn đó cộng lại nó ra những bản giao hưởng như thế nào. Họ cho mình nghe được cả âm thanh của mùa hè. Họ cho mình thấy được, cảm nhận được cảm xúc của người chơi đàn. Họ dạy cho nhân loại biết cách bày tỏ cảm xúc của mình và cách đọc hiểu được cảm xúc của người khác qua âm thanh.
Phải thiên tài họ mới làm được chuyện đó: định hình những thứ vô hình.
- Chỉ là âm thanh thôi mà nhờ các thiên tài âm nhạc hôm nay chúng ta có cả một ngành nhạc học hùng hậu, sâu thẳm, bao la.
- Bên hội họa cũng vậy,
- kiến trúc cũng vậy. Chỉ là đất đá thôi mà qua tay kiến trúc sư họ cho mình thấy nào là Kim tự tháp, là Vạn lý trường thành, nào là Capital Hall, nào là Nhà Trắng, tháp Eiffel.
Trong khi người bình thường không thể nào nhìn đống đất đá đó mà có thể hình dung ra tác phẩm lớn như vậy.
Cho nên ở đây ngài xá Lợi Phất tán thán Thế Tôn: Trong cuộc sống này Thế Tôn nhìn ra được mọi sự bản chất là gì, mục đích của nó dẫn về đâu.
Đoạn số 4:
Ngài nói chính Thế Tôn là người nhìn thế giới này qua những thứ như mọi người vẫn nhìn thấy; nhưng qua đó Ngài lại có thể trình bày về 12 Xứ.
Đó không phải chuyện dễ.
Đoạn số 5:
Ngài nói về 4 trường hợp nhập thai. Nói chung bài Kinh này ngài Xá Lợi Phất kể ra một khung sườn Giáo lý.
Một người nếu đọc cả Chánh Tạng lẫn Chú giải, chỉ riêng bài Kinh này thôi mà học cho kỹ cũng đủ để chúng ta tu hành giải thoát. Chỉ riêng bài Kinh này cũng được xem là có một nền tảng vững vàng về Phật học.
Ở đoạn 5 mình đọc sơ qua không thấy gì đặc biệt, nhưng thực ra nó rất độc đáo. Nói đến những trường hợp nhập thai trong đời. Mình tu hành như thế nào để mình trở thành hạng nào trong 4 trường hợp nhập thai (khi tái sinh) này:
1- Lúc nhập thai, tái sinh rồi ở trong bụng mẹ và ra khỏi bụng mẹ, cả ba thời điểm này mình hoàn toàn mù tịt không biết mình đang làm cái gì. Trường hợp này ám chỉ hầu hết 99,99% chúng sinh trong đời.
Như mình tu kiểu mình, giới hạnh, trí tuệ, thiền định kiểu của mình thì mình sẽ lọt vô hạng thứ nhứt, là lúc
- nhập thai,
- trụ thai và
- xuất thai
mình hoàn toàn không biết gì hết.
Cho nên nói tu hành là để giải thoát sanh tử cũng đúng, để chấm dứt phiền não cũng đúng. Tu để trở thành thánh nhân cũng đúng. Tu để không còn làm phàm phu cũng đúng. Mà mình nói tu hành để không lọt vô trường hợp thứ nhứt này cũng đúng. Là sao? – Chú giải nói chúng sinh thông thường thì lúc nhập thai, trụ thai và xuất thai hoàn toàn thất niệm, không biết gì hết.
2- Trường hợp 80 vị đại đệ tử, đại Thinh Văn (Đại Thinh Văn là có biệt hạnh, như đại đầu đà, đệ nhất thiên nhãn, đệ nhất túc mạng minh, đệ nhất Pháp sư …) coi như lúc nhập thai thì biết. Các vị biết lúc mình đang đi vào bụng mẹ nhưng lúc trụ thai và xuất thai thì không biết.
3- Trường hợp hai vị Chí thượng Thinh Văn (ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên) và các vị Phật Độc Giác thì có hai thời điểm các ngài biết: lúc nhập thai và trụ thai. Nhưng lúc xuất thai (chào đời) các ngài không biết.
Nhớ, trường hợp một, tức là ngay cả các vị A La Hán bình thường, lúc còn phàm thì các ngài cũng là người bình thường. Lúc nhập thai, lúc ở trong bụng mẹ và lúc chào đời thì không biết.
4- Hạng này là tất cả các Bồ tát Chánh Đẳng Chánh Giác kiếp chót thì các ngài biết. Các ngài biết rõ mình đang đi vào, biết mình đang ở trong bụng mẹ, và chánh niệm tỉnh giác biết rõ mình đang chào đời.
Đoạn số 6:
Nói về trường hợp nhận biết được tâm của người khác:
- Có trường hợp mình nhìn hiện tượng bên ngoài, nhìn biểu lộ của một người mà mình đoán được tâm người ta. Thí dụ thấy người ta nhăn mặt, nhíu mày, trề môi, lắc đầu, gật đầu, mình thấy người ta vui, giận, buồn, thấy ánh mắt người ta, thấy gương mặt sa sầm của người ta thì mình đoán được người ta đang có tâm trạng gì, đang có suy nghĩ gì.
- Trường hợp tiếp theo là nghe giọng nói của người ta mình đoán ra được tâm trạng người ta ra sao, ẩn ý người ta là cái gì.
- Trường hợp thứ ba, là nghe đủ câu nói. Mình không dựa vào giọng nói mà dựa vào câu nói, đợi người ta nói rõ ràng cụ thể thì mình mới biết mới đoán được người ta muốn nói cái gì.
- Thứ tư là có thần thông. Không cần nghe câu nói, không cần nhìn biểu hiện, nghe giọng nói mà chỉ cần dùng thần thông để đoán tâm người ta. Thí dụ người ở cách một bức tường, mình không nhìn thấy họ nhưng chỉ cần suy nghĩ ‘Ông A bà B đang suy nghĩ gì vậy ta?’ là vị đó lập tức biết ngay.
Các vị sẽ thấy lạ tại sao ngài Xá Lợi Phất đem chuyện này ra nói. Nếu các vị để ý, ngài cho mình thấy trên đời này chúng ta không thể sống mà không hiểu nhau, không biết gì về nhau hết. Sống là sự tương thông, là quan hệ, đối đãi giữa chúng sanh này với chúng sanh khác. Không thể nào có mặt trong đời này mà chúng ta thiếu đi sự tương thông với người khác.
Tương thông ở đây gồm có bao nhiêu cách ngài nói rõ. Có nhiều cách để trình bày thế giới này:
- Thế giới này bao gồm những cảm giác buồn vui, cũng không sai.
- Thế giới này chỉ là những giây phút thiện ác của các chúng sinh, cũng không sai.
- Thế giới này là những giây phút tương thông qua lại giữa các chúng sinh, cũng không sai.
Thí dụ tôi đến với lớp này qua giảng Kinh Tạng cũng là một cách tương thông giữa tôi với quí vị. Rồi ngay bây giờ tắt máy quí vị quay về có vợ có chồng, có con cái, cha mẹ, bạn bè, láng giềng, chòm xóm, thân nhân quyến thuộc v.v… Như vậy mình nói thế giới này là thế giới của những mối tương giao, đối đãi qua lại cũng không sai.
Tu hành là thấy rõ mọi đối đãi, mọi quan hệ, mọi tương giao là vô ích. Nói rốt ráo là vô ích.
Chẳng hạn hôm nay chúng ta phải cần đến minh sư thiện hữu vì chúng ta ngán sanh tử luân hồi quá, chúng ta mới đến để học Đạo, để trao đổi chia sẻ với nhau.
Chớ mục đích rốt ráo của người tu có nhiều cách lắm:
- Một là tu để thành thánh.
- Hai là tu để không còn phàm, không còn phiền não, để không còn luân hồi.
- Một cách nói nữa là tu để không còn ai mình chơi nữa.
Mình tu như thế nào để mai này không còn ai để mình chơi nữa. Bởi vì lúc đó không còn tái sanh thì lấy gì mà chơi?
Nên ở đây ngài trình bày thế giới qua nhiều cách. Cách ở đây ngài định nghĩa thế giới này là sự tương giao giữa loài này với loài kia, giữa chúng sanh này với chúng sanh khác mà thôi.
- Nếu nói ở khía cạnh Chân đế thì thế giới này là thế giới của danh sắc, của uẩn, xứ, giới, đế.
- Nói theo khía cạnh Tục đế thì nó là thế giới của da thịt gân xương.
Bài Kinh này giảng trong cõi người nên ngài trình bày từ quan điểm của nhân loại. Chúng ta mang thân người trong thế giới này bao nhiêu đời rồi. Trừ những lúc chúng ta làm con trùn con dế, làm chư thiên Phạm thiên. Khi mang thân người ở cõi Dục giới này bắt buộc chúng ta phải có hình hài. Chính hình hài đó bao nhiêu đời chúng ta như con cá lia thia bị nhốt trong cái hình hài đó. Bao nhiêu buồn vui thiện ác của mình đều gói gọn trong hình hài đó. Người ở trong cõi Dục này sanh tử là vì tất cả những vấn đề của cái hình hài. Tôi nói rõ vậy nghe.
Thí dụ trong room này tại sao có người là nam, người là nữ, có người đẹp người xấu, có người bịnh nhiều, có người khỏe mạnh?
- Là vì trong đời quá khứ khi mang hình hài nhân loại đã có thiện nghiệp ác nghiệp như thế nào đó.
- Mà thiện nghiệp ác nghiệp cũng từ những nhu cầu của đời sống mà ra.
Do tôi ăn, do tôi muốn ăn ngon, mặc đẹp, muốn chăn êm nệm ấm, muốn giải quyết vấn đề gì đó của xác thân này mà tôi làm các nghiệp thiện ác. Nên đời này tôi mới mang thân nhân loại như thế này.
Nhưng té ở đâu thì đứng lên từ đó. Có nghĩa muốn giải thoát thân sanh tử thì chuyện đầu tiên mình phải có cái nhìn quán chiếu về nó.
Quán chiếu ngay tấm thân này nó là đồ lắp ráp, nó chỉ gồm những món bất tịnh mà thôi. Bất tịnh là chỉ cần một người mang thân nhân loại mà luôn ý thức rõ rằng thân này lúc còn sống thì chỉ gồm các món dơ; mà chết rồi thì chỉ còn là một đống xương. Lúc đầu là xương nguyên một bộ, dần dần nó chỉ là một nhúm bột trắng hiu hắt mà thôi.
Nếu một người sống ở đời này mà luôn luôn chìm sâu trong nhận thức như vậy, tỉnh táo với nhận thức như vậy thì chắc chắn người đó sẽ được giải thoát:
- Là Phạm thiên mà không đắm chìm trong thiền định, biết đó là vô ngã vô thường thì sẽ được giải thoát.
- Là Dục thiên có thần thông có dục lạc các trò tiêu khiển giải trí mà biết rõ rằng đây là vô ngã vô thường thì người đó chắc chắn sẽ được giải thoát.
- Mang thân nhân loại mà biết rõ tấm thân này lúc bịnh lúc đau, khi sống là bất tịnh mà chi chết chỉ là một đống xương thì như vậy cũng được gọi là một con đường giải thoát.
Chỗ này tôi nói hơi xa hơi rộng, không biết trong room có theo dõi kịp không?
Nghĩa là chúng ta mang thân nhân nhân loại bởi vì
- chúng ta còn đắm chìm trong thế giới của nhân loại.
- Đắm chìm trong các trò hưởng thụ của nhân loại.
- Đặc biệt là đam mê trong tấm thân của nhân loại.
Cho nên chỉ cần nhàm chán, lìa bỏ nó, giống như trong Kinh mô tả một người bị chìm thuyền sắp chết đuối ngoài khơi, lúc đó bơi không nổi thì gặp một xác chết đang trương phình lên. Lúc đó dầu mình sợ mình gớm cách mấy mình cũng phải nương vào nó để mình không bị chết chìm.
Cũng vậy, một hành giả tu tập đúng mức thì hành giả phải coi thân này như cái xác chết nó trôi ngoài biển vậy. Mình dựa vào nó để qua cơn nguy ngập. Mình phải ăn phải tắm phải dọn dẹp nhà cửa còn không, để cái thân này có vấn đề là chết! Nó bị lạnh bị nóng bị ghẻ mình cũng chịu không nổi. Đó là ngoài da còn bên trong nội tạng nếu mình không ăn uống cẩn thận nó đổ bịnh này bịnh kia thì cũng phiền.
- Thân người khó được,
- Chánh Pháp khó gặp
nên bây giờ có được tấm thân này chúng ta phải nương nó mà tu hành, nhưng phải luôn luôn ý thức rằng nó là BẤT TỊNH, nó là VÔ NGÃ VÔ THƯỜNG, nó là mong manh sáng có mà chiều có thể mất.
Đoạn số 8:
Nãy giờ ngài Xá Lợi Phất nói rằng Thế Tôn đã trình bày như vậy về thế giới. Trong Kinh cho ta thấy rằng ngài đã đi từ vấn đề thấp lên cao, từ thô qua tế, từ dễ hiểu qua khó hiểu. Ngài trình bày tất cả những vấn đề giáo lý đó và theo ngài nếu không có Thế Tôn ra đời thì chúng sanh không có dịp biết đến những cái này:
Chúng ta không thể nào liên tưởng hiểu được chuyện rằng
- mình sanh tử luân hồi là từ tấm thân này,
- mình cũng giải thoát sanh tử từ tấm thân này.
Chúng ta làm sao biết được
- chuyện trên đời này có bao nhiêu trường hợp nhập thai, nếu không có vị Chánh Đẳng Giác ra đời?
- Nếu không có vị Chánh Đẳng Giác ra đời làm sao chúng ta nhìn cái này, nghe cái kia mà chúng ta có thể hình dung ra 6 xúc, 6 thọ, 6 căn, 6 ái, 12 xứ, 18 giới?
- Và nếu không có Chánh Đẳng Giác ra đời thì làm sao chúng ta biết được những vấn đề tiếp theo mà tôi giảng đây?
- Như ở đoạn số 8, nếu không có vị Chánh Đẳng Giác ra đời thì làm sao mình biết trên đời này có những hạng người như vậy?
(Tôi đang suy nghĩ hoài không biết những lời giảng này các vị lưu lại bằng cách nào?)
Ở trong bản dịch tiếng Việt các vị thấy có 7 hạng người, nhưng chỗ này mình phải hiểu ngầm là có 7 hạng thánh nhân:
1- Câu giải thoát hoặc Câu phần giải thoát. Vị này trước khi chứng quả La Hán thì đã thành tựu các tầng thiền chỉ. Chữ ‘câu’: couple = cặp, đôi. Nghĩa là đắc cùng lúc Thiền Chỉ lẫn thiền Quán.
2- Tuệ giải thoát: Hạng này chỉ tu Tứ niệm Xứ mà không tu thiền Chỉ trước. Chỉ thuần túy tu Vipassana mà đắc quả La Hán chấm dứt phiền não.
3- Thân chứng: Hạng này chứng quả La Hán sau khi đắc các tầng thiền Chỉ giống hạng thứ nhứt, nhưng vị này có cái Định quyền mãnh liệt, mạnh nhứt (mặc dù lúc đắc 5 quyền phải cân bằng, nhưng trong căn cơ riêng của vị này cái Định mạnh, cái vốn liếng riêng tư trong nhiều đời tu thiền Chỉ rất nhiều nên đắc Chỉ rồi có Định mãnh liệt.
4- Kiến trí: Vị này là hạng Tu đà hườn có Tuệ quyền mạnh.
5- Tín thắng giải (tên này dựa theo bản dịch của Hòa thượng Minh Châu): hạng này tu Tứ Niệm Xứ đắc Tu đà hườn mà có đức tin mạnh.
6- Tùy Pháp hành: hạng này cũng giống hạng số 4, nghĩa là Tu đà hườn có Tuệ mạnh.
7- Giống số 5, tức là Tu đà hườn mà có đức tin mạnh.
Tổng cộng có 7 hạng thánh nhân:
- Câu phần giải thoát và Tuệ giải thoát là hai hạng La hán.
- Hai hạng Thân chứng, Kiến Chí và Tín thắng giải chỉ cho các vị ba tầng thánh Hữu học, mà có sự khác biệt nhau là đức tin mạnh hay Định mạnh, Tuệ mạnh.
- Hạng số 6 số 7 có hai cách giải thích. Một là chỉ cho người đã đắc Tu đà hườn. Thứ hai, có chỗ nói là còn phàm nhưng đang trên hành trình tiến tới quả vị Tu đà hườn.
Như vậy nhờ đức Thế Tôn ra đời, chúng sanh mới biết Thất Giác Chi là gì.
Đoạn số 10.
Nhờ Đức Thế Tôn ra đời, người ta mới biết có 4 trường hợp tu chứng:
- Có những người cách hành trì rất khó khăn, đã vậy khi chứng đắc cũng chậm chạp.
- Có những người lúc hành trì thì khó khăn nhưng đắc chứng mau.
- Còn có người lúc hành trì rất thoải mái nhưng đắc chậm.
- Có người hành trì thoải mái, nhẹ nhàng và đắc mau.
(còn tiếp)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Tự Hoan Hỷ (2-2)
Thế nào là hành trì khó khăn? – Có hai nghĩa:
- Một là do ba la mật mình yếu, nó chỉ vừa đủ thôi, không thoải mái dư giả như người khác. Cho nên có những vị họ phải chịu cái cảnh đói khát bịnh hoạn, lên rừng sâu núi thẳm rắn rít, lam sơn chướng khí mấy chục năm trời rồi cuối cùng mới đắc.
- Thứ hai, hành trì khó là do đề mục. Cái trên là do kiểu sống, do hành khổ, còn trường hợp này khó là do đề mục. Đề mục nào dơ, xấu, đáng sợ thì được gọi là khó. Như tóc, lông, móng, răng, xương, … phải tiếp cận với xác chết, xác trương phình, xác bị thú ăn nham nhở, xác bị chảy máu chảy nước, tiếp xúc với xương khô, với tha ma mộ địa bla bla bla …
Tôi nói với quí vị có những đêm hôm mà quí vị nằm, quí vị lấy cái tay mằn mằn lên cái mặt mình, để định vị, để hình dung cái xương sọ của mình sau này khi mình chết. Đây, tôi đang nói mà tôi mằn mằn nè.
- Đây là gò má,
- đây là hàm răng,
- đây là cái trán,
- lỗ mũi lúc đó nó không còn như bây giờ mà nó chỉ còn miếng sụn thôi.
Lúc đó mình mới thấy cái thân này ‘dễ sợ’. Lúc còn sống mình thấy cái thân này hay ho, mình đẹp này nọ nhưng thiệt ra lấy tay mằn mằn mới thấy,
- nay mai nếu thiêu thì không nói gì,
- nếu đem chôn thì khoảng trong vòng một tháng thịt này nó mất sạch hết. Nó chỉ còn cái sọ thôi.
Ngày xưa thương gì thì thương, mến gì thì mến, rồi phấn son tô trét. Bây giờ một tháng đem lên nó là cái sọ, ghê như vậy đó!!!
Cho nên do cách tu ba la mật,
A/ có người đắc Đạo nhanh lắm.
- Họ chỉ cần nhìn cái lá vàng rơi,
- nhìn một giọt nước nhểu tan thấm trong cát là họ đắc.
- Có người nhìn ngọn lửa trong lò họ đắc.
- Có người chỉ nghe câu Pháp: “Vạn pháp do duyên sanh, vạn pháp do duyên diệt” là đắc (ngài Xá Lợi Phất).
B/ Nhưng có người khó khăn vô cùng.
Đoạn 11:
Thế Tôn thuyết Pháp chánh hạnh trong ngôn ngữ.
Chính Thế Tôn ra đời ngài mới dạy người ta biết nghĩ lại trong ngôn ngữ của mình.
Trước khi Phật ra đời chúng sanh chỉ biết hai thứ ngôn ngữ: một là nói bằng tâm bất thiện, như nói bằng tâm tham, nói bằng tâm sân.
- Tâm tham như nói với người mình thương, nói trong lúc mình vui (nói trong sự vui thích).
- Còn nói bằng tâm sân là nói trong lúc bực dọc, sợ hãi, sân hận, giận dữ, ghen tuông (nói trong sự bất mãn).
Chúng sanh không biết ngôn ngữ thứ ba là chỉ có Phật ra đời mới có. Đó là chỉ nghe ngôn ngữ, thứ tiếng nói nào, câu nói nào dẫn đến sự giải thoát.
Bản thân cái miệng mình cũng chỉ nói cái gì mà dẫn đến giải thoát.
Biết nghe và biết nói những câu có nội dung dẫn đến giải thoát.
- Người học Đạo biết Đạo họ không đặt vấn đề nói như mình thích, mình không phản ứng nói năng khi mình bực mình.
- Người học Đạo coi nặng chỗ nghe cái gì để tâm được thanh tịnh, được giải thoát; nói cái gì để mình và người được thanh tịnh được giải thoát.
Chỉ có Chánh Đẳng Giác ra đời người ta mới biết quan tâm tới ngôn ngữ thứ ba này. Chớ khi không có chư Phật thì người ta chỉ biết nói bằng hai thứ là tâm tham hoặc tâm sân, còn si thì luôn có mặt ‘trên từng cây số’. Ở đâu có tham, ở đâu có sân là ở đó có si.
Có Phật ra đời người ta mới biết nói những gì khi thật sự cần thiết. Cần thiết đây là ngôn ngữ nào mà dẫn tới giải thoát.
Đoạn 12:
Nhắc lại và nói rộng ra thêm đoạn số 11.
Đoạn 13:
Không có vị Chánh Đẳng Giác ra đời thì trong thế gian này ngoại trừ các vị Phật Độc Giác thì không còn ai biết gì về các tầng Thánh.
Tôi nhắc lại, có nhiều cách chúng ta trình bày về thế giới này.
- Mình có thể nói thế giới này là của nhân loại, là của 4 đọa xứ, thế giới của chư thiên của Phạm thiên.
- Cách thứ hai mình nói thế giới này là trụ xứ của phàm và thánh.
Nói về con đường tu học cũng có nhiều cách nói:
- Mình nói Bát Chánh Đạo là con đường giải thoát.
- Nói Tam học Giới – Định – Tuệ là con đường giải thoát.
- Nói chung 37 phẩm trợ đạo (37 pháp Bồ đề) là con đường giải thoát.
- Cách nói nữa là nếu không có vị Chánh Đẳng Giác ra đời thì người ta không có cơ hội để biết đến sự có mặt của 4 tầng thánh.
Thế giới này sẽ khác đi nếu
- có mặt các tầng Thánh và
- có người còn biết nhắc nhở các tầng thánh.
Thế giới này sẽ khá hơn khi có được hai thứ: là sự có mặt của các tầng thánh, và còn có người nhắc nhở đến các tầng thánh.
Mình tu như thế nào để mình có mặt trong một thế giới có thánh nhân như vậy.
Và khi có thánh nhân ra đời mình phải sống trong điều kiện như thế nào.
Trong Kinh nói có 8 điều kiện bất lợi cho một người khi có chư Phật ra đời. Đó là:
1- Khi có Phật ra đời mà mình câm, đui mù, điếc, bị tâm thần, khùng điên.
2- Khi có Phật ra đời mà mình bị mắc vào tà kiến cố định không thể sửa đổi.
3- Khi có Phật ra đời mình lại sanh làm người trong các bộ lạc, bộ tộc man ri mọi rợ, bán khai vùng biên địa.
4- Khi có chư Phật ra đời mà mình lại sanh vào các cõi như Vô sắc Vô tưởng.
5- Khi có chư Phật ra đời mà bản thân mình lại là người hạ căn độn trí. Thí dụ mình tái sanh bằng tâm vô nhân mình cũng bất lợi.
Chỉ có trường hợp duy nhứt là khi có chư Phật ra đời mà mình tái sanh bằng
- tâm Tam nhân (nghĩa là vô tham, vô sân, và vô si) và
- tứ chi ngũ căn ngon lành đầy đủ
- sức khỏe ok .
Chỉ có trường hợp đó mới được gọi là không hoang phí cơ hội mang thân người, không hoang phí cơ hội gặp gỡ Chánh Pháp, gặp gỡ chư Phật.
Đoạn 13 này nói rằng chỉ có trường hợp vị Chánh Đẳng Giác ra đời thì người ta mới biết đến 4 tầng thánh. Ngài Xá Lợi Phất tán thán Đức Phật rằng: "Hôm nay con nhắc được cái điều con sắp nói này là nhờ Thế Tôn. Không có Thế Tôn thì những điều con sắp nói đây là không có."
Đó là:
- Có những người trên đời này sau khi đoạn trừ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ họ trở thành vị Tu đà hườn.
- Có những người trên đời này sau khi chấm dứt ba kiết sử đó, lại làm giảm nhẹ dục ái và sân đó chính là vị Tư đà hàm.
- Có những người trên đời này sau khi chấm dứt thêm hai thứ phiền não nữa là dục ái và sân trở thành vị A na hàm.
- Có những người trên đời này chấm dứt toàn bộ tất cả phiền não và trở thành một vị A La Hán.
Thế giới này sẽ khác đi khi còn có mặt 4 tầng Thánh này, khi mà 4 tầng Thánh này còn được nhắc nhở. Đó là sự vĩ đại của Thế Tôn.
Không có Thế Tôn ra đời thì không có 4 hạng này trong đời.
Bởi vì chư Phật Độc Giác là con số rất là nhỏ. Các ngài ra đời nhiều lắm cũng chỉ là một nhóm nhỏ thôi, mà thường chỉ có một mình một hai vị thôi. Chúng sanh hoàn toàn mù tịt không biết gì về sự có mặt của các ngài.
- Thậm chí nếu một vị Phạm thiên Thánh nhân trên cõi Phạm thiên họ có nhìn, mới thấy đó là một vị Phật Độc Giác .
- Còn không thì chúng sanh chư thiên Phạm thiên thông thường họ chỉ biết ngài là người hơi khác mình vậy thôi.
- Chớ còn nhân loại còn thảm nữa. Nhân loại gặp Phật Độc Giác thì hoàn toàn mù tịt, vì các ngài không thuyết Pháp giống như vị Chánh Đẳng Giác. Còn có nhiều vị cái ngoại hình nhân dáng không được đẹp nữa .
Cho nên người ta nhìn người ta không biết đó là người đã chấm dứt phiền não.
Hôm nay mình coi Kinh điển, Tam tạng mình mới biết một chuyện hết hồn. Đó là ngài Xá lợi Phất đệ nhất trí tuệ như vậy mà cũng không bằng được các vị Phật Độc Giác. Nhưng khổ thay khi các vị Phật Độc Giác ra đời, các ngài không thuyết giảng như vị Chánh Đẳng Giác cho nên không ai biết về các ngài. Bản thân các ngài cũng có vị đẹp vị xấu, có vị dễ nhìn có vị hơi khó nhìn nên ‘thua’. Chỉ có vị Chánh Đẳng Giác ra đời người ta mới biết đến sự có mặt các tầng Thánh là như vậy đó.
Tiếp theo ngài Xá Lợi Phất nói về 3 Minh: Sanh tử minh, Lậu tận minh. (Alo, chúng tôi giảng sơ sơ hay các vị muốn giảng chi tiết? Nếu các vị muốn giảng sơ thì chúng tôi giảng hết bài Kinh này trong ngày hôm nay. Còn nếu muốn giảng chi tiết thì chúng ta phải ngưng lại ở đây. Chúng tôi phải soạn hành lý, chiều chúng tôi bay rồi? Rồi)
Ngài Xá Lợi Phất nói rằng không có Thế Tôn ra đời thì làm gì biết tới Tam Minh, làm gì biết được nhân luân hồi và quả luân hồi.
1-Túc mạng minh: Nhớ lại Quả luân hồi
Nhớ quả luân hồi là biết rõ, nhớ rõ cách đây ba kiếp, 5 kiếp, 8 kiếp, ngàn kiếp mình đã làm ông vua, làm ăn mày, làm con trùn con dế, làm sư tử, cọp beo, làm con người làm nam làm nữ, giàu nghèo, sang hèn, xấu… là nhớ lại Quả luân hồi.
2-Sanh tử minh: Tri biết Nhân luân hồi
Còn biết rõ cái nhân luân hồi là biết rõ do sát sanh trộm cắp nó dẫn tới cái quả như vậy.Do bố thí trì giới nó dẫn tới cái quả như vậy. Do học tập do hành trì nó được cái quả như vậy. Túc mạng minh là trí nhớ trí biết về Quả luân hồi. Sanh tử minh là trí nhớ trí biết về Nhân luân hồi.
3- Lậu Tận Minh: Chấm dứt phiền não lậu hoặc
Lậu tận minh là sự chấm dứt phiền não lậu hoặc. Cái này chỉ có ở vị A la hán thôi. Còn thông thường như Bồ tát Tất Đạt mình trước khi ngài đắc Đạo – thì trong Chú giải chớ trong Chánh Tạng tôi không thấy nói – Nói trước khi Bồ tát Tất Đạt đắc Đạo thành Phật Quả Chánh Đẳng Giác (nói kiếp chót) thì ngài đã đến học thiền với hai ông thầy.
- Ông thứ nhứt là Alara Kalama, ông này dạy ngài đến tầng thiền Vô sở hữu xứ. Trong Kinh nói lúc đó ngài có đủ Ngũ thông thiên nhãn, thiên nhĩ, ngài nhớ được kiếp trước, nhớ lại chuyện đời sau. Đặc biệt vậy nhưng Ngài không dùng. Tức trong tích tắc khi Ngài đắc thiền Sắc giới lập tức Ngài có luôn Ngũ thông, nhưng Ngài không dùng rồi Ngài tiếp tục tu thiền Vô sắc. Tu đến tầng thứ ba Ngài thấy rằng nó không phải con đường giải thoát.
- Nên Ngài đi đến ông thầy khác là Uddaka Ramaputta. Ông này dạy Ngài tầng thiền Vô sắc sau cùng là Phi tưởng phi phi tưởng. Nhưng Ngài cũng không thấy thỏa mãn, thấy rằng đây không phải con đường giải thoát. Thế là Ngài tiếp tục đi tìm Đạo bằng hướng khác.
Trong Chú giải nói rằng nếu như Ngài không bị tiền nghiệp bất thiện quá khứ thì sau khi Ngài lìa bỏ ông thầy thứ hai, tức sau khi chứng thiền Phi tưởng phi phi tưởng thì Ngài sẽ đến thẳng gốc bồ đề và Ngài ngồi quan sát Chi thiền rồi đắc thành Phật quả.
Đằng này do tiền nghiệp kiếp trước Ngài đã từng buông lời bất kính đối với Phật Ca Diếp. Đời Phật Ca Diếp Ngài có một người bạn rất thân. Người bạn này rất nghèo nhưng trí tuệ. Lúc đó Ngài là một Bà la môn giàu có. Người bạn này nghèo nhưng Ngài quý người này vì ổng có đức hạnh, có trí tuệ. Đặc biệt Bồ tát quý người đó chứ Bồ tát không biết người đó là vị Thánh A na hàm, rất hiếu thảo với cha mẹ. Ông này thấy Bồ tát thông minh nên mới nói rằng người như you mà đi nghe Pháp thì chắc chắn được lợi ích lớn. You đi theo tui vô chùa gặp Phật đi. Bồ tát mới hỏi Phật là sao, thì ông bạn nói Phật là người đã giác ngộ trí tuệ giải thoát, không còn phiền não, không còn tái sanh. Nghe vậy Bồ tát buông một câu thế này: “Muốn thành thánh, muốn đắc Đạo giải thoát đâu phải dễ”. Ý Ngài là coi thường, nghi ngờ cái ông đó ổng nói là Phật mà không biết có đúng là Phật hay không.
Chỉ vì câu nói có ý khinh lờn vậy cho nên ở kiếp chót cuối cùng Ngài mất tới 6 năm, các vị biết không, dễ sợ chưa? Cho nên nhiều khi chỉ một câu nói, người ta nói “Bán cú phi ngôn, ngộ tổn bình sinh chi đức” (Có nhiều khi chỉ nửa câu mà tổn đức đủ để ảnh hưởng tới phước phần của mình một đời).
Phải nói, chỉ vì một câu nói, chỉ vì một dòng suy nghĩ ngắn ngủi đó thôi mà Ngài mất bao nhiêu năm trong rừng sâu khổ hạnh.
- Các vị biết: ăn phân bò, rồi đi vệ sinh ra, rồi lại ăn lại cái phân của mình. Làm vậy để cho đắc?
- Rồi lại không mặc áo quần gì hết, để trần trụi như vậy sống trong rừng nó lạnh muốn chết, nóng muốn chết! Rồi Ngài phát nguyện là không để ai nhìn thấy mình hết. Nên mỗi lần thấy bóng dáng của tiều phu hay thợ săn là Ngài bỏ chạy trốn giống như nai rừng vậy đó.
- Ăn thì có lúc nhịn ăn luôn, còn có lúc thì ăn đồ dơ.
- Còn thở thì Ngài nói Ngài nghĩ bây giờ mình nín thở mới đắc!
Chính cái nghiệp xấu nó khiến Ngài nghĩ tầm bậy vậy đó. Trong khi chuyện vô lý là Ngài 7 tuổi đã đắc thiền rồi. Rồi cách một thời gian ngắn trước Ngài đã đắc Ngũ thiền. Mà nó khiến sao Ngài quên sạch! ‘Quên’ là Ngài không nghĩ tới mà cứ lo đi khổ hạnh tầm bậy tầm bạ vậy suốt 6 năm trời!
Đến một ngày kia tự nhiên Ngài mới nhớ lại’ Ủa hồi nhỏ mình mới 7 tuổi mình đâu biết gì mà sao lúc đó mình cảm giác lạ vậy ta?’.
Đó! Lúc đó cái nghiệp nó hết rồi Ngài mới nhớ lại chuyện đó. Yah, Ngài nhớ rồi Ngài mới quyết định là không nhịn ăn nữa, không tiếp tục đày đọa thân xác nữa. Ngài đi tắm rửa sạch sẽ. Ngài nghĩ rằng mình sẽ đi khất thực để ăn uống bình thường trở lại. Lúc đó mới nhận được thức ăn của nàng Sujata, dùng xong thì đêm đó Ngài đắc Quả. Bà con biết tiếp rồi nghe.
Thì cái phần này nếu không có Chánh Đẳng Giác ra đời thì người ta không có dịp biết. Không có Chánh Đẳng Giác ra đời thì cũng có người đắc Túc mạng minh, cũng có người đắc Sanh tử minh, nhưng mà Lậu tận minh thì chỉ có chư Phật Độc Giác thôi. Nãy tôi nói rồi ba ngàn tám trăm triệu tỉ ức kiếp mới có một vị Chánh Đẳng Giác ra đời.
Cơ hội Độc Giác ra đời cũng không nhiều lắm, very, very hiếm hoi
Và khi không có Chánh Đẳng Giác ra đời thì cơ hội Độc Giác ra đời cũng không nhiều lắm, very, very hiếm hoi. Tại sao vậy?
– Các vị tưởng tượng đi, hai a tăng kỳ 100.000 đại kiếp mới thành tựu quả vị Độc Giác. Hiếm vô cùng! Thời gian để trở thành Độc Giác nó lâu gấp đôi thời gian của ngài Xá Lợi Phất thì các vị tưởng tượng làm sao mà nhiều được, nhe!
Mà cho dầu các ngài có ra đời 100 hay 1.000 vị đi nữa cũng gần như zero, là vì sao?
– Là vì các ngài không có nói. Mà xuất thân các vị khác nhau. Có vị là thợ săn, có vị là tiều phu đốn củi, có vị là vua, là tướng quân, thương gia bla bla bla …nhưng phần lớn 99,99% khi các ngài đắc quả trong hình thức cư sĩ.
Các ngài đang đi đặt bẫy thú rừng, tự nhiên nhìn con thú trong bẫy thấy thương tự nhiên quán chiếu 12 Duyên khởi, đó là lý do Phật giáo Bắc truyền gọi Phật Độc Giác là Duyên Giác là chỗ đó.
Chớ thật ra đây là một hiểu lầm rất lớn. Không bao giờ có một người hiểu Bốn Đế mà mơ hồ về 12 Duyên khởi. Nhưng sở dĩ trong các tích kể về Phật Độc Giác thường thấy các vị quán chiếu về 12 Duyên khởi nên mới dẫn tới hiểu lầm như vậy. Bà con mở bài Kinh Đại Duyên ‘Mahanidana sutta’ trong Trường Bộ 15, các vị có thấy Đức Phật nói về hành trình đắc Đạo của Phật Tỳ Bà Thi, cũng là quán chiếu 12 Duyên khởi. Chẳng lẽ Phật Tỳ Bà Thi là Phật Độc Giác à? Mình không đọc Kinh điển mà cứ tưởng tượng không?
Hôm đó tôi về Dallas có gặp một cụ, giáo lý thì không học mà cứ lôm côm lom com nghe đây một chút kia một chút. Oải lắm, thí dụ nghe Bắc Tông là ‘Ngũ uẩn giai không’, nổi hứng lên, ý ổng là đại khái là giới luật không cần giữ, bởi vì đã nói ‘giai không’, nếu mình có lấy cũng không có tội, nếu có tội thì cái tội đó cũng là mù sương thôi. Nếu nói vô ngã thì không có thằng Tèo thì làm gì có ‘của thằng Tèo’. Mà nếu không có thằng Tèo, không có ‘của thằng Tèo’ thì mình lấy cái gì cũng được, đã nói giai không mà!!! Đó cứ vậy, tôi sợ cái đó vô cùng!
Các vị làm ơn nhớ dùm nếu không có vị Chánh Đẳng Giác ra đời thì nếu vị Độc Giác có mặt thì ngài cũng không thuyết giảng gì hết. Các ngài chỉ ‘tự mình biết riêng mình và ta biết riêng ta’ thôi.
Rồi tiếp theo ngài Xá Lợi Phất tán thán: “Bạch Thế Tôn, qua những gì con trình bày thì con tin chắc rằng trong quá khứ và vị lai nếu có chư Phật ra đời thì các vị chỉ bằng Thế Tôn thôi, không có hơn Thế Tôn”.
Chú giải nói thêm chỗ này. Ngài Udadi trong thời gian nghe ngài Xá Lợi Phất thưa chuyện Đức Phật thì ngài có đầy đủ 5 cái phỉ lạc. Có nghĩa ngài có cảm giác như sóng biển đang đánh vào người của ngài. Ngài có cảm giác toàn thân ngài được thấm đẫm nguồn nước mát. Ngài cảm giác toàn thân ngài nhẹ nhàng bay bổng. Rất là hoan hỷ như vậy!
Đức Phật sau khi nghe ngài Xá Lợi Phất trình bày xong thì Ngài có tán thán một điều đây là Pháp thoại có thể đem lại lợi ích cho nhiều người nghe. Cho nên Xá Lợi Phất hãy thường xuyên thuyết giảng cho nhiều người khác.
Bài Kinh này dài rất dài. Phần sau các vị nào đọc bản Pali thì các vị thấy là ở đây không phải chúng tôi bỏ sót đâu. Mà phần sau là phần giải thích cái điều mà chúng tôi đã nói ở phần đầu bài giảng.
Chẳng hạn trong đây có một phần nói về thế giới quan Phật giáo, vũ trụ quan mà hôm qua chúng tôi đã nói rồi. Có nghĩa là trong một thế giới thì không thể nào có hai vị Chánh Đẳng Giác. Nhớ nghe, Độc Giác có thể cùng lúc xuất hiện hàng trăm hàng ngàn vị chớ Chánh Đẳng Giác thì không. Đó là lý do tại sao cứ 10.000 thế giới như vậy mỗi lúc chỉ có được một vị thôi, mà tiếng Pali gọi là ‘ebihuk thadani’, thadani nghĩa là ‘giữ gìn, chịu đựng, gánh chịu’. Có nghĩa là thế giới này mỗi lúc có thể gánh được một vị Phật mà thôi, vì đức độ các ngài. Thí dụ đức Phật Thích Ca ngài có những câu nói, có những việc làm Ngài làm chấn động 10.000 thế giới. Mà nếu có thêm vị nữa thì thế giới này rung lắc hoài hay sao? Đó là Chú giải nói vậy. Cái này có thể quý vị không tin nhưng tôi tin:
Một là sức làm việc của một vị Chánh Đẳng Giác tương đương với một tỷ vị Chánh Đẳng Giác. Tức là việc gì cần làm thì một vị Chánh Đẳng Giác đã đủ rồi, từ thần thông, trí tuệ, phước báu các ngài thừa sức giải quyết hàng tỷ việc. Cho nên nếu có một tỷ đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện cùng một lúc thì cái việc các ngài có thể làm được không có hơn gì một vị.
Không biết trong room nghe kịp không?
– Bây giờ tôi chứng minh nghe. Thí dụ để dọn sạch một ngăn kéo, một ngăn tủ bề ngang nửa mét, dài 1 mét thì theo quý vị một người với 10 người nó khác nhau hay không? Theo tôi nghĩ thì giống nhau. Vì với ngăn kéo đó một người đã đủ rồi, mà có thêm 10 người đi nữa thì cũng chừng đó việc thôi. Bởi vì trong ngăn kép đó nó chỉ có chừng một thỏi son, hộp phấn, cây bút chì kẻ mắt, một gương soi, một đồng hồ, một dây chuyền, một chiếc nhẫn. Có bao nhiêu đó gom lại chừng một chén hà. Thì một người con gái 15 tuổi đã đủ xử lý cái ngăn kéo đó rồi. Nếu quý vị có đem nguyên một làng 200 cô thì chỉ chật nhà thôi.
Thế giới này cũng vậy. Với năng lực làm việc của một vị Chánh Đẳng Chánh Giác thì các ngài có thể cùng lúc giải quyết mọi sự. Cho nên nếu có thêm hai vị, tám vị, mười vị cũng y chang như vậy.
Đây là một trường hợp rất đặc biệt mà đối với một người như ngài Xá Lợi Phất không làm được. Một ngài Xá Lợi Phất có mặt trong thế gian này sẽ không giống như hai ngài Xá Lợi Phất. Mà hai người như ngài Xá Lợi Phất không giống với ba người như ngài Xá Lợi Phất. Lý do là bởi cái phước.
Vị Chánh Đẳng Giác khi ngài biết cái người đó đủ duyên cho ngài độ trong ngày hôm nay thì ngài có nhiều cách. Thậm chí ngài không cần có mặt ở đó, hoặc ngài có thể hóa hiện một người giống y chang ngài, nói năng như ngài để gặp gỡ người đó. Chuyện này hoàn toàn có thể thực hiện được. Bằng chứng là khi ngài giảng A Tỳ Đàm trên cõi trời là đến giờ ăn ngài để cho một vị hóa Phật hóa ra giống như ngài để thuyết giảng y như ngài. Hoặc như trong loạt bài Lục Đại Chân Kinh các vị còn nhớ tôi đã giảng, ngài hóa hiện một vị Phật giống như ngài, ngồi kế bên ngài và hai vị vấn đáp qua lại.
Chuyện nữa là theo chú nguyện của ngài khi Phật Pháp đã trải qua 5.000 năm thì tất cả xá lợi không mất một gram. Tất cả xá lợi từ vô lượng nơi chốn: cõi Phạm thiên (xương vai), xương trán, rồi răng nhọn ở cõi Đao Lợi, ở cõi Rồng,ở Tích Lan, bla bla bla… tất cả đều gom hết về Bồ Đề Đạo Tràng và sẽ trở thành ra một bức tượng vàng. Bức tượng đó sẽ thuyết giảng để độ cho vô lượng chúng sinh. Với năng lục của đức Phật ngài làm cả chuyện đó nữa.
Cho nên có bao nhiêu Phật ra đời: thứ nhứt là người thành Phật rất hiếm. Thứ hai, trong Kinh nói giả định có bao nhiêu vị đi nữa thì sức làm việc của một tỷ vị cũng y chang như một vị thôi.
Vậy thì chúc các vị một ngày vui. Hôm nay chúng tôi sẽ bay về một thành phố khác, chúng tôi sẽ dạy ở đó một tuần. Nếu trong room này có ai là người ở Dallas thì có thể đến đó học mỗi ngày. Ngày mai chúng tôi giảng nguyên ngày từ 9g sáng cho đến 9g tối, ngày mai với ngày mốt (nguyên ngày thứ 7 và chủ nhật). Sau đó từ thứ hai đến thứ sáu thì mỗi chiều từ 5g chiều đến 11g khuya của tuần tới, giảng suốt A Tỳ Đàm cho nó xong một lớp như vậy. Rồi lúc đó chúng tôi mới trở về châu Âu. Bà con có cần liên lạc gì thì có thể liên lạc qua email dùm.
Email chúng tôi là Toaikhanh77@gmail.com ./.
Mục Lục các Bài Giảng
(hết)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
29. Kinh Thanh tịnh
(Pàsàdika sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong29.htm
--ooOoo--
29. KINH THANH-TỊNH.
136. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH THANH-TỊNH?
Vào môt thời kia, đức Phật ngụ tại vườn xoài của ông Vedhannà, thuộc bộ-tộc Sakya (Thích-ca). Lúc bấy giờ có vị Sa-di Cunda (Thuần-đà) cùng đi với Tôn-giả A-nan (Ananda) đến yết-kiến đức Phật, để báo tin vị Sư-trưởng ngoại-đạo loã-thể Nigantha Nàthaputta ( Ni-kiền-tử) đã từ-trần và giáo-phái của ông ta bị chia-rẽ trầm-trọng.
Nhơn đó, đức Phật mới giảng Kinh Thanh-Tịnh nầy, nêu rõ lý-do thất-bại của giáo-phái loã-thể là vì giáo-lý và pháp-luật đã ''trình-bày, tuyên-bố một cách vụng-về, không có hiệu-năng hướng-dẫn, không đưa đến an-tịnh, không do một vị Chánh-Đẳng-Giác tuyên-thuyết.'' Kế đó, Ngài giải-thích trong giáo-lý của Ngài, các Tỳ-kheo sống đúng theo phạm-hạnh đầy-đủ, tu-tập bốn pháp Niệm-xứ, bốn pháp Thiền-định, nhờ đó mọi tà-kiến về quá-khứ, về tương-lai, về bản-ngã, đều được vẹt qua một bên, cùng hướng về an-tịnh và giải-thoát.
137. NỘI-DUNG KINH THANH-TỊNH.
A.- Ý Chánh: Phái loã-thể bị tan-rã sau khi vị sư-trưởng từ-trần, vì giáo-lý được truyền-dạy vụng-về, chẳng đưa đến an-tịnh. Trái-lại, Chánh-Pháp của đức Phật, do bực Chánh-Đẳng-Giác tuyên-thuyết, có đầy-đủ phạm-hạnh, được các đệ-tử khéo hành-trì, đưa đến sự thanh-tịnh và giải-thoát.
B.- Phân đoạn: Kinh có thể chia làm hai phần:
1. Phần I: Các lý-do đưa đến sự tan-rã của phái loã-thể khi vị sư-trưởng ngoại-đạo Ni-kiền-tử từ-trần.
- Cunda trình-bày sự thảm-bại của phái loã-thể, chia-rẽ thành hai nhóm, chống-đối nhau bằng miệng và binh-khí, sau khi đạo-sĩ Ni-kiền-tử từ-trần;
- Đức Phật giải-thích sự thất-bại đó, do: (1) vị đạo-sư chưa đắc Chánh-Đẳng-Giác, (2) thuyết pháp vụng-về, chẳng đưa đến an-tịnh; (3) chẳng có đệ-tử hay tín-đồ nào sống đúng theo chánh-hạnh.
2. Phần II: Đức Phật nêu sự thanh-tịnh của Giáo-Pháp hướng đến an-tịnh, giác-ngộ và giải-thoát:
- Trước hết, đức Phật nêu ra hai trường-hợp về tình-trạng của giáo-phái khi vị sư-trưởng từ-trần:
. Trường-hợp vị đạo-sư chưa đắc Chánh-Đẳng-Giác thuyết pháp vụng-về, chẳng đưa đến an-tịnh, thì khi chết, chẳng có vị đệ-tử nào sống đúng chánh-hạnh, nên giáo-phái bị chia-rẽ và tan-rã;
. Trường-hợp vị đạo-sư đã đắc Chánh-Đẳng-Giác khéo thuyết chánh-pháp, hướng đến an-tịnh, khi từ-trần đã có các đệ-tử tinh-thông giáo-lý, sống đúng phạm-hạnh đầy-đủ, khỏi phải quá ưu-tư vì bị phân-hoá.
- Sau đó, Ngài bảo, đối với hiện-tại, là bậc đạo-sư Chánh-Đẳng-Giác, Ngài khéo thuyết các pháp hướng đến an-tịnh, và các đệ-tử của Ngài tinh-thông diệu-pháp, phạm-hạnh hoàn-toàn viên-mãn:
. 37 Phẩm Trợ-đạo do Ngài tự chứng-tri và tuyên-bố cho các Tỳ-kheo, nên hội-họp lại và tụng-đọc, chớ cãi nhau, hãy so-sánh nghiã-lý và lời văn với nhau... để cho phạm-hạnh nầy được tồn-tại, an-trú lâu dài, vì hạnh-phúc cho muôn loài ở đời;
. các giới-luật mà Ngài thuyết-giảng là chỉ để ngăn chặn các lậu-hoặc ngay trong hiện-tại và trong tương-lai: y-thực, nhà cửa, dược-phẩm, là để dưỡng nuôi thân-thể, ngăn chặn sự nóng lạnh của thời-tiết, sự xúc-chạm của các loài ruồi muỗi, chống các bịnh-tật...
. Thích-tử chẳng sống đam-mê các dục-lạc thấp kém (như khi sát-sanh, trộm-cắp, tà-dâm, nói dối) mà tầm-cầu hỷ-lạc (đưa đến yếm-ly) của bốn cấp Thiền với bốn quả-vị: Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-lai, A-la-hán khi tâm và tuệ được hoàn-toàn giải-thoát.
- Đối với tương-lai, Như-Lai có trí do tuệ sanh: ''Đây là đời sống cuối cùng, nay không còn đời sống nào khác.'' Nếu những gì thuộc vị-lai là hư-vọng, không thật, không lợi-ích, thì Như-Lai không trả lời ...
- Đối với các pháp quá-khứ, vị-lai, hiện-tại, Như-Lai là vị nói phải thời, nói chơn-chánh, nói như thật, nói có lợi-ích, nói đứng Pháp, nói đúng Luật.
- Trong thế-giới nầy, những gì được thấy, nghe, tìm cầu, suy-đạt với ý, tất cả đều được Như-Lai biết rõ. Nhưng Ngài chẳng nói về các vấn-đề không có liên-hệ đến Pháp, đến căn-bản phạm-hạnh, không hướng đến an-tịnh, giác-ngộ và Niết-bàn.-- ''Đây là Khổ, Khổ-Tập, Khổ-diệt, con đường đưa đến Khổ-diệt,'' đó mới là các điều được Thế-Tôn nói đến.
- Phật bảo: ''Nầy Cunda, với mục-đích đoạn-trừ và vượt qua những biện-luận về các tà-kiến liên-hệ đến quá-khứ tối-sơ, đến tương-lai nầy, mà bốn pháp Niệm-xứ được Ta tuyên-thuyết, trình-bày.''
- Lúc bấy giờ, Tôn-giả Upavàna đang quạt hầu Thế-Tôn, thốt lên: ''Kỳ-diệu thay ! Pháp-thoại nầy thật là thanh-tịnh ! '' Do đó, Kinh nầy được Phật đặt tên là Kinh Thanh-Tịnh.
138. TRÍCH-ĐOẠN: ''THẤY MÀ KHÔNG THẤY''.
- Nầy Cunda, Uddaka, con của Ràma thường nói: ''Thấy mà không thấy''. Thấy cái gì mà không thấy? Với một con dao sắc-bén, chỉ thấy lưỡi dao, không thấy khiá cạnh sắc-bén của dao. Nầy Cunda, ở đây Uddaka, con của Ràma, đề-cập đến một vật đê-tiện, hạ-liệt, thuộc về phàm-phu, không xứng bậc Thánh, không có lợi-ích, nói về con dao. Nầy Cunda, nếu nói đúng-đắn câu ''Thấy mà không thấy'', thời phải nói như sau: ''Thấy mà không thấy'', vị ấy thấy cái gì mà không thấy? Một phạm-hạnh, thành-tựu hết thảy tướng, đầy-đủ hết thảy tướng, không thiếu-sót, không quá đáng, được khéo tuyên-bố một cách viên-mãn, được khéo trình-bày. Chính vị ấy thấy phạm-hạnh nầy. Nếu vị ấy trừ bớt một phương-diện nào tại một chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ-ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Nếu vị ấy thêm vào một phương-diện nào tại chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ-ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy. Nếu vị ấy thêm vào một phương-diện nào tại một chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy được viên-mãn hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Như vậy gọi là ''Thấy mà không thấy' ...
139. TRÍCH-ĐOẠN: ''DO VẬY, MỚI GỌI LÀ NHƯ-LAI''
... Nầy Cunda, đối với các pháp quá-khứ, vị-lai, hiện-tại, Như-Lai là vị nói phải thời, nói chơn-chánh, nói như thật, nói có lợi-ích, nói đúng Pháp, nói đúng Luật. Do vậy mới gọi là Như-Lai ...
... Trong thế-giới nầy, ... với chư Thiên và loài Người, những gì được thấy, được nghe, được cảm-giác, được phân-biệt, được đạt đến, được tìm cầu, được suy-đạt với ý, tất cả đều được Như-Lai biết rõ. Do vậy mới gọi là Như-Lai.
Này Cunda, trong thời-gian giữa đêm Như-Lai chứng-ngộ Vô-thượng Chánh-Đẳmh-Giác và đêm Như-Lai nhập Vô-dư-y Niết-bàn giới, trong thời-gian ấy những gì Như-Lai nói trong khi thuyết-giảng, nói chuyện hay trình-bày, tất cả là như vậy, chớ không gì khác. Do vậy mới gọi là Như-Lai.
Nầy Cunda, Như-Lai nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy, nên được gọi là Như-Lai ...
Đối với thế-giới, với chư Thiên và loài Người, Như-Lai là bậc Toàn-Thắng, không ai có thể thắng nổi, bậc Toàn-Kiến, bậc Tự-Tại.
140. TRÍCH-ĐOẠN: PHẠM-HẠNH ĐÃ THÀNH .
...Nầy Cunda, các du-sĩ ngoại-đạo có thể nói: ''Các Sa-môn Thích-tử sống không giữ vững lập-trường.'' Họ cần được trả lời như sau: ''Nầy Hiền-giả, Thế-Tôn, vị đã biết, đã thấy, là bậc A-la-hán Chánh-Đẳng-Giác đã thuyết, đã trình-bày những pháp cho các đệ-tử cho đến trọn đời ... Nầy Hiền-giả, một vị Tỳ-kheo là bậc A-la-hán, đã diệt-trừ các lậu-hoặc, phạm-hạnh đã thành, các việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục-tiêu đã đạt, hữu-kết-sử đã diệt-trừ, chánh-trí giải-thoát, không thể làm chín việc sau đây: không thể tước-đoạt sanh-mạng của loài hữu-tình,... không thể lấy của không cho, ... không thể hành dâm, ... không thế biết mà nói láo, ... không thể cất chứa tiền-của để hưởng-thọ dục-lạc, như khi còn tại-gia,... không thể đi con đường hành tham, ... hành sân,... hành si,... không thể đi con đường hành theo sợ-hãi ...
141. HỌC KINH THANH-TỊNH, CHÚ-Ý ĐIỂM NÀO?
Trọng-điểm của Kinh Thanh-Tịnh nầy dạy ta ý-nghiã của câu: ''Thấy mà không thấy.'' Thấy một con dao sắc-bén, mà chỉ thấy có con dao, chưa nhận thấy chỗ sắc-bén của con dao, đó là còn chưa thấy được gì. Thấy chư vị Tỳ-kheo giữ giới đầy-đủ, mà chưa nhận ra giới-hạnh ngăn-ngừa các tội-ác, khiến cho thân-tâm được thanh-tịnh, đó là còn chưa thấy được gì. Học Kinh Thanh-Tịnh phải ''thấy'' sự thanh-tịnh của các Pháp do Thế-Tôn giảng-dạy, đều đưa đến an-tịnh và giải-thoát.
--ooOoo--
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Thanh Tịnh (1-2)
Kinh Thanh Tịnh
Quote:Kalama tri ân bạn buithibuukim ghi chép.
13/03/2022 - 10:09 - buithibuukim
KINH THANH TỊNH
Chúng ta bắt đầu vào bài Kinh số 29 của Trường Bộ (Kinh Thanh Tịnh). Trường Bộ Kinh có tất cả 34 bài mà chúng ta đã học hết 28 bài. Còn 6 bài. Chúng tôi xin thưa thêm là sau khi giảng xong Trường Bộ, chính quý vị quyết định là sẽ nghe tiếp bộ Kinh nào. Chúng ta đã học xong Tương Ưng rồi, sắp sửa kết thúc Trường Bộ thì tiếp theo sẽ là Tăng Chi hay Tiểu Bộ là tùy ở quý vị.
Bây giờ mình học bài 29: Kinh Thanh Tịnh.
Chú giải cho biết rằng thời Đức Phật có rất nhiều tông phái tín ngưỡng. Đặc biệt trong đó có 6 tông phái lớn, là Lục đại môn phái. Trong đó phái Ni Kiền Tử là một trong 6 phái lớn. Quan điểm tư tưởng của 6 phái này được nhắc đến tương đối đầy đủ trong Kinh Sa Môn Quả (Trường Bộ Kinh) chúng ta đã học rồi. Ở đây chúng tôi chỉ nhắc sơ.
Nigantha là tên của giáo phái này. Tàu dịch là Ly Phệ hay Ly Phược. Họ chủ trương làm ác thì bị khổ, làm thiện thì được vui. Nghe qua thì giống Phật Pháp nhưng khác ở chỗ họ chủ trương cực đoan trong vấn đề tu tập. Nghĩa là họ hạn chế việc đào đất, quét tước, tưới tẩm cây cỏ vườn tược. Họ nói mình sống càng hoạt động nhiều chừng nào mình càng có cơ hội làm tổn thương các loài chúng sinh khác.
Khi ông giáo chủ Nigantha này chết thì môn đồ ổng chia làm hai phe: phe Digambara (Thiên y). Phái này nói mình sanh ra hình hài ra sao thì cứ để vậy cho đến chết, chớ không quần là áo lụa gì hết. Phái thứ hai là Setambara (Bạch y), mặc toàn đồ trắng không thôi. Bởi họ nói mặc đồ còn phải nhuộm cũng là cơ hội làm tổn hại chúng sanh khác. Muốn nhuộm mình phải có thuốc nhuộm, rồi phải nấu nước, phải nhóm lửa, rồi có củi, rất nhiều chuyện. Họ nói ăn, mặc, ở phải ở trong điều kiện đơn giản nhứt, vì họ chủ trương mình càng nhiều nhu cầu sẽ càng có cơ hội làm phiền chúng sanh khác. Dĩ nhiên, đây là một cách nghĩ cực đoan. Bởi có ai trên đời này từ bi hơn vị Chánh Đẳng Giác ? Nhưng ngay cả vị Chánh Đẳng Giác, các Ngài cũng không chủ trương cực đoan như vậy.
Chúng ta biết sau khi một đệ tử lớn của ông Nigantha này đến gặp Phật với mục đích vấn nạn và được Đức Phật cảm hóa. Upali trở về thưa chuyện, kể lại với sư phụ nghe tất cả cuộc đối thoại của mình, đồng thời kín đáo xác nhận rằng kể từ bây giờ trong lòng ổng Đức Phật mới là bậc Đạo sư số một. Ông giáo chủ giờ xuống số hai rồi. Trong Kinh nói ổng nghe như vậy, ổng uất khí xung thiên bị trào máu mồm ra. Chính vì chuyện trào máu mồm vậy, dẫn đến ổng lâm bạo bịnh. Có một điều ông giáo chủ này là một người rất biết chuyện. Ổng trào máu vì trong một phút cơ đồ sự nghiệp một đời của ổng tan nát. Nhưng trong giây phút cận tử sắp đến, ổng còn chút tỉnh táo để ổng thấy rằng giáo lý của ổng là ‘aniyyanika’, nghĩa là ‘không thể dẫn đến giải thoát’. Ổng thấy rằng chuyện ổng mất mát mọi thứ là điều đáng tiếc, điều không nên xảy ra. Nhưng ổng cũng ngầm hiểu rằng tông phái ổng, giáo lý ổng không giúp được ai hết. Và ổng chân thành thiết tha mong mỏi nguyên cái đám giáo chúng ổng quay về với Đức Phật. Tôi nhớ tôi đã lấy tình tiết này viết nên câu chuyện ‘Lãng Minh’ trong ‘Chuyện phiếm thầy tu’. (see post #892, p. 60)
Thì trước khi ổng mất ổng mới kêu mấy đệ tử vô, chia thành hai đợt. Đợt đầu ổng nói rằng cái gì trên đời này cũng là phù du, lúc có lúc không; nhưng cái tôi của mỗi người thì đời đời bất diệt. Có một cái tôi làm thiện và một cái tôi được hưởng vui. Có một cái tôi làm ác và một cái tôi chịu khổ. Cái tôi đó đời đời không mất. Nhưng tới cái đám đệ tử thứ hai vô thì ổng nói khác. Ổng nói rằng cái gì có mặt trên đời này cũng vô thường hết, đúng như lời sa môn Gotama nói.
Tại sao ổng cố ý làm động thái lạ lùng như vậy? – Bởi ổng muốn nội bộ đệ tử xảy ra sự chia rẽ, vì ai cũng nghĩ mình được đích thân sư phụ trao truyền yếu chỉ tông môn, thế là nội bộ rạn nứt. Ổng nghĩ nếu bây giờ mình kêu mọi người về với Đức Phật thì có thể phản tác dụng. Bởi vì:
Cầm vàng mà lội qua sông.
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng.
Một đời theo đuổi mối quan hoài về chính trị, tôn giáo, xã hội. Đùng một cái một sớm mai hồng có người kêu mình rũ bỏ hết để đi theo một đường lối khác thử hỏi chúng ta có đủ cam tâm hay không!
Chuyện đó không dễ đâu quý vị. Nhiều khi biết nó sai đó nhưng lòng chưa sẵn sàng. Đây cũng vậy. Thì thôi bây giờ ổng làm cho môn đồ giáo chúng chia rẽ nhau thì tự động trong cơn rối rắm đó họ sẽ tìm về bến đỗ chỗ nương. Và xét về mặt giáo lý thì Phật giáo gần với giáo phái Ni Kiền Tử nhứt. Cho nên ổng biết chắc sẽ có một số người về với Phật. Chuyện đại khái vậy.
Thì đúng như ổng dự tính, sau khi ổng mất đệ tử chia ra hai phe. Một phe không mặc gì hết là nhóm Thiên Y. Nhóm thứ hai là Bạch Y cũng theo tinh thần tu học của ổng và mặc đồ trắng. Hôm nay chúng ta sang Ấn Độ sẽ gặp đầy đủ hai tông phái này, phái mặc đồ trắng và phái không mặc gì hết mà hôm nay gọi là Jain. Chữ ‘Jain’ xuất phát từ chữ ‘Jina’ – là tên giáo chủ. Đặc biệt nữa là chữ ‘Jina’ = chữ ‘Buddha’ = người chiến thắng. Ông Jina này còn có một tên nữa là Mahavira = anh hùng. Đây cũng là một trong những hồng danh của Đức Phật.
Chuyện nữa là hôm nay về Ấn Độ, chúng ta sẽ gặp vô số những bức tượng y hệt tượng Đức Phật mình: tóc thì xoắn, trên đỉnh đầu có nhục kế, mặt mũi trang nghiêm, hiền lành từ bi, minh triết. Khác một điều là bức tượng đó không có mặc gì hết. Các vị vào Google đánh chữ Jain sẽ thấy giống y hệt, y chang nghe, như tượng Phật mình vậy đó. Xếp bằng cũng có, đứng cũng có, nằm cũng có, gọi là một bức tượng Phật hoàn hảo, có một điều là không mặc gì hết. Đó chính là tượng của ông giáo chủ Nigantha.
Bây giờ là nội dung quan trọng bài Kinh.
Từ đoạn số 4 -> số 7 có nội dung như sau:
Nếu sư phụ là một người không có đường lối tu hành ngon lành mà đệ tử lại cúc cung tận tụy trung thành thì đó là điều đáng tiếc. (4 điều tôi gom lại thành 2 điều). Nếu giáo chủ không có cương lĩnh giáo lý tốt thì sự trung thành và tinh tấn của môn đồ giáo chúng là đáng trách.
Nếu đó là hệ thống giáo pháp ngon lành (nghĩa là dẫn đến giải thoát) thì sự tinh tấn của đệ tử là đáng khen.
Bên Tàu chúng ta cũng biết có từ ‘ngu trung’. Ngu trung có nghĩa trung thành một cách thiếu thông minh. Ta cũng biết khi đã đi sai đường thì ta đi càng nhanh thì càng rời xa mục đích chừng đó.
Ngược lại, nếu đi đúng hướng, ta đi càng nhanh thì mình càng gần mục đích. Từ đoạn 4 tới đoạn 7 là nội dung trên.
Đoạn 8 và 9:
Nếu một vị đạo sư có giáo lý ngon lành và có người kế thừa thì vị Đạo sư đó có ra đi thì mọi sự vẫn tiếp tục duy trì ở tình trạng tốt như cũ, các đệ tử không có gì phải âu lo.
Nhưng nếu một giáo pháp ngon lành mà không có người kế thừa thì sự ra đi của bậc Đạo sư lại là dấu chấm hết cho đoàn thể đó.
Như vậy hai đọan 8 và 9 này có nội dung rất sâu. Trong rất nhiều lần Đức Phật dạy thế này: “Này các tỳ kheo, hãy học tập 37 Phẩm trợ Đạo (phẩm trợ Bồ đề: Thất Giác Chi, Ngũ căn, Ngũ lực, Tứ chánh cần,Tứ như ý túc, Tứ Niệm Xứ). Hãy học tập và hành trì vì lợi ích cho bản thân, vì lợi ích cho nhân, thiên, trời người.”
Đặc biệt có câu kết thế này: “Đừng có trở thành người tối hậu sau ta”.
‘Tối hậu’ nghĩa là ‘last one’. Có nghĩa là Phật đi rồi, các vị tỳ kheo, tôn túc cao đồ cũng tịch luôn thì giáo Pháp coi như chấm hết. Đó là một điều rất đáng tiếc cho chúng sinh, nhân thiên ba cõi.
Ngài rất nhiều lần nói câu đó. Quý vị có thể vào Google, đánh ‘Chớ thành người tối hậu sau ta’ thì Google sẽ dắt quí vị tới những bài Kinh có câu này. Trong văn hóa VN cũng có câu: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Chúng ta dĩ nhiên không thể nào bằng được Đức Phật thì sao có thể hơn. Nhưng ít ra chúng ta có thể giữ lại những gì bậc Đạo sư để lại tùy theo khả năng của mình. Chớ còn không gì bậy cho bằng gia tài của ông cha thì tuyệt vời, mà con cháu không khả năng duy trì, thì đó là điều rất đáng tiếc.
Trong Kinh có nói đến ba hạng con, mà tôi lấy làm tiếc là người Việt Nam mình cả trăm triệu mà năm nào cũng như năm nào đến rằm tháng bảy thì theo văn hóa của Tàu tổ chức Vu Lan. Mà trong khi đó Vu Lan hiểu theo tinh thần của cứ cho là Phật giáo Tàu đi, thì cứ cho đó là ngày tưởng nhớ cha mẹ, cửu huyền thất tổ.
- Chúng ta hãy nhớ rằng ngày nào cũng là ngày chúng ta tưởng nhớ ông bà cha mẹ hết, chớ không cứ riêng gì ngày đó. Cho nên cứ đợi tới Vu Lan mới trả hiếu thì đó là một chuyện đáng tiếc.
- Cái đáng tiếc thứ hai nữa là trong ngày Vu Lan mà cứ nhằm chuyện Mục Liên Thanh Đề mà kể hoài. Nó còn tang thương chỗ nữa là các chùa Bắc Tông kể thì mình không ức. Đằng này có không ít những vị Pháp sư Nam Tông mà cứ rằm tháng bảy là cứ lôi chuyện Vu Lan, chuyện nào là con phải hiếu thảo cha mẹ bla bla bla. …
Trong khi đó, có vấn đề này mà tôi gần như không nghe, không thấy quý vị nhắc tới. Theo tôi, muốn nhắc tới cha mẹ quý vị nên nhắc tới ba hạng con này đây:
1- Hạng avajata là con thua cha mẹ. Các vị đừng tưởng tôi lạc đề. Ở đây đức Phật dạy rằng ‘Chớ thành người tối hậu sau ta’, tức là sau khi ta đi rồi các con tiếp tục ở lại tìm người kế thừa. Từ chỗ này chúng tôi mới nói đến ba hạng con.
2- Hạng thứ hai là anujata: con bằng cha mẹ.
3- Hạng thứ ba là adhijata: con hơn cha mẹ.
Ở đây các hàng tứ chúng đệ tử Thế Tôn dứt khoát không cách nào hơn Phật được rồi – tôi nhấn mạnh lần nữa. Ngài Xá Lợi Phất không cách chi bằng Đức Phật được hết.Tuy nhiên trong tinh thần tu học và kế thừa thì chúng ta phải nhớ đến ba hạng con này.
Chúng ta không cách nào hơn Đức Phật mà ít ra chúng ta đừng để cách xa Ngài nhiều quá. Ngài chủ trương tu học hành trì 37 Phẩm trợ Đạo, mà nếu hôm nay Ngài đi mất rồi thì người còn ở lại cũng thường xuyên canh cánh đau đáu trong lòng ba hạng con này để mình không cô phụ tấm lòng của Ngài. Có rất nhiều người khi nghĩ về Đức Phật họ nghĩ bằng cái đầu duy lý. Họ nghĩ Ngài là bậc tối tôn, là vô thượng, Ngài là số một bla bla bla … Nhưng khi nghĩ nhiều chuyện đó mình quên chuyện khác. Cái đó là lý thôi, còn cái tình nữa. Đúng Đức Phật là người đáng để mình tôn thờ thần tượng.
Tôi nhắc lại, Đức Phật là đấng tối tôn, đấng vô thượng đáng để mình tôn thờ tôn kính. Khoảng cách giữa Ngài với chúng ta rất là xa. Tuy nhiên còn một cách nghĩ khác về Đức Phật nữa.
Tôi nghĩ rằng tuyệt đối không thể quên, đó là ngoài chuyện khả kính ra, Đức Phật đáng là người để mình phải thương phải yêu bằng tất cả tấm lòng.
Cách đây 4 a tăng kỳ về trước, lẽ ra nếu Ngài đổi nguyện, Ngài đừng nghĩ tới cái đám của mình bây giờ là Ngài đã đi lâu rồi. Mà Ngài nghĩ đến chúng ta hôm nay – Chúng ta đây là tôi và quý vị đang ngồi trong room này nè – chớ không phải ai hết. Chính mình nè. Ngài nghĩ đến mình, trong đó có mình, tôi bảo đảm 1.000% có mình. Các vị đi hỏi các bậc tôn túc, tôn kính coi có đúng vậy không. Ngài nghĩ đến chúng sinh đời sau. Cho nên lẽ ra Ngài đã chứng La Hán, Thinh Văn Ngài đi mất rồi. Nhưng Ngài nghĩ: Luân hồi là cái dòng sông. Có người dư sức lội qua sông một mình. Có người có thể đóng bè đóng tàu để mà đi. Còn có kẻ chỉ muốn mãi mãi ở lại bờ này, hạng này mình không nói tới chi. Nhưng cái hạng muốn qua sông dư sức bơi một mình và đã chọn cách bơi một mình qua bên kia bờ. Hạng thứ hai muốn qua bên kia bờ nhưng không đành lòng, không cam tâm mà đi một mình, mà phải đóng bè đóng tàu càng lớn càng tốt để chở theo người khác. Đó chính là vị Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật Độc Giác là muốn đi, muốn bơi một mình.
Phật Toàn giác muốn qua sông chở theo nhiều người khác.
Thế là vì tâm nguyện đóng tàu đó mà suốt 4 a tăng kỳ không biết bao nhiêu lần Ngài vào sinh ra tử, lên rừng xuống biển, bao nhiêu lần chết đói, đi lạc trên hoang đảo sa mạc, núi cao rừng thẳm. Bao nhiêu lần bị chết chém chết cháy chết đuối. Bao nhiêu lần bị giam, bị tù ngục. Rồi bao nhiêu lần bị đói lạnh, bịnh hoạn, đói không có cơm ăn,bịnh không có thuốc uống, lạnh không có áo quần, không có nhà cửa. Dòng luân hồi mà quý vị. Dòng luân hồi, bao nhiêu lần bị oan ức, bao nhiêu lần chết thảm trong dòng sanh tử. Máu mà Ngài đổ ra trong dòng sanh tử nhiều như sông. Thịt xương mà Ngài đổ ra hành ba la mật nhiều như rừng như biển như núi. Mà rồi thì sao? – Cuối cùng, thành Phật chỉ trụ thế 45 năm thôi. Mà biết được cái này thương lắm quý vị: những ngày Ngài đi độ người ta, ôm cái bát đứng trước mặt nghe người ta chửi, chửi tan nát. Chửi xong chờ người ta lắng cái cơn xuống Ngài nói một câu cho người ta đắc quả. Rồi ôm bát về bữa đó đói. Nghe, chuyện đó rất bình thường, bình thường lắm! Chưa hết, một người 80 tuổi, đêm cuối cùng sắp đi rồi, mà cũng vì lòng từ bi với một con người cũng xa lạ chưa biết mặt, mà tới đó để cho người ta thấy mặt mình, để mình độ cho họ đắc A La Hán. Quý vị nghĩ coi: một người 80 tuổi, thân mình không có lo mà đi lo nghĩ đến người ta như vậy! Chưa hết đâu. Biết là khuya nay mình đi, biết là mình ăn cái này vô sẽ bị trọng bịnh mà phải ăn. Ăn xong rồi còn dặn là cái phần dư lại đừng để ai ăn hết. Phải đem đi đổ bỏ bởi vì người khác ăn cái này vô sẽ bị bịnh. Rồi còn dặn dò ngài A Nan đủ điều: Mai này ta đi rồi, nếu người cúng bữa cơm đó, ông Cunda mà ổng nghe người ta nói rằng vì bữa ăn đó mà Thế Tôn lâm trọng bịnh thì hãy an ủi ổng. Nói ổng rằng trong đời Thế Tôn có hai bữa ăn công đức vô lượng: là bữa ăn của nàng Sujata trước khi Bồ tát thành Đạo và thứ hai là bữa ăn của ông thợ rèn Cunda trước khi Thế Tôn Niết bàn. Hãy nói cho ổng biết bữa ăn của ổng là một trong hai bữa ăn mà công đức không sao nghĩ bàn. Các vị tưởng tượng khuya nay mình đi rồi mà giờ này còn dặn dò đủ thứ chuyện mà toàn là chuyện người ta không. Một con người như vậy, một nhân cách như vậy, một tấm lòng như vậy, một trái tim như vậy! Đúng! Đức Phật là người đáng kính, nhưng Ngài còn là người để mình thương, mình yêu như yêu cha yêu mẹ.
Cho nên chuyện mình tu tập là chuyện cho mình, không mắc gì Ngài. Chuyện tu hay không tu là chuyện của mình. Nhưng phải nói đọc bài Kinh mình thấy thương chớ, xúc động chớ.
Khi bài Kinh này được thuyết giảng lúc đó Thế Tôn gần viên tịch rồi, cận kề lắm rồi, mà Ngài nhắc:
“ Các ngươi may mắn có bậc Đạo sư là vị Chánh Đẳng Chánh Giác, người được cơ hội như vậy mà không nỗ lực tu hành thì đó là điều rất đáng tiếc. Trường hợp đó là một người đệ tử đáng bị chê trách”. Người ta có đạo sư không ra gì thì không nói. Đằng này có một Đạo sư như là Như Lai, nếu mà dễ duôi không tinh tiến tu tập thì đó là điều đáng trách.
Ngài còn dặn kỹ một điều nữa, là cho dầu Giáo Pháp có xuất sắc đến cỡ nào đi nữa; cho dầu bậc Đạo sư có xuất sắc đến cỡ nào đi nữa, nhưng nếu các đệ tử không có người kế thừa thì sự ra đi của bậc Đạo sư sẽ để lại khoảng trống không sao lấp đầy được.
Chúng ta biết rồi, giá trị của một con người lớn bằng khoảng trống mà người đó để lại sau khi người đó vắng mặt. Đúng vậy. Giá trị của Thế Tôn là vô bờ bến, bởi vì Ngài đi rồi Ngài để lại trong vô lượng thế giới một khoảng trống không sao lấp đầy. Chúng ta đọc lại trong Kinh Đại bát Niết Bàn sẽ thấy. Trong đêm cuối cùng chư thiên mười muôn triệu vũ trụ về lạy Phật. Trong đó có nhiều người cách đây 80 năm họ đã có lòng muốn xuống gặp Phật mà họ cứ ầu ơ ví dầu. Cuối cùng ngày mà họ xuống gặp Phật được là đêm cuối. Họ đều có câu nói giống nhau: ‘Đêm nay là đêm cuối cùng Đức Như Lai sẽ vĩnh viễn ra đi không bao giò trở lại nữa’. Đặc biệt như vậy!
Cho nên nếu gặp được bậc Đạo sư như vậy mà chúng ta không biết tranh thủ mà trở thành người ‘tối hậu’, thành người sau cùng biết được Ngài thì đó là điều rất đáng tiếc. Ngài tu hành tới 20 a tăng kỳ mà Ngài hoằng Đạo chỉ 45 năm thôi, mà Ngài dạy rõ các vị tỳ kheo “Đừng bao giờ trở thành người tối hậu sau ta” là vậy đó.
Tiếp theo, nguyên đoạn sau Đức Phật Ngài xác nhận rằng ngày hôm nay (hôm nay tức là lúc Ngài giảng Kinh này) thì Ngài đã có các đệ tử tăng và tục, xuất gia và cư sĩ có đủ kinh nghiệm, có đủ nhận thức, có đủ trí tuệ đức hạnh để kế thừa đoạn đường Ngài để lại. Tức là Ngài đã dắt người ta đi rồi. Đi rồi đoạn đường vẫn còn người kế thừa. Và chúng ta đọc kỹ thấy thương lắm. Ngài dạy rằng cả đời ta ta chỉ dạy 37 Phẩm trợ Đạo thì các vị hãy tiếp tục. Mai này dầu ta không còn nữa thì tiếp tục học tập. Gặp nhau là luận bàn, cùng nhau hành trì.
Từ đọan 17 trở đi chúng ta thấy có cái này rất quan trọng. Ngài cho biết trước, sau này sẽ có lúc trong anh em sẽ có những bất hòa về giáo lý. Tức là tôi thấy như vậy mà you không thấy như vậy thì này các tỳ kheo trong trường hợp đó phải ngồi lại với nhau để xác định xem sự khác biệt đó là trên từ ngữ hay là trên ý nghĩa. Nhớ nghe: từ ngữ hay là trên ý nghĩa. Nếu xét thấy sự khác biệt đó là về ý nghĩa, về tinh thần giáo lý thì cùng nhau ngồi lại để mà thương thảo. Còn nếu đó là sự khác biệt về từ ngữ thì hãy nhớ rằng đó là chuyện nhỏ mà thôi.
Có thể nói rằng bài Kinh này nếu chúng ta đọc bản dịch của ngài Minh Châu chúng ta có tâm cảm khác. Nhưng nếu bài Kinh này mà mình đọc chậm mình ghi cái note xuống mình thấy bài Kinh này nội dung rất là đặc biệt. Đó là ở trên Ngài xác nhận rằng
- một giáo lý mà có nội dung giải thoát thì tinh tấn là điều cần thiết,
- một giáo lý mà có nội dung tào lao thì tinh tấn chỉ là điều đáng tiếc.
Tiếp theo Ngài dạy rằng
- với một hệ thống giáo lý hoàn hảo thì rất cần có người kế thừa,
- trên quan điểm nhận thức, tiếp nhận và hành trì giáo lý, trao đổi giáo lý thì chúng ta chỉ nên quan tâm vấn đề ý nghĩa và nội dung mà thôi.
Tôi nhớ tôi có kể bà con nghe một câu chuyện. Là có một bà hành giả người VN bả có thói quen lạ lắm. Bả đang đi kinh hành chung với mấy người nữa. Đang đi vậy tự nhiên bả thụt lùi. Thay vì đi tới tự nhiên bả thụt lùi. Trong room nghe hiểu không ta? Mấy người bạn tu bên cạnh thấy lạ mới hỏi bả. Nói chứ thấy kỳ quá mà hỏng dám hỏi, bữa nay hỏi thiệt bà nghe. Tại sao cùng đi kinh hành mà lâu lâu thấy bà đi lùi là sao? Bả trả lời: Tại vì thiền sư dạy rồi, khi mình thất niệm đó thì mình cứ làm lại từ đầu coi như chưa có gì xảy ra! Thì bả hiểu ‘làm lại từ đầu’ đây có nghĩa mình đang đi mà mình quên niệm thì mình phải thụt lùi trở lại để mình niệm! Các vị nghe có chịu nổi không? Bả hiểu như vậy đó. Lẽ ra làm lại từ đầu không có nghĩa là đi thụt lùi. Thí dụ mình đi tới cái bước thứ 118 – 19 – 20 – 21 mà trong bốn bước đó mà tôi quên niệm thì cái bước 122 trở đi bắt đầu tôi niệm trở lại giống như chưa hề thất niệm. Cái đó là làm lại từ đầu, đằng này bả lùi trở lại để bả niệm. Bả còn trích dẫn thiền sư nữa!
Chưa hết, có một chuyện mà tôi kể hoài, bữa nay tôi kể lại nghe. Chuyện có thiệt. Là một bà mẹ người VN mình nè, bả dắt một thằng bé đi vô cái tiệm tạp hóa. Thằng bé đòi mẹ nó mua cho nó ba bốn lon nước nó thích. Bà má kêu nó lấy đi rồi bả trả tiền. Trong lúc bà má trả tiền thì nó đứng ở đây nó khui một lúc 4 lon luôn. Má nó hết hồn, má nó hỏi con uống mấy lon mà con khui hết trơn vậy? Nó trả lời nó nói Mam không thấy ở trên lon họ để open here. Open here có nghĩa là mình mua ở đây mình mở hết ở đây luôn! Các vị trong room có nghe kịp không? Cái chữ open here mà nó hiểu như vậy đó. Nó khổ chỗ này: thằng bé hiểu open here không có sai. Nó không sai mới ghê chứ. Nó vừa sai nó vừa đúng, mà nó vừa đúng nó vừa sai! Chữ ‘here’ nó hiểu theo cái nghĩa là ‘this grocery’ = ngay cái tiệm này nè. Còn chữ ‘here’ người lớn hiểu là ngay cái chỗ này trên cái lon!
Thì ở đây Kinh điển cũng vậy. Đức Phật Ngài dạy rằng khi giữa anh em với nhau mà có một sự mâu thuẫn, có một trục trặc trong tranh luận thì phải ngồi lại thương thảo. Ngồi lại để trao đổi bàn luận xem sự khác biệt đó, sự mâu thuẫn, trục trặc, lấn cấn đó thuộc về từ ngữ hay ý nghĩa. Nếu xét theo giáo lý mà nó không có gì tương phản với Kinh thì ok.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có nhắc lại chuyện này: “Khi giữa các tỳ kheo nổ ra cuộc tranh luận thì các ngươi phải xem coi những điều hai bên tuyên bố, coi quan điểm của hai bên có tương ứng với Kinh, có tương đồng với Luật hay không. Nếu nó không tương ứng với Kinh, không tương đồng với Luật thì điều đó phải xét lại. Còn nếu họ nói cách gì đi nữa mà nó không phản lại tinh thần của Giáo Pháp thì ok.
Tiếp theo Đức Phật ngài còn dạy một điều nữa là : Này các tỳ kheo, những điều ta giảng dạy cho các ngươi rất có thể có người nghĩ rằng Thế Tôn dạy một cái Pháp xa vời, một cái Pháp đâu ở trên mây. Trong đây có nói thế này, đoạn 22:
“Này các tỳ kheo, ta không chỉ thuyết giảng để ngăn chặn lậu hoặc. Không chỉ thuyết giảng để các ngươi đối phó với phiền não mà ta còn thuyết giảng để giúp cho các ngươi có một đời sống an lạc nữa”.
Đoạn 22 này tôi xin chân thành thiết tha đề nghị các vị nào mà xưa giờ cứ cắm đầu cắm cổ ôm bản tiếng Việt thì chỗ này các vị phải ngó kỹ lại: “Này Cunda, ta không thuyết giảng chỉ để ngăn chặn các lậu hoặc trong hiện tại hay trong tương lai mà thôi. Này Cunda ta thuyết pháp vừa để ngăn chặn các lậu hoặc ngay trong hiện tại mà cũng để diệt trừ các lậu hoặc trong tương lai”.
Tôi biết rõ mười mươi trong room này, nhiều người cứ thấy chữ ‘lậu hoặc’ cứ tưởng lậu hoặc là phiền não là chết, nghe!
Chữ ‘lậu hoặc’ có hai nghĩa:
- một là phiền não.
- Hai là những tuế toái phiền phức, những cái bất tiện, những cái khổ thân khổ tâm trong đời sống thì cũng được Đức Phật gọi là những lậu hoặc.
Nếu bà con nào có lòng ngờ chúng tôi thì đề nghị các vị hãy giở lại Trung Bộ Kinh bài số 2 xem có phải như vậy không.
Đức Phật dạy rằng chữ ‘lậu hoặc’ có hai nghĩa.
- Một là ám chỉ cho phiền não tham sân si,
- mà nó còn một nghĩa nữa là chỉ cho những khổ nạn mà vị tỳ kheo gặp phải trên đường tu học.
Thí dụ như nắng gió, mưa sương, côn đồ ác đảng, thú dữ, hầm hố gai góc trên đường đi khất thực… thì tất thảy những phiền phức đó cũng được gọi là lậu hoặc. Cho nên đoạn 22 này cần phải được hiểu như sau:
“Này các tỳ kheo, ta không chỉ thuyết pháp, ta không chỉ dạy dỗ, ta không chỉ hướng dẫn cho các ngươi cái phương thức đối phó phiền não, mà ta còn tạo ra cho các ngươi một điều kiện sống, một điều kiện vật chất để sống thoải mái ngay trong hiện tại, để tránh những khổ nạn không cần thiết”.
Bài Kinh phải đươc diễn dịch như vậy đó. Ở đây Ngài nói rất rõ, ngoài chuyện dạy cho các ngươi 37 Phẩm trợ Đạo, Như Lai còn có quan tâm rất nhiều đến đời sống vật chất của các tỳ kheo. Đó là gì? – Như Lai quan tâm đến 4 nhu cầu vật chất thiết yếu tối thiểu của một người sống hạnh không nhà, không thân thích. Đó là Như Lai quan tâm làm sao các ngươi khi đói có cái ăn, khi lạnh có cái mặc, khi nắng mưa có chỗ trú thân và khi bịnh hoạn có thuốc men chữa trị. Rõ ràng Đức Thế Tôn có quan tâm đến chuyện đó. Lát nữa, dưới đây có đoạn Kinh mà nếu chỉ biết ôm cái bản dịch tiếng Việt thì không tài nào hiểu được chỗ đó. Mà hỏng lẽ giờ tôi đi quảng cáo tôi thì nó kỳ, chớ cái lớp này của mình nếu mà không có, nhiều bà con đọc Kinh Tạng thì chảy máu mắt mà không hiểu nói cái gì. Chẳng hạn cũng bài Kinh này, chỗ đoạn dưới nói thế này:
“Này các tỳ kheo, Utthaka con của Ramaputta từng có một cái như sau thấy mà không thấy. Rồi ông ta mới ví dụ như con dao ta thấy được lưỡi dao, thấy được cán dao mà không thấy được cái bén của nó trừ phi ta sử dụng nó, ta sờ vào chỗ bén của nó. Còn nếu lấy mắt mà nhìn thì ta chỉ thấy được con dao mà không thấy được cái bén của nó. Này các tỳ kheo, Ramaputta dùng thành ngữ ‘thấy mà không thấy’ để chỉ cho con dao. Mà riêng ta, ta muốn dùng chữ đó để chỉ cho Giáo pháp của ta. Giáo pháp của ta có những điều mà người ngoài lấy mắt nhìn vào không thấy, nhưng mà khi có dấn thân tu tập hành trì thì mới cảm nhận được những điều mà ta không sao lấy mắt mà nhìn được”.
(còn tiếp)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Thanh Tịnh (2-2)
Đấy, tôi đem đoạn dưới lên tôi giải thích chỗ này. Nếu các vị là một tỳ kheo hoặc là một người có thời gian tu học nghiên cứu Tam Tạng Kinh điển thì sẽ thấy một điều rất thú vị, rất ly kỳ: bên cạnh việc Đức Phật Ngài để lại cho mình Tạng Kinh, tạng A Tỳ Đàm, tạng Luật, và tất cả những gì Ngài dạy trong Tạng Luật, trong tạng A Tỳ Đàm là để khai mở tấm lòng u tối của mình, để bỏ vô minh, phiền não, tham ái, tà kiến, nghi hoặc. Đó là pháp môn tu hành cho tinh thần. Nhưng nếu các vị có hành trì, có nghiên cứu Luật Tạng thì các vị thấy một chuyện đặc biệt nữa. Là tất cả những gì Đức Phật ban hành cho vị tỳ kheo thì Ngài bảo đảm cho vị tỳ kheo hai chuyện:
- về tinh thần thì các ngươi có một hệ thống giáo lý ngon lành để tu học, để hướng đến giải thoát;
- còn về đời sống vật chất cái này chỉ có người hành trì mới tin.
Tức là Đức Phật trong giáo Pháp của Ngài có những cái xuất sắc mà mình không thể lấy mắt mình nhìn được, mà chỉ cảm bằng trí thôi. Thí dụ, như khi Ngài ban hành giới luật cấm tỳ kheo không được giữ cái này, không được cất cái kia, không được sở hữu cái nọ, bla bla bla …rồi bắt tỳ kheo phải đi đứng ăn uống như thế nào, cư xử nói năng như thế nào, tiếp xúc, giao tế với cư sĩ phải như thế nào…Nếu lấy mắt mà nhìn thì phải nói là một hệ thống giáo lý rất là khó khăn, rất gắt gao, rất khó gặm! Nhưng có một điều mà chính Ngài cũng nói rõ ‘Ta để lại một giáo pháp không chỉ về tinh thần mà còn về vật chất cho các ngươi’ là sao?
Các vị có tin không? – Một người đàn ông, một cậu thanh niên không đẹp trai lắm, có một ngoại hình ngoại diện khó ngắm. Nhưng nếu làm đúng lời Phật, y áo trang nghiêm, cư xử phải phép chừng mực thì tự nhiên vị đó trở nên một người có sắc diện đáng kính. Đó là sự thật. Lạ như vậy!
Chưa hết, rõ ràng Đức Phật không có cho vị tỳ kheo tích lũy tài sản, nhưng nếu vị tỳ kheo hành trì đúng như những gì mà Ngài đã quy định, đã ban hành trong Tạng Luật, làm đúng những gì trong Tạng Kinh, A Tỳ Đàm thì vị đó một đời ăn không hết. Lạ như vậy đó. Đó là chuyện mình không thể lấy mắt mà nhìn được, mà phải ở trong cuộc mới biết.
Tại sao tôi đang giảng cái này mà phải đi xa như vậy để các vị thấy đặc biệt chỗ đó. Tôi nói theo Kinh chớ không phải nói theo chúng tôi nghe. Tôi nhắc lại:
Đức Phật không chỉ đơn giản là dạy cho mình con đường tu hành giải thoát phiền não mà Ngài còn sắp xếp, Ngài biết rất kỹ là nếu vị tỳ kheo mà làm đúng như lời của Ngài dạy thì coi như vị đó ăn một đời cũng không hết. Chỉ cần giới luật trong sạch, kiến văn đầy đủ, nếu mà đắc Thiền đắc Đạo thì số một khỏi nói. Còn nếu chẳng may không đắc được gì hết, chỉ cần có chánh tri kiến, có giới hạnh thanh tịnh thì một đời ăn không hết, cho dầu vị đó sống ở cái chỗ khỉ ho cò gáy, ‘chó ăn đá gà ăn muối’ cũng không sao hết.
Cho nên trong đoạn 22 này nói ‘Ta lo lắng chẳng những về tinh thần mà cả vật chất cho các ngươi nữa’. Nha, đặc biệt lắm!
Ngài dạy kỹ lắm. Tức là những ai hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp, không biết giáo pháp nói cái gì, cũng không biết gì về hệ thống tăng già của Đức Phật, và cũng chẳng biết gì về hệ thống truyền thừa thì cứ đọc bài Kinh này là có hết. Ngài dạy rấy kỹ. Chẳng hạn như ở đoạn 23:
“Này các tỳ kheo, nếu có ai đó nhìn thấy các ngươi có vẻ an lạc, có vẻ sung sướng rồi họ nói xấu các ngươi. Họ nói rằng các vị sa môn thích tử của sa môn Cồ Đàm chỉ biết tu hưởng, chỉ biết tu sướng thôi thì đừng có lấy đó làm phiền mà hãy giải thích cho họ nghe thế này: Đúng, chúng tôi tu rất là hạnh phúc. Chúng tôi tu rất là sung sướng. Nhưng cái sung sướng của chúng tôi nó không đi đến từ đời sống vật chất mà nó đến từ đời sống thiền định”.
Trong Kinh Tăng Chi nói có một lần vua Pasenadi vào hầu Phật. Ổng nói : “Bạch Thế Tôn, con lấy làm là là tại sao đệ tử Thế Tôn có đời sống vật chất hạn chế, mà sao con gặp vị nào vị nấy vẻ mặt sáng trưng hà”.
Đức Phật dạy: “Này đại vương, có chắc là đại vương thấy an lạc trong một ngày một đêm, hai ngày hai đêm hay không?”.
Vua nói "Dạ không, trong một khoảnh khắc thôi là con đã không sure là con được an lạc. Nhiều khi con muốn cười lắm nhưng chuyện triều chính, rồi chuyện của tam cung lục viện nhiều khi nó ám con. Con muốn cười một chút cũng không cười nổi nữa, thì nói gì là một ngày an lạc".
Phật nói: "Như Lai và các đệ tử Như Lai thì hoàn toàn có thể an lạc như mình muốn. Các vị muốn an trú cái gì thì các vị an trú trong đó. Cho nên Như Lai và các đệ tử Như Lai an lạc được trong một ngày, hai ngày, năm ngày, bảy ngày như ý. Đó là điểm khác biệt giữa người có hành trì và không có hành trì. Đó chính là lý do vì đâu đại vương nhìn thấy các tỳ kheo có đời sống vật chất rất khiêm tốn, rất là hạn chế, thậm chí cơ cực, bần hàn nữa nhưng vị nào cũng thấy an lạc hết."
Vì đời sống tinh thần ok thì những thiếu thốn, những khoảng trống về vật chất lập tức nó không đáng kể. Cho nên nếu có ai nói tu hành là hưởng thụ thì các ngươi nói không sai. Nhưng chúng tôi hưởng cái gì? – Chúng tôi hưởng thụ niềm tịnh lạc ngay trong nội tâm chớ không phải hưởng thụ theo kiểu ngoài thế gian.
Đức Phật Ngài dạy rõ nữa nếu chỉ là tu thiền Samatha thôi thì còn an lạc nói chi một người có tu tập cả Vipassana để thành tựu 4 tầng thánh Sơ, Nhị, Tam, Tứ quả.
Tiếp theo, nếu có ai đó nói các vị tỷ kheo sống không có lập trường. Có nghĩa sống rày đây mai đó. Về tình cảm thì không có quan hệ rõ ràng. Về trú xứ cũng không có một nơi chốn rõ ràng. Nói chung, đời sống một vị tỳ kheo Nguyên Thủy không có một chút ràng buộc nào hết. Thì Đức Phật ngài dạy nếu có ai đó nói các ngươi không lập trường thì các ngươi phải nói thế này. “Không phải chúng tôi không có lập trường mà chúng tôi không có sự ràng buộc thì đúng hơn”. Có một sự khác biệt rất lớn giữa cái lập trường và cái ràng buộc. “Chúng tôi không có sự ràng buộc về bất cứ gì”.
Vì sao? – Các vị trong room làm ơn nhớ cái này quan trọng: Khoa học là gì? Khoa học là nghi ngờ và thử. Trong Phật Pháp cũng y chang như vậy. Người mà tu học đúng mức không bao giờ thấy rằng chỗ mình đứng là chỗ tốt nhứt. Đó là người biết cách tu học. Trong đời sống, một đời sống thông minh chỉ có chữ ‘better’ chớ không bao giờ có chữ ‘best’. Các vị nhớ nghe chỉ có cái tốt hơn chớ không có cái tốt nhứt. Tôi nhớ tôi nói không biết là bao nhiêu lần cái này.
Nếu các vị hỏi tôi chớ 'Theo Sư, nội dung Phật Pháp là gì?" thì tôi sẽ có cách nói rất là lạ. "Nội dung Phật Pháp là hướng tới cái better, never best." Là sao?
Tham- sân- si mà so với vô tham- vô sân- vô si thì vô tham vô sân vô si là better. Sân hận, cộc cằn, thô lỗ, nhỏ mọn mà đem so với lòng vị tha, bao dung, yêu thương, từ tâm thì cái từ tâm, yêu thương nó là better. Rồi vô minh, tà kiến, ngã mạn mà đem so với trí tuệ, chánh kiến thì mình thấy chánh kiến nó better. Như vậy đời tu của mình lúc nào cũng hướng tới cái tốt hơn, nhưng đừng bao giờ dại dột nghĩ rằng mình đang ở cái tốt nhứt. Theo tôi trong tự điển người tu Phật phải bỏ chữ ‘best’. Bởi vì đừng bao giờ nghĩ tới cái tốt nhứt, mà luôn luôn nghĩ tới chữ ‘tốt hơn’ cho đến bao giờ mình chết thì thôi. Nghe! Quan điểm tu học một người hành trì đúng lời Phật là luôn luôn ở trong tình trạng hướng tới mọi cái khác cao hơn.
Ở đây sự an lạc của tỳ kheo có nhiều cách:
- sự an lạc do Giới,
- sự an lạc do Định và
- sự an lạc do Tuệ,
- sự an lạc do thành tựu Sơ, Nhị, Tam, Tứ thiền,
- sự an lạc có được do sự thành tựu Sơ, Nhị, Tam, Tứ quả.
Từng bước từng bước đi lên, nhưng nhớ cái quan trọng nhứt là luôn luôn nghĩ tới cái tốt hơn chớ không bao giờ nghĩ đến cái tốt nhứt.
Đoạn 27:
Ngài xác nhận một điều nữa là nếu có người nghi ngờ Thế Tôn về Túc mạng minh, về Quá khứ trí và Vị lai trí thì Ngài xác định rằng Ngài có điểm đặc biệt như sau: ngoại đạo không biết Phật Pháp nếu đắc thiền thì chỉ nhớ tối đa là 40 đại kiếp. Bồ tát đã được thọ ký thì có thể nhớ được tối đa là 80 đại kiếp. Còn vị Độc Giác thời gian hành ba la mật là 2 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp thì cái sức nhớ quá khứ và sức quán tương lai của vị này cũng chỉ giới hạn trong 2 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp. Riêng hai vị thượng thủ Thinh Văn thì thời gian hành ba la mật là một a tăng kỳ 100.000 đại kiếp cho nên sức nhớ các vị này cũng chỉ quẩn quanh trong một a tăng kỳ 100.000 đại kiếp. Còn bà Da Du Đà La mặc dù là Thinh Văn nhưng tu theo Bồ tát , bả tu 4 a tăng kỳ nên cũng có sức nhớ 4 a tăng kỳ, bà nhớ chuyện hồi dưới chân đức Phật Nhiên Đăng. Riêng vị Chánh Đẳng Chánh Giác hạnh tinh tấn là 80 a tăng kỳ, hạnh đức tin là 40 và hạnh trí tuệ là 20 a tăng kỳ. Tuy thời gian hành ba la mật là có giới hạn nhưng khi thành Phật rồi thì sức nhớ về chư Phật Chánh Đẳng Giác về quá khứ và khả năng nhìn về tương lai không có giới hạn. Đó là chuyện mình phải nhớ.
Nhưng trong bài Kinh này, đoạn 27 có một chi tiết rất là đặc biệt. Ngài xác nhận có thể nhớ không giới hạn về quá khứ, nhưng thay vì xác nhận mình có thể soi rọi vô số kiếp vị lai, thì ở đây Ngài lại có cách nói rất bất ngờ: ‘Kiếp này tịch xong là hết’.
Các vị thấy cách nói này đặc biệt không? Chú giải nói “Thế Tôn tác ý đến bao nhiêu, nghĩ đến bao nhiêu thì nhớ đến bấy nhiêu”. Nhưng ở đây Ngài chọn cách nói rất đặc biệt: Về quá khứ thì Như Lai có thể nhớ không giới hạn, còn về tương lai thì thay vì Ngài cũng có thể nói ‘Như Lai có thể nhớ một cách không giới hạn’ thì Ngài lại không nói. Ngài nói là: “Về quá khứ thì Như Lai có thể nhớ không giới hạn, còn về tương lai thì Như Lai biết rằng kiếp này tịch xong là hết”. Đó là điểm rất đặc biệt!
Trong bài Kinh này Đức Phật có nhắc đến những điều đặc biệt sau đây:
Chư Phật chỉ nói ra điều gì dựa trên bốn tiêu chí sau đây:
1- Luôn nói sự thật.
2- Luôn nói điều hữu ích.
3- Luôn nói đúng lúc.
4- Luôn nói bằng từ tâm.
Chư Phật luôn nói sự thật là, cái gì mà chư Phật đã nói ra thì sự thật nó là như vậy chớ nó không có khác đi được.
Luôn nói điều hữu ích: là có những sự thật mà nó không có lợi ích. Thí dụ một Phật tử tới thăm ông sư và hai thầy trò có thể ngồi cả tiếng nói chuyện với nhau về cách trồng lan, trồng bonsai. Đó là những chuyện đúng sự thật nhưng theo tiêu chí thứ hai này thì sai vì nó không là điều hữu ích cho con đường giải thoát.
Luôn nói đúng lúc: ai là những bậc cha mẹ thì biết mình thương con, muốn nhắc nhở con muốn dạy con thì phải lựa lúc lựa khi. VN mình có câu ‘Trời đánh tránh bữa ăn’, nhưng nhiều người có tật lúc bình thường không la mà hễ thằng con mới cầm đũa lên thì lôi ra nói. Chuyện đó có thiệt. Nói vậy là phi thời. Chư Phật thì luôn luôn nói điều đúng sự thật. Luôn luôn nói điều lợi ích và thứ ba nữa là nói đúng lúc đúng thời. Điều thứ tư là chư Phật luôn luôn nói bằng từ tâm.
Ở đây Thế Tôn định nghĩa chữ ‘Như Lai’:
1- Không gì nhân thiên biết mà Ngài không biết.
2- Trọn đời chỉ nói chân lý.
3- Nói sao làm vậy và ngược lại (làm sao thì nói vậy).
4- Không ai trong nhân thiên có thể hơn được Ngài về bất cứ mặt nào trong thiện pháp và trí tuệ.
( Từ đây về sau chúng tôi nói gọn thôi, chúng tôi đem phần sau trộn chung lại nghe).
Đoạn cuối Kinh này xác định rằng một người học hiểu Tứ Niệm Xứ một cách đàng hoàng thì không thể mắc vào những quan điểm tri kiến vớ vẩn vô ích và nguy hiểm về bản thân và thế giới nói chung.
(Đó, nội dung bài Kinh là vậy. Nếu ngay bây giờ mà tôi đóng sách lại không giảng nữa thì quý vị cũng học xong bài Kinh).
Vì sao đoạn cuối bài Kinh nói vậy? Kinh Tứ Niệm Xứ dạy mình cái gì? – Kinh Tứ Niệm Xứ trước hết dạy về Bốn Đế:
- Khổ đế: Mọi hiện hữu là khổ. Tất cả những gì ta thấy được, nghe, ngửi, nếm, đụng được trên đời này nó đều là khổ.
- Tập đế: Sự thật về khổ thứ hai là nếu mọi thứ ở đời là khổ thì bất cứ cái gì ta đam mê cũng đều là đam mê trong khổ. Đam mê cái gì cũng là đam mê trong khổ do thích trong khổ nên mới đầu tư thêm khổ.
- Đạo đế: là hành trình nhàm chán khổ đế để chấm dứt Tập đế.
- Diệt đế: khi sự nhàm chán đã đúng mức thì sự đam mê sẽ vắng mặt. Niết bàn là sự vắng mặt của tất cả niềm đam mê.
- Ở bước sơ cơ ta học hiểu rằng thiện là nhân lành cho quả vui. Ác là nhân xấu cho quả khổ.
- Ở bước tiếp theo hành giả thấy rằng buồn vui đều là khổ nên thiện ác đều là nhân khổ, trực hay gián tiếp mà thôi.
Tuy vậy, ta tiếp tục lánh ác làm thiện theo tinh thần Tứ Niệm Xứ, nghĩa là LÀM MÀ KHÔNG NẶNG LÒNG TỰ THỊ, chỉ xem việc tu học như chuyện uống thuốc chữa bịnh mà thôi. Hành giả Tứ Niệm Xứ biết đây là thiện, đây là bất thiện, đây là khổ, đây là vui, biết rõ. Nhưng không vì thấy mình tu tập tiến bộ rồi sanh tâm kiêu ngạo vì xem tu học chỉ là uống thuốc chữa bịnh mà thôi.
Thì với một người nhận thức được như vậy không biết chừng nào đắc, nhưng trước mắt họ không còn kẹt vào mấy cái tà kiến mà trong Kinh này vừa kể (Như thấy thế giới này là thường, lạc, ngã, tịnh; thế giới này là vô biên hay hữu biên; thế giới này do mình tạo ra hay người khác tạo ra). Mà tất cả là do duyên hết.
--ooOoo--
Duyên Hệ
Hành giả thấy rằng mỗi thứ trong đời đều do duyên tạo mà có.
Có hai thứ duyên:
- trợ sinh và
- trợ lực.
Khi hết duyên thì cái gì cũng mất đi.
Ngay đến bản thân sự mất còn của cái này cái nọ cũng là duyên, vì chúng khiến cái gì đó có mặt hay mất đi. Thí dụ chủ cũ phải bán nhà thì chủ mới mới vô ở được. Phải ly dị người cũ mới cưới người mới được. Cho nên sự vắng mặt của cái này nó là điều kiện cho cái kia có mặt.
Rồi có trường hợp chính vì cái này có mặt nên cái kia mới có mặt.
Rồi có trường hợp cái này vắng mặt cái kia mới có mặt, mà A Tỳ Đàm gọi là Ly khứ duyên (Vô hữu duyên) là nhiều khi chính sự vắng mặt của cái này nó là điều kiện cho cái kia có mặt.
Tiền sanh duyên: Có trường hợp cái này giúp cho cái kia bằng cách nó có mặt trước.
Hậu sanh duyên: có trường hợp cái này giúp cho cái kia có mặt bằng cách nó có mặt sau.
Chính vì chiều nay có đám cưới nên chỗ này bây giờ đang được trang hoàng. Đám cưới là nguyên nhân nhưng xuất hiện sau. Trang hoàng là quả nhưng có mặt trước.
Câu sanh duyên (đồng sanh duyên): như cô dâu và chú rể cùng lúc có mặt, cùng lúc trao nhẫn cùng lúc nâng ly thì mới làm đám cưới được.
Như vậy, thế giới này là nơi gặp gỡ của các duyên. Ngoài duyên ra không còn gì hết. Thì hành giả thấy là cái gọi thằng Tèo thằng Tý, là nam nữ, đực cái trống mái, hạnh phúc đau khổ, niềm vui hay nụ cười, thấy tất cả trăng sao hoa lá, kinh rạch, chim muông thú vật, côn trùng, con người, bla bla bla .. đều do duyên mà có.
Duyên là gì? – Là duyên trợ sinh trợ lực.
- Nó chưa có làm cho có là trợ sinh.
- Trợ lực là nó có rồi mà làm cho nó phát triển mạnh lên, vững vàng hơn.
Nói theo chuyên sâu hơn thì:
- các pháp giúp nhau bằng cách có mặt,
- các pháp giúp nhau bằng cách vắng mặt,
- các pháp giúp nhau bằng cách cùng có mặt.
Đức Phật dạy rằng nếu một vị tỳ kheo hay một tu sĩ mà
- có tu tập,
- có học hiểu,
- có hành trì Tứ Niệm Xứ như trên
thì họ không còn có cơ hội để bị vướng kẹt
- trong vô minh,
- trong tà kiến,
- trong hoài nghi, …
Đó chính là nội dung Kinh Thanh Tịnh.
Chúc các vị một ngày vui. Ngày mai chúng ta sẽ gặp lại nhau và học tiếp./.
Mục Lục các Bài Giảng
(hết)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
Link to thread Tĩnh Lặng, p 9, # 131:
1/ Hạng dục tánh (tham nhiều), Ngài thuyết Kinh Chánh Xuất Gia (Sammaparibbajaniya Sutta)
(XIII) Kinh Chánh xuất gia (Sn 63)
Người hỏi:
Quote:359. Tôi hỏi bậc ẩn sĩ,
Có trí tuệ rộng lớn,
Ðã vượt qua bờ kia,
Tịch tịnh, tự an trú.
Làm sao một Tỷ-kheo,
Bỏ nhà, bỏ các dục,
Lại có thể chơn chánh
Du hành ở trên đời?
Thế Tôn:
Quote:360. Ai nhổ lên điềm lành,
Như vậy, Thế Tôn đáp
Các sao băng mộng mị,
Và các tướng lành dữ,
Vị ấy đoạn trừ được,
Các lỗi lầm điềm lành;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
361. Tỷ-kheo nhiếp phục tham,
Ðối với các dục vọng,
Tại thiên giới, nhân giới,
Vượt hữu, chứng tri pháp;
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
362. Tỷ kheo bỏ hai lưỡi,
Bỏ phẩn nộ, xan tham,
Với tùy thuộc chống đối,
Ðoạn tận thật hoàn toàn,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
363. Sau khi đã từ bỏ,
Cả ái và phi ái,
Không chấp thủ một ai,
Không y chỉ chỗ nào,
Giải thoát được hoàn toàn
Các kiết sử trói buộc,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
364. Ai không tìm lõi cây,
Ðối với các sanh y,
Có thể nhiếp phục tham,
Ðối với các chấp thủ,
Vị ấy không y chỉ,
Không để ai dắt dẫn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
365. Với lời và với ý,
Và với cả nghiệp làm,
Không chống đối một ai,
Chơn chánh biết diệu pháp,
Thường cố gắng hướng đến,
Ðường Niết bàn tịch tịnh,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
366. Tỷ-kheo không tự cao,
Khi người đảnh lễ mình,
Dầu có bị nhiếc mắng,
Không khởi tâm tức tối,
Ðược đồ ăn của người,
Không có sự tham đắm,
Tỷ kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
367. Tỷ-kheo sau khi đoạn,
Tham dục và sanh hữu,
Từ bỏ, không làm hại,
Không trói buộc một ai,
Vị ấy vượt nghi hoặc,
Ðã rút ra mũi tên,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
368. Tỷ-kheo sau khi biết,
Ðiều thích đáng cho mình,
Không làm hại một ai,
Có mặt ở trên đời,
Sau khi đã biết pháp
Như thật, như thế nào,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
369. Với ai, các tuỳ miên,
Không còn có tồn tại,
Và cội gốc bất thiện,
Ðược nhổ lên tận trừ,
Vị ấy không tham dục,
Không có hy cầu gì.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
370. Ai đoạn tận lậu hoặc,
Ðoạn trừ cả kiêu mạn,
Mọi con đường tham dục,
Ðược chế ngự nhiếp phục,
Ðược nhiếp phục tịch tịnh,
Tự ngã được an lập,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
371. Có lòng tin, nghe pháp,
Thấy được quyết định tánh,
Bậc hiền không phe phái,
Giữa rất nhiều phe phái,
Có thể nhiếp phục được,
Tham, sân và hận thù,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
372. Thanh tịnh và chiến thắng,
Kéo lên màn che kín,
Tự tại trong các pháp,
Ðến bờ kia, bất động,
Ðoạn diệt các sở hành,
Thiện xảo trong chánh trí,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
373. Trong những thời quá khứ,
Trong những thời vị lai,
Vượt qua các chủ thuyết,
Trí tuệ thật thanh tịnh,
Với tất cả mọi xứ,
Ðược hoàn toàn giải thoát.
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
374. Rõ biết được Pháp cú,
Chứng tri được Chánh pháp,
Thấy được sự mở rộng,
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Ðối tất cả sanh y,
Ðược trừ diệt hoàn toàn,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
Người hỏi:
Quote:375. Bạch Thế Tôn, chắc chắn,
Thực sự là như vậy,
Tỷ-kheo được chế ngự,
Ðã an trú như vậy,
Ðã nhiếp phục hoàn toàn,
Tất cả các kiết sử,
Tỷ-kheo ấy chơn chánh
Du hành ở trên đời.
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chánh Xuất Gia 1 (1-4)
Kinh Chánh Xuất Gia 1
[27/12/2021 - 10:16 - dhammavihari2018]
Cái bài giảng đầu tiên là bài Kinh Chánh Xuất Gia.
Kính thưa đại chúng! Trong buổi học sáng hôm qua chúng tôi có giới thiệu về 6 bài kinh trước đây một thời gian cũng khá lâu, thì ngày hôm qua chúng ta học về bài Kinh Đại Hội, trong bài kinh đó có nhắc đến 6 bài kinh, cách đây lâu lắm rồi trong 1 lớp học tại Thụy Sĩ chúng tôi đã có dịch và có hướng dẫn có vị Phật tử trọn vẹn 6 bài đó từ năm 2012, tức là bây giờ đã gàn 2 năm rồi. Tôi đặt tên cho 6 bài là Lục Đại Chân Kinh, kinh nào thì cũng là kinh hết, Lục Đại Chân Kinh, nhưng có lẽ là vì mình mang cái máu kiếm hiệp nên để ghi dấu 6 bài đó thì tôi gọi là Lục Đại Chân Kinh, nghe nó có vẻ giống như à Cửu âm chân kinh vậy đó. Thì LDCK ở đây gồm có 6 bài, thì mỗi 1 bài như vậy đó
[27/12/2021 - 11:50 - dhammavihari2018]
Cái bài giảng đầu tiên là bài Kinh Chánh Xuất Gia.
Kính thưa đại chúng! Trong buổi học sáng hôm qua chúng tôi có giới thiệu về 6 bài kinh trước đây một thời gian cũng khá lâu, thì ngày hôm qua chúng ta học về bài Kinh Đại Hội, trong bài kinh đó có nhắc đến 6 bài kinh, cách đây lâu lắm rồi trong 1 lớp học tại Thụy Sĩ chúng tôi đã có dịch và có hướng dẫn các vị Phật tử trọn vẹn 6 bài đó từ năm 2012, tức là bây giờ đã gần 2 năm rồi. Tôi đặt tên cho 6 bài là Lục Đại Chân Kinh, kinh nào thì cũng là kinh hết, Lục Đại Chân Kinh, nhưng có lẽ là vì mình mang cái máu kiếm hiệp nên để ghi dấu 6 bài đó thì tôi gọi là Lục Đại Chân Kinh, nghe nó có vẻ giống như à Cửu âm chân kinh vậy đó. Thì Lục Đại Chân Kinh ở đây gồm có 6 bài, thì mỗi 1 bài như vậy đó được Đức Phật Ngài nhấm đến 6 hạng chúng sinh .
Xin bà con ghi dùm cái này, tức là chúng sanh trong đời đều có vô số vô lượng nhưng mà có thể gom gọn thành 6 nhóm có khuynh hướng tâm lý nặng về tham, sân, si, tầm, tín, giác.
[28/12/2021 - 01:35 - dhammavihari2018]
Nhóm thứ nhất là những chúng sinh có khuynh hướng tâm lý nặng về tham, tiếng Pali gọi là rāgacarita,tôi dịch là tham tánh hay là dục tánh
.
Hạng thứ 2 là dosacarita, tức là những cái người này phiền não y như người ta vậy á nhưng mà cái mà nặng nhất ở trong đó á là sân tánh hay là nộ tánh .
Hạng thứ 3 là mohacarita, tôi dịch là độn tính .
Các vị có vẻ ngạc nhiên là tại sao tôi không dịch là tham, sân, si mà bởi vì các vị không biết có để ý hay không là tôi luôn luôn tận lực theo đuổi một cái điều mà tôi gọi là tâm huyết là dịch cái gì đi nữa cũng phải căn cứ trên cái hồn Việt, cái hồn Tiếng Việt, cái hồn văn hóa Việt. Ở trong cái văn hóa Việt, chúng ta biết rồi, chúng ta dùng chữ Hán rất là nhiều, mà mình thấy đối với người không biết Phật Pháp mà mình nói tham tánh, sân tánh nghe nó không có ổn lắm .
Theo tôi thôi, trong cái nhìn chủ quan thì tôi thấy cái chuyện đó nó không ổn, mà tôi dịch là nặng về duc tính thì nó thích hơn.
Chữ dục đây không gói gọn trong 5 trần, mà dục ở đây là thích là muốn tùm lum hết trơn á, thì gọi à dục tánh hay tham tánh. Cái hạng thứ 2 thay gì dịch là sân tánh thì nghe nó rất là xa với người Việt, mà dịch là nộ tánh thì nghe nó hay hơn. Cái thứ 3 mình dịch là si tánh thì nghe nó không hay bằng cái chữ độn tính. Tham, sân, si hả... giờ tới cái tánh tầm mình dịch sao đây? Cái tánh tầm, cái tánh thứ 3 là vitakka carita, cái tánh này là cái tánh lăng xăng, mà cái tánh này không hẳn là thiện hay bất thiện. Cho nên ở đây á, mình dịch theo tiếng Việt Nam cái tánh Tầm nghe nó xa lạ ghê lắm,người Phật tử đi chùa 80 năm mà chưa từng học A tỳ đàm á, thì họ nghe cái chữ tầm này họ khó bề mà hình dung ra lắm,cho nên mình phải suy gốc cái ý nghĩa của tàm tính là sao? Cho nên cái chữ tầm tính ở đây nó có một cách dịch mà tôi cho là tương đối là đắc cách, có nghĩa là người Việt nghe thấy okay là đãng tính giống như đãng trí
[01/01/2022 - 08:32 - dhammavihari2018]
, có nghĩa là họ không có theo đuổi hết một cái tâm nguyện nào mà cứ buông cái này bắt cái kia, họ có thể là họ là một người rất là thiện tánh, có nghĩa là sao, là tha thiết về Đạo, tha thiết về làm điều thiện, yêu cái tốt, yêu cái thiện, nhưng mà có một điều là họ không có theo đuổi cái gì suốt, cứ nay thì cái này, mai cái kia,tiếng Việt Nam mình gọi là cái người đoản khí, hoặc là đãng tính, chứ không phải là đãng trí nha, họ đãng tính có nghĩa là họ không có rõ cái gì hết, lúc này là cái này, lúc khác là cái khác gọi là đãng tính.
Tầm rồi tới tín .
Cái tín ở đây là đức tin Saddhacarita, tui dịch là mộ tánh, dịch tín tánh nghe nó kỳ lắm, mộ tánh có nghĩa là, các vị có nhớ sư trưởng có bài định nghĩa về ba hạng Bồ Tát:" Bậc tinh tấn thì năng phục vụ, kém khôn ngoan chẳng đủ niềm tin.
Bậc trí tuệ thì giác phần chóng đắc, vì căn cơ xuất sắc hơn thường. Trí nhân tâm tánh như gương, nên khi quán chiếu vô thường nhận ngay.
Bậc đức tin lâu ngày hơn trí, vì tính nhân ít nghĩ rõ ràng. Tín nhân cá tính đoan trang, lại ưa mến chuộng dị đoan linh thần. Đó!
Cái chữ tánh ở đâu là mộ, tức là nay thì theo ông Tư bà Tám, rồi thầy nước lạnh, thầy nước sôi . Dĩ nhiên, một vị Bồ Tát là một vị Bồ Tát là trí tuệ hơn người nhưng trong quá trình hành ba la mật thì cái yếu tố đức tin ấy, cái yếu tố tâm lý gọi là hâm mộ thần tượng ấy, thì nó mạnh lắm .
Mình có thể nhìn vào cái kiểu tu hành của Tăng Ni Phật tử thì mình thấy có nhiều người vô chùa á, thì họ coi nặng việc xây chùa, xây tháp, họ nặng về bố thí. Còn có người thì thích thiền định rồi nghiên cứu kinh Phật rồi học hỏi uyên bác . Còn có cái hạng nữa đó, là thích thờ cúng thôi, thích bùa phép rồi thích kinh này kinh kia, cái này linh rồi đeo tượng Phật, vẽ bùa, săm mình vân vân và vân vân. Đại khái là họ coi cái chuyện hương khói nặng nề lắm, họ thích cái đó lắm, họ nặng về hương khói . Trường hợp đó gọi là mộ tánh, mộ tánh tức là thích một cái khuynh hướng tâm lý sùng mộ, thần tượng, tức là họ thờ Phật cũng đặt biệt hơn người ta, tức là người ta thờ Phật người để ý Phật nói cái gì, để ta tìm hiểu về nghĩa lý, họ thì không, đã thích Phật rồi, đã mến Phật rồi, đã kính Phật rồi thì họ coi Phật cũng như một vị thần nhiều hơn, khuynh hướng sùng mộ, thần tượng, trong trường hợp như vầy gọi là mộ tánh.
Bây giờ tới cái khuynh hướng tâm lý thứ sáu, Buddhacarita, cái chứ Buddha thông thường được dịch là Giác, Giác tánh, ở đây tôi dịch là ngộ tánh, cái chữ ngộ tánh trong tiếng Việt Nam mình á, người nào mà coi phim Tàu trong Hán, hoặc trong thơ ca tiếng Hán thì có cái chữ ngộ tánh, nói thằng bé đó có ngộ tánh, có nghĩa là nó sớm có những cái nhận thức chín chắn, già dặn, trưởng thành về chuyện Đạo, về Kinh Phật, thì gọi là ngộ tánh thì nó hay hơn mình dịch là tánh Giác thì nghe cũng được . Lâu ngày mình xài, thì mình thỏa hiệp nội bộ với nhau thì Okay, vì ngôn ngữ nó lừ mặc định, là ước lệ, thì mình dịch chữ gì cũng được. Là mặc định là ước lệ, nhưng mà có những trường hợp cái mặc định đó đó, nó có thể có một giải pháp hay hơn mà tại sao mình lại chết sống với một cái mặc định mà nó, nó còn có thể chọn lựa hay hơn, ừ hứm... Okay.
Cho nên tổng chi thì chúng ta có được sáu hạng chúng sanh ở đời.
- Hạng thứ nhất là dục tánh,
- hạng thứ hai là nộ tánh,
- hạng thứ ba là độn tánh,
- hạng thứ tư là đãng tánh,
- hạng thứ năm là mộ tánh,
- hạng thứ sáu là ngộ tánh,
mà phải nói thế này, nhân, mình phải xài trường hợp nhân khi mà người ta chưa có kịp làm quen với từ ngữ Phật học tại sao mình không gợi ý người ta, không đề nghị người ta dùng những chữ đẹp, còn bây giờ mình cứ nghĩ mà thôi kệ cho dùng cái chữ đó lâu ngày người ta cho dùng vậy thôi, cái bà đó bả sơ cơ, cái ông đó ổng sơ cơ thôi mình cứ cho dùng chữ cữ đi thì tôi không đồng ý. Lẽ ra đó, đối với những người đó đó thì nhân khi họ chưa kịp biết cái chữ mà nó không hay lắm đó thì nhân lúc đó đó mình hãy cho... Theo tôi sáu cái chữ vừa rồi, theo tôi thôi là sau chữ hay, nó hay hơn chữ cũ. VD như dịch người đó ngưới tánh tham, người tánh sân thì nó không bằng mình dùng các chữ dục tánh, nộ tánh, độn tánh, đãng tánh, mộ tánh và ngộ tánh, theo tôi thì nó gần gũi với cái văn hóa của Tiếng Việt hơn .
Còn bà con không đồng ý thì okay, bởi vì mình phải nói rõ với nhau là đời sống là sự chọn lựa yeahh, các vị không đồng ý cũng được . Khi tôi bước vào trong room thì dĩ nhiên, quý vị không thể trách tôi tại sao tôi chủ quan, tôi phải có cái chủ kiến của tôi chứ, Okay..
Tôi trở lại đó là nói theo cái nội dung của kinhr .
Trong phần chú giải của kinh Đại Hội thì khi đêm đó, thiên chúng trong vô lượng vũ trụ tìm đến để lễ Phật ấy, và để chiêm ngưỡng thánh chúng .
Lúc đó Đức Thế Tôn, với ánh mắt nhìn thấu ba cõi và cái tấm lòng nghĩ đến ngàn đời đó, xét thấy rằng thiên chúng về đông quá, đêm nay ta sẽ thuyết cái gì đây, sẽ nói cho họ nghe cái gì, và cách nói ra sao .
Nói cái gì tức là nói đề tài gì và
nói ra sao, có nghĩa là mình nói một mình mình độc giảng hay mình thích vấn đáp.
Với Phật trí, Thế Tôn thấy rằng với khuynh hướng tâm lý của thiên chúng đêm nay, họ nghe hai vị vấn đáp nó tốt hơn. Bởi vì tôi biết có nhiều người cũng thích nghe nhạc nhưng mà họ thích nghe song ca, lại có người thích nghe đơn ca, rồi có người họ lạ lắm, họ thích nghe hòa tấu thôi, họ không muốn nghe lời , họ chỉ muốn nghe giai điệu của nó thôi, họ muốn nghe cái melody chứ không muốn nghe lyric, nó lạ lắm. Cho nên là, Phật Pháp cũng vậy, cũng bài hát đó mà có người họ thích nghe hòa tấu, họ nghe Diễm xưa đó, tằng tăng tắng tăng họ thích hơn.
(còn tiếp vì ghi chép chưa hoàn tất)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chánh Xuất Gia 1 (2-4)
(còn tiếp)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chánh Xuất Gia 1 (3-4)
(còn tiếp)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chánh Xuất Gia 1 (2-4)
(Hết)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chánh Xuất Gia 2 (1-4)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=yL5S3neMCAk&abt=Kinh+Ch%C3%A1nh+Xu%E1%BA%A5t+Gia+2
Kinh Chánh Xuất Gia 2
Quote:Kalama tri ân bạn ghi chép.
08/01/2022 - 10:25 - tranngocdieu.nt
Ai không tìm lõi cây đối với các sanh y
Có thể nhiếp phục tham đối với các chấp thủ
Không để ai dắt dẫn
Tôi xin thưa với đại chúng một điều đó là căn cứ vào bản tiếng Việt này thì chúng ta không cách gì mà chúng ta bắt nhịp được với chú giải bởi vì đọc trong sớ giải thì mới thấy bản dịch này tạm thời dùng không được. Bởi vì theo trong bản chánh kinh thì nó phải khác đi một chút.
Trước hết chữ sanh y ở đây và cái đoạn kệ thứ 5 này. Trong bài thì nó có nhiều đoạn thì đoạn thứ 5 cái chữ sanh y (upathi) này chỉ cho 5 uẩn.
Không đi tìm cái cốt lõi trong 5 uẩn nghĩa là sao?
Hôm qua tôi nói rồi trong đời sống mình thường có những khuynh hướng rất là bậy bạ . Đó là mình luôn luôn đi tìm những thứ hay ho trong những thứ mình thích. Thí dụ như ngày hôm qua tôi đã nói là mình cố dỗ mình để mình còn thấy là mình sống lâu, mình có sức khỏe, mình cố dỗ cố dụ mình để mình thấy rằng cái này là bền nè, cái này là chắc nè, cái này là lâu nè, cái này là cứng, cái này là vững, cái này là của tôi, cái này là tôi.
Đi tìm cái cốt lõi là đi tìm như vậy.
Thật ra mọi thứ nó chỉ là lắp ráp thôi. Một đời người dù sống 20 tuổi chết, 50 tuồi chết, 90 tuổi chết thì dầu cuộc đời dài hay ngắn thì nó chỉ là sự lắp ráp giữa 4 thứ thôi đó là thiện, ác, buồn, vui. Và như ngày hôm qua tôi có nói với các vị đó là cái đời sống này nói chung và mỗi cá nhân nói riêng về thân về tâm nó giống như cây chuối mình cứ lột từng bẹ từng bẹ ra thì cuối cùng nó không còn cái gì hết. Cây chuối mình kêu cái cây cho vui vậy thôi thật ra nó là nhiều cái bẹ ghép lại thì nếu mình cắt nhỏ từng phần về tâm lý, sinh lý mình tách rời ra từng phần nhỏ thì không còn gì trong đó hết. Mọi thứ do duyên mà nó kết hợp, gắn kết với nhau, rồi khi cái duyên mình đã hết rồi thì tự nó tan rã nó bắt đầu một hành trình mới. Nếu cái duyên tái sinh mà nó chưa có hết thì mình đi tìm một hành trình mới. Cho nên không đi tìm lõi cây là như vậy đó.
Không đi tìm lõi cây trong các sanh y nghĩa là trong các uẩn thì các vị tỳ kheo Thánh nhân không có đi tìm trong đó những cái gì mà có thể tin cậy được, mọi thứ nó giống như lâu đài cát được mình tô, mình đắp trên bãi cát vậy đó. Cát nằm trên cát thì làm gì có một cái gì chắc chắn, cái gì nó cốt lõi bên trong lâu đài cát đó, bởi vì bản thân nó là cát và nó nằm trên cát.
Điều này cũng được Đức Phật dạy trong Trung Bộ Kinh. Ngài nói rằng: này các tỳ kheo cảnh sắc là vộ thường mà nhãn căn cũng là vô thường. Thì cái thần kinh nhãn mình là vô thường và nhãn thức mình cũng là vô thường. Cả 3 thứ căn, cảnh và thức đều là vô thường. Cho nên những thứ mình thấy, mình nghe, mình ngửi, mình nếm, mình đụng, những thứ mình cảm nhận, những thứ mình suy tư, cảm tưởng thì tất cả những thứ đó nó đều là đồ lắp ráp thôi . Nếu là đồ lắp ráp thì căn bản mọi thứ do duyên mà nó hội tụ và cũng do duyên mà nó bị ly tán cho nên không đi tìm sự cốt lõi, không có đi tìm sự vững chắc trong các uẩn là như vậy... (Tiếng phạn) đây có nghĩa là sự kiềm chế đè nén, nói sâu hơn là sự chấm dứt dục ái. Cái chữ ...(tiếng phạn) chỉ là tham trong 5 dục, còn ...(tiếng phạn) là chỉ chung tất cả tham ái trong các cảnh. (Chana) là muốn (cama) là tham trong 5 dục: sắc, thanh, khí, vị, xúc. Còn (chanaraga) bao trùm luôn các cái gì thích thúc trong cảnh thiền thì cũng gọi là (chanaraga). Và ở đây tôi cũng xin ngừng lại đây một chút.
Tôi cũng nói thêm có lúc mình thấy ái xài chữ (tanha), thấy ái xài chữ (raga). Thì nếu mà dịch cho sát thì (tanha) ở đây có nghĩa gốc là sự khát nước (nghĩa đen của tanha). Từ chữ khát nước này mà khi Đức Phật ra đời Ngài cho thêm nghĩa thứ 2 nữa là khát ái nghĩa là mỗi lần khát nước là mình muốn uống. Cảm giác đó người khát nước họ nghe họ hiểu nhớ lại cảm giác khát nước, khát nước là mình chỉ muốn uống cái gì đó. Còn (raga) ở đây là nhiễm, trong tiếng Hán là nhuộm từ ngữ căn là (rag) là nhuộm. (tanghayati)là khát nước cho nên (tagha) nghĩa là khát ái. (ranha) là ái nhiễm
Ở đây vị tỳ kheo chân chánh là cái người mà
- không có đi tìm kiếm, không có lòng kỳ vọng trong 5 uẩn vốn rất đỗi phù du đó là điều thứ nhất.
- Điều thứ hai là dẹp bỏ lòng ái nhiễm trong cái (adanna), (adanna) ở đây trong kinh chú giải chú thích là ám chỉ cho trần cảnh như ý, hấp dẫn.
- Thứ nhất là không đi tìm cốt lõi trong 5 uẩn,
- thứ hai cũng không có lòng ham thích. Chữ ái ở đây trong tiếng Pali gọi là (anatutha).
Trong câu thứ 3 có thể nhiếp phục tham đối với các chấp thủ. Nhưng mà trong trường hợp này trong chú giải giải thích các thủ ở đây (anara) không phải là các thủ mà chỉ cho các cảnh khả ái. (Soanicsato), (so) là các vị ấy có nghĩa là không bị lệ thuộc ở trong bất cứ một cảnh nào, trong người nào, trong trú xứ nào, nói chung là không bị sự dính mắc vướn kẹt lệ thuộc ở trong cái gì hết. Cái chữ (anayayo) ở đây trong bản tiếng Việt dịch nghe thấy suông thiệt đó, nhưng đem bản tiếng Việt dò trong bản chú giải thì mình không thấy những gì chú giải giải thích nó có trong bản tiếng Việt, nó kẹt vậy đó. cái không để ai dắt dẫn ở đây là (ananyaya)(annanhanayo) ở trong chú giải giải thích có nghĩa là do hiểu thấu tam tướng nên vị tỳ kheo không tiếp tục sống trong cái ý niệm ngã chấp nữa.
Không sống trong ý niệm ngã chấp là sao, cái này hay nè, cái này tốt nè, cái này đẹp nè, cái này hay hơn cái này nè, cái này dở hơn cái này nè. Vị ấy không còn như vây nữa. Cho nên chứ (annayayo) nếu mà dịch sát thì nó là không có bị một cái gì đó tác động, thì cái vị tỳ kheo như vậy thanh thản, tự tại thong dong mà du hành giữa đời này.
Nếu mà tôi dịch thì tôi sẽ dịch như thế này:
- Người không có lòng kỳ vọng trong 5 uẩn vốn rất đỗi phù du và
- từ đó đối với các cảnh khả ái trong cảm nhận của người đời thì vị tỳ kheo này cũng không để lòng mình tham đắm trong đó, đó là 2.
- Cái thứ 3 là vị đó không lệ thuộc vào 6 trần và không để cho tâm của mình bị dắt dẫn bởi bất cứ cái gì. Có nghĩa là không để cho cái gì dó nó làm cho mình bị bất mãn, cũng không để cho cái gì đó làm cho mình phải chạy theo nó. Cái đó gọi là (anahadayo) nghĩa là không để cho mình bị bất cứ thứ gì đó nó tác động. Đó là câu kệ mà các vị bắt buộc phải hiểu như vậy đó là trong chú giải giải thích.
Với lời và với ý và với cả nghiệp làm. Cái này mình phải hiểu trong cả tam nghiệp vị đó gìn giữ tam nghiệp thanh tịnh.
Vị đó có hành động trong sạch thanh tịnh không để mình hành động các việc bất thiện.
Trong bản dịch của ngài Minh Châu thì Ngài để không chống đối một ai. Trong chú giải giải thích vị này trong tam nghiệp luôn luôn thanh tịnh, lìa khỏi 3 ác hạnh. (Arusutha) Ngài minh Châu dịch là không chống đối. Tôi rất là muốn dịch lại thành chữ này (tiếng phạn) phản ứng 1 cách tiêu cực. Có nghĩa là tại sao mình có những hành đông, tại sao mình có những lời nói, một ý xấu, trước một sự kiện, trước một tình huống , trước một hoàn cảnh, trước một đối tượng nào đó, tại sao vậy? là tại vì mình cỏn tham, còn sân, mình có cái bất mãn. Cái gì mình không thích mình có ý trốn chạy, mình xô đẩy nó ra. Còn cái gì vừa ý với mình thì mình chạy theo nó, mình để cho nó cuốn hút mình, mình ôm ấp, mình chấp thủ, mình nắm níu nó. thì cả 2 thái độ trốn chạy hay kiếm tìm. Cả 2 cái thái độ đó đều được gọi là (ariyutho) hết. Từ chuyện mà sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu v.v...tất cả nó đều là phản ứng tiêu cực. Mà tam nghiệp bất thiện là phản ứng tiêu cực. Một vị tỳ kheo sống thanh tịnh thì cái vị đó không để cho tam nghiệp của mình bị bất tịnh. Rồi câu nữa là "Chơn chánh biết diệu pháp" trong bản tiếng Việt nói như vậy nhưng ở trong bản chú giải giải thích (yaqytathamang) ở đây có nghĩa là sự giác ngộ lý tứ đế. Tôi nhớ hôm trước từ đầu buổi học tôi có đề nghị bà con trong room 1 điều, nếu mình cỉ tới dây mình chơi cho vui thì thôi, nếu mình có ý mình theo dõi lâu ngày thì xin bà con nhớ dùm một chuyện đó là có một công thức mình mới nghe qua thì nó rất là tiểu thừa nhưng nó khổ cái không có công thức tôi nói chuyện rất là khó. Đó là do vô minh trong tứ đế nó mới dẫn đến 3 hành, nghe nó rất là trẻ con vì các vị cứ nghe tôi nhắc tới nhắc lui hoài nhưng bữa nay mình nhớ lạ cái đó mới hiểu được chổ này. Tức là do mình không có hiểu được mọi hiện hữu là khổ dù ở cõi nào, ở trong tấm thân nào đi nữa, thời điểm nào không gian nào thì mọi hiện hữu vẫn là khổ.
- Mình không biết mọi hiện hữu là khổ đó chính là vô minh trong khổ đế.
- Không biết tham ái trong 6 trần nó là nguồng gốc của mọi hiện hữu, thì cái không biết đó được gọi là vô minh trong tập đế.
- Không biết rằng có một cứu cánh chấm dứt khổ và tập là đó chính là vô minh trong diệt đế. Có nghĩa là sao, hữu dư niết bàn là cái sự thanh tịnh của bậc thánh lúc còn sống, lúc đó là sự vắng mặt của tập đế, và nếu vị này niết bàn thì thêm một cái vắng mặt nữa đó chính là vắng mặt của toàn bộ khổ đế. Diệt đế gồm có 2: Hữu dư Niết Bàn là sự vắng mặt của tập đế. Vô dư Niết Bàn là sự vắng mặt của tất cả khổ đế. Mà không biết 2 cái này được gọi là vô minh trong diệt đế.
- Không biết rằng bát chánh đạo là con đường dẫn đến diệt đế, thì cái không biết này được gọi là vô minh trong đạo đế.
Chính từ 4 vô minh này dẫn đến 3 hành:
- Giải quyết nỗi khổ niềm đau bằng ác pháp rồi sau đó bị sa đọa đây được gọi là phi phúc hành.
- Giải quyết nỗi khổ niềm đau bằng các thiện pháp cấp thấp (thiện dục và thiện sắc giới) để sau đó sinh vào các cõi lành ngũ uẩn gọi là phúc hành.
- Giải quyết nỗi khổ niềm đau bằng thiện pháp cao cấp (thiền vô sắc) để sau đó sanh về cõi vô sắc thì gọi là bất động hành.
Thứ nhất mình giải quyết nỗi khổ niềm đau bằng ác pháp nó dẫn đến sa đọa gọi là phi phúc hành, cái thứ hai là mình giải quyết nỗi khổ niềm đau bằng thiện cấp thấp, thiện dục và thiện sắc từ đó nó dẫn đến cõi lành ngũ uẩn tức là cõi người, cõi dục thiên và Phạm thiên hữu sắc. Và cái thứ 3 là tu tập thiện pháp cao cấp để mình sanh về cõi vô sắc gọi là bất động hành. và cả 3 cái này thật ra là sự quẩn quanh.
Dầu có về cõi nào đi nữa sống bao lâu cũng mặc thì chết rồi cũng phải quay lại với chổ thấp nhất là trở về cõi dục giới. Vị phạm thiên vô sắc họ chết rồi họ trở về đây họ được hưởng một kiếp độn. Tức là kiếp đó họ không phải bị đọa nhưng chỉ được có một kiếp đó thôi nhưng sau đó thì hoàn toàn bất định. Và chúng ta phải biết rằng trong dòng sanh tử luân hồi này cái thiện pháp của mình luôn luôn yếu hơn ác pháp. Vì đó là khuynh hướng tự nhiên. Bởi vì nhờ vậy mình mới sanh tử luân hồi và luôn luôn ác pháp hấp dẫn nhiều hơn thiện pháp. Chỉ có người nào như Bồ tát thì người ta mới có sức để nhảy ra khỏi vòng xoáy đó, nhảy ra khỏi cái hấp lục đó của ác pháp chứ còn tuyệt đại đa số chúng sanh bị ác pháp quyến rủ dễ sợ lắm. Tôi có thể chứng minh một cách thuyết phục đó là trong một ngày nếu để ý một chút các vị thấy trong 24h đồng hồ cái thời gian quý vị sống như con thú nhiều hơn thời gian quý vị sống như con người có đúng không. Tôi nói rất là nặng nhưng mà khổ thay đó là sự thật. 24h sống như con thú nhiều hơn sống như chứ thiên, sống giống như phạm thiên, sống giống như con người. Vì Đức Phật ở trong Tăng Chi Ngài dạy rằng ở chổ nào mình sống bằng từ bi hỷ xả thì chổ đó là chổ của phạm thiên. Chổ nào mình sống bằng trí tuệ thiền quán thì đó chính là chổ của Thánh nhân. Chổ nào mình sống bằng tham, bằng sân, bằng si là chổ đó của đọa xứ. Cho nên nếu mình đang nằm trên giường, mình đang ở trong phòng mà mình sống bằng tâm tham thì bấy giờ mình đang sống trong cái chuồng heo, chuồng lợn. Phải chấp nhận chuyện đó thôi. Mình đang ở trong phòng với một tâm tham thì lúc đó mình là con heo đang ở trong chuồng heo. Mà nếu mình đang ở trong phòng với tâm sân thì mình đang là Atula ở trong cảnh giới Atula. Nói vậy thì khó chấp nhận mà thật ra nó là vậy đó. Cũng căn phòng đó mình an trú trong trí tuệ thiền quán lúc đó chổ ở đó là chổ ở của Thánh nhân hiểu theo nghĩa bóng. Mà nếu mà mình đang sống trong căn phòng đó với tâm niệm từ, bi, hỷ, xả thì đó là nơi trú xứ của Phạm thiên. Dầu mình đang đi, đứng, nằm, ngồi ở bất cứ nơi nào, đang trong oai nghi nào, nơi chốn nào mình sống bằng tâm trạng của loài nào thì chổ ở đó được gọi là cảnh giới của loài đó.
Cho nên ngài minh Châu dịch là Chơn chánh biết diệu pháp là cái biết ở đây tức là biết 4 đế. Mà tại sao chỉ một câu này mà tôi dánh một cái vòng rất là lớn, bởi vì phải hiểu được 4 đế là gì. Muốn biết 4 đế là gì phải hiểu được vô minh trong 4 đế là gì. Đức phật đề hãy hiểu 4 đế, đừng tiếp tục vô minh trong 4 đế nữa. Vì hãy còn vô minh trong 4 đế thì còn tiếp tục tạo ra 3 hành. Mà 3 hành là 3 cách phản ứng của chúng sanh trước nổi khổ niềm đau. 3 hành chỉ là 3 cah1 phản ứng và trong đó cách phản ứng thứ nhất là mình giải quyết nỗi khổ niếm đau bằng cách làm những chuyện tầm bậy, thân nhiệp bất thiện, khẩu nghiệp bất thiện, ý nghiệp bất thiện. Cách thứ hai là mình giải quyết nỗi khổ niếm đau bằng cách mình làm các công đức cấp thấp đó là thiện dục là thiện sắc giới. Rồi cái thứ 3 là giải quyết nỗi khổ của mình bằng cách tu tập thiền vô sắc, thì dầu cho mình giải quyết bằng cách nào miễn là mình còn trong tam giới, mình còn tái sanh thì cơ hội mình sa đọa nhiều hơn mình sanh thiên gấp nhiều tỷ lần. Tôi viết chữ tỷ ở đây không phải là tôi muốn cường điệu mà các vị còn nhớ bài kinh con ruà mù không. Xin hỏi trong room ai còn nhớ bài kinh Đức Phật ví dụ con rùa mù không. Ngài nói rằng có một miếng vàn trôi trên biển từ bờ này sang bờ kia, trên miếng ván đó có một lổ thủng vừa để một con rùa nó thọc cái đầu vô. Các vị tưởng tượng Đức Phật dùng hình ảnh đó là đã quá lắm rồi. Một tấm ván có một cái lổ nhỏ nó trôi từ bờ biển này qua bờ biển kia, một trăm năm như vậy có một con rùa mù ở dưới biển nó mới trồi lên một lần, mà cơ hội nó đưa cái đầu nó vào trong cái lổ đó xác xuất rất là thấp, thấp ghê lắm. Vậy đó mà Đức phật dạy rằng này các tỳ kheo cái cơ hội mà tầng xuất con rùa nó dưa cái đầu vào trong lổ ván cao hơn cơ hội chúng sanh được mang thân người. và ngày xưa tôi đọc cái đó tôi nghĩ đó là cách nói cho mình sợ, nhưng mà bây giờ có tuổi tôi thấm tôi thấy cái đó nó đúng. Lý do là bởi vì các vị nào có học sinh vật thì biết được gọi là chúng sinh, được gọi là động vật trên hành tinh này nó nhiều không biết bao nhiêu mà nói, đếm không xuể. Trong khi con người mình cho đến bây giờ mình vẫn đếm được là 7 tỉ - 7 tỉ hơn. Nhưng mà những loài như kiến, bọ, ruồi, muỗi, rồi những con mà li chi lít chít ở trong nước là mình chỉ có chết thôi không có cửa nào đếm nổi, không có cách chi mà đếm nổi đủ thứ các sinh vật lúc chút lúc chút. Tôi là ngưới dân miền Tây Nam Bộ tôi biết, nó có những cái mùa mà khi mình đốt đèn lên có những con con trùng vô danh (mình gọi là vô danh thì người ta nói mình dốt) chứ thật ra vô danh là mình không biết nó tên gì mà nó đủ thứ hình dáng hết. mà một cái ngọn đèn dầu nó rớt đầy trong bóng khói đó mà may là chỉ đốt có một cây đèn, chứ nếu đốt 1000 cây đèn, 1.000.000 cây đèn thì nó sẽ đầy như vậy, dễ sợ như vậy. Cho nên thế giới của loài chúng sinh nó bị sa đọa nó mênh mông, nó bao la sâu thẫm lắm. Cho nên cơ hội làm người của mình rất là ít. và chưa kể trong kinh nói được mang thân người nhưng mà có người thì họ sống như chư thiên, lòng thì hào sảng, điều kiện vật chất thì thoải mái. Nhưng có người họ sống như loài bàng sanh, đọa xứ là mang thân người nhưng đầu không không phân biệt thiện ác, không biết liêm sỹ hổ thẹn mà đã vậy điều kiện sống lại cực kỳ eo hẹp khó khăn, bệnh không thuốc uống đói không cơm ăn, lạnh không áo mặc, ở thì không nhà không cửa. Sống thì vô gia cư, chết thì vô tán địa - Sống thì không có nhà ở, chết thì không có đất chôn, mà cái hạng đó nhiều lắm. Cho nên trong kinh nói:
Được làm người có dễ đâu
Được làm ngưới khó sống lâu trên đời
Được nghe Chánh pháp tuyệt vời
Được vui gặp Phật trên đời khó thay.
(còn tiếp)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chánh Xuất Gia 2 (2-4)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=yL5S3neMCAk&abt=Kinh+Ch%C3%A1nh+Xu%E1%BA%A5t+Gia+2
Khó ghê lắm, và hỏi tại sao khó thì tự mình trả lời thôi chứ không cần thầy bà nào hết. Tự mình trả lời đơn giản là trong một ngày 24h đồng hồ tôi sống bằng cái tâm trời ơi nó nhiều quá đi. Một ngày 24h, 1h là 60 phút, 1 phút là 60 giây, thì trong thời gian đó mình sống mà có kham nhẫn, hành xả, trí tuệ, từ tâm được bao nhiêu %. Mình có cái gan nhìn vào chổ đó hay không. Nếu mình có cái gan thì mình mới thấy là tại sao trong kinh dùng ví dụ con rùa mù, chứ còn mình nghĩ cạo đầu đắp y làm tu sỹ có nghĩa là mình tu, cúng dường chư tăng như vậy là mình tu không phải, nghĩ như vậy nó nghèo lắm. Giống như mình thấy một anh chàng buổi sáng đi bán được một tờ vé số, trưa đi bán một tờ vé số thì mình nói ảnh đang đi kiếm sống như vậy thì cũng được. Nhưng nói như vậy thì nó hơi khó bởi vì vé số mình đâu bán một ngày 3 tờ được, sáng trưa chiều bán ngày 3 tờ như vậy là chết rồi. Đã nói gọi là kiếm sống thì mình phải bán làm sao để mà mình trang trải tiền nhà, tiền điện nước, tiền thuốc men, tiền sách vở học tập cho con cái, tiền bà xã đi chợ, tiền mình hút thuốc, đổ xăng v.v..Chứ đâu có phải ngày bán 3 tờ thì gọi là đi kiếm sống sao được. Cho nên ở đây chổ này hiểu được 4 đế là phải hiểu như vậy đó. Hiểu được 4 đế thì không tiếp tục hứng thú trong việc tạo ra 3 hành nữa. Chính vì hiểu được Diệu Pháp, hiểu được 4 đế thì vị tỳ kheo cái lòng của họ chỉ hướng về Niết bàn thôi vì hết chổ đi rồi. Giống như trong kinh mô tả người tù bị nhốt trong tù. Khi họ ý thức được rằng họ đang ở trong tù thì chổ duy nhất mà họ hướng tới là bất cứ nơi nào nằm ngoài cái tù. Ngay lúc đó họ không nghĩ đến du thuyền, máy bay, ronroll, rồi những chổ hoa viên, thắng cảnh theo tôi biết thì không có. Người tù họ chỉ mong có một chuyện là ra khỏi nhà tù thôi, chứ giờ đó đâu còn hơi sức đâu nghĩ đến chuyện đi du lịch, đi rong chơi mua sắm, shopping theo tôi nghĩ là nó không có. Khi mình biết mình bị kêu án chung thân rồi đó thì niềm mong mỏi lớn nhất của mình là chỉ đi ra khỏi nhà tù thôi. Thì ở đây để là (tiếng phạn) có nghĩa là cái lòng mong mỏi, cái lòng hướng đến vô dư Niết Bàn sự chấm dứt, sự vắng mặt toàn bộ.
09/01/2022 - 10:35 - tranngocdieu.nt
Câu 366 câu này bà con bà con có thể tự mình hiểu. Câu này trong chú giải cũng nhắc sơ sơ cho vui thôi chứ trong chú giải không có nói nhiều lý do là câu này rất là đơn giản. Câu tiếp theo này không có gì đặc biệt " Vị tỳ kheo không có tự cao khi người đảnh lễ mình". Khi mình thấy người ta cuối chào mình chắc mình tưởng mình là ông nội người ta nhưng thật ra cái cuối chào đó mang tính lịch sự thôi. Ngoài đời có người dạy con chào người khác bằng cách là khoanh tay. Trong đạo mình chào người ta bằng cách là mình chắp tay, mà chắp tay ở đây có nghĩa rất là đơn giản hồi xưa người ta chào nhau như vậy nhưng hôm nay mình thấy người Nhật Bổn, người Đại Hàn họ chào người khác họ bẻ gặp cái người họ xuống, họ cuối chào mà họ bẻ, họ khom người của họ xuống sâu lắm. Mình thấy như vậy mình tưởng mình là ông nội của người ta nhưng mà không phải đó là van hóa người ta nó như vậy. Nhiều khi họ chào mà trong bụng họ chửi cha mình nhưng mà mình không biết mình tưởng như vậy chắc mình ngon lành lắm rồi. Cái thứ hai nữa là trong kinh nói rằng 10 cái ngón tay mà người ta chắp lại để người ta đảnh lễ mình nếu mình nghĩ vui thì nó là 10 thanh gươm, 10 cái thanh kiếm nó đâm mình chứ nó không phải hay ho gì hết. Mà cái diều bậy bạ nhất trên đời này là mình thấy mình là cái gì đó. Tôi biết tôi nói cái này các vị khó chịu nhưng mà đó là một sự thật. Trên đời này một trong những cái bậy nhất đó là mình thấy mình là một cái gì đo nó hay ho ghê gớm. Cái người hay ho người ghê gớm là ai. Nếu là có khổ thay đó lại là người không màng đến cái tôi thì người đó mới đang được gọi là cái người hay ho, người ngon lành. Còn kẻ nào còn thấy mình ngon lành thì kẻ đó nó thấp lắm. Bởi vì thật ra mình chẳng có cái gì hết. Ngày hôm qua tôi nói rồi. Cái việc mình tu hành, mình có giới luật thanh tịnh, rồi mình tinh thông kinh điển Phật pháp cái đó chỉ là những viên thuốc chữa bệnh thôi. Không có ai mà đi khoe người khác là tôi bị ung thư và tôi đang uống thuốc, mỗi viên thuốc như vậy trị giá 100 đô la, cái chuyện đó không có. Chuyện bậy giờ mình là phàm phu thì mình giống như bệnh nhân bị bệnh ung thư vậy đó. bây giờ mình có thiền định, mình có đa văn gì đi nữa thì chẳng qua là mình đang uống thuốc. Còn những người họ không được như mình thì họ cũng là bệnh nhân nhưng mà họ không biết uống thuốc, còn mình may mắn mình có điều kiện mình uống thuốc. Mình chỉ hơn nguời ta ở chổ là anh ung thư, tôi ung thư, anh sida, tôi sida nhưng mà tôi hơn anh ở chổ là tôi có điều kiện tôi uống thuốc và tôi có chút hiểu biết về y học để mà tôi tự tôi chữa trị cho tôi. Nó khác nhau có một chút đó thôi, nhưng mà không vì cái khác nhau đó, không vì cái điểm khác biệt đó mà mình thấy mình là cái gì đó ở đời này. Cái đó là sai bét. Ở đây Đức Phật ngài đề nghị một vị tỳ kheo được nguời ta cuối chào mình không thấy cái gì đó ghê gớm, kiêu ngạo và dú cho bị chúng nó chửi. Nếu mà nói cho đúng, nói cho rốt ráo một khi mà người ta đội mình lên đầu mình thấy nó không là gì hết, khi mà người ta đạp mình xuống chân mình cũng không thấy là gì hết. Tôi có một kinh nghiệm bằng vàng như thế này. Tại sao người ta chửi mình, người ta nói nặng mình mà mình giận tôi đã tìm ra câu trả lời mà tôi rất là tâm đắc. Đó là vì những lúc mà người ta khen mình mình khoái. Quý vị phải ghi nhớ, dĩ nhiên quý vị có thể học với thầy bà nào tôi không cần biết nhưng mà trong lớp học này tôi đem kinh nghiệm chủ quan của tôi ra tôi nói. Tại sao mình bị người khác họ tấn công họ làm tổn thương mình mà mình bị sốc nặng như vậy là bởi vì khi mà mình nhận được cái vị ngọt từ cuộc đời mình không có chánh niệm. Cái kẻ nào còn khoái lời khen thì kẻ này mai bị chúng chửi sốc ghê lắm. Đã lâu lắm rồi, dĩ nhiên tôi 1000% không phải là một vị thánh nhưng tôi có lòng nghi ngờ tất cả những lời khen của thiên hạ dành cho tôi, tôi thưa với đại chúng như vậy. Đã lâu lắm rồi tôi có lòng nghi ngờ là sao? Thứ nhất vì lịch sự mà họ khen. Thứ 2 nhiều khi họ khen mình chứng tỏ họ là người có hiểu biết chứ không phải họ khen mình là vì mình hay đâu, mà họ khen mình muốn chứng tỏ họ là người có hiểu biết. Một điều nữa họ khen mình vì lịch sự thôi gặp nhau không biết nói cái gì.
Ông Wanteir của Pháp nói thế này: Khi không có gì đễ nói ta hay nói bậy, khi không có chuyện gì để làm ta hay làm bậy, khi không có chuyện gì để nghĩ thì ta nghĩ tầm bậy. Chỉ vậy thôi cho nên chuyện mà người ta khen mình, người ta chê mình mình chịu không nổi lý do rất là đơn giản tại vì ai biểu hôm trước khi có kẻ nào nó khen mình mình không có Chánh niệm mình khoái. Tôi xin hứa một điều 100% bảo đảm quý vị mà lỡ thích người ta khen một lần thôi, mai mốt chúng mà chửi một câu thôi là nó đau thấu xương đó là một kinh nghiệm. Cho nên muốn vững vàng trước cái dư luận tiếng đời chuyện đầu tein6 mình phải đọc câu thần chú này: " thằng nào khen tui tui cũng không thèm". Cái câu đó rất là nặng nhưng ai khen tôi thì cái lời khen đó thật sự phải xét lại. Khi mà mình được người ta khen mà mình có tâm niệm cái này phải xét lại đó thì điều đó có nghĩa là mai này khi mình bị chúng nó chửi, chúng nó chê thì mình có khả năng mình kiềm chế, cái này cũng phải xét lại. Cứ hễ nghe người ta khen nghĩ cái này phải xét lại. Nếu mình đủ bình tâm mình làm chuyện đó với tất cả sự chân thành chứ đừng có giả vờ. Thật lòng mình không thích thiệt chỉ nghĩ cái này phải xét lạ thì mai này chúng có chửi cha mình mình cũng nghĩ cái này phải xét lại. Còn nếu khi người ta khen mình mình không có khả năng mà trong kinh có xài chữ (khamati)
10/01/2022 - 01:21 - tranngocdieu.nt
cái chữ này nó hay ghê lắm. Chứ (khamati) tiếng Tàu dịch là kham. Chữ (khamati) này là gốc của chữ (khamti) là kham nhẫn. Mà nó lạ ở chổ từ ngữ căn là (Khama) trong tiến Pali có nghĩa là chịu đựng nó lạ như vậy đó. Và nó còn hay một chổ nữa là ở trong tiếng Pali nó có chữ (Khamaditi) có nghĩa là xin lỗi. Mà nó từ chữ (Khamati) có nghĩa là chịu đựng, mà (Khamaditi) khiến cho người ta chịu được cái lỗi của mình. Có nghĩa là xin lỗi ngưới ta đó. Trong tiến Sanrit thì nó là (Sammaditi) thì như vậy mình thấy chữ Samma nó là chữ sám, sám trong sám hối. Đặc biệt chổ đó, nó lạ chổ đó, đây có thể là sự trùng hợp trong mặt ngữ âm thôi nhưng mà đây là điều để mình nhớ nha. Theo trong kinh Phật dầu mình đang gặp chuyện vừa ý hay là chuyện nghịch ý bất toại thì trong cả hai trường hợp đó vị tỳ kheo đều phải Khamati hết, đều phải kham nhẫn hết. Mà từ đó giờ người phật tử Việt nam hiểu một cách là nghèo. Mình hiểu chữ kham nhẫn ở đây là mình chịu đựng trước cái gì đó bất toại thôi, hiểu vậy thì nghèo quá. Bởi vì xét lý mà nói thì sân cũng là một thứ phiền não, mà tâm tham cũng là một thứ phiền não. Cảnh vừa ý cũng là cảnh mà cảnh bất toại cũng là cảnh nó y chang nó không khác gì nhau. Tôi nhắc lại tham cũng là phiền não mà sân cũng là phiền não. Cảnh bất toại cũng là cảnh mà cảnh vừa ý cũng là cảnh do đó để giữ lòng không tham hay giữ lòng không sân trước cái cảnh khả ái hay là khả ố thì đều được gọi là khamati hết, tức là khả năng kham nhẫn cái sự kham nhẫn không để kham ưu. Ở đây vị tỳ kheo tinh cần tỉnh giác chánh niệm diệt trừ tham ưu ở đời là như vậy đó. Bởi vì đời sống của mình là một chuỗi ngày mà mình đối diện với cái thích và không thích. Cho nên trong kinh Tương Ưng Đức Phật dạy: "Đừng tìm chi cái thích và đừng tìm chi cái ghét". Thương phải xa là khổ và ghét phải gần là khổ. Câu kinh này rất là sâu, sâu ghê gớm lắm. Mà toàn bộ nước mắt trần ai nó đều nằm trong hai cái thương và thích, thương và ghét. Đừng tìm chi cái ghét mà đừng tìm chi cái thương. Vì sao vậy? Vì thương phải xa là khổ, ghét phải gần là khổ. Câu kinh này nó nằm trong mấy chữ rất là gọn mà mình cứ đi tìm thiên kinh vạn điển mà tron khi mấy cái rất là căn bản nhẹ nhàng mình lại không nhớ. Mà đặc biệt tôi nhắc lại hãy giở kinh Tứ Niệm Xứ ra đọc kỹ cái (itchadobanasan). Ở đây Đức Phật dạy là vị tỳ kheo diệt trừ cái tham ưu ở đời đó là ngài nói đến thái độ sống của một vị thánh, tối thiểu cũng là đời sống của một hành giả Tứ Niệm Xứ. Cho nên cái đoạn 366 này nè "Vị tỳ kheo không tư cao khi người đảnh lễ mình". Dầu có bị nhiếc mắng ở trong chú giải thì có nói cái nhiếc mắng đây là (pasahicosawatihi). (accosawathu) có nghĩa là 10 cái câu chửi xuất sứ từ chuyện nàng (Magadiya) tôi không biết quý vị nhớ cô này không. Tức là một ngày kia Đức Phật đi hóa độ ở một cái làng xa bên một cái bờ sông thì theo trong kinh tả tôi nghĩ chổ đó rất là đẹp. Có một bớ cát ven sông khi Đức phật đi đến đó thì có ông Bà La Môn, ông này rất là giỏi về tướng số. ổng nhìn thấy Ngài là ổng chịu rồi. ống có một đứ con gái đẹp lắm, đẹp coi như là tuyệt sắc. Cho nên ổng thấy trên đời này bao nhiêu dàn ông thanh niên không ai xứng với con mình hết cho nên ông chần chừ không muốn gả ổng đang chờ đợi chàng rể đông sàn, thì ổng thấy Đức Phật ổng chịu quá, nói trời đất ơi con gái mình thật tuyệt vời. thì ổng mới kêu Ngài đứng đây chờ nha tôi có đứa con gái đẹp lắm tôi đem cho không khỏi cần sính lễ cầu hôn gì hết. ổng cư xử với Ngài như người bạn đời với nhau vậy thôi. Thì khi mà ông Bà La Môn ồng chạy về nhà kêu vợ kêu con ổng trang điểm dung nhan quần là áo lụa để mà ra gặp Ngài thì lúc đó Đức Phật Ngài có ý lưu lại dấu chân của ngài trên bãi cát. Mà trong kinh giải thích Ngài để lại bằng thần thông chứ nếu mà Ngài chỉ để lại bằng cái sức thôi thì cái dấu chân của Ngài nó không có sắc xảo chi tiết như vậy, mà Ngài để lại dấu chân trên cát bằng thần thông, xong rồi Ngài mới đi vào một gốc cây khuất mắt Ngài ngồi ở đó. Khi ông này dắt vợ con ra tới nơi thì không thấy Ngài ở đâu hết. Hai vợ chống nhìn quanh thì thấy dấu chân trên cát. Khi nhìn thấy dấu chân thì bà vợ mới nói: chết rồi ông ơi mình lộn chổ rồi. cái người này nếu mình tìm được cũng không cách nào mình gả con được đâu bởi ví đây là dấu chân của bậc ly dục. Theo trong kinh nói hai vợ chồng này đều là thầy tướng số hết nhưng mà bà thì giỏi hơn ông, ông chỉ biết có tướng tốt như vậy sẽ là đại đế, nhưng bà còn siêu hơn nữa. Giống như trong tướng số của Tàu nó có trong than có trọc, trong trọc có thanh. Tức là mình học tướng số lớn lớn mình chỉ biết tướng đó là tướng tốt, nhưng má người thấy giỏi hơn thì họ biết trong cái tốt có ẩn cái xấu trong đó. Phong thủy cũng vậy. Cái cuộc đất đó nó tốt lắm nhưng mà nếu thầy giỏi họ biết rằng tốt nhưng xài không được, nó bị hãm khuyết xài không có được. Thì ông chống ổng biết tới đó thôi nhưng bà vợ nhìn bả biết. hai vợ chống mới đi tìm quanh và thấy Đức Phật ngồi dưới gốc cây và họ đi vô trong đó đảnh lễ Ngài thì Đức Phật mới đọc cho họ một bài kệ sau đó hai vị này đi xuất gia và đắc A La Hán hết. Mà đặc biệt trong đó có một câu thế này. Khi mà họ đem con gái tới giao cho Ngài thì Ngài nói như thế này: "Ngày xưa khi ta ở dưới gốc Bồ Đề ba con gái của ác ma thiên tử họ xinh đẹp đến như thế nào mà Như Lai còn không có rung động thì nói chi cái tấm thân như thế này. Ngài nói như vậy để mà ngài độ hai ông bà đó mà khổ chổ cô gái đó cổ nghe cổ hận. Cổ nghĩ trong bụng không thương người ta thì thôi mắc gì phải nặng lời với người ta. Cho nên là cổ có một cái tâm oan trái là mai này cổ có điều kiện cổ sẽ rửa mối hận này. Đúng như vậy sau đó không lâu ông vua Udena là ông cua có tiếng thời Đức Phật, ổng cai trị đất nước cũng lớn mạnh, ổng gặp được nàng ổng thương lắm, ổng đem về cho làm hoàng hậu. Một khi có quyền trong tay rồi chuyện đầu tiên nàng (Makadiya) mới thuê người đi nhục mạ Đức Phật. Có lần Đức Phật đi về ...bà Makadiya mới thuê người đi theo Ngài và Ngài Anan, cứ hai vị ôm bát đi đằng trước họ đứng đằng sau họ chửi, họ chửi không còn cái gì hết thì 10 câu chửi đó được gọi là (accosawathu). Ở đây tôi nhớ không hết nhưng với nội dung thì tôi nhớ hết. Cái người như vậy nếu còn có tái sanh thì người như vậy không có đáng sanh thiên, người này chắc chắn là bị sa đọa, này là con bò, con trâu, con chó gì đó. trong chú giải lâu lâu hay có cái màn đó hễ ghi chú thì ghi cho rõ vẫy đó nhưng ở đây mình phải hiểu, nếu như tôi không giải thích chổ này bà con không biết cái này là cái gì. Thì cái (accosawathu) đây là bị chửi rũa bằng 10 hình ảnh xấu tệ nhất trong văn hóa ngôn ngữ của người Ấn đương thời. Thì ở đây có giải thích bài kệ này: "Vị tỳ kheo khi được người ta đảnh lễ thì cũng không tự thấy mình là ghê gớm, mà dấu bị người đới chửi thì cũng không nổi tâm bức dọc khó chịu. Khi mà được nhận thực phẩm của người ta cúng dường thì cũng ăn bằng cái tâm trạng của người mẹ lạc trong sa mạc bất đắc dĩ phải ăn thịt con. Nói ra giống như đạo đức giả. nếu mình thấy rằng cái thân mình giống như chiếc xe phải đi đổ xăng thì mình phải nhìn nhận rằng ăn đúng như một cực hình mà tại vì sao mình ăn thấy ngon bởi vì mình mang cái nghiệp dục giới. Cái nghiệp dục giới khiến cho mình phải ăn, mà nếu ăn mình không thấy ngon thì làm sao mình chịu ăn. Mà nếu không chịu ăn thì mình chết làm sao. Mình mang nghiệp dục giới mà nó có nghiệp dục, nghiệp sắc và vô sắc. Thì cái nghiệp dục giới ở đây mình táu sinh bằng cái tâm nào đi nữa, dầu mình sanh về nhân thiên hay cõi sa đọa khi đã mang thâ dục giới thì mình phải chấp nhận những điều kiện sống của cõi dục. Mà chính vì mình phải chấp nhận điều kiện sống của cõi dục trong dó có cả chuyện ăn uống nữa. Chính vì mang nghiệp dục giới thì mình phải có tấm thân thô thiển này. Có tấm thân thôi thiển này mình phải ăn uống, phải nhận các nguồn tiếp dưỡng, tiếp liệu từ bên ngoài. Và chính cái nghiệp nó khiến mình có cái thích trong đó mình mới ăn được, chứ nếu mình không thích mình lấy gì mình ăn. Chứ nếu mình tưởng tượng mình không thích không đói mà tự nhiên mình lấy món ăn này món ăn kia mình đổ vô trong người của mình mình thấy nó gớm. Tôi nói hoài giống như mình nhai thức ăn cái mình uống nước mình nhả vô trong cái bịch ny lông mình đeo trước ngực mình đó thì mình ngủ không có được mình gớm chết đi được, nhưng mà nhờ cái mình nhai rồi mình nuốt, mình nhai rồi mình nuốt vô trong bụng rồi cái mình đi đánh răng mình súc miệng mình ngậm kẹo bạc hà thơm tho cái mình lăn đùng ra mình ngủ mình thấy mình sạch chứ thực ra bao nhiêu thức ăn hồi nãy nó vẫn đi theo mình tới tận trong giường ngủ đó chứ. Cho nên vị tỳ kheo hiểu như vậy thì ăn uống nó không bị tham đắm.
10/01/2022 - 01:59 - tranngocdieu.nt
(còn tiếp)
Posts: 3,919
Threads: 6
Likes Received: 149 in 124 posts
Likes Given: 129
Joined: Dec 2019
Reputation:
69
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Chánh Xuất Gia 2 (3-4)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=yL5S3neMCAk&abt=Kinh+Ch%C3%A1nh+Xu%E1%BA%A5t+Gia+2
10/01/2022 - 01:59 - tranngocdieu.nt
Câu 367: Tỳ kheo sau khi đoạn tham dục và sanh hữu. Từ bỏ không làm hại không trói buộc một ai. Ở trong bản dịch này nè lại nói là có tham khảo bản chú giải thì cái lofa ở đây chỉ cho tangha. Lofa ở đây là sacfatangha chỉ cho 6 ái. Rồi chữ fawa ở đây ám chỉ cho chữ kammafawa. Tham chỉ cho 6 ái, còn chữ hữu ở đây chỉ cho nghiệp hữu. Thì ở đây ai đã học A Tỳ Đàm thì biết nghiệp hữu rồi. Sanh hữu và nghiệp hữu, sanh hữu là tâm tái tục, còn nghiệp hữu thì chi pháp nó y chang như là 3 hành vậy đó. Không biết các vị ở đây có học A Tỳ Đàm phần duyên khởi hay không? Vô minh duyên cho hành, hành ở đây tức là tâm sở tư. Phi phúc hành là tâm sở tư trong bất thiện. Còn phúc hành là tâm sở tư trong đại thiện và thiện sắc giới. Bất động hành trong thiện vô sắc giới. Đức phật ngài dạy tâm sở tư chính là nghiệp ở chổ đó. Có cái tác ý thí dụ như mình thấy một vị A La Hán các vị cũng thuyết pháp, thậm chí vị A La Hán cũng làm chuyện bố thí có được cái gì đó trong tay cầm đem cho người khác, các vị cũng nhập thiền sắc, thiền vô sắc nhưng toàn bộ việc làm đó nó không có phải là ba hành như là mình. Nó không phải là phúc hành hay là bất động hành không phải vì các Ngài cái tư ở đây là cái tư trong tâm tố tâm duy tác chứ không phải là tư trong tâm thiện dục hoặc là thiện đáo đại. Cho nên chữ thawa ở đây bản dịch tiếng Việt của ngài Minh Châu dịch như thế này: "Tỳ kheo sau khi đoạn tham dục và sanh hữu" nhưng ở đây phải dịch là nghiệp hữu mới đúng. Tôi xin hỏi trong room này bà con nào có thấy chữ Pali trong đây hay không? Ngài Minh Châu dịch là tham dục và sanh hữu bà con có thấy chữ kammafago hay không? Xin nhỏi bà con có thấy hay không? ở trong đây có nói rõ cái hữu là gì đó là kammafawadi. Ở trong tiếng Pali chữ adi có nghĩa là vân vân không biết có ai biết chữ này hay không? Khi để là kammafawadi nghĩa là nghiệp hữu v.v..Thí dụ như bây giờ người ta nói Tam Bảo nghĩa là gì? Thì Tam Bảo là buhthadiaratana. Có nghĩa chữ adi này thay thế cho chữ v.v... Người ta giải thích fawan đây có nghĩ là 3 hữu, mình hiểu ở đây 3 hữu có nghĩa là nghiệp hữu. Chữ kammafawa ở đây phải hiểu là 3 nghiệp hữu.
12/01/2022 - 01:30 - tranngocdieu.nt
Theo chủ quan của tôi thì ở đây xài chữ tham dục thì nó hơi hẹp nên dịch là 6 ái hoặc các ái và nghiệp hữu. Từ bỏ không làm hại, không trói buộc một ai trong chú giải giải thích thế này do đoạn trừ các phiền não mà vị đó không có làm khổ chúng sanh khác. cetana là cắt, chặt chém.... là trói buộc. Nói theo kiểu thế gian thì chỉ khi nào mình tấn công người khác bằng lòng giận dữ, ghét bỏ, căm hờn thì mới được gọi là làm khổ nhau, chứ theo Phật pháp mà nói cách mình thương người ta không khéo cũng là cách làm khổ nhau. Thí dụ như con chim nó bay tự nhiên thích nó quá đem về nhốt trong lồng. Con người cũng vậy, khi mình có lòng chiếm hữu người khác có nghĩa là mình đang làm tổn hại, làm tổn thương nhau rồi. trong một bài viết tôi có nói tới tinh thần khách sáo trong đạo Phật. Cái tinh thần khách sáo đây là đối với một hành giả Tứ Niệm Xứ luôn luôn giữ một khoảng cách chừng mực đối với mọi người mọi vật. Nó sao thấy nó như vậy không có lòng mang nó về để chiếm hữu hoặc không có lòng mà đập phá bài xích, cũng không óc lòng tham đắm ôm ấp bất cứ người hay vật nào hết. Mà theo tinh thần Phật pháp chễ mình còn dùng cái phiền não đễ mình cư xử với nhua, còn dùng cái phiền não để mà làm việc với nhau thì coi như lúc đó mình đang làm tổn thương nhau cho dù đó là người mình đang rất là thương, vợ chồng, bạn bè, cha mẹ con cái, bằng hữu đối với nhau, thầy trò đối với nhau, nhưng mà hễ mình còn cư xử với nhau bằng lòng bất thiện. Khi mình giận dữ mình bất mãn với nhau là mình đang làm tổn hại nhau đã đành rồi, nhưng mà đôi khi chính lòng thương của mình nó là sợ dây ràng buộc cho người khác. Cho nên ở đây mới nói là từ cái chuyện mà đoạn trừ các phiền não nó mới dẫn đến chuyện vị tỳ kheo cũng không còn nghĩ, không còn thấy hứng thú với chuyện làm khổ người khác nữa. Làm khổ dây bằng hai cách: một là làm cho người ta bị tổn thương, hai là giam hãm nhốt tù người ta trong cái vòng tay yêu thương của mình. Có nghĩa là mình tấn công người ta, làm tổn thương người ta đã đành rồi, ngay cả chuyện mình ràng buộc người ta, trói cột người ta cũng là một cách làm khổ nhau.
Dối với một vị tỳ kheo đến và đi trong cuộc đời này giống như một con ong bay vào làng hút nhụy hoa nhưng mà nó không làm tổn hại cái đóa hoa. Và hôm trước tôi có nói rằng có một chuyện mà chúng ta không ngờ được nếu một ngày nào đó trên hành tinh này mấy con ong không còn nữa thì nhân loại chỉ có nước ôm nhau mà chết đói thôi. Đó là sự đóng góp của loài ong này nó lớn như vậy nhưng mình đâu có ngờ. Mình cứ tưởng là những cánh đồng mênh mông, rồi những hồ nước chứa đầy tôm cá, rồi những vườn trái nặng trĩu. Mình cứ lo mình tưởng tượng những chuyện đó không mình quên mất có những con ong thợ rất là cần cù cần mẫn đã nuôi dưỡng mấy tỷ người trên hành tinh này mà mình không có nghĩ tới công lao của họ - đó chính là mấy con ong. Cái chuyện mà mấy con ong hút mật rồi nó đem phấn hoa từ nói này đến nói khác đó là việc làm rất là lặng lẽ, rất là âm thầm nhưng mà một cách ngẫu nhiên nó đã đem lại sự sống cho muôn loài trên hành tinh này. Cái chuyện mà vị tỳ kheo lặng lẽ ngồi dưới gốc cây thiền định, cái chuyện mà vị tỳ kheo lặng lẽ ôm bát đi trên đường, cái chuyện mà vị tỳ kheo lặng lẽ duy trì hình bóng áo vàng của mình giữa nhân gian này. Thì những cái âm thầm đó, những lặng lẽ đó nó là sự đóng góp rất là lớn. Dĩ nhiên ở đây chúng tôi mở ngoặc nói thêm đó là những vị tỳ kheo sống có lý tưởng có niềm tin nha. Chứ còn cái kiểu vá áo túi cơm. Cái đề nghị của Đức Phật là các vị tỳ kheo nên sống như là một con ong vậy đó. Có nghĩa là đi hái mật hoa, đi ban rải phấn hoa từ nơi này qua nơi khác nhưng không làm tổn hại một loài hoa nào hết và sự có mặt của con ong là sự đóng góp cho túi lương thực của cả hành tinh. Và hồi nãy tôi có đọc một câu thơ của nhà thơ Việt Nam đó là: Xin cảm ơn cảm ơn hoa đã vì ta nở trái đất vui từ những lẻ loi. Cái đóng góp của vị tỳ kheo nó lặng thầm lắm, nó im lặng lắm nhưng nó là sự đóng góp rất là quan trọng, cho nên Ngài đề nghị một vị tỳ kheo sống là phải sống như vậy đó.
Trong câu kệ tiếp theo: Tỳ kheo sau khi biết điều thích đáng cho mình không làm hại một ai. thì cái điều thích đáng ở đây trong kinh nói là fikhufawa sawatiruban là biết rõ là mình cần phải làm cái gì trong 10 điều tâm niệm của vị xuất gia nó có điều như thế này nên nhớ là cái hình thức của chúng ta nó không giống như kẻ thế gian nữa và ta phải có đời sống như thế nào nó thích hợp với sa môn hạnh, với cách hành xử như thế nào đó. Thì ở trong kinh nói rõ là vị tỳ kheo biết rõ, luôn luôn ghi nhớ rằng mình là một tỳ kheo để tiếp tục không có sống tà mạng nữa. Sống tà mạng có nghĩa là giả dối, lùa đảo, kêu gọi lòng thương của cư sĩ. Qúy vị vào internet đánh chữ ... 21 kiểu sống tà mạng. Thí dụ như mình sống mà mua lòng cư sĩ cũng là một cách, mình lừa gạt cư sĩ cũng là một cách, mình hâm dọa họ đưa họ vô cái thế không cúng không được thì đó cũng là một cách v.v.. tất cả là 21 nhưng mà tôi thấy cách kể này tôi không có thích lắm bởi vì trong đó kể hơi dư. Ví dụ như tỳ kheo muốn mua lòng cư sĩ vị tỳ kheo cho lá, cho bông, cho trái, cho củ, cho rể mắc gì phải kể dài như vậy mà mình chỉ nói đơn giản là vị tỳ kheo không kiếm sống bằng cách làm thầy, làm bà, thiên văn, phong thủy, tướng số đã đành rồi cũng không có cách mua chuộc cư sĩ bằng cách cho họ cái này, tặng họ cái kia mà chịu cực chịu khổ với họ, hướng dẫn tinh thần cho họ thì được nhưng không có lòng mong đợi họ làm caí gì đó cho mình. Nói theo trong kinh Đức Phật nói: Một vị pháp sư mà không có chân chánh các vị thuey61 giảng có tâm niệm rằng ta phải nói cái gì cho họ hoan hỷ thì họ sẽ làm lại một cái chuyện gì đó cho ta hoan hỷ thì đó gọi là vị pháp sư không có tốt. Tức là làm hết bổn phận của mình. Người ta cần nghe thì nói cho người ta nghe, nói xong rồi thì thôi mình không có nhu cầu. Thực ra mà nói trăm sự có đi ra từ nhu cầu vật chất của mình. Một vị thật sự mà có lòng cầu đạo giải thoát thì vị đó không có nhu cầu vật chất. Các vị đó có điều nhu yếu thì có. Ví dụ như là đói ăn, khát uống thì có nhưng mà nếu chỉ chuyện ăn, mặc, ở thì 3 cái này nó không có đủ để vị tỳ kheo tà mạng - phải nói rõ như vậy. Nếu nhu cầu vật chất của vị tỳ kheo nó chỉ dừng lại ở mức thiết yếu thôi, chỉ là nhu cầu đó thôi không có thêm nữa đó, đói ăn, khát uống, có nhà ở, có y áo mặc, bệnh thì có thuốc men không có nhu cầu gì khác thì mấy cái này cộng lại nó không đủ để vị tỳ kheo phải kiếm thêm, nhiều khi mình có nhu cầu gì mà lớn hơn nữa thì mình mới tà mạng.
13/01/2022 - 12:58 - tranngocdieu.nt
Sau khi đã biết pháp như thật như thế nào thì trong đây mới nói như thế này. Biết pháp ở đây có nghĩa là biết rõ uẩn, xứ, giới, đế, biết rõ 4 đế bằng đạo. Sau khi biết pháp như thật như thế nào vị tỳ kheo ấy chân chánh du hành ở trên đời. Biết pháp ở đây là biết rõ uẩn, xứ, giới, đế, tôi xin thưa rõ ở đây một điều là tôi xin nhắc lại một câu nói của người Miến Điện: "Làm người mà không biết Phật pháp đó là điều đáng tiếc" biết Phật pháp mà không học A Tỳ Đàm, học Vipassana thì chỉ hoang phí đời sống của mình thôi. Nó có cái điều bất hạnh cho Phật tử Việt Nam là mình mang tiếng là có nghìn năm lịch sử Phật giáo, nhưng bất hạnh là mình bị ám ảnh Phật giáo Tàu nặng quá cho nên phật tử Việt Nam chỉ biết cầu Quán Âm cho đời sống thường nhật, tới hồi chết thì cầu Phật Di Đà để được vãn sanh. Còn hãy nói tời sợ bị sa đọa thì thêm vị U Minh giáo chủ Đại Tạng Vương Bồ Tát là xong. Trong đời sống của một người cư sĩ Việt nam cả bao lâu nay thì coi như chỉ có biết Bồ Tát Quán Âm, Phật Di Đà và Bồ Tát Địa Tạng, lâu lâu có thêm mớ như Vu Lan có đại hiếu Mục Liên gì đó rồi xong. Chứ còn ngoài ra mình không hề biết. Còn ngài Xá Lợi Phất trong tâm tưởng của người Việt Nam thì coi như là tệ hơn vợ thằng Đậu nữa. Ai mà có đọc trong kinh Duy Ma thì thấy họ chửi ngài Xá Lợi Phất không còn cái thước đo nào hết. Thuở đời nay một vị đệ nhất trí tuệ đến thăm một ông cư sĩ mà đi hỏi những câu rất là ấu trĩ. Nhà ông chật như thế này mà làm sao các vị Long thần hộ pháp Tát Ma Ha Tát mà tới ngồi được. Ngồi nghe đạo chứ nóng chổ thì hỏi trưa nay ăn uống tính làm sao đây. tức là một thành công lớn nhất của Bà La Môn giáo Ấn Độ là đã đẩy ngài Xá Lợi Phất xuống vị trí thấp nhất mà con người có thể nghĩ ra. Từ chổ đó cho nên Phật tử Việt Nam không hề biết gì về A Tỳ Đàm mãi đến thời gian gần đây thì mới là bập bõm. Chứ còn phải nói rằng nói đến đâu trong kinh điển Phật giáo thì một nguồi cư sĩ hoặc một người cư sĩ Phật giáo truyền thống không thể nào mù tịt về uẩn, xứ, giới, đế, cái cần học thì không chịu học đó là một điề rất là đáng tiếc. và tôi xin thưa với bà con một điều tại sao mình ăn uống thì mình lại sợ chết, mình rất là cẩn thận, ăn cái này thì bị cao máu, ăn cái này thì dư mỡ, dư đường, ăn cái này ung thư, ăn cái này là bệnh gan, ăn cái này là bị hại thận mình ăn rất là cẩn thận. mà tại sao mình học, mình đọc sách, mình nghe giảng kinh pháp mà mình lại không cẩn thận là sao? Điều đó cho thấy rằng mình coi nặng đời sống vật chất hơn là đời sống tinh thần, bằng chứng rõ ràng lắm ăn thì cẩn thận mà học đạo thì rất là bừa bãi, ai nói sao tôi nghe vậy, ai nói bậy tôi cũng nghe. Điều đó có phải đáng tiếc hay không nếu mình thật sự coi nặng đời sống tinh thần thì mình có ẩu như vậy. Tại sao mình dễ đàng bị ru ngủ một cách đơn giản như vậy. Một cái vị đại giác chứng ngộ dưới gốc Bồ Đề bao nhiêu cái tinh hoa trí tuệ suốt mấy chục năm hoằng pháp cuối cùng chỉ còn lại một lời cầu nguyện tiêu tai thoát nạn là sao? Cầu được vãn sinh bằng 6 cái chữ niệm Phật là sao? Vậy mà chấp nhận từ bao nhiêu thế hệ rồi mà cứ tự ru ngủ mình bằng cái tuyên truyền như vậy, tôi không tưởng tượng được. Và từ cái gọi là tâm thức Việt Nam ấy về tôn giáo dẫn đến tâm thức về chính trị mà rất là hồn nhiên và rất là thơ ngây ai nói sao cũng nghe hết mà rất dễ chấp nhận, mà không có suy tư. Mình e ngại cái sự nghi ngờ mình không dám nhìn xuống, mình không dám nghi ngờ con đường ở dưới chân mình như vậy là chết rồi. Mình là một con cá cảnh người ta đem về người ta nuôi. Nhắc đến đây tôi cảm thấy bị sốc tức là trong đây giải thích rất là rõ hiểu pháp nghĩa là sao? hiểu pháp có nghĩa là hiểu rõ uẩn, xứ, giới, đế là như vậy đó. Hiểu bằng thánh trí chứ không phải hiểu bằng mắt. Cứ mắc cái chứng gì học đạo sợ kinh cắn hay sao mà không dám đọc kinh - lạ lùng.
13/01/2022 - 02:02 - tranngocdieu.nt
Với ai các tùy miên không còn có tồn tại và cội gốc bất thiện được nhổ lên tận trừ vị ấy không tham dục, không có nhu cầu gì vị tỳ kheo ấy chân chánh du hành ở trên đời. Thì ở trong đây mới giải thích cho mình nghe cái niriso và cái adiraso ở đây có nghĩa là vị này không có lòng ước vọng, không có lòng mong mỏi. Cái niraso là không có mong ước gì hết. Còn adira so có nghĩa là không có...Các vị học A Tỳ Đàm có biết cái chữ tùy miên. cái tùy miên này không phải là dịch sát mà là dịch thoát. Tùy miên này người ta gọi là ngủ ngầm. Thực ra cái chữ anisiya đây là vầy nè là sự nương gá.Trong kinh nói thế này: Một con chim có cơ hội là nó bay về trời, con cá nó có cơ hội nó tìm về nước, chồn cáo tìm về hang, rắn rít tìm về đất. Cũng vậy khuynh hướng tâm lý của chúng sinh đối với 6 căn mà nói cái con mắt mình luôn luôn có khuynh hướng đi tìm cái gì đó để nó nhìn, lổ tai mình luôn luôn lắng nghe cái gì đó, mũi mình luôn luôn chực chờ để nó ngửi mùi và cái lưỡi mình luôn luôn sẵn sàng để đón nhận các vị đó là nói về 6 giác quan. Còn cái tâm của mình thì luôn luôn ở trong tình trạng thích cái này ghét cái kia bất cứ lúc nào. Nhớ lại coi có phải đúng như vậy không? Luôn luôn chực chờ để mà mỗi thứ nó đi theo một hướng con mắt thì nó đi tìm vái để nó nhìn v.v...Còn nói về nội tâm củ mình thì luôn luôn trong tình trạng sẵn sàng chực chờ để thích cái này và để ghét cái kia mà tại sao lại có cái tình trạng đó ở phàm phu là bởi chỉ vì đơn giản là chúng ta luôn luôn sống nương gá trong phiền não và chính phiền não nó điều động nó sai khiến chúng ta phải sống như vậy đó. Và cái vị tỳ kheo được nhắc đến trong đoạn này nè là vị tỳ kheo không có tiếp tục sống nương gá phiền não như vậy nữa và không sống trong phiền não nữa thì vị đó không còn có điều kiện không còn có cơ hội để mà bị tác động bởi 6 trần. Bởi vì mình không có lòng đi tìm cái này hoặc trốn chạy cái kia thì 6 trần đối với mình mình trở nên là người vô nhiễm và miễn nhiễm. Vô nhiễm có nghĩa là mình không có bị dây dưa nữa. Miễn nhiễm là nó không tác động được gì cho mình nữa gọi là miễm nhiễm. Chẳng hạn như có một số người họ miễn nhiễm với bệnh này miễm nhiễm bệnh kia vậy đó. Tôi muốn trong nguyên bài kệ này tôi rất muốn xài chữ miễn nhiễm cho bài kệ này. Tức là một vị tỳ kheo họ không có lòng trốn chạy hay là kiếm tìm 6 trần nữa thì 6 trần lúc bấy giờ đối với họ thì họ là người miễm nhiễm. Còn hễ mình có cái lòng phiền não thì 6 trần nó mới tiếp tục là mối đe dọa thì vị tỳ kheo sống như vậy thì có thể du hành một cách chân chánh giữa cuộc đời này. Đó là lời của bài kệ này.
15/01/2022 - 10:44 - tranngocdieu.nt
Tôi nhắc lại một chuyện nữa là mình khổ vì mình sống với hai thái độ đó là trốn chạy và kiếm tìm. Lúc này thì thích cái này, lúc sau thì thích cái khác. Lúc thì ghét cái này, lúc thì ghét cái khác cả đời mình 90 tuổi hay là 100 tuổi suy cho cùng chỉ làm có hai việc thôi trốn chạy và kiếm tìm. Chính hai cái này làm cho mình khổ. Thì Đức phật Ngài đề nghị mình như thế này: Mọi thứ diễn ra như thế nào mình cứ nhìn nó như vậy đừng thêm bớt gì hết, không có can thiệp không có can dự gì tới nó thì tự nhiên mình an lạc. Dĩ nhiên trong một sớm một chiều, đầu hôm sơm mai mình nói với nhau nghe như vậy mình không có thực tập thì mình khó cảm nhận được cái vấn đề đó. mà có thực tập thì mình mới thấy đó là con đường duy nhất dẫn đến giải thoát. Bởi vì mình sinh tử luân hồi là mình hiểu lầm, mình thích là do mình hiểu lầm, mình ghét là do mình hiểu lầm. Vị A La Hán không còn thích không còn ghét cho nên các Ngài không còn hiểu lầm.
Ở trong đây giải thích thế này, lậu hoặc ở đây là ám chỉ cho tứ lậu
16/01/2022 - 02:33 - tranngocdieu.nt
asava chỉ cho tứ lậu, mana ám chỉ cho 9 kiểu ngã mạn....9 kiểu ngã mạn có nghĩa là lấy hơn, thua, bằng nhân cho ba. Hơn nghĩ là hơn, hơn nghĩ là bằng, hơn nghĩ là thua. Tiếp theo bằng nghĩ là hơn, bằng nghĩ là bằng, bằng nghĩ là thua. Tiếp theo là thua nghĩ là hơn, thua nghĩ là bằng, thua nghĩ là thua. Tổng cộng 3x3=9
(còn tiếp)
|