LTP Học Phật Pháp
Information 
Sư Toại Khanh Giảng Hỗ Tương Duyên, Tương Ưng Duyên và Quyền Duyên (1-8)
 
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=RZky6BgYVEA&abt=H%E1%BB%97+T%C6%B0%C6%A1ng%2C+T%C6%B0%C6%A1ng+%C6%AFng+v%C3%A0+Quy%E1%BB%81n+Duy%C3%AAn
 
Hỗ Tương Duyên, Tương Ưng Duyên và Quyền Duyên
 
Kalama tri ân bạn Nguyenhuongbichhue ghi chép.
28/08/2020 - 01:22 - Nguyenhuongbichhue
 
Nhắc sơ lại cái duyên, tức là cái điều kiện hỗ trợ cho đời sống của chúng ta. Không có gì trong đời sống này mà không nhờ các điều kiện. Những điều kiện đó từ đạo Phật gọi là duyên. 
 
Duyên nói gọn gồm có 2 đó là 
  1. duyên trợ sinh: giúp cho cái chưa có được có măt.
  2. duyên trợ lực: giúp cho cái đã có rồi thì nó được phát triển mạnh mẽ.
 
Duyên trợ sinh là cái giúp cho cái chưa có được có mặt, duyên trợ lực là giúp cho cái đã có rồi thì nó được phát triển mạnh mẽ. 
 
Đời sống của chúng ta không nằm ngoài 2 cái duyên này. Từng phút những gì quý vị nói, suy nghĩ nằm gọn trong 2 cái này hết. Rất là quan trọng. Ví dụ như mình nói, làm những gì giúp cho mình tốt hơn, hoặc mình xấu hơn, hoặc một số chuyện giúp cho cái thiện chưa có nó thành có, cái ác chưa có thành có thì gọi là duyên trợ sinh.
 
Ôn lại cái hồi sáng, mọi cái trong đời sống đều xuất hiện, tồn tại và vận hành dựa vào các điều kiện. 
  1. Có trường hợp A giúp B bằng cách giúp có mặt trước gọi là tiền sanh duyên
  2. Có trường hợp A giúp B bằng cách giúp có mặt sau gọi là hậu sanh duyên
  3. Có trường hợp A giúp B bằng cách cùng có mặt gọi là câu sanh duyên. 
  4. Có trường hợp A giúp B bằng cách vắng mặt gọi là ly khứ duyên
 
Rất là quan trọng.
 
Chiều nay mình học tiếp mấy duyên còn lại.
 
Hỗ tương duyên 
Bây giờ mình học duyên tiếp theo, hỗ tương duyên. 
Hỗ tương duyên là lực đẩy qua lại giữa nhân và quả, nhờ vậy quả được hỗ trợ. 
 
Là tôi giúp anh, mà anh phải làm sao? Anh phải giúp lại tôi như vậy tôi mới giúp được anh. Ví dụ như 2 người cùng khiêng 1 vật nặng, thằng Tèo giúp thằng Tí, nhưng thằng Tí cũng giúp thằng Tèo. Lực đẩy qua lại đấy gọi là hỗ tương duyên. Mà trong nhà Phật kêu là “aññamañña”, Mỹ kêu là “mutuality” - tức là sự tương tác, có qua có lại.
 
Mình không thể nào trông mong người ta giúp mình, mà mình ngồi khoanh tay. Ví dụ như thuốc bơm vào chữa trị cho bệnh nhân, thì cơ thể bệnh nhân phải có khả năng tiếp nhận ra sao thì thuốc đó mới tốt. Có trường hợp thuốc đưa vô, cơ thể nó phản ứng chứ không có nhận. Trường hợp đó chỉ có chết thôi. Thuốc giúp cho cơ thể bệnh nhân hết bệnh, nhưng trường hợp cơ thể phải tương ứng mới nhận được. Bác sĩ có giỏi bằng trời, thuốc hay bằng trời mà không có sự hợp tác của bệnh nhân thì thầy và thuốc đều không thể làm việc được.
 
Cách đây mấy năm tôi có đi thăm 1 bà cụ 103 tuổi, người Hoa, bà bị lạnh. Khi con cháu bà đưa tôi về thăm bà, bà khoe cái này, bà khoe mà bà lấy tay che môi, bà nói nhỏ nhỏ: “Tao mới dấu thêm 6 viên thuốc nữa”. Bà mới dở cái nệm ra, 1 bụm như thế này này, bà mới lắc đầu trề môi vầy nè: “Tụi nó muốn giết tao đâu có dễ”. Coi như y tá đưa thuốc nhiêu là bà giấu hết. Vì bà nghĩ là tụi nó giết bà. Bà y tá hơi hờ hững, nên bà vô kể, mặt bà hiển hách chiến công lắm. Nghĩ sao đi dấu còn khoe nữa. Tưởng hay á. Chết rồi, Giấu thế sao mà sống.
 
Ở đây cũng vậy, dầu thầy hay cách mấy mà người bệnh không hợp tác, thuốc hay cách mấy mà không hợp tác. Cho nên ta có 1 câu “Chúa chỉ giúp người nào biết tự cứu”. Tôi kể 1 câu chuyện Linh mục, các vị nhớ không ? Giáo dân đi ngang nói lên xe tụi con chở đi, cha nói Chúa không bỏ cha. Lát sau, nước tới rún, giáo dân đi xuồng, cha ơi đi với con, ông vẫn lắc đầu, Chúa không bỏ cha. Lát sau nước đến ngực, trực thăng đòi đem ông đi, cảnh sát đòi mang ông đi, ông kếu “Không, Chúa không bỏ cha”. 15 phút sau ông về với Chúa. Mắt mờ lệ nhìn Chúa, ông hỏi: "Vì sao Chúa bỏ con?" Chúa trả lời: "Ta đã điều động nào ca nô, nào trực thăng, cảnh sát mà con đều lắc đầu, thì ta giúp con kiểu nào đây ? Ta còn kêu trời nào nữa?" Câu chuyện đó tuyệt đối không phải chuyện đùa. Câu chuyện đó cũng không phải là câu chuyện Chúa, mà là câu chuyện chùa. Bởi vì chùa cũng y chang như vậy, không có Phật nào mà độ được người nào không có hợp tác. 

Phật trí vô biên, Phật lực vô cùng, Phật tâm vô lượng, nhưng không độ được người vô duyên. 

Nhớ nha! Bởi vì nếu các bậc thánh hiền mà độ được cái thằng cà chớn, thì bây giờ mình đâu có nằm lủ khủ ở đây.
 
Giờ mình học mấy cái hỗ tương duyên rất là quan trọng, Vì sao? Trong đời sống của mình, những gì mình làm mình nói, nó đều kín đáo, âm thầm và lặng lẽ trở thành điều kiện cho 1 cái gì đó, thì đó gọi là hỗ tương duyên. Ví dụ như trưa nay tôi ăn 1 thứ rất là tào lao, đó là nước cốt dừa. Thì cái nước cốt dừa trưa nay là cái hỗ tương duyên cho cái tiêu chảy ngày nay. Vì cái bụng tôi đã yếu sẵn rồi, gặp thêm cái nước cốt dừa nguội để từ qua giờ. Hai đứa nắm tay nhau thành ra tiêu chảy. Hiểu không?
 
Nghĩa là mình sống làm sao, mà nó diễn ra, xảy ra ở mình á, trở thành điều kiện tương tác với những thứ thiện ác nào đó có sẵn. Có nghĩa là trong bụng các vị luôn luôn có sẵn cái thùng hạt giống, trong đó gồm có mùng tơi, bí bắp, mắt mèo, mã tiền tum lum. Thì vấn đề là quý vị sống như thế nào để cho mã tiền nó phát triển, để cho mắt mèo phát triển, để cho cỏ dại phát triển, để cho bầu bí mướp nó phát triển. Đó là tùy kiểu sống của mình. Mưa rơi xuống mặt đất không lựa chọn nơi chốn. Vấn đề ở chỗ khi mưa rơi xuống ở 1 mảnh đất nào đó thì tự nhiên cỏ dại mọc đầy. Có những nơi mưa xuống thì cây trái mọc đầy. Tại sao vậy? Là vị mưa không có lựa chọn nơi chốn rơi xuống, nhưng chỗ tiếp nhận mưa á, nó căn bản nó là cái gì. Cho nên mưa xuống nó cứ thế mà đi tới. Nên nhà văn mình mới có chữ tâm địa. Địa là đất, anh phải dọn cái đất tâm như thế nào để mà anh dễ dàng đón nhận những điều hay điều đẹp. Nếu mà anh dọn không khéo, tâm anh toàn cỏ dại không. Thì dầu anh đi chùa, đi nhà thờ thì cái chùa, cái nhà thờ đó đều là cơ hội để anh tệ hơn.
 
Cho nên điều quan trọng là sống như thế nào, để mình đón nhận dễ dàng những điều hay. Mà tôi nói không biết bao nhiêu lần. Để đi vào đọc và xem 1 cái gì đó trên laptop, hay cái phone của người khác, thì việc đầu tiên là ta phải có password của người khác. Tất cả thánh hiền đều có password hết. Mà mình tu hành ngon lành, là tự nhiên mình hiểu được cái password hết. Cái trang Kinh mình mở ra mà nếu mình bơ quá, mình đọc không có hiểu. Khi mở 1 trang Kinh ra, thì cái hiểu của người này và người kia khác nhau phải không? Vì mình có password để mở được cái phone của thánh hiền hay không? Còn không mình chỉ xem được cái hình ở ngoài – wallpaper thôi.
 
Và tất cả những gì hôm nay chúng ta vào chùa, chúng ta lạy Phật, chúng ta nghe Pháp toàn là cái wallpaper của thánh hiền không à. Chúng ta chưa vô cái nội dung bên trong. Có những cái file document ở bên trong.
 
Ở bên Đức tôi nhớ có 1 Phật tử người Đức. Anh đi tu với 1 ông sư người Miến. Anh hỏi cái này, sư ơi con tu con có được quyền xài email không. Thì ông sư nói “this's ok until you have a attachments”. Attachment có 2 nghĩa, 1 là giải thoát, 2 là tệp đính kèm. Ghê không? Nghĩa là con có thể dùng email, phone nhưng mà cho đến lúc nào attachment thì stop. Tức là dùng email, phone trong lúc cần thiết, còn ngồi quẹt quẹt là dính mắc rồi đấy.
 
Có những thứ mình tưởng mình là chủ của nó, nhưng thực ra nó là chủ của mình. Mình đi đâu cũng nói cái Lexus là của mình, nhưng thực ra nó là chủ của mình. Vì sao? Vì mình có bị gì thì chiếc xe nó không bị buồn, mà nó bị gì là mình buồn, mình lo. Nên nó là chủ của mình, là bà nội của mình, mình không phải là chủ của nó. Hiểu không?
 
Đi đâu mình cũng khoe là con của mình, mà nó đâu biết thương mình, mà mình khổ vì nó, thì nó là má của mình chứ mình không phải má của nó.
 
Nên hỗ tương duyên rất là quan trọng. Vì ở đây Đức Phật nói ra 1 quy luật: "Anh muốn tôi giúp anh, thì trước hết anh phải có khả năng tương tác với tôi thì anh với nhận được sự giúp đỡ của tôi." Cứ như 1 cơn mưa, cơn mưa rơi xuống không phân biệt nơi chốn. Nhưng khi Đức Phật thuyết pháp thì ta phải hợp tác với người. Đó là hỗ tương duyên.
 
Và với người xấu cũng vậy. Có nhiều người mình đi ngang 1 anh cờ bạc, nhậu nhẹt mình miễn nhiễm. Nhưng có nhiều người sống gần người cờ bạc, nhậu nhẹt thì bị lây nhiễm. Là vì sao? Vì giữa 2 người có điểm tương đồng. Là có tương tác. Chúng ta không nhất thiết phải có sự tương tác với những người như vậy. Đời sống là 1 mâm cỗ, nhiều thức ăn. Có những thứ thức ăn chúng ta nhai thiệt kỹ và nuốt sạch vào trong bụng. Nhưng có những thức ăn chúng ta chỉ ăn ít thôi rồi đẩy nó qua 1 bên. Có những thức ăn chúng ta chỉ nếm cho biết rồi thôi. Có những thức ăn chúng ta phải mạnh dạn đẩy nó sang 1 bên. Vì tại sao? Vì có những thứ mình đưa vào trong người nó chỉ có hại nhiều hơn lợi.
 
Trong thức ăn đã vậy, thì nói gì trong đời sống tinh thần. Cho nên cái hỗ tương duyên là sự giúp đỡ qua lại của nhân và quả. Mình sống như thế nào đó để với cái thiện mình có sự tương tác, với cái xấu mình không có sự tương tác. Hiểu không? Hãy tránh xa những thứ không có lợi cho mình. Vì mình có sự qua lại với quỷ dữ thì mình sẽ có quả ngục tù. Đó là luật tự nhiên thôi.
 
16p14s.
 
(còn tiếp)
 
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Hỗ Tương Duyên, Tương Ưng Duyên và Quyền Duyên (2-8)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=RZky6BgYVEA&abt=H%E1%BB%97+T%C6%B0%C6%A1ng%2C+T%C6%B0%C6%A1ng+%C6%AFng+v%C3%A0+Quy%E1%BB%81n+Duy%C3%AAn

16p14s.

03/09/2020 - 05:53 - Nguyenhuongbichhue

Cho nên tương tác là gì? Có những trường hợp ta cần đến sự qua lại. Bởi vì bản thân sự qua lại nó là lực đẩy rất lớn.

Học hỗ tương duyên qua cách này, chúng ta thấy A-tỳ-đàm không có xa lạ gì với chúng ta hết.

Tôi nhắc lại, khi nói đến hỗ tương duyên là Thế Tôn nhắc đến lực đẩy qua lại giữa nhân và quả. Nhân tác động lên quả, quả tương tác với nhân. Nhờ vậy quả mới có thể phát triển.

Tương ưng duyên là sao?

Là lực đẩy có được từ sự hòa tan giữa nhân và quả. Nhân giúp quả bằng cách hòa tan vào nó.

Bất tương ưng duyên là sự có được từ độc lập giữa nhân và quả.

Hòa tan là 2 đứa gom làm 1, còn độc lập là riêng.

Nó có trường hợp 2 người giúp nhau bằng cách gom thành 1 khối. Nhưng có trường hợp giúp đỡ bằng cách tách rời nhau.

Ví dụ đêm nay tôi cần dọn dẹp trên chùa, trên chùa có 1 mình tôi. Ở đây 3 vị tăng, ông Phát, ông Long và các vị không biết tên có thể vào ở chung cái phòng đó, ở chung với tôi để cùng làm việc. Đây là tương ưng duyên. Còn tôi tuyển vài cô lên giúp tôi qua đêm có nên hay không? Đây là giúp nhau bằng bất tương ưng duyên. Chứ mà các cô lên giúp và ngủ qua đêm thì cái việc giúp đó trở thành họa, banh chùa, giúp mà lại thành phá.

Trong 1 ly nước chanh, cái gì cần hòa tan và cái gì không cần hòa tan? Cái muỗng có cần hòa tan vào nước chanh không? Why? Bởi vì nó không phải là cái mình uống đúng không?. Ly nước chanh gồm có cái dĩa, cái ly, cái muỗng, đá, đường, chanh, với tôi có thêm tí muối. Có những thứ cần phải hòa tan và có những thứ không thể hòa tan (cái ly, cái dĩa, cái muỗng). Nếu tôi biết nó hòa tan thì bà cố tôi cũng không dám uống.

Hiểu chưa? Có những trường hợp ta giúp đỡ nhau bằng cách hòa tan thành 1 khối. Nhưng có trường hợp ta phải giúp nhau bằng cách nhân quả phải cách ly, độc lập. Phật tử nữ giúp đỡ chúng tôi bằng cách cách ly, độc lập.

Có câu chuyện, ông thì độc thân, nàng thì độc thân. Nàng có con nhỏ mà bị bệnh trúng gió mà không có ai giúp. Nhờ ông nội kia sang cạo gió, cạo riết con nít nó ra lủ khủ.

Cho nên có những trường hợp ta giúp đỡ nhau bằng cách hòa tan thành 1 khối. Nhưng có trường hợp ta phải giúp nhau bằng cách nhân quả phải cách ly, độc lập.

Nhắc đến hòa tan mới nhớ đến 1 câu chuyện là ngài Cưu-ma-la-thập – là ngài tứ đại dịch giả của Phật giáo Trung Hoa. Ngài thuyết pháp cực hay và dịch kinh cực giỏi. Là bởi vì bên Trung Hoa có nhiều dịch giả lớn, chia làm 2 trường phái: trực dịch – nghĩa dịch. Trực dịch là one-by-one, từng chữ dịch ra từng chữ, như hot dog thì dịch là chó nóng. Nghĩa dịch là đọc 1 đoạn, xem nó là nghĩa gì rồi viết lại, vẫn giữ lại linh hồn cũ trong hình hài mới. Ngài Cưu-ma-la-thập là huynh trưởng trong trường phái nghĩa dịch. Ngài Huyền Trang thì dịch theo trực dịch, nên rất dễ truy ra bản gốc. Còn ngài kia đọc thì thấy hay, dễ hiểu, mượt mà mà khó truy ra bản gốc, có nhiều người mượt quá họ không tin. Ngài dịch kinh quá hay, thuyết pháp quá giỏi nên vua quan quý ngài quá, người ta cúng cho ngài vàng bạc để cất chùa, rồi người ta nghĩ cúng cái khác. Họ hỏi ngài dịch kinh rồi ai nấu ăn cho ngài, ngài nói mấy cụ, họ nói không được, mấy cụ run lẩy bẩy mắt kém, lặt rau không kĩ sâu không à, nên họ mới cúng cho ngài mấy cô người hầu trẻ măng à, tổng cộng 13 cô. Mấy ông sư ổng thấy ổng bực, sư gì mà mấy cô trong chùa quá trời. Có ông chỉ trích, có ông bắt chước. Ông nghe thế, buổi đó ông mới tổ chức 1 buổi lớn lắm, ông mời hết mấy cha nội đó tới, mấy cha chỉ trích ông, mấy cha bắt chước ông. Sau khi cúng dường trai tăng xong, ông lấy cái bình bát ông mang ra cái kim may đồ, ông hốt nguyên 1 nắm ông bỏ vào bình bát, đổ nước vào quậy, nó tan hết. Rồi ông mới nâng cái bát lên ông nói: anh em nói tôi tu hành mà chùa gái không à, có người nói tôi này nọ phá giới, có người bắt chước, thôi thì thế này để cho nó đừng lùm xùm nữa mệt, thôi thì thế này bát nước có kim này, anh em nào uống hết thì tôi cho bắt chước, còn anh em nào nói tôi phá giới cũng uống nửa bát, thì tôi nói trước nha, trong đây nước và kim đã tan rồi, không ai dám uống ông cầm uống hết. Ý ông nói là, nội lực như tôi thì 13 cô chứa được, nếu tôi như ông nghĩ thì cái bát này tôi uống không được. Từ đó về sau im ru.

Ông có năng lực gì đó mình không nói được, nhưng đại khái là nó phải tan thì ngài mới uống được. Nếu ngài là thứ tào lao thì thứ nhất nó không tan, thứ 2 là ngài cũng không dám uống.

Có những trường hợp A giúp B bằng cách phải hòa tan vào nhau.

Mỹ có 1 câu rất là hay: you … you (30p18s). Tức là chúng ta tồn tại bằng cách đoàn kết, đoàn kết mới sống còn.

Một trong những quốc hiệu mà tôi cho là hay nhất United State là 1 đất nước được hình thành bằng kết hợp nhiều bang.

Tất cả chúng ta ở đây đều là sự kết hợp của nhiều bang hết: muốn có 1 cô phải có 5 bang ít nhất là xúc – thọ - tưởng – hành – thức.

Trường hợp A giúp B bằng cách độc lập, kiểu ngưu lang chức nữ.

Nhờ sống chánh niệm nên tôi được an lạc. Thì cái chánh niệm và an lạc hòa tan vào nhau phải không ta?

Nhờ sinh hoạt đúng cách mà ta khỏe mạnh. Nhờ khỏe mạnh mà ta được an lạc.

Nhờ sống chánh niệm và trí tuệ nên tôi được an lạc. Thì cái chánh niệm, trí tuệ thuộc về tinh thần hay vật chất? (tinh thần)

Cái an lạc thuộc tinh thần hay vật chất? Tinh thần.

Thì nhân và quả đều là tinh thần. thì nó giúp nhau bằng cách hòa tan đúng không? Vì 2 cái đều là tinh thần hết, nó cùng loại mà.

Những sinh hoạt thường nhật của mình, đi đứng nằm ngồi giao tiếp nói năng, hoặc những thức ăn mà mình ăn vào, nhà cửa những cái đó có hỗ trợ cho đời sống tinh thần không? Nhưng mà cái giúp của vật chất với tinh thần nó có giống cái tinh thần với tinh thần không?

Hiểu chưa?

Như vậy có sự giúp đỡ nó hòa tan, có những sự giúp đỡ nó cần độc lập là như vậy đó.

Cho nên có ngày nào đó quý vị nghe đồn có 1 cô nào đó, tôi rất thân với cô đó, thì quý vị chỉ cần viết 1 tin nhắn: Tôi trả lời chúng tôi cần tương ưng duyên là chết (cười).

Hoặc nhắc như thế này: : . Tức là giúp từ xa chứ không cần có mặt.

Bây giờ hiểu những từ đó chưa?

Có những trường hợp mình giúp bằng cách vắng mặt gọi là ly khứ duyên. Giúp bằng cách rời xa gọi là vô hữu duyên.

Có lúc A giúp B bằng cách cùng có mặt, có lúc A giúp B bằng cách có mặt trước, có lúc A giúp B bằng cách có mặt sau, có lúc A giúp B bằng cách vắng mặt, có lúc A giúp B bằng cách B phải giúp lại A thì A mới giúp được, có lúc A giúp B bằng cách A và B phải hòa tan vào nhau, có lúc A giúp B bằng cách 2 đứa phải 2 phương trời cách biệt.

Ví dụ có trường hợp vợ chồng sống với nhau không được phải ly dị, khi ly dị rồi họ thành bạn tốt của nhau. Đây gọi là bất tương ưng duyên.

Có trường hợp ly thân một thời gian, nó khỏi ly dị luôn. Ngộ lắm. Nhưng mà 2 đứa không rời nhau là nó kỳ lắm, nó không vô.

Nói về 1 mặt chuyên môn, bất tương ưng duyên là 2 cái A và B không cùng 1 loại. Hiểu không ta? Bất tương ưng duyên là nhân quả nó không cùng loại. Đứa là vật chất đứa là tinh thần, đứa là nước đứa là lửa. Trong trường hợp 2 đứa không cùng loại mà giúp nhau là bất tương ưng duyên.

Hai bạn gái giúp nhau là hỗ tương duyên, 1 người nam và 1 người nữ là người dưng giúp nhau là bất tương ưng duyên. Còn tương ưng duyên là sự giúp đỡ của 2 đứa cùng loại.

Tại sao trong đời sống mình phải nghe lời Phật? Mình phải tu hành, mình phải giữ giới, phải hành thiền? Là vì trong đời sống này có những cái mà mình không thể nào kết hợp đan xen hòa quyện với nó được.

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Hỗ Tương Duyên, Tương Ưng Duyên và Quyền Duyên (3-8)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=RZky6BgYVEA&abt=H%E1%BB%97+T%C6%B0%C6%A1ng%2C+T%C6%B0%C6%A1ng+%C6%AFng+v%C3%A0+Quy%E1%BB%81n+Duy%C3%AAn

Ví dụ như nhà sư có cần sự giúp đỡ của cư sĩ không? Nhưng mà có nên quá thân thiết với cư sĩ không?

Trong đời sống chúng ta cần sự hỗ trợ của rất nhiều thứ, và qua rất nhiều cách, hỗ trợ bởi what và hỗ trợ bởi how. 
  1. Hỗ trợ bởi what là sao? Là cái mà hỗ trợ mình nó là tinh thần hay vật chất (Tương Ưng Duyên),


  2. hỗ trợ bởi how là sao, nó hỗ trợ mình bằng cách độc lập hay hòa tan (Bất Tương Ưng Duyên hay Tương Ưng Duyên).
Khi không được nghe cái này, bà con đọc 24 duyên rất là khó hiểu, rất là xa lạ. Khi học 24 duyên này được giải thích đàng hoàng, chúng ta sẽ nhận ra rất là nhiều chuyện.

  1. Chuyện thứ nhất, tôi chả là gì trong cuộc đời này nếu không có sự hỗ trợ của các điều kiện [b](Tương Ưng Duyên).[/b]
  2. Cái thứ 2, cái gì trên đời này cũng được có mặt nhờ sự giúp đỡ của vô số thứ khác, mà bản thân nó cũng là điều kiện để giúp đỡ cho cái khác có mặt. 
Cái gì trên đời này cũng là quả của cái khác, bản thân nó lại là nhân cho cái khác. Mình là con của má, nhưng mình lại là mẹ của con mình.

Chính vì ta hiểu con người trên đời này là sự giúp đỡ của bao nhiêu điều kiện, thì ta thấy mình chỉ là con số 0. Khi thấy mình là con số 0, mình sống bớt khổ tâm nhiều lắm. Khi ta thấy ta là 1 cọng rơm, 1 tờ giấy thì từ lầu 10 rơi xuống ta không bị tổn thương. Nhưng nếu ta là 1 cái chén thì lầu 1 rớt xuống là trào máu. Khi mình thấy mình quan trọng quá thì bất cứ 1 cái tí tì ti nào cũng làm tim ta rỉ máu hết. Nhưng khi mình là con số 0 thì cái sự tổn thương ấy bị đặt trượt vào khoảng không. Cho nên Phật nói sống trên đời này con phải sống làm sao mà đối với trần cảnh con là 1 tấm lưới không bị gió nó cuốn. Gió thổi vào lưới nó bị sao ta, nó trớt quớt. Con phải sống như là cái đầu kim, 6 căn như đầu kim, 6 trần như hột cải, hột cải không thể đứng trên đầu kim. Con phải giữ 6 căn trên 6 trần như là nước trên lá sen, là nước đi đường nước mà sen đi đường sen. Có như vậy con mới được an lạc. Còn đàng này con dễ bị thọc, bị click quá nên con đau khổ suốt đời.

Đọc kinh Phật mà khiếp chỗ đó, khi mà mình học về các duyên để mình thấy mình chỉ là các điều kiện cộng lại mà thôi. We are nothing but relationship. Chúng ta không là gì hết, chúng ta chỉ là kết quả của những điều kiện cộng lại.

Xong chưa, cái thứ 2. Khi mình thấy mình là kết quả của những điều kiện cộng lại, mình phải có trách nhiệm hơn. Hiểu không?

Cái thứ nhất, học về duyên là để buông cái tôi mình ra.

Duyên không phải là 1 giáo lý xa rời, mà nó là cái gì đó rất thân thiết, gần gũi, cần thiết cho đời sống của mình.

Đêm nay về mở 24 duyên coi, nó thân thiết từng duyên một. Tưởng nó khô queo mà đọc đâu thấy mình ở đó. Ngày xưa mình là đứa trẻ ham chơi, mình nghe người ta nói chữ hiếu rất là xa lạ . Một ngày kia, khi mình có con mình mới hiểu chữ hiếu, rồi đêm về vào phòng của mẹ mất, nhìn lên hình của mẹ thấy được nhiều việc, lục tủ thấy cái áo rách của mẹ ngày xưa, mình hiểu ra nhiều chuyện mà trước đó mình lêu lổng mình không thấy. Khi mình có hiếu mình nhìn thấy thương. Thấy cái kéo trong rổ mây mình thương. Thấy từng miếng vải vụn mình thương. Lúc bấy giờ mình mới hiểu những cái đó là cái gì.

Ở đây cũng vậy, 24 duyên khi mình không có học, mình thấy nó là cái gì đó xa vời, không mắc mớ gì mình hết trơn. Nhưng khi mình hiểu, mình mới thấm thía, những lời Phật dạy mình cho là khô khan lắm, nhưng thật ra những điều đó nói về đời sống của mình. Hiểu không?

Hỗ tương duyên là A giúp B bằng cách tương tác lẫn nhau. Tương ưng duyên là cái lực đẩy được tạo ra khi nhân và quả hòa tan vào nhau. Bất tương ưng duyên là lực đẩy khi nhân và quả cách ly và độc lập nhau.
04/09/2020 - 10:57 - Nguyenhuongbichhue

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Hỗ Tương Duyên, Tương Ưng Duyên và Quyền Duyên (4-8)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=RZky6BgYVEA&abt=H%E1%BB%97+T%C6%B0%C6%A1ng%2C+T%C6%B0%C6%A1ng+%C6%AFng+v%C3%A0+Quy%E1%BB%81n+Duy%C3%AAn

Câu hỏi: “Không nghe rõ .”

Sư trả lời: "Tùy khía cạnh mà nói, tụi nó là một khối. Ví dụ như cái nghiệp duyên và cái nhân duyên nó là một."

Ví dụ như công việc nặng nhọc này muốn làm được phải có sự giúp đỡ của đàn ông, thì có 1 ông nhảy ra giúp. Lát sau tôi nói công việc này cũng nhờ cái phụ tử tình thân, thì ra cái ông vừa nãy là bố của tôi. Công việc này cần có cái tay của người có chuyên môn, cũng ông bố của tui nữa. Có hiểu không? Các vị hỏi ủa sao kì vậy, trước sau chỉ có 1 mình ông thôi. Nhưng mà tùy khía cạnh của nó.

Nếu ông đó có tay nghề giỏi, mà ông không phải bố tôi, ông có làm không? Phải có tiền ông mới làm. Vì ông là bố tôi ông không có lấy tiền. Hiểu chưa?

Cái nữa, mẹ tôi dù có là mẹ ruột của tôi, dù có giỏi cách mấy nhưng mà yếu quá, hoặc bố tôi mà đúng lúc ông bệnh mới hết, ông cũng không giúp được.

Bố tôi ông bệnh mới hết, ông có tiếp tục có tay nghề giỏi hay không? Tay nghề giỏi vẫn là tay nghề giỏi, ông vẫn là bố tôi, nhưng cái vụ đàn ông phải xét lại vì yếu quá.

Cho nên cùng lúc nó phải có cả 3. Nghĩa là cái chi pháp nó giống nhau, nhưng tùy khía cạnh mà nói. Cũng như người ta nói người phụ nữ hoàn hảo nhất là người có 3 khả năng: làm mẹ, làm vợ, làm em gái, làm chị, làm bạn

Quyền duyên là lực đẩy có được từ 1 trong 22 thành phần chủ yếu cấu tạo nên vũ trụ và chúng sanh.

Tức là cây cỏ, đất đá, đại dương, kênh rạch, sông ngòi, mặt trăng, mặt trời, sao, tinh tú, nam phụ lão ấu, thánh hiền, súc sanh và con người… được cấu tạo bởi 22 thành tố sau đây. 

Tại sao nó lại là quyền ? 

Thật ra chữ này tôi rầu lắm. Bên Hán tạng, có kiểu dịch kinh, là dùng 1 cái thẻ để thống nhất cái tên, để thằng giỏi dở nào cũng biết. Ví dụ như Buddha có 1 thể là Phật, thì sau này thống nhất là dịch từ đó nha. Nhưng mà khổ 1 nỗi từ buddha có nhiều nghĩa:
  1. Nghĩa thứ nhất là người hiểu biết, 
  2. Nghĩa thứ 2 là người tỉnh giấc, tỉnh dậy. 
Nhưng mà ở đây tôi thống nhất tôi lấy 1 nghĩa cho nó gọn . Cho nên đến lúc mình gặp những cái chỗ mà cũng có chữ buddha mà không dùng để chỉ cho Phật thì lúc đó mình lại tiếp tục dùng cho Phật thì nó kỳ. Tôi lấy thí dụ, có 30 vị tỳ kheo tu thiền trong 1 khu rừng, nửa đêm nghe tiếng cọp gầm, thì có 1 ông buddha (ông đang ngủ thức giấc) nghe được tiếng gọi đó, lúc đó mới đè chữ buddha ra dịch là Phật, thì có nên không?

Từ đó nó mới ra chữ Quyền này nè, 22 quyền… (58p58s)  Mà nó là nghĩa chủ đạo, chủ lực, cái căn bản, thiết yếu. Mà họ dịch là quyền, vì chữ (59p10s) trong Pali có nghĩa là xếp . Nên Đế thích devanam-indra là xếp của mấy ông tiên trên trời, Đức Phật gọi là (59p22s) là xếp của các bậc Thánh ở đời.

Cho nên dùng chữ Quyền nghe rất là kỳ, xa lạ với ngôn ngữ chữ Hán và chữ Việt hôm nay, thời này. Tôi vẫn phải xài chữ này, nhưng phải giải thích chữ Quyền ở đây là thành phần chủ yếu, thành tố căn bản.

22 thành tố căn bản đó là gì?

1/ 5 thần kinh (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác) – đừng có coi thường, nó là thành tố của vũ trụ. Có những thứ trong vũ trụ mà mình không thể nhận biết nó mà thiếu lỗ mũi có không? Cái mùi thì phải là cái mũi thôi à. Câu chuyện hôm bữa tôi kể cái bà bị gì mà bữa giờ đánh rắm hoài, mà được cái không có mùi, thì bác sĩ nói trời ơi nãy giờ tôi muốn chết đây nè, nghĩa là lỗ mũi bà có vấn đề rồi, bà không có nghe nên bà tưởng là không có, nên bà làm liên tục, giải tán đám đông, người ta xách người ta chạy mà bà tỉnh bơ, nó đâu có mùi đâu. Có bà đi bác sĩ bà kể, tại sao bà rờ đâu cũng đau, cuối cùng phát hiện ra bà đau cái ngón tay. Thì bây giờ cả vũ trụ bao la, nhưng có những thứ ta không thể nhận thấy nếu thiếu con mắt: đó là những gì thuộc về hình ảnh, màu sắc, hình dáng. Cả vũ trụ bao la, nhưng có những thứ ta không thể nhận thấy nếu thiếu lỗ tai. Và chúng ta nhận biết vũ trụ này qua 6 cánh cửa: mắt – tai – mũi – lưỡi – xúc giác – ý. Và các vị tuyệt đối đồng ý với tôi, nếu không có 5 giác quan đầu thì cái thứ 6 bị hạn chế đúng không? Ví đụ đêm nay tôi nằm tôi nhớ cái bánh xèo, nhớ bằng cái đầu đúng không, nhưng trước đó tôi phải có mắt tai mũi lưỡi tôi mới biết bánh xèo là gì. Nếu thiếu 5 cái đầu, nó chỉ còn là thuần túy thuộc về tinh thần thôi. Ví dụ như thiền định thôi, còn cái vật chất không có. Cho nên cái cảnh pháp, là đối tượng của cái mind, của con mắt gọi là cảnh sắc, của tai là cảnh thinh… Mù có 2 trường hợp, mù bẩm sinh và mù tai nạn. Mù bẩm sinh trong mind họ chỉ có biết từ cái xúc do họ tạo ra, do lỗ mũi, lỗ tai tạo ra. Họ không thể nào nghĩ đến cái mà liên hệ đến hình ảnh màu sắc. Cho nên 1 người thiếu con mắt xem như 1/6 thế giới không tồn tại với họ, 1 người thiếu lỗ mũi xem như 1/6 thế giới không tồn tại với họ, 1 người thiếu lỗ tai xem như 1/6 thế giới không tồn tại với họ, 1 người thiếu vị giác xem như 1/6 thế giới không tồn tại với họ, 1 người thiếu xúc giác xem như 1/6 thế giới không tồn tại với họ. 1 người đang ngủ vũ trụ đóng gần hết. Vì vũ trụ tồn tại để ta nhận biết, mà giờ ta không nhận biết thì nó không tồn tại. Vạn vật chỉ tồn tại khi được ta nhận biết. Ví dụ cuốn sách nằm trên bàn, tôi đi ngủ, cuốn sách không được nhìn thấy nghĩa là nó không tồn tại với tôi. Ngay lúc đó nó là nothing. Nó tiếp tục là cái gì đó, something for you, for other not me.

05/09/2020 - 12:14 - Nguyenhuongbichhue

Ở Mỹ nó có cái này nè. Hàng xóm mình có khi 3 năm trời nó chết mình không biết. Nó đi làm, bị xe đụng, stroke nó chết. Làm đám ma, nhìn mắt chồng nó hoặc vợ nó buồn buồn, nếu mình có quen mình hỏi thăm, mình không quen thì mình không có hỏi. Vì sao? Tuy nó bên cạnh mình, nhưng trong đầu mình không có nó. Trong khi Việt Nam mình thì khác, nguyên cái xóm biết nhau rất rõ. Cho nên nhà thằng Tèo có đám dỗ là cả xóm biết, nhà thằng Tí có thôi nôi là cả làng biết. Còn bên đây thằng David nó chết mình không biết. Tuy nó bên cạnh mình, nhưng trong tim mình không có nó. Khi chúng ta không biết nhau, chúng ta ngồi chung trên máy bay, xe lửa, tuy là gần nhau thật nhưng trong tim không có tên này, mà mình đang nghĩ về 1 người khác.

Đồng sàng dị mộng, nằm chung giường mà nghĩ thằng cha hàng xóm là bình thường. Đang dạy cái đám này mà nhớ 1 bóng hồng khác thì rất là bình thường (cười).

Cho nên 5 giác quan này nó là thành tố quan trọng căn bản, chủ đạo, chủ yếu, chủ lực để tạo nên vũ trụ.

2/ Hormon nam nữ, sinh lý nam sinh lý nữ, estrogen, testosterone.

Cái đó rất là quan trọng, không học giáo lý các vị không biết rằng cái nam tính, nữ tính tại sao là thành phần của vũ trụ.

Vì sao 1 nửa chúng sanh là nam tính, 1 nửa là nữ tính. Cho nên vấn đề giới tính rất là quan trọng. Trong kinh ghi rất rõ, chỉ có chúng sanh trong cõi dục mới có nam nữ, chúng sinh trong cõi sắc và vô sắc không có nam nữ.

Thứ 2, trong cõi dục gồm có 5 thứ dục lạc (sắc – thinh – khí – vị - xúc), những gì ta thấy nghe ngửi nếm đụng. Trong vô số cảnh dục, vấn đề nam nữ là hàng đầu.

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Hỗ Tương Duyên, Tương Ưng Duyên và Quyền Duyên (5-8)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=RZky6BgYVEA&abt=H%E1%BB%97+T%C6%B0%C6%A1ng%2C+T%C6%B0%C6%A1ng+%C6%AFng+v%C3%A0+Quy%E1%BB%81n+Duy%C3%AAn

Có người ngạc nhiên nói với tôi . Nhìn qua thấy bà vợ xấu hoắc. Chồng coi như cái gì cũng tu hết, coi như cây bút hết mực, tự dưng mình lạnh ngắt, bỏ thì không được, mà ở thì nó lạt nhách à. Thì thôi lâu ngày bị lãnh cảm, thì tưởng là thánh. Giống như cái bà đó gặp tui, bà nói Thế là bà , tôi hỏi , bà nói .Bả nói , bà mới nói . Rồi tôi hỏi . Trời, ảnh đi năm mấy chưa về xem như cũng quên cha nó rồi, tưởng A la hán, tui lậy má luôn (cười).

Tôi nhắc lại, bà con không có cảm giác nam nữ, maybe lãnh cảm, maybe có problem về tâm thần, sức khỏe, maybe problem về gia đạo, gây gổ bực mình, tiền nong tài chính. Chứ có điều kiện phục hồi là nó dữ lắm à. Không phải dễ đâu mà tưởng nhầm con à.

Ngay khoảng khắc nào đó thôi, với đối tượng đó thôi, trong 1 bối cảnh nào đó, 1 thời gian nào đó, với 1 tình trạng sức khỏe, tâm lý như thế nào đó, rõ ràng mình không có thiết tha. Nhưng coi chừng bối cảnh nào đó với đối tượng khác. Cho nên Việt Nam có kinh nghiệm, khi đàn ông mở cửa xe cho phụ nữ, chỉ có 2 trường hợp, 1 là xe mới, 2 là mở cho em vợ, vì bà xã mình là mình chán rồi.

Trong Kinh nói như thế này, tình cảm nam nữ là dấu hiệu của mức độ tâm linh. Ở cõi nào mà còn tình cảm nam nữ, thì người đó thấp lè tè. Ở người mà tu thiền, họ không còn cái vụ nam nữ nữa.

Trong kinh Tăng chi, bài phẩm đầu tiên. Ngài nói trong vũ trụ có rất nhiều thứ để ta thấy, nghe, ngửi nếm đụng, nhưng ngài nói không có hình ảnh nào bằng hình ảnh nam nữ với nhau, không âm thanh nào hơn âm thanh nam nữ với nhau. Dù là tiếng chim hót, tiếng gió thổi, nước chảy… Nhưng tiếng người khác phái luôn luôn hấp dẫn.

3/ Mạng quyền – tức là sức sống, sinh lực.

Trong Kinh nói, trong từng hạt cát, giọt sương, hạt bụi, cọng mí mắt nhỏ xíu nó đều có cái gọi là sức sống, chứ không nó đã bị rã ra. Quý vị có thấy cọng rêu mọc lên các vách tường, các vị lấy kính lúp các vị rọi, quý vị thấy nó cũng có sức sống mãnh liệt, tức nó cũng có hút nước, có cành lá. Nó nhỏ xíu nhìn bằng mắt thường không thấy. Trong sinh học mình thấy 1 số loài động vật, côn trùng, gọi là loài yếm khí – tức là loài sống trong chỗ thiếu oxy, thì nó có mạng quyền nó mới sống được. Còn mình sống trên mặt đất, hình hài này mình cần phải điều kiện không khí như thế nào đó; nên tụi nó ở dưới sâu tụi nó vẫn sống được.

Người Đại Hàn so với các dân tộc khác trên thế giới, họ có lớp biểu bì không giống ai hết. Cái huyết cầu và phổi của người Tây Tạng, nó khác với dân tộc khác nên họ sống trên 5000m mà không sao hết, vì đó là sắc mạng quyền của họ. Mình lơ mơ lên trên đó thở không được, mà đứa bé Tây Tạng còn đi chơi đá banh được nữa, mình đi nhẹ đã không thở được nữa.

Trong 1 làng chài, không phải ai cũng có khả năng lặn, họ chỉ cần 1 miếng mắm nhĩ(?) họ có thể lặn rất là sâu, đó gọi là mạng quyền.

Có những bà mẹ Việt Nam nắng mưa dầm dãi như vậy mà không bị bệnh. Đó là mạng quyền.

Trong đời sống tinh thần cũng vậy, tâm của mình là sự kết nối vô số sát na, thì thời gian tồn tại của mỗi sát na đó được duy trì bởi 1 cái gọi là mạng quyền.

4/ Ý quyền – là tâm.

Tâm là cái vô hình, nhưng các vị phải đồng ý với tôi không có tâm thì không có gì hết.

Bao nhiêu núi sông cây cỏ để mình nhìn ngắm, đi trên đó… nhưng nếu không có tâm thức chúng ta là những tượng đá. Thì vũ trụ có cũng bằng không.

Đó là chưa kể, không có tâm thức thì lấy gì mà thiện nghiệp, ác nghiệp ? Không có thiện ác thì không có chúng sinh. Không có chúng sinh thì vũ trụ này có cho ai?

Theo trong Kinh nói, cái vũ trụ này
  1. do nghiệp lực của chúng sinh tạo ra, 
  2. do tâm tánh của mình, 
  3. cộng với cái thiện ác 
tạo ra các môi trường sống khác nhau để thích hợp với cái tâm tánh, nghiệp thiện – ác.

06/09/2020 - 09:43 - Nguyenhuongbichhue

Ví dụ như có người không sống ở vùng đất này mà sống ở vùng đất khác, vì tại sao? Vì thằng Tèo nó phải sống ở vùng đất này nó mới khỏe mạnh, có làn da trắng vì nó có nghiệp sinh ra khỏe mạnh, cao lớn, làn da trắng, tóc phải vàng, mắt phải xanh. Còn thằng Tí cái nghiệp nó khiến nó phải sanh ra tóc quăn, môi dày, răng trắng bóc là tại sao? Tại cái nghiệp nó phải như vậy, mà nó muốn như vậy nó phải về Châu Phi nó sống. Mà dân Châu Phi là gì? Là làm biếng, lừ đừ, đói nghèo quanh năm, tính tình rất hung hãn, rất là bộ lạc, nói nôm na như vậy.

Có những chúng sanh do nghiệp, bây giờ sinh ra là loài ăn quả ăn củ, ăn rễ ăn hạt ăn sâu bọ, côn trùng. Có những loài do nghiệp sinh ra làm loài ăn thịt sống, uống máu tươi. Có loài sống trên cạn, có loài sống dưới biển, có loại sống trong sình, có loại sống trong nước, thân cây, củ, rễ, lá mục… hiểu không?

Chính vì cái tâm tánh và hạnh nghiệp thiện ác mà nó đưa mỗi người về 1 chỗ ở khác nhau. Đức Phật dạy rằng, nếu mà có 1 đấng nào đó tạo ra thế giới này, thì rất là lạnh lùng vì đã tạo ra 1 thế giới khổ nhiều vui ít. Như trong kinh lý giải, chính chúng ta là Thượng Đế thì hợp lý hơn, là bởi vì chính chúng ta đã tạo nên cái thế giới, chính tâm tánh của chúng ta đẩy chúng ta về môi trường hoàn toàn khác nhau. Chính chúng ta đã tạo ra máu lệ và nụ cười cho chính chúng ta.


Nghiệp - con gà có trước hay quả trứng có trước?

Có câu hỏi, mọi thứ do nghiệp mà ra, thì có kiếp sống đầu tiên hay không? Trong kinh Đức Phật có nói “Thế Tôn không có nói con gà có trước hay cái trứng có trước, nhưng muốn có trứng thì lấy gà mái kết hợp gà trống” Hiểu không? 

Chứ ngài nói cái nào có trước, 
  1. Mình có tin hay không? 
  2. Thứ hai, nó không có lý.
  3. Thứ 3, nói vậy vô ích, các con cần trứng phải không? Giờ ta chỉ cho cách có trứng ăn. Cái nào có trước, ta trả lời chỉ thỏa mãn cái óc tò mò của các con thôi. 
Ví dụ ngài biết đầu tiên là con gà có trước, thì 1 số người ưa ngài họ tin, còn số khác họ không tin, họ nói trứng có trước chứ. Rất là rắc rối. Nên ngài mới nói ta không có trả lời cái nào có trước, mà ta chỉ nói cho các con biết con đường nào có trứng gà mà thôi. Đó là gà mái + gà trống = trứng. 

Thứ 3, nói vậy vô ích, các con cần trứng phải không? Giờ ta chỉ cho cách có trứng ăn. Cái nào có trước, ta trả lời chỉ thỏa mãn cái óc tò mò của các con thôi. Những đứa không tin ta lập ra trường phái chống đối, phiền lắm, nhức đầu. Chư Phật không có làm chuyện thừa.

Nên hỏi chúng con luân hồi bao nhiêu lâu rồi, thì ngài không trả lời, ngài chỉ nói, 
  1. Do đam mê trong 6 trần nên các con có 6 căn . 
  2. Do có 6 căn nên các con có hình hài này. 
  3. Do có hình hài này nên các con tiếp tục sống bằng 6 trần, 
  4. Và cứ như thế các con đi hoài, đi hoài.
do đam mê trong 6 trần nên các con tiếp tục có 6 căn, và cứ như thế các con đi hoài, đi hoài.

Mà tu hành giải thoát là gì? Là nhận ra sự vô nghĩa trong đời sống, con không còn thích trong 6 trần cảnh nữa. Khi không thích nữa thì thành ra cây đèn cạn dầu . Cây đèn cạn dầu thì ngọn lửa tự nhiên tắt. Không cần tìm hiểu lửa tắt đi về đâu, chỉ cần tìm hiểu vì sao có ngọn lửa thì sẽ hiểu ngọn lửa đi về đâu. Nó đi về đâu là trở về nơi xuất phát. Như tiếng đàn có từ đâu, nó không có từ ngón tay, không có từ sợi dây đàn mà nó có từ sự ý muốn chơi đàn + ngón tay + sợi dây đàn. 3 thứ này cộng lại đè bật ra tiếng đàn. Khi 3 thứ này không kết hợp nhau nữa thì không có tiếng đàn. Ta không thể khờ dại cãi nhau cả buổi là tiếng đàn trốn trong dây, tiếng đàn trốn trong ngón tay… Ta không thể nói, lửa trong túi quần của thằng Tèo, mà phải nói là trong túi quần thằng Tèo có cái hộp quẹt mới chính xác. Lôi cái hộp quẹt ra cho cái viên đá bật quẹt vào cái bánh xe + gas/xăng khi đó mới có lửa. Khi những điều kiện này không kết hợp với nhau thì ngọn lửa không có mặt. Trong túi quần thằng Tèo chỉ có những điều kiện tạo ra lửa mà thôi.

Toàn bộ hạnh phúc đau khổ trong đời sống này nó cũng y chang như tiếng đàn và ngọn lửa mà thôi. Chúng ta chỉ có nước mắt hay nụ cười khi các điều kiện hội đủ. Tùy thuộc vào kiểu mà ta sống như thế nào, mà chúng ta đang tạo điều kiện cho nước mắt hoặc nụ cười tương lai.

Cho nên là không nên nói ở đó có tiếng đàn, ở đó có lửa, mà nói ở đó có điều kiện để bật ra tiếng đàn. Hạnh phúc và đau khổ vốn dĩ không có thật, chỉ có khi có những điều kiện tạo ra nó, khi 1 tí điều kiện bị mất đi chúng cũng không có mặt, chứ đừng nói là toàn bộ điều kiện bị thiếu. 

Do đó đời sống này Đức Phật nói rất là khổ vì sao? Vì nó lệ thuộc các điều kiện. 
  1. Sống với những thứ làm cho mình bực mình là khổ. 
  2. Sống mà phải xa những thứ làm cho mình dễ chịu cũng là khổ. 
  3. Dù sống sung sướng bằng trời mà bị lệ thuộc vào điều kiện cũng khổ. 
Tôi nói rồi, đêm nào cũng có người cho tôi ăn nhung, ăn yến hết trơn, mà khổ là vì phải có người mang đến cho tôi. Bữa nào nó quên mang đến 1 tuần tôi đói le lưỡi. Thì tôi thề cái nhà đó tôi không dám ở nữa. Nó thờ tôi như thờ ông nội nó, nhưng mà đói no của tôi là do nó quyết định. Hiểu không? Bữa nào nó thích nó mở điện đèn cho tôi xài, nó quên là tôi không có. Máy giặt máy sưởi, bếp núc này kia cũng vậy hết, nó nhớ thì tôi được xài, được hầu hạ sung sướng, nó quên thì tôi không có gì hết. Tôi bị lệ thuộc quá nhiều điều kiện. 

  1. Có trường hợp phải sống với đắng là khổ thì hiểu rồi, 
  2. không có vị ngọt là khổ rồi, 
  3. nhưng đời sống mà lệ thuộc các điều kiện cũng khổ không kém. Khổ lắm.
Có những người thích lấy chồng giàu, nhưng tiền bạc thì chồng le lưỡi đếm từng tờ mà phát. Bị kiểm soát rất kỹ. Thì nếu người đàn bà nào lấy chồng giàu mà rơi vào cảnh đó mà tiếp tục thích, thì tôi xin thành kính thương tiếc trong lúc tang gia bối rối, có gì sai sót xin được bỏ qua (cười). Tôi có con gái, gả vậy tôi không có ham.

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Hỗ Tương Duyên, Tương Ưng Duyên và Quyền Duyên (6-8)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=RZky6BgYVEA&abt=H%E1%BB%97+T%C6%B0%C6%A1ng%2C+T%C6%B0%C6%A1ng+%C6%AFng+v%C3%A0+Quy%E1%BB%81n+Duy%C3%AAn

Ở Việt Nam, tôi biết có 1 chuyện rất là đau lòng. Ông chồng chỉ cho tôi 1 đứa con mới 14 tuổi, ông nói không có nó thì ngày hôm nay tụi con không có gặp sư. Thì bà vợ hất cùi chỏ bà nói đừng nói kỳ lắm. Ổng nói không, kể cho Sư nghe. Ảnh là con trai út, trong gia đình ruộng bát ngát cò bay thẳng cánh, các anh các chị lấy vợ chồng đi hết, thì nguyên 1 đám đất giao hết cho ảnh. Cô này được lấy anh con trai út có ruộng bát ngát. Nhưng cô không có ngờ là mùa lúa 2 vợ chồng làm quần quật. Lúc bán lúa 1 lần mấy trăm ghe, mà lúc ghe cuối cùng về đến nơi là mẹ chồng đứng trên bến xòe tay lấy không còn 1 cắc. Chôm chôm sầu riêng, măng cụt ổi nhãn cam quýt, xem như bán mấy trăm ghe mà ghe về tới bến là bà xòe tay lấy không còn 1 cắc. Ở quê có mấy đám hỏi đám hỷ đám tang, mình đi mình phải có chút tiền, tiền không à. Tiền bạc bà nhẩm phải theo từng ký, tại mấy chục năm mà, mấy chục năm làm ruộng làm vườn bán mà mỗi lần bán mấy trăm ghe. Đi chợ bả le lưỡi liếm đếm từng cắc, mua phải đúng cái đó cho bà. Đi đám giỗ đám tang là phải vô xin bà, bà đếm bà đưa không có dư. Làm riết rồi cô dâu chịu không nổi, cô đòi về nhà cha mẹ ruột. Ông chồng nói em đi anh chết. Em đi anh phải đi theo. Mà anh đi thì ai lo cho má. Bà nói ngược, anh chết em chết theo. Tính đi tự tử, ra cái chòi ở ngoài rẫy, thì mới bước ra, cái thằng nhóc chạy theo, “Má, má đi chừng nào má về ?” Bà nói: “Chiều nhớ tắm cho em, mà đừng để em ra ngoài sông nghe .” Ông chồng nói: “Nhớ nghe lời nội .” Tự dưng nó nói: “Ba má đi đâu mà dặn nhiều quá vậy ?”. Chỉ 1 câu mà 2 vợ chồng quỳ xụp ôm đứa con. Mà quý vị tưởng đi, nó giàu như thế đó, giàu bằng trời như vậy mà các vị tưởng tượng. Cho nên đời sống đắng quá sống không nổi, mà cái ngọt bị mất quá sống cũng không nổi. Mà sự lệ thuộc các điều kiện, tuy vàng son bằng trời, mà lệ thuộc điều kiện nhiều quá. Có trường hợp chồng cưng lắm, mà bị cái ông chồng ghen. Thằng xích lô mà chở về, cái mặt nó hơi đẹp là phiền lắm, hỏi thiếu gì thằng sao kêu thằng đó.

07/09/2020 - 01:37 - Nguyenhuongbichhue

Muốn ăn thịt rồng thì ra biển bắt rồng cho ăn, cưng lắm. Mà vừa ăn thịt rồng vừa hỏi lúc tôi đi bắt rồng, ở nhà có nói chuyện với ai không? Quý vị ăn được thịt rồng không chứ tui là tui không ăn được. Thương thì ghen là chuyện bình thường, nhưng nhiều quá chịu không nổi.

Cái khổ trong đời này đến từ 3 điều đó thôi quý vị.

Đức Phật nói nước mắt và nụ cười đều là khổ. Nước mắt khổ là đúng, nụ cười vì sao nó khổ? Vì để đi tìm nụ cười là khổ, tìm được rồi phải giữ, giữ không được thì khổ banh xác. Cái thứ 3 là sự lệ thuộc có điều kiện. Sự lệ thuộc dễ sợ lắm, thà rằng ăn dĩa muối rang còn hơn ăn bạc ăn vàng vừa khóc vừa ăn. Hồi nhỏ tôi không hiểu bây giờ tôi thấy nó đúng. Vàng son chói rọi mà không được tự do. Nhưng nếu được tự do mà không có tự do cũng khó sống. Cho nên ngài dạy đời là bể khổ, qua được bể khổ là qua đời (cười)

5/ 5 quyền tâm linh: tín tấn niệm định tuệ.

Đây là 5 quyền tâm linh. 5 cái này quan trọng theo 1 hướng khác. Mỗi 1 vũ trụ gồm 1 mặt trăng, 1 mặt trời, 1 venus… 

  1. Mỗi một vũ trụ như vậy là 1 trái lựu. 
  2. Mỗi trái lựu có 24 hột, 
  3. Mỗi hột là 1 cõi, 
  4. 24 hột ấy được chia làm 3 tầng, 
  • tầng thấp nhất là dục giới, 
  • tầng thứ 2 là sắc giới, 
  • thứ 3 là vô sắc.
Tầng dục giới các chúng sinh ở đó sống chết buồn vui với 5 thứ vật chất. Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm.

Tầng thứ 2 dành cho chúng sanh chán không thích vật chất, ăn rồi ngồi thiền thôi. Hào quang xẹt chiếu ra.

Tầng thứ 3 là chán luôn 3 vụ hào quang đó, nó không muốn hình danh sắc tướng. Nó phải chán được tầng thứ nhất mới lên tầng 2, chán tầng 2 mới lên tầng thứ 3.

Đó là chúng sanh đam mê trong dục, trong sắc, vô sắc. 

Ba nhóm này lâu lâu mới lòi ra 1 người nhận thấy ba cái này là tào lao, thì người đó được gọi là Bồ Tát. Lâu lâu lọt ra người thấy giàu lắm cũng hũ mắm với dưa, giàu vừa vừa cũng dưa với mắm, nó lặp hoài. Thì người đó tu cái hạnh lành thì gọi là Bồ Tát. Ngày càng tu cái hạnh lành để mình được tốt hơn, trong chục ông mới có 1 ông sinh ra nhớ tiếp để mà tu tập, mấy ông kia cũng có kiếp trước tu sung sung lắm, mà kiếp này quên sạch rồi. Có 1 ông đó đi suốt quãng đường để thành Phật. Khi công đức tu hành đến nơi đến chốn, người đó gọi là Phật. Cái gì ổng cũng biết, ai ổng cũng thương và đức lành nào cũng có. Nhưng ổng không phải cái gì ghê gớm, bởi ổng cũng già, bệnh, chết. Tiếp tục mấy ông còn lại tu hành đủ duyên, tiếp tục thành Phật nữa. 

Thành Phật để đi dạy cái đám còn lại là các con cũng chỉ ở trong trái lựu thôi. Đứa nào nghe lời thì nó đi ra, đứa nào không nghe lời nó tiếp tục ở trong trái lựu đó nữa.

Phật trong Phật Giáo Nguyên Thủy không có gì ghê gớm như người ta nghĩ là ngài bất tử, trường sanh… Ngài chỉ là người trải qua nhiều kiếp để Ngài có hạnh lành và Ngài có trí tuệ. Rồi Ngài cũng bệnh, già, chết. Rồi Ngài ra đi không để lại dấu vết gì hết. Không phải Ngài đến 1 cõi gì đó ghê gớm, cung vàng điện ngọc. Không phải! Không đủ duyên thì ngọn lửa nó tắt. Cái duyên sanh tử, điều kiện sanh tử nó hết thì Ngài bùm. Nói nôm na như vậy đi.

Tại sao tín tấn niệm định tuệ quan trọng, nó là 5 quyền tinh thần, 5 cái thần kinh hồi nãy là 5 quyền vật chất. 

Quan trọng vì ở trên 3 cái tầng kể trên, ai mà có cái này thì người đó sẽ cao hơn người khác 1 cái đầu. Nghĩa là họ thấy được cái mà người khác không thấy, họ có được những cái mà người khác không có. Ta biết bố thí, trì giới, phục vụ, bao dung, tha thứ, yêu thương … tùm lum hết. Ta chết ta sanh tại chỗ có điều kiện tốt hơn. Nếu 5 cái này được tu tập ngon hơn nữa, nó lên tầng 2, rồi tầng 3. Nếu nó tu tập ngon nữa thì ok. Nếu không hết tuổi thọ ở tầng 3 nó không phát triển nữa thì nó tiếp tục luân hồi.

Thứ nhất là tín quyền, là niềm tin y cứ trên trí tuệ. Nghĩa là tin cái gì đó có cũng phải căn cứ theo cơ sở trí tuệ, tin là không cũng trên cơ sở trí tuệ.

Thứ hai là tấn quyền, là sự nỗ lực trong điều thiện trong việc lành. Còn siêng năng mà làm chuyện ác hại đời thì không gọi là tấn quyền.

Làm ơn tôi lạy quý vị tách Đức Phật ra khỏi bầu không khí tín ngưỡng dùm. Lúc đó Đức Phật như mặt trời, mặt trăng, tinh khôi sáng ngời. Ngay cả 1 người Cơ Đốc muốn tìm hiểu, tách Chúa ra khỏi màn sương mờ ảo của thứ nhận thức nhân gian. Đó là sự ra đời của các nhà thần học,họ giải thích Chúa ở nhiều góc độ, nó nhân bản hơn, gần gũi hơn. Chứ mình bao bọc bởi hào quang mờ ảo thì mình làm Chúa xa lạ với dân gian.  Đó là cái gốc của chữ Dark Ages, từ chữ Dark Ages mới ra từ … 

(1:51:28) 

Dark Ages là thời kỳ đen tối của Trung Cổ. Thời kỳ đó là thời kỳ niềm tin Cơ đốc bao trùm toàn cõi châu Âu. Các vị vua muốn lên ngôi phải đến quỳ lạy Giáo Hoàng xin được cầu phong. Lúc đó Giáo Hoàng mạnh lắm, nên người ta tha hồ thao túng. Nó có những giải thích sai lệch về Chúa. Những người yêu Chúa họ thấy khó chịu . Đó là lý do ra đời các nhà thần học. Họ giải thích lại Kinh Thánh. Anh phải hiểu Chúa như thế nào anh mới sống đúng, anh sống theo sự hướng dẫn của Giáo Hội . Thời điểm Giáo Hội có dính mùi chính trị trong đó. Lời Phật hay lời Chúa mà dính chính trị nó làm hỏng đi. Phật giáo mà qua mấy vị chống Cộng thuyết pháp, nghe giống như có mùi thuốc súng ở trong. Đừng nghe Chúa Phật theo sự hướng dẫn có ý đồ. Chúng ta có nhiều cách để nói cho nhau nghe về đóa hoa lan, cách của bà bán hoa nghe có mùi tiền trong đó, bà nói về lan mà không còn về lan nữa. Muốn nghe lan cần kiếm người yêu lan, chơi lan, hiểu biết về lan, nói bằng tấm lòng yêu lan thì mình cũng yêu lan, thích trồng lan. May là lan thôi á, chứ đừng nói Phật, Chúa qua mấy tay trung gian thì kỳ lắm.

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Hỗ Tương Duyên, Tương Ưng Duyên và Quyền Duyên (7-8)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=RZky6BgYVEA&abt=H%E1%BB%97+T%C6%B0%C6%A1ng%2C+T%C6%B0%C6%A1ng+%C6%AFng+v%C3%A0+Quy%E1%BB%81n+Duy%C3%AAn

Tín -- Niềm tin trong Đạo Phật 

Niềm tin trong Đạo Phật là gì ?  
  1. Là tin vào cái có – cái không trên cơ sở của trí tuệ. 
  2. Thứ 2 là sự siêng năng trong việc lành, thiện. Làm thiện là những gì mang ý nghĩa giúp đời giúp người. 
Còn tôi ghét nhất những thứ nhân danh to lắm, ví như cái này là bảo vệ chánh pháp, bảo vệ giáo hội…là không. Cái đó không là cái cớ để gọi nó là cái thiện. Thiện là lợi ích nhắm đến chúng sanh, chứ nó mắc mớ gì đến Thánh cha, Tòa Thánh, đến ông thầy tu, thầy chùa, Phật giáo ? Đó là nhãn hiệu, label. Sư phụ đó là vậy, sư phụ kia là vậy, là sai.

08/09/2020 - 10:52 - Nguyenhuongbichhue

Tấn -- Tinh Tấn thờ Phật

Mình thờ Phật chứ không có thờ tổ. Tinh tấn ở đây là tinh tấn trong điều thiện, điều lành.

Niệm -- Sống tỉnh thức, làm gì biết nấy

- Niệm là đời sống tỉnh thức. Tỉnh thức tức là làm gì thì biết làm đấy. Tỉnh thức là khả năng kịp thời nhận ra cái gì đang xảy ra, vừa xảy ra. Ví dụ như mình đang đặt chân vào bụi cỏ, mà mình không biết trong bụi cỏ có mảnh chai, kẽm gai hay có rắn hay không. Nhưng bất đắc dĩ mình phải để chân lên đó thì mình để chân với tất cả sự cẩn thận đúng không ta. Sự cẩn thận đó được gọi là niệm. Ban đêm nó tối thui, mà mình mở cửa mình mò đi vậy nè, cái đó gọi là niệm. Là mình đi với tất cả sự thận trọng, thì sự thận trọng là niệm.


Định --  Tập Trung Tư Tưởng

- Định là khả năng tập trung tư tưởng. Khuynh hướng của chúng ta là buông cái này bắt cái kia. Thông minh trong ngôn ngữ tiếng Việt là một chữ khó định nghĩa, thằng đó nói hiểu liền cũng là thông minh, thằng đó nghe qua 1 lần là nhớ cũng là thông minh. 

Trong  A tỳ đàm không đồng ý cái đó:
  1. Cái thằng nhớ giỏi là do niệm nó mạnh, định nó mạnh. 
  2. Hiểu nhanh, hiểu sâu là do trí nó mạnh. 
Nên mình phải hiểu định sinh trí. 

Muốn giải bài toán khó thì phải định tâm dễ sợ luôn. Mình cứ kêu là trí, thực ra nó là định. 

Trí là khả năng suy lý .

Còn làm toán nhiều khi chỉ là kết hợp các nguyên tắc, công thức, và nó giữ được mối liên lạc, sự tính toán trong lúc nó làm việc với mấy con số. 

Ở bên Tàu có chuyện thằng đó nó mồ côi, mà nó khùng khùng, dở hơi. Nó đi lang thang đầu đường xó chợ mà mặt mũi sáng láng, hiền lắm. Có ông nhà giàu mới mang nó về làm tiểu đồng nuôi cơm cho nó, đặt tên cho nó là A Tú. Nói gì nó làm y chang như vậy, mà nó ngoan hiền. Ông chủ vẽ tranh rất là đẹp. Ông kêu dọn bàn cho ông vẽ là nó dọn bàn, đốt trầm, đem giá vẽ, để nghiên mực… Xong ông ngồi ông vẽ. Nó hầu ông được dăm ba tháng thì sắp Tết, ông mới vẽ bông mai tặng bạn . Nó đứng kế bên nó nói chưa giống lắm . Ông mới ngạc nhiên nói mày thì biết cái gì, ông vẽ tiếp, ông vẽ nhánh mai bên dưới có hồ nước, có con vịt, nó đứng cạnh kêu con vịt này là con vịt chết, không phải vịt sống. Ông ngạc nhiên hỏi mày biết cái gì, mày vẽ được không, nó dùng mực điểm 1 vết là con vịt nó sống động. Ông nghĩ bụng đào tạo thằng này vẽ được . Đúng thiệt . Sau này nó trở thành 1 danh họa. Nó chỉ được khả năng đó thôi, ngoài ra nó trớt quớt. 

Nhiều người có khả năng ngoại ngữ, 15-17 thứ tiếng nhưng ngoài cái đó ra, thay áo họ cũng không rành. Cách đây không lâu, tôi đọc 1 bài báo người Mỹ có anh thanh niên 17 tuổi đánh răng mà mẹ đánh dùm, kể cả thay quần áo. Anh đi đứng ngon lành, nhưng chả hiểu sao lấy được cái quần ra, rồi cứ loay hoay hoài. Mà ngẫu nhiên ba má phát hiện ra anh biết mười mấy thứ tiếng, biết rất giỏi, rất tinh tường, biết như người bản xứ có học. Mà tất cả các khả năng khác là anh đơ hết. 

Tôi cũng biết 1 thằng bé nữa người Việt Nam, nó học rất là giỏi, năm nó học lớp 6 bài vở lớp 9 không là gì với nó hết. Năm lớp 9 xem bài vở lớp 12 không là gì hết. Nhưng nó lạ lắm, nó không có cái dây thần kinh dơ sạch. Nó mang vớ đi từ ngoài sân, ngoài ngõ lên giường chỉ có 1 đôi đó thôi. Một điều lạ nữa là nó đói bụng mà mẹ nó đang làm bếp, nói lấy ăn đi con, thì nó dòm nào rau, nào trứng, chả, cơm, nó không biết kết hợp lại. Trên trời dưới đất thiên văn địa lý gì biết hết, mà cái tội không biết dơ sạch. Bây giờ nó lớn rồi, nó sạch hơn ngày xưa rồi. 

Tại sao tôi đánh 1 cái vòng rộng như vậy ? 
  1. là coi chừng mình không phân biệt được cái định và cái trí.
  2. Cái thứ 2, tôi phải phân tích tới nơi như vậy để các vị thấy cái định nó quan trọng đến mức mà nó gần giống như trí vậy đó. 
Chúng ta cái đầu óc này mà không có định là giống như nắng mặt trời mà không có khả năng gom lại, người không có định thì trí tuệ không làm việc. Người đó khôn bằng trời, nhưng không có khả năng tập trung tư tưởng thì không làm ăn được gì hết. Còn không có niệm thì nguy hiểm cực kỳ, vì mình không biết cái gì đang xảy ra, còn định là khả năng tập trung tư tưởng. Mấy cái này vô cùng quan trọng.

Định có được từ 2 nguồn: 
1/ do công việc mà có: Là có những công việc buộc chúng ta phải tập trung tư tưởng, lâu rồi nó quen. Định do công việc chỉ giúp mình có được thói quen tốt
2/ do tu tập mà có: do tu tập thiền định thì cho mình nhiều khả năng lắm:
  1. khả năng tư tưởng rất tốt, 
  2. giảm bớt phiền não, 
  3. tăng cường khả năng an lạc, tăng cường khả năng trí tuệ. 
Tuệ: khả năng phân biệt được cái gì nên và không nên. 

- Tuệ là khả năng phân biệt được cái gì nên và không nên. Chỗ này phải là cái gì, không nên là cái gì. Gọi là khả năng biện biệt. Khả năng này giúp đánh giá, chọn lọc và nhận xét, gọi chung là trí tuệ. Người bình thường trí tuệ chênh lệch nhau rất là nhiều, vì trí tuệ của chúng ta có từ 3 nguồn.

Tuệ có 3 nguồn. 
  1. Văn – nghe đọc học từ người khác. 
  2. – khả năng thấm thía tiêu hóa thông qua sự suy nghĩ, cân nhắc. Bà con đi học Phật Pháp có trí văn, còn trí tư có hay không tôi không biết, bởi học nghe thì hiểu lơ mơ, còn về không nhớ ông dạy mình cái gì. 
  3. Tu – trí tuệ có được từ công phu thiền định hay thiền tuệ. Người tu thiền định, thường có trí tuệ sâu rộng sắc bén, nhanh nhạy hơn người bình thường (nhờ sự hỗ trợ của sự tập trung tư tưởng, tức định quyền). Người tu tập thiền tuệ, tức tứ niệm xứ cũng thường có trí tuệ sâu rộng sắc bén, nhanh nhạy nhờ vào sự hỗ trợ của chánh niệm (niệm quyền). 
Giờ mới thấy định với niệm quan trọng đúng không.

  1. Người ở cõi dục có được 5 quyền này, mới có điều kiện tâm lý để sống thiện và an lạc hơn người. 
  2. Ở mức độ cao hơn, nhờ 5 quyền này người ở cõi dục giới sanh về phạm thiên. 
  3. Ở người có đủ đức duyên giải thoát, thì cũng chính 5 quyền này là điều kiện giúp họ chiến thắng. 
Chính 5 quyền này cấu tạo nên 3 cõi, nói cách khác là nó cấu tạo nên vũ trụ và chúng sanh.

- 2:16:00

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Hỗ Tương Duyên, Tương Ưng Duyên và Quyền Duyên (8-8)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=RZky6BgYVEA&abt=H%E1%BB%97+T%C6%B0%C6%A1ng%2C+T%C6%B0%C6%A1ng+%C6%AFng+v%C3%A0+Quy%E1%BB%81n+Duy%C3%AAn


- 2:16:00
09/09/2020 - 10:21 - Nguyenhuongbichhue

Nếu bà con có 5 cái này, bà con đâu cần ở cõi dục. Nếu còn kẹt ở cõi dục thì bà con ngồi trên đầu thiên hạ. Ở cõi dục mà có 5 cái này bà con tha hồ làm lành, vì làm lành là mình làm bằng 5 cái này nè. Bố thí, trì giới, hành thiền, kham nhẫn, bao dung, yêu thương, cảm thông, tha thứ… 5 ông này có đủ là bao nhiêu hạnh lành nó dồn hết vô. Bồ tất Tất Đạt dưới gốc bồ đề cũng nhờ 5 ông này này. Sau này Phật Di Lạc cũng nhờ 5 ông này, Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Anan, Ngài Ca Diếp cũng nhờ 5 ông này. Mà hôm nay quý vị có 5 ông này quý vị mới ngồi ở đây, tôi cũng có 5 ông này tôi mới ngồi ở đây. Nếu không giờ nó đi tùm lum ở đâu mình không có biết. 
  1. Thứ nhất chưa chắc mình được mang thân người,
  2. thứ hai là nó đi tùm lum câu cá, săn bắn, đánh bài, nhảy đầm…
Nên 5 ông này được gọi là 5 pháp chủ đạo.

22 quyền mình học được có mấy quyền à. Các vị muốn học phớt phớt mà học nhiều hay học ít mà sâu? Học phớt phớt thì đọc sách được. Mấy ngày nay tôi giảng mấy đề tài, mà nếu không có người hướng dẫn quý vị không ngờ nó sâu như vậy. Còn nếu phớt phớt không có ngờ. 

Ở đây nói thẳng luôn, quý vị biết khí công không? Nếu không có thầy nói thì tôi hiểu theo nghĩa là mình cứ quơ quơ cơ bắp nó khỏe à. Nhưng khi tôi gặp 1 ông khí công, tôi mới biết tôi cần cái hiểu biết về khí công thật nhiều, nó không đơn giản là cứ quơ quơ cho khỏe. Nếu cứ quơ quơ người ta cần gì tập mười mấy hai chục năm ? Thầy bà sách vở tùm lum. 

Thuốc nam cũng vậy, mình cứ tưởng bài nào hay hay mình ghi vô, thời gian được nghiên cứu cuốn thuốc nam. Nó không phải như vậy. Cây này nó giúp cho cái gì này, ghi vô. Nếu đơn giản như vậy thì đâu có thầy thuốc nam. Khi mình đào sâu vô, mình mới biết cái biết của mình là ít. Cho nên người ta mới nói học nhiều để thấy mình dốt là vậy đó, để mình biết mình thiếu cái gì, thì mình biết đường bổ sung. Đi bác sĩ để biết mình có bệnh hay không, chứ không phải đi bác sĩ để xem mình có khỏe hay không. Vì tôi không tự tin lắm tôi mới đi gặp bác sĩ xem có bệnh hay không, chứ mắc chứng gì tôi đi xem tôi khỏe hay không.

Tu có 2 mục đích, 
  1. tu để chứng thánh và 
  2. tu để không còn là phàm. 
Nghe thì giống giống mà khác nhau ghê gớm lắm. Tu không còn là phàm quan trọng hơn vì tại sao? Tại mình biết phàm mặt mũi nó ra nó làm sao. Cho nên thấy phàm cầm giục ra. Còn tu thành thánh, thì không biết mặt mũi thánh ra làm sao. Nên mình thấy ngộ ngộ, mình tưởng là thánh. Cho nên càng tu càng thấy ghét, tự mình hiểu lầm, đi đứng khác đi, lập dị… Tôi thấy tôi còn nhỏ mọn, toan tính, mê gái, mê trai, mê tiền, mê danh, mê lợi, thích khen, sợ chê, ham sướng sợ khổ, ham sống sợ chết… tôi biết liền. Còn đàng này...

5 thứ cảm thọ thân tâm 

Tiếp theo, 5 thứ cảm thọ. Ôn lại, đầu tiên 5 quyền vật chất, tiếp theo 2 sắc tố nam nữ, mạng quyền, ý quyền, 5 quyền tinh thần. Rồi tiếp theo 5 cảm thọ thân tâm. 

Phải học để biết tại sao 22 cái này là thành phần chủ đạo: 
  1. khổ thân, 
  2. khổ tâm (ưu), 
  3. sướng thân (lạc), 
  4. vui lòng (hỷ), 
  5. cảm giác hờ hững không buồn vui (xả).  
Lý do và điều kiện sướng khổ buồn vui của mỗi chúng sinh không hề giống nhau. Tùy phước duyên và trình độ nhận thức mà mỗi người thích cái gì, thích thế nào, ghét cái gì và ghét thế nào. 
  1. Chúng sanh cõi dục thì buồn vui sướng khổ trên cơ sở vật chất. 
  2. Chúng sanh ở các cõi thiền định thì không còn buồn khổ, chỉ còn vui sướng, nhưng không trên cơ sở vật chất mà trên nền tảng của thiền định. 
Như vậy chỉ cần nhìn vào đời sống cảm thọ của chúng sanh, thì chúng ta có thể biết họ thuộc tầng lớp nào, và vì sao mà họ lại như vậy? Vì anh thích cái đó, anh ghét cái đó mới ra con người đó. 

Nói thế có thể hiểu rằng cảm thọ là 1 thành tố quan trọng cấu tạo nên vũ trụ. 

Các vị phải đồng ý với tôi, cái gì làm cho các vị vui, buồn. Chính cái đó mới khiến quý vị có nghề nghiệp khác nhau. Nhiều người nắng thấy mồ mà bận bộ đồ nực, chỉ vì họ thấy đẹp. Có nhiều người lạnh le lưỡi, mà mặc bồ đồ mỏng manh, gợi cảm chỉ vì nó thích đẹp. Tôi chỉ cần 1 cái nùi dẻ miễn nó ấm là được. 

Chỉ vì thích hay không thích mà nó làm khổ mình. Thì tôi muốn nói thế giới cảm xúc quan trọng lắm, chính nó đẩy mình vào những tình thế cực như điên. Tôi chỉ cần ấm thôi, còn nhiều người mặc áo cần phải sành điệu. 

Ở Đức dạy con rất hay, không có thời tiết xấu, chỉ có áo quần đúng và đủ hay không. Câu đó là triết học chứ không phải bình thường. Cho nên tôi đánh giá 1 người thông qua anh thích cái gì, cái gì làm cho anh vui, cái gì làm cho anh bực. Tây nó có 1 câu rất hay. Giá trị, bản lãnh 1 người nó tương đương cái gì làm cho anh ta vui và anh ta bực. Mình tưởng mình là tiến sĩ, bác sĩ… chỉ cần túi rác bà hàng xóm quăng qua đã làm cho ông tiến sĩ khó chịu.Chỉ vì 1 người đàn bà la lối mà tiến sĩ phải giận là dỏm. Một nhà sư tu mấy chục năm, mà phải giận bởi cái chuyện tào lao là dỏm. Mặc dù 1 nhà sư khả kính bằng trời, khi đi bát phải có khả năng trân trọng tấm lòng của người khác. Nhưng để làm cho sư đó vui hay buồn thì chuyện khác. 

Người tu hành đúng mức có thể tôn trọng từng trái bắp củ khoai, nhưng núi đổ lên người thì coi như chỉ là đắp mền. Cái giá trị nhà sư tương đương cái gì làm ông vui, ông buồn. Nên trong Kinh nói một cái lễ phẩm, 1 bao thơ nhỏ xíu đủ làm ông sư ông vui thì coi chừng ông chỉ bằng 1 bao thơ đó thui. Nói nghe rất là nặng, nhưng nó là sự thật. Một người con gái có nết có hạnh, không thể chỉ vì cái túi Vichy mà đi ngủ với người lạ để mua. Rất nhiều sinh viên Việt Nam, người mẫu Việt Nam chỉ vì túi Chanel mà tình 1 đêm với ai đó, thì giá trị họ chỉ tương đương cái túi 5k đó thôi.

Cho nên 5 cảm giác vô cùng giá trị. Vì giá trị của mỗi chúng sanh là tùy thuộc cái chuyện gì làm cho anh đau khổ, cái gì làm cho anh thấy vui. 

Tại sao phải học giáo lý ?

Tại sao phải học giáo lý, vì nó giúp mình phanh phui những thứ tưởng bình thường. Ví dụ như mấy trạm y tế bên châu Phi, nó treo 1 băng rôn lớn thế này: Có 2 việc miễn phí cứu mạng nhiều người nhưng thường bị lãng quên, đó là rửa tay và uống nước. Nhờ mình tiếp xúc với mấy người đó mình mới biết những chuyện thường như vậy mà nó quan trọng như vậy. Mình hay bị định kiến như thế này: cái gì thường thấy thì cho là chuyện bình thường, mà bình thường mình nghĩ nó là tầm thường, tầm thường có nghĩa mình gạt nó qua một bên. Đây là nhận thức sai bét. 

  1. Thường thấy là bình thường là đúng. 
  2. Nhưng bình thường không hề giống tầm thường. 
  3. Mà nếu không tầm thường thì đừng có coi thường, 
  4. mặc dù cuộc đời là vô thường.
Như vậy 5 cảm giác này nó không đơn giản là 5 cái feeling, emotion, mà nó chính là 5 thành tố cấu tạo vũ trụ. Đã nói rồi. Cái gì làm cho thằng Tèo nó vui thì nó cấu tạo nên cuộc đời thằng Tèo. Nó lớn chuyện như vậy, hồi giờ mình tưởng nó thích thì kệ nó. Cái mà thằng Tèo nó thích, nó ghét nó đẩy thằng Tèo đến cuộc đời hôm nay. Do đó 5 cái này vô cùng quan trọng. Anh thích cái gì anh đi kiếm nó, anh ghét cái gì anh đi né nó, mà đâu phải muốn né là né, anh phải tìm mọi cách để né đúng không. Cũng vì ánh mắt đó cũng đủ làm cho mình vui. Mình cõng nó về cho nên hôm nay mình khóc mấy chục năm.

Cuối cùng là khả năng nhận thức của chúng sanh.

2:42:26

10/09/2020 - 01:19 - Nguyenhuongbichhue

Khả năng nhận thức của chúng sanh (trí tuệ)

Cuối cùng là khả năng nhận thức của chúng sanh (trí tuệ). Quý vị không học quý vị rất là ngạc nhiên tại sao trí tuệ là 1 phần cấu tạo nên vũ trụ.

  1. Là do vô minh trong 4 đế nên mới tạo các nghiệp thiện ác, 
  2. do tạo các nghiệp thiện ác nên đầu thai các cõi, 
  3. vì có người đầu thai nên mới có các cõi.
Cái thứ 2 do có trí trong 4 đế nên người ta không tạo các nghiệp thiện ác, nên họ không có chỗ đầu thai, không có đứa đầu thai thì cõi làm gì có. Không có cõi thì không có đất đá núi, sông, kênh rạch, ao hồ, nhà cửa...

Câu vô minh trong 4 đế tôi nhắc hoài mà quý vị coi thường. Chứ cái này xài nhiều, tôi nói cho mà biết khi quý vị đi tu tứ niệm xứ. Khi ngồi mà thấy mát lạnh thích thích thì phải nhớ cái này, còn thích trong khổ là còn khổ . 

Ngồi thiền mà nghe người ta khen, mình thích, ngay lúc thích nhớ liền cái gì cũng là khổ, người khen là khổ, người được khen là khổ, ngồi thiền muỗi cắn biết là khổ, gió mát lạnh thổi vô biết là khổ vì lát nữa nó bị mất là khổ. Nó là bài quyền căn bản của Phật giáo. Xài mọi nơi, một người giữ giới, một người bố thí, thiền định, học giáo lý hay bất cứ cái gì thì định nghĩa 4 đế là trùm hết.

Đây là lý do bài pháp đầu tiên của Đức Phật là giảng về 4 đế. Các vị phải học triết lý 1 lúc quý vị mới thấy biết nhiều là hay nhưng không biết connect những cái đã biết. Ví dụ như mua gạch đá xi măng ai cũng biết mua, nhưng dựng lên cái nhà thì hơi hiếm người biết, quý vị phải là thợ hồ, kiến trúc sư.

Khả năng nhận thức ở đây bao gồm 2 thứ trí tuệ là 
  1. phàm trí và 
  2. thánh trí. 
Phàm trí có 2 trường hợp là 
  1. trí biết lý nhân quả để làm lành lánh dữ, và 
  2. trí biết lý tam tướng, trí hiểu lý tam tướng để nhàm chán sinh tử, cầu đạo bồ đề.
Thánh trí cũng gồm có 2, là 
  1. trí hiểu lý nhân quả để thấy cái gì cũng do các duyên cấu tạo, và 
  2. trí hiểu lý tam tướng để cắt đứt phiền não.
2 loại thánh trí được chia làm 3 cấp độ. 
  1. Số 1 là vị tri quyền, là trí sơ quả tu đà hườn, thấy được tứ đế (tức 2 điều vừa nói trên: lý nhân quả và tam tướng) ở mức độ thánh nhân lần đầu tiên. Cái thấy đó đủ mạnh để giúp vị này chấm dứt vĩnh viễn thân kiến và hoài nghi, đồng thời khiến khả năng luân hồi chỉ còn có thể kéo dài trong 7 kiếp.
  2. Số 2: dĩ tri quyền. Là trí tuệ của 2 tầng thánh giữa (Tư đà hàm – A na hàm), tiếp tục thấy lại 2 điều trên với sự thuần thục của 1 người làm lại điều mình đã làm, thấy lại lần nữa điều mình đã thấy.
  3. Số 3: cụ tri quyền. Là trí tuệ La hán, nhận biết rốt ráo 4 đế, không còn sót 1 góc khuất nào và do vậy chấm dứt vĩnh viễn tất cả phiền não, không còn tái sinh thêm 1 kiếp nào nữa.
Sở dĩ nói trí tuệ là chất liệu cấu tạo của vũ trụ, là bởi vì toàn bộ tất cả vũ trụ có được là do sự thiếu vắng trí tuệ trong 4 đế, thánh trí có được lúc nào thì mình sẽ lìa bỏ vũ trụ lúc đó.

(Hết)

Reply
NGHIỆP BÁO 

Hòa thượng Silānanda giảng
Sư Khánh Hỷ soạn dịch
https://thuvienhoasen.org/a32411/nghiep-bao


[Image: u-silananda.jpg]


Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo; bởi vì luật Nghiệp Báo đã giải thích cho họ thấy rõ lý do của sự bất đồng của các cá nhân trong xã hội con người, đồng thời cũng giải thích cho họ biết tại sao những người rất tốt trên cõi đời này lại gặp cảnh đau khổ.
Tôi có quen một người Ý Đại Lợi. Người này rất băn khoăn thắc mắc về vấn đề bất đồng của các cá nhân trong xã hội. Ông ta suy nghĩ về vấn đề này rất nhiều. Ông tìm hỏi nhiều người về vấn đề này, nhưng không tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Một ngày nọ ông đọc được một cuốn sách về Phật Giáo trong đó có nói đến luật Nghiệp Báo. Khi đọc về luật Nghiệp Báo ông ta rất thỏa mãn với những lời giải thích của luật Nghiệp Báo. Ông quyết định tìm hiểu thêm về đạo Phật. Ông sang Á Châu trở thành một nhà sư, và mất ở tuổi tám mươi. Luật Nghiệp Báo là động lực đầu tiên khiến ông trở thành một nhà sư Phật Giáo.

Bài giảng về Nghiệp Báo hôm nay căn cứ vào Kinh Cūlakamma Bhanga trong Trung Bộ Kinh. Đây là bài kinh Đức Phật giảng cho chàng thanh niên Bà La Môn Subha.

Chàng thanh niên Bà la Môn Subha hỏi Đức Phật:
1. Tại sao có người chết yểu, có người sống lâu?
2. Tại sao có những người thường hay bị bịnh, có những người đầy đủ sức khỏe?
3. Tại sao có những người mặt mày xấu xí, có những người đẹp đẽ?
4. Tại sao có những người cô thế, có người đầy quyền uy.
5. Tại sao có người nghèo nàn đói khổ, có người giàu sang sung túc?
6. Tại sao có người sinh ra trong gia đình thấp kém, hạ liệt, trong giai cấp bần cùng, có người sinh ra trong gia đình quuyền quí, trong giai cấp cao sang?
7. Tại sao có người ngu dốt (những người thiếu trí tuệ), có người thông minh?

Đức Phật đã trả lời cho Subha một cách ngắn gọn về mười bốn hạng người trên. Đức Phật nói:
Này người thanh niên. Chúng sinh có Nghiệp là tài sản của mình. Chúng sinh là kẻ thừa tự của Nghiệp của mình. Chúng sinh có nguồn gốc từ Nghiệp của mình. Chúng sinh sinh ra từ Nghiệp của mình hay chúng sinh là thân bằng quyến thuộc của Nghiệp mà mình đã tạo. Chúng sinh có Nghiệp là nơi nương nhờ. Do Nghiệp mà có sự khác nhau giữa các chúng sinh hay Nghiệp đã tạo ra sự khác nhau giữa chúng sinh, Nghiệp đã tạo ra sự khác nhau giữa người và người.”

Đức Phật đã trả lời cho Subha một cách ngắn gọn như vậy.
Subha bạch với Đức Phật rằng anh ta không hiểu rõ những lời giải thích ngắn gọn của Đức Phật. Subha nói:
Bạch Ngài, con không hiểu rõ những lời giải thích ngắn gọn của Ngài. Xin Ngài giảng giải rộng rãi, nhiều chi tiết hơn.”


Đức Phật bèn giảng giải cho Subha nhiều chi tiết hơn. Sở dĩ Đức Phật trả lời cho Subha một cách ngắn gọn như vậy bởi vì Ngài biết rằng Subha là một người đầy cao ngạo. Subha nghĩ rằng mình là người thông minh sáng láng có thể hiểu tất cả những gì Đức Phật dạy dầu đó là những lời ngắn gọn. Đức Phật muốn làm cho tâm cao ngạo của Subha giảm xuống để Subha có thể khiêm nhường nghe những lời giảng giải của Ngài nên Đức Phật chỉ trả lời một cách ngắn gọn. Khi Subha thỉnh cầu Đức Phật giảng giải chi tiết, Đức Phật mới giảng giải chi tiết cho ông ta.


Mặc dầu, những câu hỏi này được Subha hỏi, nhưng đây là những câu hỏi thường được mọi người thắc mắc và muốn được trả lời, bởi vì họ đã từng gặp những vấn đề này trong cuộc sống của con người. Có những người mặc dầu được sinh ra trong cùng một gia đình, có cùng cha cùng mẹ, được nuôi dưỡng dưới cùng hoàn cảnh và điều kiện giống nhau, nhưng họ khác nhau; có người thông minh, có người ngu đần; có người sống lâu, có người chết sớm, người giàu, kẻ nghèo v.v… Đây là những câu hỏi người ta thường đặt ra và muốn được trả lời thỏa đáng.


Nếu bạn đặt những câu hỏi này cho người tin tưởng vào Thượng Đế, vào ông Trời hay vào Đấng Sáng Tạo thì bạn sẽ được trả lời rằng:


“Bởi vì Thượng Đế, Chúa Trời đã tạo ra như vậy.”


Câu trả lời này chắc chắn không làm bạn thỏa mãn. Sẽ có nhiều câu hỏi tiếp theo khi bạn được nghe câu trả lời như vậy. Chỉ có những lời giải đáp của Đức Phật mới làm cho người ta thỏa mãn bởi vì những câu trả lời của Đức Phật không vô lý.


Đức Phật trả lời từng câu hỏi một của chàng thanh niên Subha.


Mặc dầu được sinh ra cùng cha cùng mẹ, được nuôi dưỡng cùng hoàn cảnh và điều kiện giống nhau, nhưng chúng ta không thể lấy những điều kiện và hoàn cảnh này làm nguyên nhân của sự bất đồng của họ, cũng không thể lấy lý do họ có cùng cha, cùng mẹ nên nói sự di truyền là nguyên nhân. Cùng được nuôi dưỡng dưới những điều kiện và hoàn cảnh giống nhau nhưng họ khác nhau. Như vậy, lý do của sự khác nhau của những người trong cùng một gia đình phải là cái gì nằm ngoài di truyền, và hoàn cảnh. Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ rằng: Có cái gì đó trong quá khứ đã làm cho chúng ta, và đời sống của chúng ta khác nhau.
Đức Phật đã giải thích cho Subha từng câu hỏi một:

1. Tại sao có người chết yểu, có người sống lâu?
Một số người giết hại chúng sinh khác, không phải chỉ giết hại chúng sinh một lần mà nhiều lần họ giết hại chúng sinh. Do hậu quả của sự giết hại này, họ tái sinh vào bốn đường ác. Họ bị tái sinh vào cảnh Súc Sinh, Ngạ Quỷ, A Tu La, Điạ Ngục. Sau khi ở các cảnh khổ này, nếu được tái sinh làm người trong kiếp hiện tại thì họ bị chết yểu (đoản thọ). Bởi vì họ đã giết hại chúng sinh, nghĩa là họ đã có ý muốn làm cho đời sống của chúng sinh bị ngắn lại, muốn chấm dứt mạng sống của chúng sinh sớm hơn, làm cho tuổi thọ của chúng sinh ngắn lại. Thay vì chúng sinh được sống lâu hơn, họ làm cho chúng sinh chết sớm. Do có ý muốn làm cho tuổi thọ của chúng sinh ngắn đi nên họ nhận hậu quả là đời sống của họ cũng bị ngắn đi hay bị chết yểu.


Có những người không bao giờ giết hại chúng sinh. Họ giữ giới sát sinh. Họ ngăn ngừa sự giết hại chúng sinh. Những người này sau khi chết sẽ được tái sinh vào cõi trời. Khi họ tái sinh làm người họ sẽ trường thọ. Những người chết sớm là những người đã giết hại chúng sinh trong những kiếp sống trước đây. Và những người trường thọ là những người giữ giới không sát sinh trong những kiếp trước đây. Khi họ ngăn ngừa hành động giết hại chúng sinh thì tâm họ có lòng mong muốn chúng sinh được sống lâu. Lòng mong muốn chúng sinh được sống lâu là nguyên nhân khiến họ được trường thọ khi họ tái sinh làm người.

2. Tại sao có người thường hay bị bệnh hoạn, có người đầy đủ sức khỏe?
Có những người hay bị bệnh hoạn, hết bệnh này lại đến bệnh kia, hoặc sức khỏe họ luôn luôn yếu kém. Những người này, theo lời dạy của Đức Phật, là những người đã làm những chúng sinh khác bị thương. Họ không giết hại người hay chúng sinh khác, nhưng họ hành hạ đánh đập làm cho người khác, chúng sinh khác đau đớn, khổ sở, làm cho cơ thể chúng sinh khác bị tổn thương. Do hành động độc ác, hành hạ, đánh đập, làm hại cơ thể chúng sinh, làm cho chúng sinh bị thương nên họ bị tái sinh vào bốn ác đạo. Khi họ tái sinh làm người, họ luôn luôn bị đau ốm, bị tật nguyền, sức khỏe yếu kém.


Có những người thân thể cường tráng, sức khỏe đầy đủ. Có người chẳng bao giờ đau ốm, chẳng bao giờ đến gặp bác sĩ, chẳng bao giờ vào nhà thương, chẳng bao giờ uống một viên thuốc nào. Họ có một cơ thể khỏe mạnh. Tại sao vậy? Trong kiếp sống này, họ có cơ thể khỏe mạnh, bởi vì trong những kiếp sống quá khứ họ không bao giờ hành hạ kẻ khác, không làm kẻ khác bị thương tật, không làm tổn thương thân thể kẻ khác. Họ đã có lòng bi mẫn đối với chúng sinh khác. Do những hành động thiện họ đã làm nên khi tái sinh làm người họ có đầy đủ sức khỏe.

3. Tại sao có người mặt mày xấu xí khó coi, có người mặt mày đẹp đẽ dễ nhìn.
Một số người thường hay giận dữ. Người ta chỉ chỉ trích một tí thôi là đã nổi sân lên. Với bản chất sân hận, giận dữ như thế nên họ phải tái sinh vào bốn đường ác. Khi họ được tái sinh làm người, do Nghiệp giận dữ mà họ đã tạo, mặt mày họ trở nên xấu xí.


Như vậy, nóng giận, sân si là nguyên nhân làm cho người xấu xí. Chúng ta có thể dễ dàng để hiểu điều này. Ngay cả khi chúng ta đang sống trong đời sống hiện tại này, khi giận dữ thì mặt mày chúng ta thật là xấu xí; khi giận dữ mặt mày hung dữ, dễ sợ. Nếu chúng ta muốn biết khi giận dữ mặt mày chúng ta xấu xí như thế nào thì mỗi lần giận dữ hãy nhìn vào gương soi, lúc đó, chúng ta sẽ thấy chúng ta xấu xí?
Những người đẹp đẽ có bản chất không giận dữ. Họ là những người luôn luôn đối xử tốt với người khác, và họ không dễ dàng giận dữ. Bởi vậy, nếu bạn muốn đẹp đẽ ngay cả trong kiếp sống này thì đừng giận. Một trong những nguyên nhân giúp bạn có gương mặt đẹp đẻ là cố gắng hành thiền từ ái. Như vậy, nguyên nhân của sự xấu xí là giận dữ, và nguyên nhân của đẹp đẽ là không giận dữ, có lòng từ ái. Điều này chứng tỏ cho ta thấy rằng: Nếu chúng ta muốn đẹp đẽ, nếu chúng ta muốn gương mặt chúng ta vui vẻ dễ thương thì chúng ta đừng bao giờ dễ dàng giận dữ.

4. Tại sao có người cô thế, có người đầy quyền uy.
Đôi khi bạn gặp những người đầy quyền uy, lời họ nói ra đầy uy quyền, và họ ảnh hưởng đến người khác, khiến người khác phải nghe theo, đi theo họ. Cũng có những người không có quyền uy, họ không có uy quyền để làm việc gì. Có nhiều người, mặc dầu có chức vụ lớn, địa vị cao, có tiền của nhiều, nhưng họ nói không ai nghe.


Nguyên nhân tại sao?
Có những người có quyền cao, chức trọng nhưng không làm người khác nể phục, không ảnh hưởng đến người khác bởi vì kiếp trước họ có tánh hay ganh tỵ: Thấy ai được lợi, được danh, được người khác tôn trọng, kính nể thì họ cảm thấy khó chịu và ganh ghét. Người nào hay ganh tỵ, đố kỵ, ganh ghét khi thấy người khác được lợi lộc, được vinh dự v.v… thì chắc chắn người đó sẽ bị cô thế, không có thẩm quyền hay năng lực ảnh hưởng tới ngưòi khác trong kiếp sống tương lai. Những người có thẩm quyền được mọi người tùng phục nghe theo trong đời sống này là những người không ganh tỵ trước những thành công, lợi lộc, sự tôn trọng, hay sự kính nể của người khác. Ganh tỵ là nguyên nhân khiến trong kiếp sống này chúng ta trở thành người không có uy quyền, không ảnh hưởng đến người khác. Ngược lại, không ganh tỵ, không đố kỵ là nguyên nhân khiến trong kiếp sống này chúng ta có uy quyền, có ảnh hưởng đến người khác.

5. Tại sao có người nghèo nàn đói khổ, có người giàu sang sung túc?
Những người nghèo khổ trong kiếp sống này là những người kiếp trước không biết bố thí, giúp đỡ thực phẩm, áo quần, vật dụng khác cho Sa Môn, Bà La Môn và những người khác. Họ là những người không thực hành hạnh bố thí. Những người giàu có trong kiếp sống này là những người thực hành hạnh bố thí trong những kiếp trước. Họ đã bố thí cúng dường thức ăn, thức uống, áo quần, thuốc men, và những vật dụng khác cho mọi người. Thực hành hạnh bố thí là nguyên nhân của sự giàu có, và không thực hành hạnh bố thí hay bủn xỉn, keo kiệt là nguyên nhân của sự nghèo nàn. Như vậy, bủn xỉn, keo kiệt, không dám cho ai thứ gì là nguyên nhân của sự nghèo khổ.

6. Tại sao có người sinh ra trong gia đình thấp kém, hạ liệt, trong giai cấp bần cùng, có người sinh ra trong gia đình quuyền quí, trong giai cấp cao sang?
Những người sinh ra trong gia đình thấp kém, hạ liệt vì kiếp trước họ tự cao, ngã mạn, kiêu căng, tự phụ. Họ chẳng hề tôn kính lễ bái những bậc đáng tôn kính. Họ không đứng dậy, tỏ vẻ kính trọng những người đáng được đứng dậy, đáng được kính trọng. Họ không biết nhường chỗ ngồi cho những người đáng được nhường chỗ. Họ không nhường lối đi cho những bậc đáng được nhường lối đi. Họ không tôn kính, lễ độ đối với những bậc đáng được tôn kính, lễ độ. Không biết tôn trọng, kính nhường là nguyên nhân của sự tái sinh vào giai cấp thấp kém.


Nguyên nhân được sinh vào gia đình quyền quí, giai cấp cao sang thì do những nguyên nhân ngược lại. Những người này kiếp trước không kiêu hãnh, tự cao, tự đại. Họ thường tôn kính lễ bái những bậc đáng tôn kính lễ bái. Họ đứng dậy, tỏ vẻ tôn trọng những người đáng được đứng dậy tỏ vẻ tôn trọng. Họ biết nhường chỗ ngồi cho những người đáng được nhường chỗ ngồi. Họ nhường lối đi cho những bậc đáng được nhường lối đi. Họ tôn kính, lễ độ đối với những bậc đáng được tôn kính, lễ độ.


Tóm lại, tự cao, tự đại là nguyên nhân của sự sinh trưởng trong gia đình thấp kém, và không tự cao tự đại, biết tôn kính là nguyên nhân được sinh ra ở những gia đình cao sang.

7. Tại sao có người ngu dốt, thiếu trí tuệ, có người thông minh sáng suốt?
Nguyên nhân của sư thiếu trí tuệ, ngu dốt, trì độn, và nguyên nhân của sự thông minh sáng suốt, trí tuệ minh mẫn là biết đặt câu hỏi hay không đặt câu hỏi.


Những người không chịu gần bậc thiện trí thức để học hỏi. Không chịu đặt câu hỏi để biết thế nào là thiện, thế nào là ác, những gì cần phải làm, những gì không nên làm v.v… Những người không chịu tìm tòi học hỏi, đặt câu hỏi thì sẽ tái sinh thành người chậm lụt, thiếu trí tuệ hoặc dễ trở thành ngu đần. Những người nào luôn luôn tìm tòi, học hỏi, biết hỏi han thế nào là hành động thiện, thế nào là hành động ác, điều gì thích nghi và điều gì không thích nghi, việc gì nên làm và việc gì không nên làm. Những người đó tái sinh làm người thông minh sáng suốt, bậc trí tuệ. Như vậy, đặt câu hỏi, tìm hiểu giáo pháp là nguyên nhân của sự thông minh trí tuệ, không đặt câu hỏi, là nguyên nhân của sự kém trí tuệ.

Như vậy, bây giờ các bạn đã biết, đã hiểu do nguyên nhân gì, do thực hành điều gì đưa đến kết quả gì?
– Giết hại chúng sinh đưa đến chết yểu hay có đời sống ngắn ngủi. Thực hành giới không sát sinh sẽ đưa đến sự trường thọ. Như vậy, có hai sự lựa chọn:
– Nếu bạn muốn sống lâu thì đừng giết hại chúng sinh khác. Nếu bạn không cần sống lâu; cho rằng sống lâu hay chết sớm cũng không thành vấn đề thì đừng giữ giới này.
– Nếu bạn muốn được khỏe mạnh trong tương lai thì đừng đánh đập hay làm tổn thương đến thân thể người khác.
– Nếu bạn muốn đẹp đẽ thì đừng sân hận.
– Nếu bạn muốn có uy quyền, ảnh hưởng đến người khác và được người khác tôn trọng thì đừng ganh tỵ hay đố kỵ.
– Nếu bạn muốn giàu có thì hãy bố thí.
– Nếu bạn muốn sinh trưởng trong gia đình quyền quí, cao sang thì phải biết khiêm nhường, không tự cao, tự đại.
– Nếu bạn muốn thông minh, trí tuệ thì hãy đặt câu hỏi.
Đó là những nguyên nhân đã tạo ra sự chênh lệch, sự bất đồng giữa người này và người khác.

Đức Phật đã trả lời câu hỏi do chàng thanh niên Subha đặt ra và cuối bài giảng, một lần nữa, Đức Phật dạy rằng:


Tất cả chúng sinh đều có Nghiệp là gia tài của họ. Họ là kẻ thừa kế của Nghiệp mà họ đã tạo. Chính Nghiệp đã làm cho người này khác với người kia.


Như vậy, Đức Phật đã trả lời cho chàng thanh niên Shuba hiểu rằng: Tất cả sự bất đồng của con người không phải được tạo ra bởi Thượng Đế, Chúa Trời, Thần Thánh hay một cái gì cả. Do Nghiệp hay những hành vi tạo tác bởi thân, khẩu, ý của mỗi người mà họ sẽ nhận chịu những kết quả khác nhau. Do Nghiệp của chính họ trong quá khứ khiến họ sống lâu hay chết yểu, giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay ngu dốt. Chính Nghiệp đã tạo ra sự bất đồng trong kiếp hiện tại này. 


Và Nghiệp là gì mà nó tạo ra sự bất đồng của chúng sinh?
Kamma (Nghiệp) thường được dịch là hành động. Thật ra, nghĩa chính xác của Nghiệp là tâm sở “cố ý” (Cetana) – Sự cố ý là một tâm sở hay một yếu tố – có nghĩa là muốn hay cố ý để làm một chuyện gì đó qua thân, khẩu, ý. Nghiệp chính thật là sự cố ý để làm một việc gì. Do “sự cố ý” này, người ta thực hiện hành động, lời nói hay ý nghĩ. Bởi vì mọi hành động, lời nói hay ý nghĩ đều được đi kèm với “sự cố ý” hay Nghiệp. Do đó, chữ Kamma hay Nghiệp nên dịch là sự “cố ý”, chứ không nên dịch là hành động. Chúng ta phải thận trọng về nghĩa của chữ Nghiệp, nếu không khi nói đến Nghiệp, chúng ta lại nghĩ đó là hành động.


Nếu chúng ta muốn dùng chữ cho chính xác thì chúng ta phải nói Nghiệp là sự cố ý.
Như vậy, Nghiệp hay sự cố ý là một tâm sở khởi sinh trong các loại tâm của chúng ta. Bởi vì, là một tâm sở nên nó có đặc tính: “khởi sinh rồi lại hoại diệt ngay”. Đặc tính sinh, diệt là đặc tánh chung của mọi sự vật trên thế gian. Mọi sự vật trên thế gian là Vô thường. Mọi sự vật đều có đặc tính khởi sinh rồi hoại diệt, đến rồi đi. Tâm sở cố ý cũng sinh và diệt như các tâm sở khác. Nhưng một điều cần lưu ý ở đây là: các tâm sở khác khởi sinh rồi hoại diệt ngay và chẳng để lại một chút ảnh hưởng nào cả. Nhưng tâm sở cố ý khi hoại diệt vẫn còn để lại tiềm năng đưa đến những hậu quả sau này. Tiềm năng của Nghiệp này nằm trong ‘luồng tồn sinh’ (hộ kiếp) của Tâm. Đó là lý do tại sao khi có điều kiện thuận lợi thì Nghiệp trổ quả.


Một lần nọ, vua Milanda hỏi Đại đức Nāgasena rằng:
Bạch Ngài, Ngài có thể chỉ cho tôi biết Nghiệp chứa đựng ở đâu không?”.
Ngài Nagasana trả lời:
Không thể nào, nói một cách chính xác, Nghiệp được tồn trữ ở đâu. Nhưng Nghiệp tùy thuộc vào luồng bhavanga (luồng tồn sinh, luồng hộ kiếp), tùy thuộc vào Vật Chất và Tâm. Khi luồng tồn sinh gặp những điều kiện thuận lợi thì Nghiệp sẽ trổ quả“.


Mặc dầu chúng ta không thể nói một cách chính xác Nghiệp đã được tích chứa ở đâu, nhưng khi có điều kiện thuận tiện để cho Nghiệp tốt trổ sinh thì sẽ có quả. Như vậy, Nghiệp này, sự cố ý này, khi biến mất thì nó còn để lại một cái gì đó, để lại tiềm năng trong luồng tồn sinh (bhavanga) của chúng sinh, khi có điều kiện thuận tiện thì chúng sinh sẽ nhận chịu hậu quả.


Ngài Nāgasena đã đưa ra một ví dụ về cây xoài: “Chúng ta không thể nào nói rằng trái xoài đã chứa ở đâu trong cây xoài: ở trong rễ, trong thân, hay trong cành, nhưng khi khi đến mùa, khi có đủ độ ẩm, khi có thời tiết thích hợp, khi có điều kiện thuận lợi… thì quả sẽ hình thành và cây sẽ trổ quả. Cũng vậy, mặc dầu không thể nói Nghiệp cất chứa ở đâu, nhưng khi có đủ điều kiện thuận tiện thì chúng ta sẽ nhận được quả của Nghiệp.


Những gì không phải là Nghiệp
Sau khi đã hiểu thế nào là Nghiệp, chúng ta cũng cần nên hiểu những gì không phải là Nghiệp.
Một số học thuyết quan niệm rằng con người bị chi phối bởi Số Phận hay Tiền Định. Và Số Phận hay Tiền Định là cái gì được áp đặt lên chúng sinh bởi quyền lực kỳ diệu khó biết được, hoặc bởi thần thánh, bởi Thượng Đế, bởi Phạm Thiên… Nghiệp không phải là số phận hay Tiền Định theo quan niệm đó.

Mỗi khi chúng ta đau khổ về chuyện gì hay mỗi khi chúng ta đạt được cái gì ta muốn, chúng ta nói:
Đây là quả của Nghiệp
Hay là chúng ta chỉ đơn giản nói:
Đây là Nghiệp của ta“.

Nhưng nếu gọi hay định nghĩa Nghiệp là số phận hay là tiền định đã được đặt định lên kẻ khác thì Nghiệp ta nói đây không phải là số phận hay tiền định đó.

Kamma (Nghiệp) là những gì chúng ta đã cố ý làm trong quá khứ, và ta nhận chịu hậu quả của Nghiệp mà ta đã tạo, nhưng quả của Nghiêp đã tạo có thể xảy ra trong hiện tại hay trong tương lai.
– Quả của Nghiệp là hậu quả đương nhiên của Nghiệp.
– Quả của Nghiệp tốt hay xấu không phải do Thánh Thần, Thượng Đế, Phạm Thiên tạo ra.
– Quả của Nghiệp, không phải là sự ban thưởng hay sự trừng phạt của Thần Linh, Thượng Đế v.v…
– Quả tốt chúng ta gặt được không phải là phần thưởng của Thánh Thần, Thượng Đế.
– Quả xấu chúng ta gặt được không phải là hình phạt của Thánh Thần, Thượng Đế.

Những gì chúng ta gặt được đó là quả của những gì chúng ta đã làm. Quả của Nghiệp là của chính chúng ta, là kết quả của những gì chúng ta đã làm với sự cố ý. Như vậy, Nghiệp không phải là số phận hay tiền định do một quyền năng nào đó đặt định lên chúng ta mà Nghiệp là của sở hữu của chúng ta. Chúng ta nhận quả tốt hay quả xấu đều do chúng ta làm.

Tóm lại, quả của Nghiệp không do ai tạo ra mà là kết quả đương nhiên của Nghiệp mà ta đã tạo.


Có người nghĩ rằng chấp nhận Nghiệp chẳng khác nào “chủ bại” hay Nghiệp là chủ thuyết “chủ bại”. Người theo chủ nghĩa “chủ bại” chấp nhận tất cả những gì đến với họ, và không thể làm gì để cải thiện chính mình. Đây là một quan niệm sai lầm. Nghiệp không phải như thế.


Do tạo Nghiệp tốt ta sẽ nhận quả tốt ngay trong kiếp sống hiện tại. Như vậy, Nghiệp không phải là lý thuyết chủ bại. Nghiệp không phải là chủ bại, chấp nhận hay cam chịu với những gì xảy đến cho mình, mà không tìm cách tránh né hay cải thiện. Chúng ta chấp nhận rằng những gì tốt xấu xảy ra cho ta là do quả của Nghiệp, nhưng chúng ta cải thiện hoàn cảnh của chúng ta bằng cách tạo ra những Nghiệp thiện mới. Như vậy, Kamma không phải là thuyết “chủ bại” như một số người hiểu lầm.

Một câu hỏi kế tiếp là: Chúng ta có thể biến đổi hay cải thiện các tác động hay hậu quả hay của Nghiệp không?


Ngay chính Đức Phật cũng không can thiệp vào sự tác động của Nghiệp. Khi hoàng tử Vidūdabha quyết ý giết hại thân quyến của Đức Phật. Đức Phật không thể can thiệp được bởi vì đây là quả của Nghiệp mà thân quyến của Đức Phật đã tạo ra trước đây nên họ phải bị hoàng tử Vidūdabha tiêu diệt. Như vậy, Đức Phật không thể ngăn chặn quả khổ mà thân bằng quyến thuộc Ngài phải trả. Lý do là vì luật Nghiệp báo là một luật tự nhiên. Luật Nghiệp báo không do ai tạo ra. Luật Nghiệp báo không do Thượng Đế, ông trời hay thánh thần nào tạo ra cả. Đây là một luật tự nhiên. Bởi vì Nghiệp là luật tự nhiên, do đó không ai có thể can thiệp vào tác động của Nghiệp.


Mặc dầu không thể can thiệp vào tác động của Nghiệp, nhưng chúng ta có thể biến đổi được phần nào tác động của Nghiệp. Đó là chúng ta có thể tạo ra những điều kiện bất thuận lợi cho Nghiệp bất thiện trổ quả. Nghĩa là chúng ta có thể hay làm cho Nghiệp bất thiện chậm trổ quả hơn. Bởi vì, như tôi đã nói trước đây, Nghiệp chỉ trỗ quả khi có điều kiện thuận lợi. Khi không có điều kiện thuận lợi thì Nghiệp sẽ ở đó chờ.
Nếu chúng ta tạo những điều kiện bất thuận lợi cho Nghiệp bất thiện trổ quả thì chúng ta có thể không nhận chịu hậu quả của Nghiệp bất thiện. Mặc dầu, không thể can thiệp vào luật Nghiệp báo, không thể thay đổi luật Nghiệp báo, nhưng chúng ta có thể tạo ra những điều kiện bất thuận lợi cho Nghiệp trổ quả. Ít nhất chúng ta có thể đình hoãn được sự trổ quả của Nghiệp trong một thời gian.


Ngay Đức Phật cũng phải nhận chịu những quả xấu do những Nghiệp bất thiện mà Ngài đã tạo ra trước đây. Đức Phật thường bị đau đầu và đau lưng, và đôi khi bị cảm. Khi Devadatta xô một tảng đá lớn từ trên cao xuống để hại Đức Phật. Mặc dầu tảng đá lớn không rơi trúng Ngài, nhưng một mãnh đá nhỏ vỡ ra từ tảng đá lớn làm Ngài bị bầm máu nơi chân, Ngài phải chịu đau đớn, và vết bầm phải được mỗ để máu ứ đọng chảy ra. Ngay Đức Phật cũng không tránh khỏi hậu quả của những Nghiệp ác đã tạo trong quá khứ. Có rất nhiều câu chuyện cho ta thấy không ai có thể thoát khỏi hậu quả của các Nghiệp ác.


Chúng ta không thể can thiệp vào những tác động của Nghiệp. Chúng ta không thể thay đổi dòng Nghiệp, nhưng chúng ta có thể làm cho hiệu quả của Nghiệp xấu triển hạn một thời gian – trong một số trường hợp hay trong một giới hạn nào đó. Không ai có thể xóa tan tất cả Nghiệp lực hay xóa tan toàn thể một Nghiệp lực nào mà mình đã tạo. Có nghĩa là không ai có thể tiêu trừ tất cả Nghiệp hay tất cả những quả của Nghiệp đã tạo, như vậy mọi người phải nhận chịu những hậu quả của Nghiệp mà mình đã tạo trong quá khứ.


Tuy nhiên, vào lúc Giác Ngộ đạo quả A La Hán tất cả các Nghiệp đều bị tiêu diệt. Tâm Đạo vào lúc Giác Ngộ tầng thánh thứ tư được gọi là “tâm đã hoàn thành trách nhiệm tiêu diệt Nghiệp”. Như vậy vào lúc đạt đạo quả A La Hán tất cả các Nghiệp đều diệt. Điều này không có nghĩa là tất cả các Nghiệp trong quá khứ đều bị diệt và vị A La Hán không còn nhận chịu các quả của Nghiệp quá khứ. Nhưng điều xảy ra là vào lúc Giác Ngộ A La Hán là tất cả các phiền não đều bị diệt ngay vào lúc ấy. Khi tâm không còn phiền não thì những gì vị đó làm thì chỉ đơn thuần là làm thôi mà không tạo nên Nghiệp nào nữa bởi vì vị A La Hán không còn dính mắc vào đời sống nào cả hay không còn dính mắc vào sự hiện hữu nào  cả.Vị A La Hán không còn vô minh. Bởi thế, những gì vị A La Hán làm thì chỉ là tác động thôi mà không tạo ra Nghiệp. Nói cách khác, Vị A La Hán hay Đức Phật không còn tích lũy những Nghiệp mới nữa. Các Ngài không tạo nên Nghiệp mới nào dầu các Ngài có làm điều thiện đi nữa. Đức Phật đã dạy cho nhiều chúng sinh, Đức Phật đã giúp cho nhiều người thoát khỏi đau khổ. Những vị A La Hán cũng làm nhiều điều thiện lành cho các nhà sư khác và mọi người, nhưng các Ngài không gặt hái quả tốt khi các Ngài làm việc tốt. Những tác động của các Ngài hay Nghiệp của các Ngài được gọi là “Kiriya” (Duy tác) nghĩa là chỉ có tác động, chỉ có hành động xảy ra. Tất cả các Nghiệp đều hoàn toàn bị tiêu diệt ở tầng thánh thứ tư có nghĩa là sau khi vị này đạt tầng thánh thứ tư thì không còn tạo tác các Nghiệp nào nữa, và bởi vì không có Nghiệp nên sẽ không có quả của Nghiệp trong tương lai.


Như vậy những Nghiệp các Ngài đã tạo trong quá khứ hay những Nghiệp cũ thì như thế nào? Các Ngài vẫn còn nhận chịu quả của những Nghiệp cũ, như Đức Phật vẫn còn đau khổ vì bị nhức đầu v.v… Những vị A La Hán khác vẫn còn bị đau khổ bởi bệnh tật và còn nhận chịu những quả của Nghiệp quá khứ. Các bạn còn nhớ chuyện Ngài Moggallāna đã bị 500 tên cướp giết chết v.v… Như vậy mặc dầu Phật và các vị A La Hán không tạo những Nghiệp mới, nhưng các Ngài vẫn còn những Nghiệp cũ nên các Ngài vẫn còn hưởng thụ hay nhận chịu hậu quả của những Nghiệp các Ngài đã làm trong quá khứ. Nhưng sau khi các Ngài nhập diệt, các Ngài không còn tái sinh nữa, nên những Nghiệp các Ngài đã tích tụ trong quá khứ không thể trả quả sau khi các Ngài chết.

Các bạn đã biết câu chuyện của Ngài Anguli-māla. Angulimāla đã giết cả ngàn người. Đức Phật đến gặp ông ta và dạy đạo cho ông, sau đó ông trở thành một nhà sư và đắc quả A La Hán. Là một vị A La Hán, nhưng trước khi chết Ngài Angulimāla còn phải chịu đau khổ vì hậu quả của những Nghiệp bất thiện Ngài đã làm. Trước khi trở thành một nhà sư, Ngài đã tạo nhiều Nghiệp bất thiện. Nếu không trở thành một vị A La Hán, những Nghiệp bất thiện này sẽ trả cho Ngài rất nhiều kiếp. Nhưng sau khi đã đắc quả A La Hán, Ngài Angulimāla không còn tái sinh nữa nên những Nghiệp ác mà Ngài đã làm không thể cho quả. Như vậy, đối với Ngài Angulimāla, Nghiệp bất thiện đã trở thành vô hiệu.


Giống như trường hợp một người sau khi phạm tội đại hình thì bị chết, và vì người này đã chết rồi nên quan tòa không thể xử phạt y nữa. Cũng vậy, khi một vị A La Hán tịch diệt, các Ngài không còn tái sinh nữa. Bởi vì không còn tái sinh nên những Nghiệp cũ không thể trả quả cho các Ngài sau khi các Ngài chết. Nghiệp của các Ngài đã trở thành vô hiệu. Khi ta nói những vị A La Hán đã hoàn thành việc tiêu diệt Nghiệp, điều này có nghĩa là các Ngài không còn tạo các Nghiệp mới nữa, nhưng các Ngài vẫn còn nhận chịu quả của các Nghiệp mà các Ngài đã tạo trong quá khứ.


Nhiều Nghiệp trở thành vô hiệu có nghĩa là những Nghiệp này không còn trả quả cho Chư Phật và Chư A La Hán khi các Ngài đã mất; bởi vì Phật và A La Hán không còn tái sinh nữa.


Chúng ta không muốn nhận chịu quả của những Nghiệp dữ, nếu vậy thì chúng ta đừng làm những Nghiệp dữ nữa. Nếu chúng ta đã làm Nghiệp dữ rồi thì sao? Đối với những Nghiệp dữ đã làm bây giờ chúng ta phải làm thế nào đây? Đức Phật dạy: “Dầu chúng ta có ăn năn hối hận về những Nghiệp xấu đã làm trong quá khứ thì Nghiệp xấu cũ đó cũng không thể nào sửa chữa lại”. Những việc chúng ta đã làm rồi thì chúng ta không thể trở lại quá khứ để làm lại. Cái gì đã làm thì đã làm rồi, bởi thế ăn năn hối hận càng làm cho tình thế tệ hại hơn, và càng tích lũy nhiều hành vi bất thiện hơn. Càng ăn năn hối hận bao nhiêu, càng tiếc nuối bao nhiêu thì càng tăng thêm các Nghiệp ác đã tạo bấy nhiêu. Như vậy, ý Đức Phật muốn nói: “Quên nó đi”. Đừng nhớ đến những Nghiệp quá khứ, vì càng nhớ thì càng tạo thêm Nghiệp bất thiện. Quên đi những Nghiệp bất thiện được gọi là “từ bỏ những Nghiệp bất thiện này và trong tương lai nguyện tránh xa các hành vi bất thiện đó”.


Như vậy, đối với những Nghiệp quá khứ đã tạo, trước tiên chúng ta 

  1. đừng nghĩ đến chúng nữa, đừng hối hận vì đã làm những Nghiệp xấu đó nữa 
  2. đồng thời cố gắng tránh xa hay tự chế không làm các hành vi hay Nghiệp xấu đó trong tương lai. 
Điều này được gọi là “loại trừ các Nghiệp xấu” hay “vượt qua các Nghiệp xấu”. Như vậy, nếu chúng ta đã làm Nghiệp xấu trong quá khứ thì chúng ta đừng nhớ đến chúng nhiều lần, đừng ăn năn hối hận về chúng nhiều lần nữa, hãy để chúng sang một bên, cho chúng về quá khứ và từ nay tự chế, ngăn ngừa không làm những hành vi bất thiện tương tự trong tương lai. Bằng cách này, chúng ta đã để lại đàng sau tất cả những Nghiệp bất thiện.

Hòa thượng Silānanda giảng
Sư Khánh Hỷ soạn dịch
Reply
THUẬN DUYÊN VÀ CHƯỚNG DUYÊN
Sư Giác Nguyên


  1. Chết cũng là một cái duyên , sống cũng là một cái duyên , buồn vui cũng là một cái duyên . Cái quan trọng nhất là ngay trong cái chết chúng ta cũng biến nó thành một thứ thuận duyên .
  2. Bệnh nó cũng là một chướng duyên nhưng mà mình cũng xem nó là thuận duyên để mà mình tu . Cái ghẻ lạnh , cái hờ hững của đời sống thì dễ bị người ta đánh giá nó là một thứ chướng duyên nhưng mà thật ra nó là một thứ thuận duyên .
Tôi biết có nhiều người Phật tử , họ có thời gian đi chùa đi dự các khoá thiền chỉ vì lý do đơn giản là họ không thấy vui trong hạnh phúc gia đình nữa . Có nghĩa là trong mắt của ai đó thì không hạnh phúc gia đình nó là một thứ chướng duyên . Nhưng mà đối với người này , chính cái không hạnh phúc nó lại là cái thuận duyên để họ ra đi . Đại khái là như vậy . 

Và ngược lại , hạnh phúc trong gia đình nó lại là cái thuận duyên chuyện khác , khi mà “đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn “. Rồi có nhiều người họ tu , mà thiếu bạn đời , bạn đường , họ tu không được . Quý vị biết cái đó mà , họ tu họ cần sự trợ duyên rất là nhiều .

Như ngài Upali đệ tử lớn của Đức Phật , trong Kinh nói trước khi ngài đắc A La Hán, ngài đến lạy Phật rồi ngài xin phép đi vào rừng tu, tu một mình ở trong rừng sâu .

Đức Phật Ngài dạy thế này :
- "Này Upali , con voi nó to , cho nên nó có thể xuống dưới hồ nó tắm nó giỡn nước , nó hái củ sen , nó ăn rồi nó hút nước nó giỡn dưới hồ nước sâu được . Nhưng mà con thỏ , con chồn thì không làm chuyện đó được là bởi vì cái thân thể nó nhỏ hơn , nó không thể nào bắt chước con voi cùng bơi lội , nhổ củ sen , hay là giỡn như con voi được . 


"Cũng vậy .

"Upali phải biết là không phải ai cũng thích hợp trong đời sống nơi rừng sâu núi thẵm , không phải ai cũng thích đời sống một mình . Có những người đủ duyên lành giải thoát nhưng mà họ phải luôn luôn tu học và sinh hoạt trong sự dòm ngó chăm sóc để ý quan sát của thầy của bạn bên cạnh ."

Cho nên nhiều khi chúng ta cực đoan cho rằng tu phải một mình thì tôi không đồng ý , tôi cho đó là cực đoan . Mà nói rằng tu phải có thầy có bạn thì tôi cũng cho đó là một cực đoan , đó là tuỳ mỗi người thôi .

Tôi mong sau buổi giảng này , các vị cứ nhớ văng vẳng bên tai :

  1. Mọi thứ do duyên mà có và bản thân nó cũng là một sự trợ duyên cho một cái khác .
  2. Trên đời này không có thứ chướng duyên tuyệt đối mà không hề có thuận duyên tuyệt đối . 
Mọi thứ là do mình vận dụng và tận dụng nó ra sao thôi .

  1. Trời nóng cũng có cái hay của nó . 
  2. Trời lạnh cũng có cái hay của nó . 
  3. Sự mát mẻ cũng có cái hay của nó .
SƯ Giác Nguyên

http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=3994&page=66

Post #976, p 66
Reply
Sư Toại Khanh Giảng Tam Tạng Kinh Điểnvà Con Đường Tu Chứng (1-6)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=vBxcTrs6iY4&abt=Ba+T%E1%BA%A1ng+v%C3%A0+Con+%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng+Tu+Ch%E1%BB%A9ng

Ba Tạng và Con Đường Tu Chứng
Quote:Kalama tri ân bạn dieulienhoa67 & Nguyenhuongbichhue ghi chép.

26/07/2020 - 05:49 - dieulienhoa67

Các vị còn nhớ cấu trúc Tâm Pháp mà mình học không? Tức là cái Buddhist psychology của Phật Giáo. 

Cái (macros) structure nó gồm có hai:
  1. Cái thứ nhất là cái bare knowing, cái biết đơn giản, không thiện không ác, không phàm không thánh. 
  2. Cái biết đó cộng với 13 neutral factors, là 13 tợ tha, là 13 cái ingredients của tâm chứ 0 có thiện ác gì hết, nhưng phải có nó mới thành cái tâm. 
Giống như 1 nồi canh thì cần phải có những cái căn bản như là nước, đường, muối, bột ngọt, cộng lại thì thành canh, đúng 0? Bây giờ mình bỏ khoai môn vô thì thành canh khoai môn; bỏ khoai mỡ vô thành canh khoai mỡ; bỏ rau muống vô thành canh rau muống; bỏ bầu bí vô thành canh bầu bí...đúng 0? Còn nước , đường, muối, bột ngọt là neutral factors, nghĩa là chưa có đủ.

  1. 2 cấu trúc đó , thứ nhất là bare knowing + 13 neutral factors; sở hữu tợ tha, nó là một cái tâm, tâm đó chưa là thiện ác gì hết. 
  2. Nó phải công với 14 negative factors, 14 thành tố bất thiện 
thì mới thành tâm bất thiện.

Rồi tâm thiện là gì? 
  1. bare knowing + 13 neutral factors + 
  2. 28 ... fators, (28 thành tố thiện) 
là tâm thiện.

Thì tất cả những cái thiện như là thập thiện, thập độ, 37 Bồ đề Phần, đều nằm trong công thức 1 hết. Hiểu không ta?

Bây giờ mới biết đi chùa lo cúng. Chứ đi chùa bao nhiêu năm mà hỏi Thập Thiện là gì? Phật tử nhìn nhau.

Vào chùa móc tiền cả cọc cúng, rồi dâng y Kathina rồi cầu pháp danh, áo tràng, áo lam, áo đà ... nhìn quá cỡ thợ mộc mà mấy chục năm như vậy.. hỏi cái căn bản nhất lại không biết.

Bên Thiên Chúa mà hỏi the last supper, buổi ăn cuối cùng của Chúa...hỏi 10, 15t, là ra liền. Bao nhiêu Thánh Tông đồ là ra liền, .... nó làm cho 1 rừng là hết hồn luôn... Biết Last Supper không? Bữa ăn cuối cùng của chúa với 12 đệ tử, trong đó có Judas bán Chúa.

Còn bên đạo Phật thì mình có last lunch, nghĩa là bữa ăn trưa cuối cùng của Phật.(3:41)

27/07/2020 - 07:37 - dieulienhoa67

Bên Thiên Chúa mà nói ra , 10 tuổi nó đã biết rồi. Còn bên mình, 0 biết. Nhà chùa thì đi rần rần.

Cất biết bao nhiêu chùa. Tôi biết có bà đó, bỏ ra 10 tỉ để cất 5 cái chùa hoành tráng chạm tới mây. Cất xong rồi thì có tùm lum chuyện. Cất xong rồi họ lập ban quản trị rồi đá bà ấy ra. Khi xây chở gạch đá xi măng thì từ sài gòn bà chạy ra thanh toán từng cục gạch, từng bao xi măng. Thiếu 1 cục nước đá cũng kêu tới. Làm vừa xong chưa kịp rửa tay thì nguyên 1 dàn ngồi ... thủ quỹ, trợ lý thủ quỹ, thư ký, tổng thư ký, phó thư ký, trợ lý thư ký, hội trưởng, phó hội trưởng , thủ trưởng.... một rừng làm bà hết hồn. Lần sau bà xuống thì 1 ly nước 0 có ai mời hết. Bởi vì không còn cần bà chi cái gì nữa.

Bà làm 5 cái như vậy và bây giờ bà thù như giặc. Mà hay lắm, bà già nhưng có nhan sắc, có cái tội là có tiền. Trong khi cái ban bệ đó toàn là nữ sắc không.

....

Mà giáo lý không chịu học, ăn rồi tụng năm cuốn, đi chùa mấy chục năm mà đơ cái đầu 0 biết gì hết. Mà tụng kinh thì tụng cho lớn. Quyển kinh cho dày, cho bự.

Lúc đó tôi nói sẽ in quyển giáo lý căn bản 1.200 trang , đòi cúng, đòi hùn tiền, đòi để cái hình maha của bả lên, rồi còn đòi tôi in chữ to để đọc cho dễ. Tôi nói dịch rồi ai đọc? Đọc để làm cái gì mới được. Đòi in cho bự như quyển kinh Pháp Hoa, mấy quyển Mật Tông bự bự vậy đó. Ăn rồi vô tụng mà 0 biết nói cái gì.

Còn hỏi thập thiện, thập độ, 0 ai biết gì hết. Đi chùa ai đụng tới thì nổi điên lên. Hỏi tại sao? Nói nó nói tui dốt.

Bây giờ, Thập thiện là gì?

Là thân 3, khẩu 4, ý 3.

Có 2 cách:

Cách 1 là

Thân 3 là: không sát sinh, 0 trộm cắp, không tà dâm

Khẩu 4 là : 0 nói dối, 0 nói lời đâm thọc, 0 nói lời ác độc, 0 nói lời thêu dệt.

Ý 3 là: 0 tham, 0 sân, 0 tà kiến. TC là 10.

Cách 2 là: Thập thiện chính là

Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tham thiền, cung kính, phục vụ, hồi hướng, thuyết pháp, thính pháp,và điều chỉnh nhận thức. Đó là 10 - thập thiện. Là 10 điều thiện lành căn bản của những người tu Phật.(07:26)

28/07/2020 - 05:26 - dieulienhoa67

Thập độ là gì? Là 10 hạnh lành mà bất cứ người nào muốn thành Phật cũng phải tu.

Gồm có Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn nại, Chân thật, Ly dục, Trí tuệ, Tinh tấn, Từ tâm, Nghị lực, Hành xả.

Còn 37 Bồ Đề Phần gồm:

Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo.

Thập thiện là 10 pháp lành căn bản của 1 người cầu quả Nhân Thiên.

Quý vị đi qua Miến Điện, quý vị thấy Phật tử họ học giáo lý dữ lắm. Tôi có qua chùa Miến bên Anh, trưa nào cũng có người đi cúng cơm hết, y như mình vậy. Cúng cơm rồi đọc Kinh. Ngay trên đất Miến Điện quý vị sẽ thấy những bà mặc xà rông cũ, áo cũ, đầu đội thúng có mấy củ khoai, mấy trái chuối, mà coi chừng. bá đó có thể là hành giả mới trong thiền viện ra. Hoặc bà có thể là người học giáo lý A Tỳ Đàm mấy năm trời từ thời con gái tới khi lấy chồng. Người như mắm mà tu học vậy đó. Còn cái chợ lớn nhất của Yangoon, họ bán đồ áo quần nữ trang (09:30)

21/08/2020 - 02:51 - dieulienhoa67

tượng Phật, đồ silk, đồ lụa... Muốn đổi tiền, muốn mua tranh Phật, mua gì cũng ra đó. Nơi đó buôn bán tùm lum vậy mà họ cũng mở băng thuyết pháp của các Sư rần rần ngoài đó.

Còn VN mình ở ngoài đường thấy có mấy cái băng rôn quảng cáo, còn bên đó băng rôn nói về thiền Sư gì, pháp Sư gì, giảng sư gì... đầy ngoài đường. Xứ người ta như vậy. Trong chợ người ta mua bán, nướng thịt cá xèo xèo ... mà ở trên thuyết pháp lồng lộng... Nhân duyên, Cảnh duyên... 24 duyên... phát thanh băng bài giảng ở trong chợ. A Tỳ Đàm mình học này, cũng có phát thanh trong chợ.

Còn mình thì lâu lâu mới có khóa học mà bữa lặn bữa học, bữa trồi, bữa sụt... Nói cái gì mà thẳng thắn thí có khi giận hờn, nổi sân lên, căm hờn muốn ăn tươi nuốt sống. Còn ai mà khen thì móc tiền ra cho đếm không xuể.

Gặp nhau thì ban đầu... gặp nhau trong ngôi nhà Chánh Pháp... Sau đó thì... ba sao rồi: "Con, má sao rồi con, khỏe không?" mà đừng động đến Phật pháp, kêu học giáo lý thì nó thù... vì chạm tới cái dốt của nó...

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Tam Tạng Kinh Điển và Con Đường Tu Chứng (2-6)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=vBxcTrs6iY4&abt=Ba+T%E1%BA%A1ng+v%C3%A0+Con+%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng+Tu+Ch%E1%BB%A9ng

Quay lại vấn đề

Cho nên dầu là thập thiện, hay là thập độ, 37 Bồ Đề Phần nói gọn lại vẫn là

1+13+25

Lấy 25 này mà làm 10 thiện thì gọi là Thập Thiện

Lấy 25 này mà tu Ba la Mật thì gọi là Thập Độ

Lấy 35 này mà tu thiền quán, giữ giới thì là 37 Bồ Đề Phần.

Thật ra thì chỉ có 35 thôi.

Người 0 tu thì tối ngày cứ là 1+ 13 + 14

Đúng ra quý vị mà có cái đầu lanh lanh một chút thì thấy

25 này là gồm những khía cạnh tâm lý tích cực, possitive, như từ bi, trí tuệ, kham nhẫn, hành xả, thiền định, ... nằm trong số 25 này (12:19)

11/09/2020 - 01:17 - Nguyenhuongbichhue

Còn số 14 này là tham, sân, si, ái mạn, kiến nghi, tỵ hiềm, ghen tuông, tiếc của, nhỏ mọn, toan tính . Mình xài số 14 này là 90%. 25 nó to đùng mà kiếm hoài không ra, mà kiếm 14 xài hoài à. Khổ vậy đó.

Người nào đến với Phật, Phật cũng tùy duyên giảng pháp cho người ta tu hành làm lành tránh dữ; nhưng tùy căn cơ của chúng sanh, Phật có cách nói khác nhau. Chư Phật trước khi thành Phật, vì có trí tuệ thấy đời là khổ, vì hiểu được khổ nên mới chán cái khổ. Không có gục mặt trong cái khổ nữa thì mới hết khổ. Đây là cái trí của Phật trước khi thành Phật. 

Cái thứ 2, vì lòng từ bi Phật thương chúng sanh, khổ mà không biết. 

Cộng cái trí và bi lại nó lòi ra cái dục, bồ tát không sợ khó . Tu tập cái thập độ này nè suốt nhiều kiếp. 

Cuối cùng thành ra 1 con người đặc biệt, 
  1. cái gì cũng biết, 
  2. hạnh lành nào người cũng có, 
  3. ai người cũng thương. 
Khi mà thành Phật rồi, Phật nhìn vào bản tâm và tánh của chúng sanh để xem mỗi người hợp với cách nói nào. Có người ngài nói tu tập theo thân khẩu ý, con làm sao mà cái thân con đừng làm bậy, miệng đừng nói bậy, cái đầu đừng nghĩ bậy. Tu 3 cái đó thôi, không cần nhớ mấy con số 14, 25, nhưng có 1 số người nói vậy không có hiểu, nên ngài mới nói số 8, tu hành bát chánh đạo. Một số người nói số 8 nhiều quá, ngài nói tu tứ nhiệm xứ. Có người ngài nói tu 1 thôi, không dể ngươi. Kêu 1 nó mừng lắm, nhưng thế nào là 1, cái ngài kể 3 mà nó lại nhớ.

Dễ ngươi gồm 3: 
không chê điều ác nhỏ mà làm, 
không chê điều thiện nhỏ mà không làm, 
không có đam mê bất cứ hình thức tái sanh nào. 

Có nhiều người tu dính cái thứ 3 này: không biết sợ tái sanh. Họ nghĩ không bị đọa là tốt rồi, sanh về cõi sung sướng là quý rồi . Nhưng Phật nói rằng hễ còn là phàm thì sướng cỡ nào khả năng sa đạo cũng rất lớn. Ví dụ mình sinh ra mình làm 1 hoa hậu giàu có, ăn học ngon lành, thì cơ hội sa đọa rất lớn nếu không được học Pháp. Tất cả chúng ta ngồi đây, tôi nói luôn 1 chuyện mình nói mình sợ khổ, chứ nói bây giờ bằng 1 phép lạ nào đấy các vị sống được 1 tỉ năm không già không nhăn nheo xấu xí, bệnh, muốn xài gì có đó, thương ai thì được ở gần người đó, thích sống chỗ nào thì sống chỗ đó, ở gần người mình thương, có đồ mình thích, đêm đêm 2 đứa nắm tay nhau bay đến 1 vườn kim cương, trời xanh mây trắng nắng vàng trong suốt 1 tỉ năm như vậy. 

Dĩ nhiên sau 1 tỉ năm này mình sẽ chết. Thì tôi hỏi kể từ hôm nay quý vị có bụng dạ nào đi học giáo lý hay không? Trong kinh tả cõi trời và cõi địa ngục nghe rợn .

Người sanh địa ngục giống người giật mình thức dậy mà nghe tiếng la hét, nhiệt độ cực lớn. Tức là mình đang ngáp ngáp, cái hồi mình hước cái, mình đi, mình thấy mình đọa, cảm giác giống vậy, mình nghe tiếng la hét um xùm, mùi tanh mùi thúi nồng nặc và 1 nhiệt độ nóng, bao nhiêu cái đau đơn chọt vô người mình, thấy quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa đứng đầy. Kể từ ngày đó mình bị đốt, nướng, luộc.

Còn cõi trời thì sao? Họ có phước sinh vào cõi trời, họ thức dậy thấy mình ở cái chỗ mà xung quanh cung vàng điện ngọc, mát lạnh và thơm ngát. Những âm thanh du dương, những mùi hương chưa từng được ngửi, được nghe. Họ nhìn thấy những người nam cực đẹp, nữ cực đẹp, thân thể nhẹ nhàng như khói, không đói không lạnh, không khát, không muốn ăn không muốn uống. Đồ ngon thơm thức ăn chạm vào lưỡi, chỉ cần nghĩ nó ngọt 1 tí đi là nó ngọt, nó chua 1 chút đi là nó chua, muốn màu vani màu dầu chuối là được liền, sống nhiều triệu năm. 

Thì trong Kinh nói tên bị đọa lâu ngày nó khờ, hết cái nghiệp nó trồi lên nó làm trùn, làm dế. Cái tên sinh ở cõi trời sống hết tuổi thọ lúc sắp chết dựa vào các dấu hiệu sau đây: họ thấy hào quang ánh sáng mờ dần, 2 là bông hoa xung quanh mình héo đi, 3 là có cảm giác như người đổ mồ hôi, 4 là tâm tư không còn vui nữa, bực bội.

Trong Kinh nói, các vị trời họ bị như vậy có người biết có người không biết. Người không biết họ hỏi những người xung quanh, họ nói ông sắp đi rồi, thì vãi ra quần, tôi sẽ đi về đâu?

Thời Phật cũng có vua trời Đế Thích, 1 ngày ông nhận ra những dấu hiệu đó, ông biết ngay ông sắp đi rồi, ông không biết ông đi về đâu,  ông nghĩ ra 1 người có thể làm cho ông yên tâm đó là Phật, ông xuống gặp Ngài. Ông hỏi: Vì sao mà chúng sanh cứ đấu tranh như vậy? Thì Phật dạy do cái lòng bỏn xẻn và ganh tị, bỏn xẻn là không muốn mình mất gì, ganh tị là không muốn người khác được gì. Vừa giảng xong ông đắc Tu đà hườn, và ngay trước mặt Phật ông chết, sanh trở lại làm Đế Thích. Trong cái tốc độ mà chỉ ông và Phật biết chuyện gì đang xảy ra. Mặc dù lúc đó ông là 1 Đế Thích đã già sống hết tuổi rồi, ông sanh trở lại làm Đế Thích trẻ, ông quay trở về trời với cái lòng cảm ơn Phật vô bờ. Còn những trường hợp khác không gặp được thánh hiền sanh, về cõi tiên, lúc gần chết mới sợ, vì mấy chục triệu năm vừa qua họ không tu hành gì, ăn chỉ biết hưởng thôi. Vì trời có sung sướng bao lâu thì cũng có lúc chết. Bây giờ quý vị phung phí thời gian, chứ có 1 ngày quý vị bán hết gia tài để mua từng ngày để sống quý vị sẵn sàng bán. Rất tiếc chuyện đó không thể được.

27p30s

12/09/2020 - 01:26 - Nguyenhuongbichhue

Tôi đã từng thấy mấy cụ ở hospice là cái chỗ thầy chạy bác sĩ chê. Tôi vô 1 lần lúc 2h sáng, lúc đang ngủ ngon thì sư em nó kêu đi tụng kinh, buồn ngủ muốn chết luôn. Người đó họ sống đâu có chịu đi chùa, giờ người sống thì 1 phần sợ ma, 1 phần đang nóng ruột cũng ráng mời thầy chùa vô coi tụng kinh. Đang buồn ngủ vô gặp ổng tôi tỉnh ngủ luôn. Nằm ngửa trên giường, ông co 2 tay 2 chân, như kiểu ông thấy gì đó, ông đạp ra mà mặt mày biến dạng, biến dạng đến mức không nhận ra là nam hay nữ. 


Nghiệp tướng và Thú tướng

Trong Kinh nói thường những người trước khi mất họ thấy những cảnh sau đây – là nghiệp tướng và thú tướng. 
Nghiệp tướng là xem 1 đoạn phim tua nhanh những việc làm đã trải qua trong đời sống như săn bắn câu cá, buôn bán du lịch, công việc ở sở làm, tất cả những gì để lại dấu ấn sâu đậm nhất. 

Thú tướng là mình thấy những chỗ mà mình sắp tới, ví dụ mình về địa ngục thấy lửa cháy, đầu trâu mặt ngựa, đao kiếm cung thương bén nhọn, nước tiểu hôi thối; còn sinh làm súc vật thì thấy chuồng, cũi, máng ăn, tàu ngựa, những thứ liên hệ đến súc vật á; sắp sanh vào ngạ quỷ thấy ao hồ, rừng núi hoang vu lạnh lẽo, đìu hiu; sắp sanh vào atula thấy đấu tranh, đâm chém; làm người thì mình thấy phố xá, nhà cửa, nam nữ đi qua đi lại. Cái thấy đó mình không chia sẻ với ai được, vì mình thấy là mình đi luôn rồi. Lúc đó nhiều người họ thấy cái chuyện kinh dị lắm .

Những chuyện xấu họ làm trước đây, họ gạ gẫm người này người kia rồi người đó đến đòi họ, họ chém thì mình phải đỡ như này( co 2 tay 2 chân lại rồi đạp ra). Nói chung họ thấy đủ chuyện hết. 

Có ông gần chết, mà con ông thấy ông cứ thở ngút, có sư đang tụng kinh thì gõ vào người ông nói “ảo giác, ảo giác” thì ông mới tỉnh, lúc mở mắt ra thì đứa con mới hỏi: “Có chuyện gì vậy, ba ?”, ông nói ông đang ở dưới mặt đất (bình thường mình đi trên mặt đất, còn ông đang ở dưới mặt đất), thì có 1 mụt măng trồi lên chọt vào cổ ông, nên ông phải tránh. “Ảo giác, ảo giác” thì ông mới hết. Ông kể lại có lẽ 1 lần ba dọn cái bụi tre, ông thấy 1 ổ rắn trong đó thì ông mới giết rắn mẹ, đập nguyên ổ trứng. Trong đời ông làm nhiều việc xấu, nhưng cái đó để lại ấn tượng cho ông nhiều nhất. Đi dọc bờ đất có những chỗ nước đọng, chỗ nước không đọng. Thì cái tâm thức mình cũng như vậy, sóng thủy triều đánh lên khi nước rút có chỗ đọng nước, chỗ không đọng nước. Tâm thức mình như sóng thủy triều, có chỗ đọng lại, chỗ không đọng lại. 

Các vị hỏi tôi tại sao tôi sống hàng chục năm, biết bao chuyện xảy ra mà lúc đó tôi lại nhớ chuyện đó, thì là do bởi nhiều nguyên nhân khác. Tính tình của tôi, thiện nghiệp ác quá khứ của tôi, khuynh hướng tâm lý mỗi ngày của tôi. Tất cả các thứ đó cộng lại mới khiến tôi thấy thứ này mà không thấy thứ kia. 

Khi hòa thượng nói ảo giác thì ông mừng lắm, thì hòa thượng mới giải thích:

Nếu nhớ lại chuyện cũ để mà ăn năn thì trong vô số kiếp ông có biết bao chuyện để phải ăn năn. Và ông có đồng ý với tôi chuyện cũ dầu tốt dầu xấu thì đều là chuyện cũ, sao ông không ráng kiếm chuyện gì tốt để nhớ ? 

Thế là ông mới nhớ ra 1 chuyện, cách ngay bụi tre mấy thước, hồi xưa có 2 mẹ con không có chỗ ở, ông có cho miếng đất để cất cái chòi. Mà vị mẹ góa con sơ chỉ có cái chòi sơ sài, rồi có bữa ông đi làm về ông thấy cái chòi sơ sài quá ông đi chặt tre tốt về làm cột nhà cho 2 mẹ con ở. 2 mẹ con ở được hai mấy năm, bà mẹ chết ông chôn cất đàng hoàng, giúp thằng con có công ăn việc làm. Thì cũng ngay bụi tre, thay vì ông nhớ con rắn thì ông nhớ qua việc giúp 2 mẹ con.

Mình sống sao để có được những ấn tượng tốt, không cần ai hộ niệm. 

Trong Kinh nói chúng sanh trong đời có 3 hạng: ác nhiều thiện ít, thiện nhiều hơn ác, 2 cái bằng nhau.

Tùy căn cơ mỗi người mà Phật ra đời, Phật dạy mỗi người khác nhau, có người Phật dạy 14, 25 này, có người Phật dạy What How. Nhưng tại sao hôm nay mình phải học, vì nó là nền tảng. Có những người thấy người ta đói, họ cho 10đ để người ta mua đồ ăn, có những người thấy người ta đói, họ có gì họ cho cái nấy. 

Phật Pháp cũng vậy: 
  1. Có những người Ngài dạy như kiểu mì ăn liền . 
  2. Có người Ngài nói đi xuất gia để họ tự ngộ. 
  3. Có người Ngài nói con chỉ giải quyết thân khẩu ý là xong. Như có vị sư già Ngài nói 227 giới nhớ không nổi, Phật nói con chỉ cần giữ 3 giới thân khẩu ý là xong. Nghe số 3 ông thích quá, nhưng ông không ngờ số 3 nó khó hơn 227 giới. 
  4. Có người ngài dạy họ tu tứ niệm xứ thôi . 
  5. Có người thì ngài nói bát chánh đạo. 
Nên tôi nhắc lại công thức 1 + 13 + 14 và 1 + 13 + 25. 

  1. Dù ngài dạy họ công thức nào đi nữa, thì đều mục đích là dạy họ  đừng có sống với công thức này (1 + 13 +14) 
  2. mà hãy sống với công thức này (1 + 13 + 25). 
Ngài nói đã mang thân chúng sanh, thánh phàm đều 1 với 13 giống nhau – là cái căn bản để tạo nên tâm của mỗi người. Thì cố gắng là 1 + 13 + 25 chứ đừng + 14.

43:26

13/09/2020 - 12:49 - Nguyenhuongbichhue

Nhưng khổ cái, có người Ngài nói công thức họ tu được, có người không. Có người Ngài không nói công thức được thì Ngài nói tu thân khẩu ý, có người nói tu bát chánh đạo.

Bây giờ hiểu tại sao tôi giảng hay trùng hoài vậy. Tôi nói riết chừng nào hiểu thì thôi. Cho nên mình học 24 duyên rồi, học 12 duyên rồi giờ mình quay lại bài đầu tiên ôn để dứt điểm trong chiều hôm nay luôn.


Ác đặc biệt và Ác phổ thông

Dầu anh ác đặc biệt hay ác phổ thông. 

Ác đặc biệt là đại tội: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, chia rẽ tăng, làm Phật chảy máu.

Đó là ác đặc biệt, nhưng đây chỉ là nói chung thôi, chứ không chỉ có 5 cái này, thật ra có vô số. 

Nói gọn thì có: 
  1. Ác nào mà nhắm vào đối tượng khả kính là ác đặc biệt. 
  2. Ác mà nhằm vào đối tượng hữu ân là ác đặc biệt.
  3. Ác nào mà nhắm vào đối tượng đại chúng là ác đặc biệt. 
  4. Ác nào gây nội dung lâu dài là ác đặc biệt. 
Thí dụ:

1/ Đi bắt cá mà thả thuốc độc xuống nguyên 1 con suối, theo quý vị thuốc độc đó chừng nào hết. 

2/ Hoặc người Nhật bắt người Trung Quốc về thí nghiệm các thuốc độc hóa học, chỉ cần chích vô rồi thì cái da rã ra, không thuốc nào cứu được. Nhật mượn tay chuột, dơi, chim, muỗi để lây bệnh. Cho nên cái phòng thí nghiệm ở Mãn Châu, biết bao nhiêu người Trung Quốc bị lùa vào đó để thí nghiệm. Số người Trung Quốc bị bắt lúc đầu hàng hàng Nhật chết chỉ khoảng mấy trăm người thôi, nhưng kẻ nào mà nghĩ ra phòng thí nghiệm đó, kẻ nào trực tiếp làm trong phòng thí nghiệm đó thì tội nặng lắm. 

Tuy nói 4 nhưng mà bao trùm cả 5 cái trên. 

Giết cha giết mẹ tội nặng vì 2 người đó sẵn sàng chết cho mình, mà mình dám hại họ. Khi mà giết họ, mà họ được cứu, họ có tha thứ cho mình không? Có. 

A La Hán y chang vậy, ông không ghét thù gì mình hết, ông không chết ông thương mình tiếp. 

Chia rẽ tăng là tội nặng, vì tăng là đoàn thể hành trì và truyền thừa chánh pháp, mà sức mạnh của đoàn thể đó chỉ được duy trì khi mà họ đoàn kết với nhau, đem lại lợi lạc cho chúng sanh, nếu chia là 8 phần, 12 lực lượng thì sức mạnh chánh pháp ở đời không còn nữa. Lúc đó mình chia rẽ không chỉ mấy ông thầy chùa, mà còn ảnh hưởng đến toàn cục lợi ích chúng sanh. 

Ở Miến Điện, mấy ngàn vị tăng chúng ta tưởng là 1, nhưng thật ra nó có 9 lận. Người đầu tiên mà tạo ra 9 nhánh, thì chỉ có trời biết, ông biết. 

Thế nào là chia rẽ Tăng?  
thứ nhất do danh lợi, tình cảm yêu ghét, tư thù cá nhân mà làm cho chư tăng tách ra, khiến các tăng không ngồi làm lễ với nhau được, còn nếu vẫn ngồi làm lễ chung thì không gọi là chia rẽ. Nói làm sao ông thù tôi, không có khả năng ngồi bên cạnh tôi là chia rẽ. Tăng chỉ có trong thời của Đức Phật thôi, nếu chia rẽ là coi như xong. 

Chia rẽ Tăng là tội ngập trời, 
nhưng ra sức hàn gắn Tăng thì công đức vô lượng.

Làm Phật chảy máu là tội nặng, bởi Phật tổ không ai giết được Ngài hết, chuyện duy nhất làm tổn thương Ngài là làm thương tích thôi, hoặc đứng chống nạnh chửi Ngài. Còn cướp đoạt mạng sống là không bao giờ. 

Có trường hợp như Đề Bà Đạt Ba ông đứng trên núi lăn tảng đá, mục đích là để giết Phật, nhưng Ngài không chết, nhưng do cái nghiệp quá khứ, đã từng giết người (giết 1 đứa em trai chỉ vì tranh chấp tài sản mà xô nó từ trên núi xuống, cái quả đó làm Ngài xuống địa ngục rất nhiều năm), cái quả dư xót là kiếp cuối cùng Ngài đi làm Phật rồi, Ngài cũng bị người ta lăn đá làm cho bị thương. Trong kinh nó Ngài bị dập nát ngón chân cái, máu ra xối xả. 

Kể ra 5 tội đó là kể tượng trưng, nhưng nếu kể cho đủ là mình kể 4 cái vừa ghi đó. 

Ác nghiệp đặc biệt gồm làm 
  1. chuyện bậy nhắm đến đối tượng khả kính
  2. chuyện bậy nhắm đến đối tượng hữu ân
  3. chuyện bậy nhắm đến đối tượng đại chúng
  4. chuyện bậy nhắm đến đối tượng có hậu quả lâu dài.
Ác phổ thông gồm có sát sanh, trộm cắp, tà dâm nói dối, nói độc ác, nói đâm chọc, nói lời vô ích… 

Dầu cho đặc biệt hay phổ thông thì nó cũng diễn ra theo công thức này là 1 +13 +14.

Nhưng khổ cái không phải gặp ai Ngài cũng nói công thức này. Mà có người Ngài nói về vô minh trong duyên khởi.


1h00p50

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Tam Tạng Kinh Điển và Con Đường Tu Chứng (3-6)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=vBxcTrs6iY4&abt=Ba+T%E1%BA%A1ng+v%C3%A0+Con+%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng+Tu+Ch%E1%BB%A9ng

1h00p50

14/09/2020 - 01:25 - Nguyenhuongbichhue

  1. Có người Ngài nói do vô minh trong 4 đế nên tạo các nghiệp thiện ác, nghe vậy nó mới chịu tu. 
  2. Có người Ngài nói tất cả mọi thứ đều vận hành theo 24 duyên sau đây: A giúp B bằng cách có mặt trước, A giúp B bằng cách có mặt sau… Họ nghe nói họ chán, đời sống toàn điều kiện không à, nghe cái họ đắc. 
  3. Có người học 2 cái 14 với 25 mới đắc . 
  4. Có người nhắc hai con số thì họ khùng luôn, nên phải nói tu thân khẩu ý .
  5. Có người ngài nói tu thập thiện độ, 37 bồ đề phần.
Nhưng ý nghĩa chính vẫn là tu thiện để được trong công thức này (1+13+25) và tránh ác để đừng sống trong công thức này (1+13+14).

  1. Học đạo là để biết mình có cấu tạo ra sao
  2. học đạo để biết mình sống ra sao
  3. học đạo để biết mình đang ra sao khi mình bắt đầu tu tập
  4. học đạo để biết mình ra sao nếu mình không tu tập.
Người không biết đạo không biết 4 cái này. Không biết mình có cấu tạo ra sao, không biết mình phải làm gì, thứ 3 không biết mình đang ra sao. Chính vì không biết cái số 3 này này (đang ra sao) nên mới có rất nhiều người chưa tu gì hết mà tưởng mình đang tu rất nhiều. Làm thiện 1 chút mà tưởng 1 núi, làm ác 1 núi mà tưởng có 1 chút.

Khi bố thí, hành thiền… mà không học giáo lý thì 
  1. không biết mình đang ra sao, 
  2. không biết mình có cái gì cần thêm, có cái gì cần bớt, cái gì cần chỉnh sửa.
Phải ghi câu này: 
  1. Khi chưa gặp Phật Pháp thì tất cả hạnh lành đều nằm trong thập thiện (để dẫn đến quả nhân thiên). 
  2. Kể từ khi có lòng cầu giải thoát thì tất cả hạnh lành đều được gọi là thập độ (nhân tố để sau này có trí tuệ giải thoát). 
Kể từ khi biết Phật Pháp, dốc lòng tu tập thì tất cả hạnh lành đều nằm trong con số 37 (tứ niệm xứ - tứ chánh cần – tứ như ý túc – ngũ căn – ngũ lực – thất giác chi – bát chánh đạo)

Trong số 37, thực ra cái nhóm này chính là nhóm kia, cái này quan trọng mà nhiều người hiểu nhầm, tu thất giác chi trước rồi bát chánh đạo sau (là sai). Không bao giờ có chuyện tu từng khúc như vậy. Người nào tu tới nơi thất giác chi cũng là đang ngon lành trong bát chánh đạo, mà ngon lành trong bát chánh đạo cũng là ngon lành trong tứ niệm xứ (tu ngon lành nha, không phải là tu phớt phớt)

37 bồ đề phần gồm các nhóm pháp môn có nội dung tương đương nhau. Tu tập cái này cũng là tu tập cái kia. Thế Tôn tùy duyên mà nói nhóm nào cho đối tượng nào.

Phật Pháp có 1 chuyện mà tôi phải nói mạnh miệng cái này. 

Khi học Phật Pháp căn bản rồi, quý vị sẽ có 3 tâm trạng căn bản. 
  1. tiếc, tại sao trước đây không biết sớm hơn. 
  2. giá mà mình biết sớm hơn đời sống mình đã thay đổi rồi – người học giáo lý căn bản họ nhìn thế giới này khác người lơ mơ. 
  3. quý vị sẽ được cái vô ngại khi đi vào hội chúng, thầy bà giảng gì quý vị cũng tỉnh bơ à, một pháp sư Tam Tạng qua nói quý vị cũng ngồi nghe tỉnh bơ, vì cái đó là căn bản mà . 
Cái vô ngại nó rất là quý, quý vị hiểu không? 

Cái sợ nhất là đi chùa mà thấy lạ hoài, nghe gì cũng lạ. 

Rồi đến 1 ngày quý vị đi Miến Điện, Lào… thấy thiền sư nói cái gì mình vẫn thanh thản, bởi vì mình có chìa khóa, ông nào cũng mở được hết.

1h15p32s.

15/09/2020 - 01:28 - Nguyenhuongbichhue

Tôi nhớ 1 câu này đáng xăm lên người này. 

Cái chìa khóa mà mở được mọi ổ khóa, là chía khóa vạn năng, còn ổ khóa mà chìa khóa nào mở cũng được là ổ khóa hư. 

Nghĩa là học sao mà ổ nào mở cũng được, là mình có cái chìa vạn năng, còn chìa nào cũng mở được là thầy nào cũng dụ mình được hết.

Có câu này tương đương mà nặng lắm. Đàn ông có thể chinh phục mọi đàn bà là đào hoa. Còn đàn bà mà thằng nào cũng chinh phục được là hết nói.

Học như thế nào mà nơi nào đến người ta nói cái gì mình cũng hiểu, nó tốt hơn là ai nói gì mình cũng theo. 2 cái đó nó khác nhau nhiều lắm.

Và nhớ thêm cái này: ăn cái gì cũng thấy ngon, tốt hơn là cái gì ngon cũng ăn.

Mình trở lại bài gốc của mình .  Mình học giáo lý để hiểu 
  1. mình được cấu tạo ra sao, 
  2. mình phải làm gì
  3. mình đang ra sao. Dầu mình đang tiến bộ bằng trời cũng phải biết rõ mình đang ra sao, dầu mình đang thụt lùi mình cũng phải biết mình đang ra sao. Vì chỉ có tên biết mình đang ra sao nó mới không kiêu ngạo trong cái tốt, không chìm đắm sa đà trong cái xấu. 
Tại sao tôi nhấn mạnh cái này? Vì cái số 3 này nhiều người bị lắm, chính vì mình không biết mình đang ra sao mà mình không biết phải chỉnh sửa, thêm bớt cái gì. Mình bậy mà mình không biết, mình hiểu ba mớ mà mình nghĩ mình là thánh cũng nguy hiểm. Có nhiều người tu thiền riết thấy ghét, họ sợ ngồi chung với phàm nó lây chất phàm, nên đi đâu họ cũng ngồi riêng. 

Nếu anh là thánh thứ thiệt thì cục vàng liệng vô đống chì nó cũng không lây chì . 

Vì họ hiểu sai, họ tưởng cái thánh cái phàm giống như bột mì và bột năng nó lây nhau. 

Tiện nói luôn, có nhiều thứ nó dễ hấp thụ mùi lắm, trà mà nó chưa pha để ở đâu nó hút mùi xung quanh khó uống lắm. Nhiều người cho tôi trà ngon lắm, mà để chung với cục xà phòng uống nghe toàn mùi xà phòng, uống vô miệng mồm toàn xủi bọt không, khổ vậy (cười). 

Sẵn đây tôi nói khi pha cà phê đừng bỏ cái bã, mà thả vào nơi nào muốn khử mùi, đôi giày mà mùi nặng quá thì trà lá Thái Nguyên, trà móc câu, trà tuyết, trà Ô long hãy pha cho thật đậm, sao mà nhiễu 1 giọt vô lưỡi người nó quíu lại, thì đôi giày có mùi nặng nhiễu 3 giọt này. Nếu sợ hư giày thì nhiễu vào bông gòn, để lên giấy bạc, để qua đêm bao nhiêu mùi hôi đi hết. Vì trà thứ nhất sẽ diệt khuẩn, thứ 2 nó hấp thụ hết mùi hôi.

Trong kinh mình có câu: “Xóm chài tanh cá . Làng nhang thơm trầm”. Đi ngang qua Hải Thượng Lãn Ông nhắm mắt biết liền mùi thuốc Bắc, đi ngang Phan Thiết ban đêm nhắm mắt cũng biết vì nghe mùi nước mắm.

Muốn mua 1 món đồ nào đó cũng phải lựa chỗ nào bự nhất, chuyên nghiệp nhất. 

Học giáo pháp cũng vậy. Muốn tìm Phật pháp cần đi ngay ổ. 

Tôi thiết tha xây dựng Kalama vì muốn bà con về đó tu hành – thứ nhất vì chỗ đó mát lạnh, thứ 2 nếu lấy Kalama làm tâm hình tròn trong bán kính lái xe là nửa giờ, là bà con toàn gặp toàn tàng long ngọa hổ không, thiền sư hàng đầu của Miến Điện Pa-auk cũng ở đó, học giả hàng đầu ... (? 1h25p31s) cũng ở đó, ngài Si-ta-gu là ông vua không ngai của tăng già Miến Điện cũng ở đó. 

Mua đồ mua ở chợ bự là vì vậy, không phải mình chê mà vì nó mất thời gian. 

Ngày xưa ngài Xá Lợi Phất trước khi gặp Đức Phật, ngài phải ghé qua cái tiệm nhỏ là 1 ông thầy ngoại đạo, ghé xong ngài chưa có đã. Ngài mới gặp Đức Phật, cái tiệm lớn. Phật pháp cũng vậy, học phải có 1 trú xứ thích hợp, có bạn và tài liệu nghiên cứu. Bộ kinh tôi muốn bà con tìm được bản tiếng Việt được thì tốt, không thì đọc tiếng Anh, có 5 bộ thôi. Thay vì đọc 5 tạng thì đọc 5 bộ đó cộng thêm giáo lý căn bản, chỉ mất 9 tháng bà con đọc được 5 bộ đó thanh thản.

--ooOoo--

Quan hệ giữa Tam Tạng Kinh Điển với Con Đường Tu Chứng

Với người đơn giản, không đủ sâu rộng thì hành trình tu chứng có thể thu gọn trong 3 nghiệp môn là : thân – khẩu – ý.

Với người sắc bén, tinh tế hơn, hành trình tu chứng là quá trình làm việc của 6 căn với 6 trần, hoặc của 5 uẩn với nhau.

Với người có huệ căn, có khả năng hiểu và nhớ tốt, thì giáo lý duyên sinh duyên hệ mới thích hợp được.

Nhiều người thời Đức Phật chưa từng học A tỳ đàm kiếp này, nhưng khi nghe được 1 câu vắn tắt của Phật, thì họ hiểu được vấn đề với cả 2 chiều sâu rộng về duyên sinh và duyên hệ.

Chúng ta hôm nay thời mạt pháp, không biết căn tánh mình thuộc loại nào, nên nếu có thể thì phải học giáo lý qua 3 Tạng, để ít nhiều tự xác định được mình thích hợp với đường lối tu học nào.

Tạng Kinh gồm các pháp thoại của Thế Tôn và các vị thánh tăng cho các đối tượng khác nhau. Nếu nghiên cứu Kinh Tạng đủ sâu thì ta sẽ thấy nội dung Kinh Tạng gồm đủ nội dung cho cả 3 hạng vừa nói trên.

Luật Tạng tuy có nội dung nhắm riêng cho Tăng Ni, nhưng người có học luật và hành luật sẽ thấy được rằng các học giới của người xuất gia đều có tác dụng trực tiếp lên đời sống tu tập của chúng ta thông qua 3 nghiệp, 6 căn, 12 và 14 (học kỹ ở tháng 12).

Bây giờ giảng sơ, ai muốn học thì học, không thì thôi. Mình học mình nghe nói tâm thiện là 1 + 13 + 25, còn tâm ác là 1 + 13 + 14, mình thấy nó không mắc mớ gì đến giới của người tu. Mà thực ra từng giới đều có tác dụng dẹp bỏ cái này (14) để xây dựng cái này (25). 

Ví dụ: tỳ kheo buổi chiều không giữ thức ăn qua đêm, nhìn thấy hơi bình thường nhưng khi không ăn chiều mình đã giải quyết được rất nhiều phiền phức, ăn là xào nấu bằm xắt rửa chén… 

Không ăn chiều là tránh được bao nhiêu cái rắc rối. Không ăn chiều nhưng anh còn làm việc với thức ăn, còn giữ qua đêm, anh để tủ lạnh anh sợ hư… có hàng ngàn hệ lụy ở trong đó. Thí dụ như khi mình không được để qua đêm thì không có vụ gián chuột kiến, mèo… Ngày nào giải quyết ngày đó. Khi mở tủ thấy cái nào hư lòng cũng lo, thấy cái nào ngon thì lòng cũng khóai. Nên mới có nghiên cứu khoa học, người đàn ông độc thân ốm hơn người đàn ông có vợ, vì người đàn ông độc thân mở tủ lạnh không thấy gì nên đi ngủ, còn người đàn ông có vợ lên giường thấy chán vợ nên mở tủ lạnh quất, cứ vậy nên nó mập. 

  1. Không ăn chiều là tránh được bao nhiêu cái phiền,
  2. không giữ qua đêm tránh được bao nhiêu vấn đề, như chưa ăn đã sắm trước, chưa ăn ai cho cũng nhận vô, khách tới móc ra mời, tùm lum hết, rồi sợ hư cái này, sợ hỏng cái kia. 
Nên theo nguyên thủy, ăn bữa nào biết bữa đó, đói quá chữa lửa bằng cái gì đó là xong. 

Ai từng sống ở cảnh chữa lửa thì biết, nay tui mách cho, 

  1. gạo lức / gạo nếp, đậu xay nhuyễn thành bột mịn, để vài kí trong balo, qua Miến Điện thì buổi chiều pha nước sôi quấy lên, ăn mặn thì có tôm khô lấy ra làm cháo, nó không bốc mùi không ai biết đến, mà không muốn ai thấy mùi nữa thì làm buổi trưa trước. 
  2. Cách nữa là hốt nắm gạo bỏ vô bình thủy nước sôi đậy nắp lại, 6 tiếng sau ra nguyên bình cháo lộng lẫy luôn. 
Bà con đi thiền đều có kinh nghiệm này hết. Mà tôi thương mấy người đó, vì là cách chữa lữa không, chứ vô thiền viện mà băm băm xát xát, xào tùm lum là sai.

1h44p28s.

16/09/2020 - 01:22 - Nguyenhuongbichhue

Khi bị đói, thà chữa lửa còn hơn chuẩn bị hoành tráng. Người chữa lửa gọn lắm . 

Tôi có biết và cô Phật tử bên Châu Âu có cách chữa lửa rất khoa học. Họ lấy cá tuna làm chà bông sợi nhỏ, để đảm bảo protein khi sang Miến lúc đói bụng. 
  1. Sáng ăn cháo cũng có thể cho vô, 
  2. chiều đói thì lấy ra nhai nhai để đủ protein. 
Thà bị cấm rồi xé rào 1 chút, còn hơn mở cửa toang hoang, là thiền viện quá trời mùi luôn. Thiền sư nhìn là biết hết, nhưng mà bỏ qua, tên nào no nhìn tướng đi ngon lành, tên nào đói nhìn tướng đi lạ lắm, như táo bón á. 

Ai ở thiền viện biết nó đói nhìn nó ngộ lắm, nó đi qua cây chanh, cây tắc nó hay rờ rờ, vì nó không được ăn.

Về lý thuyết tạng Luật nó không có ghê, không có ảo diệu, sâu sắc, huyền vi bí hiểm trừu tượng như là 2 tạng kia. Nhưng trong hành trì thì 2 tạng kia phải chạy qua tạng Luật.

Cái chuyện mà giấc chiều, ông không có gì hết, không tiếp xúc bừa bãi, tiếp xúc tay đôi với phụ nữ chỗ vắng, không giữ thức ăn, không giữ tiền bạc, tài sản. 

Cốc liêu tự cất, mỗi 1 cốc không quá 3m. 
  1. Tỳ kheo mà tự ý cất thì chỗ đất cất phải hỏi ý chư Tăng, mỗi cốc không quá 3m. 
  2. Không đi sớm về khuya mà không trình tăng, phải có lý do chính đáng. 
  3. Có những thuốc chữa bệnh được quyền giữ khi sử dụng cho đến hết, có thuốc chữa bệnh chỉ được giữ trong 1 tuần, rồi tìm cách giải quyết đi, ví dụ như mật ong. Lúc bị bệnh thì mật ong, sữa, những thứ ngon miệng lúc bệnh được quyền dùng, nhưng xong phải nhờ người khác cất đi, bản thân không được tự ý giữ. 
Hũ muối, hũ đường dùng để nêm nếm, sau khi múc ra lập tức nó trở thành thức ăn buổi sáng. Buổi chiều khuấy nước mình không được dùng nó nữa, vì nó là thực phẩm rồi. 

Những chuyện đó phải học luật và giữ luật thì mới thấy nó rất là chi li. Người giữ luật trang nghiêm nhìn đâu họ cũng thấy phạm luật hết.

  1. Về lý thuyết thì Tạng Luật không hay bằng, 
  2. Về thực hành thì tạng Luật hay hơn 2 Tạng kia. 
Mỗi Tạng có cái sâu riêng, 
  1. Tạng Kinh nó sâu sắc trong hình ảnh, minh họa. 
  2. Tạng A tỳ đàm sâu sắc trong nghĩa lý. 
  3. Tạng Luật sâu sắc trong đời sống thực tế.
Trong tạng Kinh, đời sống nhìn vào không rõ nét bằng ông Tạng Luật. Trong Tạng Luật, từ nhà cầu lên đến bàn ăn đều là luật hết. Thí dụ như vào nhà cầu thì cái gáo múc nước không được quyền để ngửa mà phải để úp, vì ngày xưa người ta không có xài cái vòi vặn, họ dùng nước tích trữ trong cái lu, nếu cái gáo mình múc rồi để ngửa thì nước đọng trong đó làm nhớt cái gáo, người sau vào sẽ thấy gớm, nên dùng xong phải úp gáo xuống . Thấy nước gần hết cần múc đầy . Thấy nhà cầu dơ phải dọn cho hết dơ . Thấy nó có mùi dọn cho hết mùi. Tăng chúng sống với nhau phải tôn trọng nhau theo tôn ti hạ lạp, ngoài đời là vua mà vào đạo nhỏ hạ hơn thằng lính thì phải kêu thằng lính là sư huynh. Tuy nhiên đứng trước nhà cầu không có tôn ti, em nào tiêu chảy được đi trước (cười). Luật hay lắm, nếu you lớn hạ, nhưng you bón you đi sau, tôi tiêu chảy tôi đi trước. Tuy lớn hạ, nhưng người bệnh và người nuôi bệnh được hưởng nhiều quyền lợi hơn, trong Tăng chúng phải nể ông nuôi bệnh 3 phần, vì thằng cha nuôi bệnh không bỏ đi được, có lần tỳ kheo bị bệnh mà chư tăng cứ lo ngồi thiền, đi bát không à, buổi chiều Phật họp chư tăng lại Phật nói: các ngươi đã bỏ nhà ra đi, không cha không mẹ không người thân, các ngươi không thương nhau thì ai thương, hôm nay mình bỏ lơ người khác mai mốt đến phiên mình ai lo? 

Ở Kalama làm phòng y tế tôi phải viết câu này bằng tiếng Pali: Ai chăm sóc tỳ kheo bệnh, người đó chăm sóc Như Lai. 

Khi Ngài nói câu đó thì các vị tỳ kheo khỏe lắm. 

Có buổi chiều Ngài ngồi thuyết pháp, có ông vua bự, ông quỳ ông lạy, ông ở gần chùa ngày nào ông cũng vô gặp Phật, ông lấy cái miệng ông hôn bàn chân của Ngài. Có lần Ngài hỏi: “Đại vương cũng là vua, ta trước khi xuất gia cũng là vua, đại vương với ta bằng tuổi, sao đại vương hạ mình như vậy?” Ông nói: “Ngài là vua, con cũng là vua, nhưng Ngài có những cái con không có được”. Ông là vị Phật tương lai, là 1 trong 10 vị gần sắp tới. Ông đang ngồi nghe pháp, có người vô nói gì, cái mặt ông sầm liền. Phật hỏi: "Đại vương có an lạc không?" Ông nói: “Trước, Bạch Thế Tôn, con luôn an lạc, nhưng con mới nhận được tin không có vui . Trong nội cung báo hoàng hậu mới sinh công chúa . Con thích con trai . Con nghe không được vui”. Phật bảo: “Tại sao con coi thường con gái, khi tất cả đàn ông vĩ đại nhất đều do phụ nữ sinh ra ?” Kể từ lúc đó ông lạy Phật xong, ông thương công chúa như vàng. 

Không giải thích gì hết, chỉ quất 1 cái 1, ông vua xoay 180 độ. Hay quá, không có giải thích về nam quyền nữ quyền, mà chỉ 1 câu rất là dễ hiểu. Rùa cỡ nào cũng hiểu.

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Ba Tạng và Con Đường Tu Chứng (4-6)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=vBxcTrs6iY4&abt=Ba+T%E1%BA%A1ng+v%C3%A0+Con+%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng+Tu+Ch%E1%BB%A9ng

Lúc Ngài mới thành đạo, bà dì ruột thương Ngài quá, bà cúng Ngài 1 bộ y do chính tay bà dệt. Ngài từ chối nói cúng cho chư Tăng. Bà sốc, bà đem cúng cho ngài Xá Lợi Phất, ngài nói tôi y đủ rồi, theo luật không được nhận y dư. Tới ngài Mục Kiền Liên cũng lắc, lắc riết. Đến ông cuối cùng mới tu. Ông ừ mới ghê. Bà mới sốc. Đức Phật mới nói đem bình bát ra đây, Ngài cầm, Ngài chú nguyện: “Tất cả tỳ khưu ở đây, kể cả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên cũng không tìm ra trừ cái ông mới tu”, Ngài nói xong Ngài thẩy 1 cái đi mất tiêu, Ngài nói các vị tỳ kheo đi tìm giúp Như Lai cái bình bát. Ngài Mục Kiền Liên tìm không có ra, ngài Anuruddha là đệ nhất thiên nhãn, ngài rọi mấy chục cái ổ ếch  cũng không thấy cái bình bát. Phật chú nguyện làm sao mà thấy? Có những vị biết chuyện, mới nói ông mới tu tìm thử. Ông nói trời ơi tôi mới tu, chưa biết sơ thiền vuông tròn dài ngắn ra sao, nói gì đến thần thông. Vị đó có huệ căn, vị đó mới nói: "Chư tăng ở đây tìm hết rồi còn có mình con, thôi để con tìm." Ngài quỳ xuống Ngài khấn thế này: "Con đi xuất gia không phải vì danh vì lợi, cũng không phải vì cầu quả phạm thiên Đế Thích, mà con chỉ cầu quả Bồ đề vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như Thế Tôn, nếu con mà thành Phật con xin bình bát của Thế Tôn có trên tay của con." Ngài khấn xong bình bát nằm trên tay Ngài. Đức Phật mới mỉm cười, ngài Ananda biết Thế Tôn không có vô cớ mỉm cười .

Vị mới tu này chính là Phật Di Lạc. Nghĩa là lá y bà mới cúng, là cúng cho vị Phật kế. Trong Kinh nói, lúc đó trong vô lượng vũ trụ, vị Phật Di Lạc là người thứ 2 mà phước báu nhiều, chỉ sau Đức Thế Tôn mình thôi. Phước gấp hơn ngài Xá Lợi Phất ngàn triệu tỉ lần, mặc dù ngài vẫn còn phàm, nghĩa là ngài chưa đắc La Hán thôi. Khi giáo pháp Như Lai hết, trái đất sẽ trải qua thời gian mông muội không có văn minh, sau giai đoạn đó sẽ đến giai đoạn hoàng kim văn minh, lúc đó tỳ kheo này sẽ ra đời làm Chánh Đẳng Chánh Giác thuyết pháp giống như ta bây giờ, độ vô lượng chúng sanh như ta bây giờ.

Tôi có đọc 1 bài kệ cúng y, trong đó có câu “Một đại y hai cánh Đường Tôn”, tức là 1 bộ y sang tay 2 vị Phật, lúc đó ngài mới có 1 câu trong lễ dâng y là “… 2h1p24s” nghĩa là khi cúng dường cho chư tăng cũng là cúng dường cho Như Lai, vì chư tăng từ Như Lai mà có.

2h01p43s.

17/09/2020 - 01:03 - Nguyenhuongbichhue

Tăng nghĩa là thánh Tăng đó. Bởi thánh Tăng là 1 phần của 1 vị Phật, do Ngài dạy mà có. Các vị A La Hán được Ngài gọi là con trai của ta, người nữ mà đắc A La Hán gọi là con gái của ta.

Tiếp theo là tạng A tỳ đàm, nhìn thì rất là sâu, nhưng trong đời sống thực tế thì cái cha nào học luật và trì luật thì cha đó đem 2 tạng đó dồn vào trong từng activity của mình. Khi học luật và hành luật, thì tỳ kheo đem tinh thần của cả 2 tạng kia ghép lại vào từng sinh hoạt lớn nhỏ của mình. Có những điều luật khi được nghiêm trì thì giúp tỳ kheo sống rời xa các tập tính của 4 cõi đọa. Có những điều luật khi được nghiêm trì thì giúp tỳ kheo sống rời xa các tập tính của nhân thiên, dục giới. Có những điều luật khi được nghiêm trì thì giúp tỳ kheo sống rời xa các tập tính của phàm phu. Có những điều luật khi được nghiêm trì thì giúp tỳ kheo từng bước tháo gỡ các mắt duyên khởi…

Có những điều luật khi được nghiêm trì thì giúp tỳ kheo sống rời xa các tập tính của 4 cõi đọa. Con thú có những loài rất thích tích trữ đồ ăn. Là loài thú, thích là nó ăn không kể gì hết. Không kể thiện ác, nó ăn được là nó quất. Mà nếu tỳ kheo giữ giới trong sạch, có phải họ bỏ được thói quen tích trữ đồ ăn không? Là bỏ thói quen của loài thú đúng không? Tỳ kheo giữ giới trong sạch thì không phải cái gì cũng ăn. Trong khi loài thú thích là ăn.

Có những điều luật khi được nghiêm trì thì giúp tỳ kheo sống rời xa các tập tính của nhân thiên cõi dục. Nhân thiên cõi dục có tập tính là lựa cái gì ngon, cái gì tốt. Tỳ kheo thì không được như vậy. Y tốt cách mấy cũng không được nhận nếu đã đủ rồi. Đồ ăn ngon có mấy cũng không được nhận nếu quá Ngọ. Vàng bạc châu báu cách mấy Tỳ kheo cũng không được quyền nhận. Tỳ kheo giữ tiền có nhiều cái bậy lắm. Ví dụ như Phật tử gặp mình cũng thành thói quen, không cúng cũng kỳ. Rồi ông sư gặp mà họ không cho thì nghĩ họ coi thường mình. Rồi mình đánh giá tình cảm con người qua con số trong bao thơ. Cho 100 thì có chút cảm tình, cho 200 thì có tình cảm đặc biệt, 500 thì tình cảm đáng lưu ý, 1000 trở lên thì phải ghi sổ đỏ (cười). Nếu không nhận tiền thì đứa nào coi như đứa đó.


Tứ thanh tịnh

Có những điều luật khi được nghiêm trì thì giúp tỳ kheo sống rời xa các tập tính của phàm phu. Tỳ kheo mà giữ được tứ thanh tịnh thì thu thúc 6 căn. Tứ thanh tịnh giới của Tỳ kheo gồm có 4: 
  1. giới bổn thanh tịnh: 227 giới đó nằm trong giới đầu tiên thôi là giới bổn thanh tịnh
  2. nuôi mạng thanh tịnh
  3. quán tưởng thanh tịnh
  4. thu thúc lục căn thanh tịnh  
là 4 đại giới của Tỳ kheo. 

227 giới đó nằm trong giới đầu tiên thôi – giới bổn thanh tịnh. 

3 giới sau là thu thúc lục căn thanh tịnh. 

  1. Tỳ kheo bậc hạ giữ được 227 giới (giới bổn thanh tịnh) với nuôi mạng thanh tịnh (1 và 2). 
  2. Tỳ kheo bậc trung là thêm quán tưởng thanh tịnh (1, 2 và 3). 
  3. Tỳ kheo bậc thượng phải thêm thu thúc lục căn thanh tịnh (1, 2, 3 và 4).
Lục căn thanh tịnh nghĩa là Tỳ kheo 
  1. không để tâm mình bất mãn với cái gì mình nhìn, nghe, ngửi, nếm, đụng, 
  2. không để tâm mình đam mê với cái gì mình nhìn, nghe, ngửi, nếm, đụng.
Quán tưởng thanh tịnh nghĩa là mỗi lần Tỳ kheo sử dụng các thứ vật chất như y, áo, thuốc men, chỗ ở là phải quán tưởng như sau. 
  1. Mỗi lần mặc y đều phải quán tưởng y này là để che thân, không phải để làm đẹp. 
  2. Mỗi lần ăn thì nghĩ rằng ăn là để tu hành, không vì lý do nào khác. 
  3. Mỗi lần vào ra chỗ ở, nghĩ rằng đây là chỗ để ta tu hành, không vì lý do nào khác. 
  4. Khi bị bệnh, uống thuốc cũng tâm niệm rằng ta uống thuốc để dứt bệnh để tu hành chứ không vì lý do nào khác.
Chánh mạng là Tỳ kheo chỉ có 1 cách kiếm sống duy nhất là trau dồi pháp học pháp hành để tu cho người có đạo tâm hộ trì. 

Có 1 chuyện đây tôi nói mà bà con không có tin. Tôi là thầy chùa tôi tin. 90% (trừ 10% cá biệt, chỉ xui quá, thiếu phước quá mới gặp trường hợp đặc biệt) ông sư chỉ cần học giỏi giáo lý và giới luật trong sạch thì không có đói được. Tôi tu từ ngày 19/2/1980 đến giờ là 40 năm, tôi biết chắc điều đó. Cho nên anh cứ lo học giáo lý, tu hành thì nó huyền diệu lắm, muốn đói cũng rất khó, cùng lắm 1, 2 tháng đầu thôi. Thường do lý thuyết ông chưa thuyết phục được mình, hoặc giới hạnh chưa thuyết phục được mình, chứ thuyết phục được rồi thì bán nhà mà nuôi. Tôi là thầy chùa, mà tôi sẵn sàng ủng hộ hết mình những thứ vật chất tôi có cho ông sư kiểu như vậy.

2h20p34s.
18/09/2020 - 01:03 - Nguyenhuongbichhue

Vừa rồi tôi về Miến Điện, tôi đảnh lễ ngài … (2h20p40s), Ngài cả đời từ khi tu không ăn điểm tâm , ngày ăn đúng 1 buổi thôi. Buổi chiều chỉ uống nước trái cây thôi. Thì tôi nghĩ ở trong bụng, nếu bây giờ mà Ngài không có ai hộ trì thực phẩm, thì đem Ngài qua Mỹ, hoặc tôi về Miến Điện tôi sống, thì với sức của tôi, tôi nghĩ tôi nuôi Ngài dư sức. Tôi không có giàu, nhưng Ngài ăn ngày có 1 bữa à, thì sức tôi là đi xin Phật tử về cho Ngài. Ngài là trường hợp đặc biệt mà tôi có suy nghĩ đó. Khi tôi lạy Ngài, tôi lấy trán gõ vô cái chân Ngài, Ngài cười cười, mà mát dữ lắm. Đó là 1 trong những lần tôi tin. Các vị có biết Ngài … (2h21p40s), khi đảnh lễ tôi nghĩ trong bụng Ngài không phải là máu mủ gì của tôi. Nhưng cái gì Ngài cần, tôi cúng được bằng vật chất tôi cúng hết. Nếu mai này có 1 lúc nào đó Ngài bệnh, Ngài lên tiếng ông về dòm ngó tôi 3 tháng, tôi về, về đổ bô, đấm bóp, quét nhà… Ngộ lắm. Có cái lực nó đáng lắm. Máu mủ mà không ra gì, nó ngán lắm. Còn người dưng nước lã mà có 2 cái đó thôi. Thì chính tôi lấy bụng tôi suy ra, Mỹ thì có ngài …(2h22p27s)… nhiều lắm. Ngài Pa-auk giờ nói muốn gì, tôi chiều hết. Cái gì tôi có là tôi cho liền. Tôi không làm để cho Phật tử thấy, tôi không cần, tôi thương, tôi quý Ngài lắm. Thậm chí nhiều vị có 1 trong 2 mà đã ăn không hết rồi.

Tỳ kheo bậc trung, thêm cái quán tưởng. Tại sao cái quán tưởng quan trọng? Nhiều khi mình quên tu mà mình có quán tưởng, tự mình kéo mình trở về có biết không. Hồi nhỏ tôi không biết cái này, về già mới ngộ ra. Khi chơi tung tăng quên mất 227 cái kia, mà nhớ quán tưởng nó kéo mình về lại.

Tỳ kheo bậc thượng dù còn là phàm phu, cũng đủ làm cho quỷ thần khiếp sợ. Trong kinh nói, vị đó ở chỗ nào trong cốc, thì phi nhơn không dám ở trên cao hơn.

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Tam Tạng Kinh Điển và Con Đường Tu Chứng (5-6)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=vBxcTrs6iY4&abt=Ba+T%E1%BA%A1ng+v%C3%A0+Con+%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng+Tu+Ch%E1%BB%A9ng

Tại sao có vụ thượng hạ, là mình nói để mình hiểu hơn. Mà cái này là câu quan trọng, bà con phải ghi ngay bây giờ. 

Trong 4 điều trên, điều nào gắn liền với chánh niệm nhất được xem là hạng nhất. 227 giới này có thể lơ là (ngồi ở trong nhà thì sao phạm), nhưng giới chánh mạng không phải dễ. 

Ví dụ: Khi mình nói đạo, mình coi bói, làm bùa, làm phép, làm cái này làm cái kia để nuôi mạng là tà mạng thô thiển

Còn tà mạng vi tế là khen mình chê người . 

Ví dụ: Phật tử thăm hỏi Sư có khỏe không, thì trả lời: “Cũng nhờ ngồi thiền đó con, nên cũng khỏe”, hay hỏi: "Sao cốc sư dơ thế ?" thì trả lời: “, thì con biết mâymà, ba cái tra cứu kinh sách, ngồi thiền khổ quá con ợi" Cốc dơ mà chả đẩy chả lên  luôn. Qua cái cốc sạch này, thì trả lời: “Thì cái trú xứ nó phải vậy mới thích hợp để giữ tâm con”… Nếu mình trong sạch thì mình không cần nói quá trời quá đất. 

Đó là tà mạng vi tế. Người tu chân chánh có lý tưởng tu hành thì cái chút chút đó cũng phải biết. Chứ làm sao mà phải nói hơn thằng kia 1 bậc ? 

Có Phật tử thấy sư kia lo bận bịu, còn sư này thảnh thơi thì ông nói: “Trách nhiệm sư là phải tu hành, còn cái chuyện chùa miễu là giao cho cư sĩ, giới định tuệ là mình phải tập trung .” Coi như bao mồ hôi nước mắt ông kia là xuống bùn hết, còn cái ở không của ổng được quy vào giới định tuệ. 
Cái đó được gọi là tà mạng. Mà cái đó không ai chứng minh được hết, chỉ có mình mình biết mà thôi. Bởi hôm qua mình học cái nghiệp duyên là cái lực đẩy của chủ ý trong các hành động. Cũng 1 câu nói “cốc dơ vậy sư” mà cái chủ ý làm câu trả lời biến thành tà mạng. Thấy cốc dơ thì trả lời tại tôi làm biếng là xong, thấy vậy mà tội nó ít. 

Có cái này phải ghi: tại Phật tử đẩy chúng tôi vào cái thế đó, quý vị là những người rất khoái ba xạo, tôi nói thiệt. Đời tôi gặp nhiều thứ, tôi kể vô tư cho cả thiên hạ nghe. 

Kỳ rồi đi Úc, ông sư Việt Nam đầu tiên, maybe là duy nhất mà làm trụ trì 1 thiền viện của Thái Lan, đó là ông sư Thái Bình ở bên Úc, mà sư cực kỳ bình dân. Mình ăn xong mình nhòm xem thử rửa bát chỗ nào, sư nói: “ông là khách, ông không quen chỗ để đó tôi lo”. Ăn xong sư vắt áo lên, còn mặc áo trong, dắt đi giới thiệu tùm lum nhưng cốt cách của sư đưa tiền không nhận. Những người đó tôi khoái, rất bình dân, không làm màu. Còn Phật tử họ trách vì sao sư không y áo trang nghiêm, cái đó tùy tình huống hiểu không. Đang làm dở tay mà mình gặp thì làm sao, đừng có lòi nhiều quá thôi, phản cảm quá thôi. Đằng này lúc nào cũng đòi ông sư đắp y kín mít. Ok, thích thì chiều . Kể từ đó gặp 1 ông sư sáng choang, nhưng cái ruột rỗng tuếch. Nếu tôi là cư sĩ, tôi để ý cái bụng ông sư hơn. 

Giới luật có nhiều cách giữ lắm, nhưng không cần thiết phải cho biết you đang giữ giới, mà Phật tử không biết cái đó . 

  1. Họ không cần biết giáo lý bởi vì họ không có nhu cầu biết giáo lý: đó là điều thứ nhất. 
  2. Điều thứ 2 là họ mê cái ông nhìn vô chói chang nắng hạ. 
Trong Kinh có cái này mới độc:

  1. hạng 1 là đam mê danh lợi, 
  2. hạng 2 là không ham mê danh lợi nhưng muốn người khác biết mình không ham mê danh lợi, 
  3. hạng 3 là không muốn người khác biết nhưng tự thấy mình là không ham mê danh lợi, 
  4. hạng 4 không ham mê danh lợi 1 cách tự nhiên và không thấy gì hết.
 
2h35p14

19/09/2020 - 01:18 - Nguyenhuongbichhue

Một là không có giới . Hai có giới mà mong người khác biết là chưa khá, bởi vì lúc đó anh giữ giới dùm chứ không phải giữ cho anh. 

Những người cầu đạo giải thoát, họ giữ giới thiệt chứ không phải giữ giới cho người khác biết. 

Chính quý vị là tác giả của những thứ đó, cho nên quý vị tạo ra cái gì quý vị sẽ gánh thứ đó.
 
Tôi khác, tôi đi tìm đạo . 
Tôi muốn nghe ông đó nói gì .
Có những vị thầy có cái để mình nhìn .
Có những vị thầy có cái để mình nghe, mình bắt chước. 
Có những cái đáng để mình đội lên đầu. Giống như mình đi chợ: có cái đáng để mình nhìn rồi mình bỏ đi, có cái đáng để mình mua 1 chút, nhai nhai rồi liệng, có cái mình mua về nấu nguyên 1 nồi, ăn cho hết, rồi bỏ xác, có cái ăn luôn vừa xác vừa cái. Mình đi chợ mua cà phê về, lấy nước bỏ xác, mua rau về lấy gì bỏ gì… Hiểu không?

Đến với Tăng ni, Phật tử, bạn bè mình cũng phải y chang đi chợ vậy. 

Có những người như chai nước suối, mình quất hết luôn. 
Có những người như trái bắp, bỏ trong bỏ ngoài ăn khúc giữa. 

Mấy cái đó không phải tôi nghĩ ra, Kinh dạy. 
Ngài Xá Lợi Phất Ngài nói:

Có những con người như cái hồ lớn, mình nhào xuống nguyên 1 con, vừa tắm vừa uống. 
Có những người giống như cái lu, mình không nhảy vô được mà mình chỉ múc uống, tắm. 
Có những người như vũng nước, mình chỉ vốc mình uống. 
Có những người giống như 1 vũng nước nhỏ, chỉ đủ để rửa tay.

Mình thấy mình học Tạng Luật, các vị khiếp chưa. Mình học tưởng chỉ có vị Tỳ kheo không được cái này, không được cái kia, thì mình thấy nó cạn. Trong khi A tỳ đàm thì 12 14 vô minh duyên hành, mình thấy rùng rợn. Nhưng thực ra thì, ai có kiến thức về bách khoa, sẽ thấy tên học ngành Y, ngành Dược sẽ học quá trời đủ thứ, nhưng tên mà ăn kiêng, kiến thức không bằng hai tên kia, nhưng nó sẽ làm đúng 1 số hướng dẫn, thì nó đang áp dụng kiến thức của hai tên kia. Nó không biết nhiều lắm về fructose, lactose, glucose, acid, pH… Nhưng nếu nó sống dưỡng sinh đúng theo thầy Tuệ Hải, thì nó âm thầm làm đúng điều 2 thằng kia biết. Hiểu chứ?

Giống như 1 đứa bé, má nó dặn: “Ăn xong hãy rửa tay . Trước khi ngủ không ăn đồ ngọt”. Tuy cái đầu của nó không biết bằng má nó, nó không hiểu vì sao ăn xong phải rửa tay, trước khi ngủ phải đánh răng… Nhưng khi nó làm theo là nó đang thực hiện theo kiến thức của má nó.

Thì cái giới Luật cũng vậy. 1 vị tỳ kheo mà biết cả 3 Tạng là số 1. Nhưng nếu 1 vị tỳ kheo chỉ biết giữ giới thôi, thì đang thực hiện tinh thần của 2 Tạng kia. Ví dụ giờ vị đó đang thu thúc lục căn, là làm theo tinh thần của Giáo Lý Duyên Khởi đúng không? Do vô minh trong 4 đế nên tạo các nghiệp thiện ác, do các nghiệp thiện ác nên có tâm đầu thai các cõi, nên chúng ta có đủ 6 căn hay không, do có đủ 6 căn nên người ta sống đủ với 6 trần, nếu sống với 6 trần bằng chánh niệm, trí tuệ thì đó là con đường giải thoát, nếu sống với 6 trần bằng phiền não thì ở lại con đường sinh tử. Ông đang tu theo tinh thần của Giáo Lý Duyên Khởi nhưng có điều không nói hay bằng vị tu A tỳ đàm. Thằng nhỏ không nói hay như ba với má nó, nhưng nó biết ăn xong rửa tay, trước khi ngủ là đánh răng, là nó đang hiện thực hóa kiến thức của bố mẹ nó, nó biến cái biết của bố mẹ thành ra hành động.

Như vậy, riêng cái giới là nó sâu sắc đúng không? Tuy về lý thuyết giới không có gì hết, nhưng mà giới giúp cho ta hành động y chang như Tạng Kinh và Tạng A tỳ đàm nói.

--ooOoo--

Bồ Tát 

Câu hỏi: bên Đại thừa có Bồ Tát giới – giới của Tỳ kheo, thì khác gì với giới của Tỳ kheo của nguyên thủy?

Đáp: giờ tôi nặn mụn, nếu nó có đau thì phải biết là đau do nặn mụn, vì nặn mụn không thể êm ái như 1 nụ hôn, hiểu không? Tôi đang trả lời 1 câu hỏi, thì tôi phải nói sự thật, quý vị tin hay không thì tùy. 
 
Thứ nhất, Bồ Tát giới . 
Trong Phật giáo Nguyên ThủyBồ Tát là sao ? Chuyện rốt ráo nhất của Bồ Tát là người không muốn luân hồi sanh tử, mà chỉ muốn Niết Bàn, thì gọi là Bồ Tát. Nhưng trong số người mà muốn giải thoát, chia ra 3 cấp:

- Bồ Tát Chánh Đẳng Giác là muốn thành Phật, không cần thầy nhưng độ được nhiều đệ tử.
- Thứ 2: Muốn tự mình thành Phật, không cần thầy, nhưng không độ được đệ tử.
- Thứ 3: Phải cần thầy, nhưng có thể độ được đệ tử.

Ông thứ 3, ông phải có thầy độ được đệ tử, ông chỉ có mặt khi có Phật tổ ra đời, tức là ông thứ nhất có mặt thì mới có ông thứ 3. Ông thứ 2, khi không có 2 ông kia thì ông mới có mặt được. 

Chữ Bồ Tát mà bên Phật Giáo Bắc Tông dùng là Bồ Tát hạng 1 – Phật tổ, chứ họ không nói đến 2 hạng phía sau.

Tại sao trong kinh điển Pali, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không nói nhiều về Bồ tát, gần như là không nhắc đến, vì sao chỉ được nhắc đến trong kinh điển Phật giáo Bắc phát triển ? 

Nghe cho kỹ nha. 

Là bởi vì muốn thành Phật rất khó . Trong 1 tỷ người được nghe Phật pháp, chỉ có 1 người phát tâm thành Phật, và trong 1 tỷ người phát tâm thành Phật, chỉ có 1 người đi tới bến thôi, còn lại đi dọc đường rã rời, bỏ nguyện hết. Bởi vì người đó phải có trí, có bi, thương đời nhưng mà phải có trí tuệ để biết cách đi làm sao thành Phật. Hạng này rất là hiếm nên rất là khó. Chính vì làm Phật khó quá cho nên quả vị làm Phật giống như tỷ phú, Tổng Thống. Không có trường nào dạy mình làm tỷ phú, Tổng Thống hết. Cái trường đó dạy chương trình chung cho mọi người, từ trường đó ra ai có bản lãnh làm tỷ phú, Tổng Thống thì nó tự động ôm cái bằng cấp đó ra làm đủ trò, để cuối cùng nó thành tỷ phú, Tổng Thống, chứ không có trường nào chuyên môn đào tạo cả. 

Đây cũng vậy, ở đây Phật thuyết pháp chung chứ không có riêng cho 1 anh nào hết. Nhưng, 

  1. Ai có khả năng Bồ Tát, khi nghe giảng những cái nãy giờ, thì ông không muốn thành A La Hán Thinh Văn mà ông chỉ muốn làm Phật. Ông muốn những cái nãy giờ nghe giảng này, là ông muốn dạy hết cho vô lượng chúng sanh trong vô lượng vũ trụ, ông mới vừa lòng. 
  2. Ông Độc Giác ông nghe cái nãy giờ nghĩ bụng, dù sao mình hiểu tới nơi tới chốn, khỏe thân, không nghĩ cho ai khác. 
  3. Ông Thinh Văn Giác nghe cái nãy giờ ông nghĩ bụng, hay quá, kiếp này mình không đắc, mai mốt Phật khác mình cũng cố gắng đắc. 
Cũng 1 giáo pháp như vậy, nhưng 3 ông có 3 cách tiếp nhận khác nhau.

Tôi nhắc lại, trong kinh điển Pali, Đức Phật không chỗ nào khích lệ người ta thành Phật hết, vì Ngài biết cũng chừng đó giáo lý, ai có bản lãnh thành Phật thì tự nhiên chừng đó đủ rồi. 

  1. Họ thấy mọi sự là vô ngã vô thường, bấy nhiêu là họ đủ nguyện thành Phật. 
  2. Còn những người bản lãnh chỉ thành Phật Độc Giác, là họ sẽ chỉ muốn đắc 1 mình họ. 
  3. Ai mà có khả năng làm Thinh Văn thì họ nghe, họ muốn nhảy vô rừng ngồi đắc tại chỗ.
Để trả lời câu hỏi của cô, tôi phải nói chữ Bồ Tát rộng như vậy đó. Nên trong kinh điển Nam Tông họ không mặn mà chữ Bồ Tát, vì thành Phật rất là khó. Còn bên Bắc truyền ai cũng nguyện thành… Nghe rất là đã nhưng con lạy các bố, không có dễ đâu.

Cho nên Đức Phật nói muốn trở thành tỷ phú không có dễ, nên Ngài mở trường đại học dạy chung, chương trình chung. Nhưng mà cái đầu của you nếu là của Bill Gates thì cũng chừng đó bài vở tạo ra Bill Gates. Còn không về đi bán sách.
 

Chuyện Ngài Xá Lợi Phất

Ngài Xá Lợi Phất trí tuệ bằng trời kìa, mà Ngài đã từng nguyện thành Chánh Đẳng Giác nhưng Ngài nản, Ngài bỏ.
 
Có 1 kiếp Ngài nguyện thành Chánh Đẳng Giác, ai xin gì Ngài cũng cho . Vừa nguyện xong có ông xin Ngài con mắt, Ngài cũng móc Ngài cho . Nhận con mắt xong, ông giục xuống đất, Ngài bị sốc toàn tập. Vì sao?
 
  1. Thứ nhất Ngài thấy Ngài đã tuyên bố quá sớm, vì Ngài tin rằng cho người cần, ai ngờ gặp người ác mà muốn thử thôi. 
  2. Thứ 2, dù người ta muốn thử, nhưng mình đã móc mình cho thì mình không nuối tiếc. Đằng này Ngài bị sốc vì nó lấy nó đi giục. 
Thế là Ngài bỏ nguyện. Mà Ngài đại trí đó, sống tốt lắm. Có những kiếp ai cần cái gì Ngài cũng cho. Có 1 cái tên cà chớn đó, tui không có cần gì của ông hết, tui chỉ muốn ông làm người giúp việc không công của tui thôi. 

Quý vị có dám làm điều đó không? Nguyện thành Phật là cái gì cũng dám làm, kể cả cái việc mình nghe qua đã khiếp vậy đó. Ngài “”. Khiếp chưa, muốn thành Phật là phải như vậy. 

Tôi sợ nhất là nghe lý thuyết rồi nguyện thành Phật. Nó có dễ đâu. Cô học Toán có biết lũy thừa không? Muốn thành Phật như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là nhanh nhất, phải tu 20 a tăng kỳ, 100 ngàn đại kiếp. Mà 1 a tăng kỳ là con số = 10 với 140 số 0 đại kiếp, mà 20 lần như vậy mới thành Phật. Không dễ đâu, mà thử thách muôn trùng. Trong số 20 a tăng kỳ đó, số lượng Phật Ngài gặp chỉ có vài chục người thôi. 10 với 140 số 0 đâu phải ít, nhiều lắm. 

Có những cám dỗ mình không vượt qua được, đang tu trong rừng đói nghèo, tự dưng có 1 người cực kỳ giàu đẹp, dễ thương, sang giàu, tâm lý đến chăm sóc mình sớm hôm, mưa rừng gió núi, mà nó thơm phức bà cố tôi chịu cũng không nổi. Tôi thuyết pháp thôi thù nhất khi tôi nói thiệt người ta khinh. Nói ông sư sao háo sắc. Cho nên muốn tôi xạo cho coi. Khi mình nói đạo phải phanh phui hết ra, thì nói ông sư này không có trang nghiêm. Phật tử mình nó ngu tuyệt đối. Chính các vị xúi chúng tôi xạo, chứ không có ai. Mà sự thật nó như vậy, khó lắm. Tu nhiều thử thách khó lắm, đói lạnh trên rừng trên núi. 

Mình đi học đạo mình giảng cho nó mà lỡ lời, nó về nó chửi banh xác, tự dưng chán, không muốn thuyết pháp nữa  Tôi bỏ rồi đó, tôi không muốn giảng kinh Tạng nữa, tôi không muốn in kinh viết sách nữa, người ta khó lắm. Vừa lòng thằng Tèo không vừa lòng thằng Tí, khó lắm.

2h53p33s.
20/09/2020 - 01:29 - Nguyenhuongbichhue

Cho nên muốn thành Phật phải vượt qua biết bao nhiêu rào cản.

Bây giờ tôi muốn nói đến cái chuyện Bồ Tát giới. Phật giáo Bắc truyền có 2 đặc điểm:

- Thứ nhất là mặc dù Phật giáo chung 1 nguồn, nhưng có 1 bộ phận này họ có nhu cầu hoằng pháp, mà nếu cứ khư khư thì hoằng pháp rất khó. Ví dụ như trong Luật nói ăn cơm phải đợi người ta dâng. Tôi nói thiệt tôi ghét cái luật đó lắm, vì đó là thời xưa, chứ ngày nay mình phải du di 1 chút. 
 
Tại sao có luật ăn phải có người dâng tại chỗ, vì có 1 vị hơi ẩu, người ta dọn cho mình ăn bên đây . Cái chén này ông đem cho má ổng, ông chuẩn bị bưng thì con ông khóc, ông để tạm bên đây để quay qua giữ con . Ông tỳ kheo lấy quất luôn. Vì ông tưởng người ta để bên đây cho ổng. Tôi nói thẳng là vị đó hơi bất cẩn, vô ý, vì cái của mình người ta sẽ để khác. Mình quan sát sẽ biết. 
 
Sẵn nói luôn. Có nhiều vị lạ lắm, người ta mời ăn cơm. Uống nước xong đàm lên lại khạc vô ly đó luôn, rồi lấy khăn giấy đậy lại. Các vị phải biết con nhiều cha, và xuất thân khác nhau, cái nền văn hóa khác nhau nên.... 
 
Thì cái ở đây nguyên thủy đạo Phật có 1 thôi, nhưng cái nhu cầu hoằng pháp, cứ khư khư khó hoằng pháp lắm, nên vụ dâng cơm tận tay là họ bỏ. Rồi họ thấy ăn mặc giống vầy (chỉ vào bộ quần áo sư đang mặc) chỉ có làm 1 việc thôi: Đó là sống đạo mà không giúp đời được nhiều lắm. 
 
Sống đạo là gì? Là ôm bát ngồi thiền thuyết pháp thì được . Giúp đời thì không được hiệu quả lắm. 
 
Cho nên họ chủ trương quần có ống, áo có tay để vừa bốc thuốc cho người ta, vừa dạy đạo. Nhà người ta khó khăn, con đi làm đồng, ba má ở nhà . Ông thầy có thể nhào đến chăm sóc, tắm rửa cho ba má. Chứ bên Nam tông chỉ có ăn rồi ngồi hoài thuyết pháp. Thì cái đó tôi không chê . Nhưng nhiều vị nghĩ cứ khư khư là không giúp đời được, thế là họ mới tách ra. Tách ra không phải là chia 2 phe, mà họ ít gần bên đó nữa .
 
(còn tiếp)
Reply