LTP Học Phật Pháp
Phật Pháp Căn Bản II – 
Vô Ngã
Tác giả: U Silananda
Người dịch: Sư Khánh Hỷ
https://theravada.vn/phat-phap-can-ban-i...-tam-tang/



VÔ NGà

Hôm nay chúng ta học một đề tài quan trọng trong Phật Giáo. Đó là thuyết Vô Ngã Anatta. Thuyết Vô Ngã chỉ tìm thấy trong Phật Giáo. Thuyết Vô Ngã khiến cho Phật Giáo khác hẳn các tôn giáo khác. Bởi vì hầu hết các tôn giáo khác đều có sự tin tưởng ngược hẳn với thuyết Vô Ngã (Anatta). 

Thuyết Vô Ngã là thuyết nòng cốt hay thuyết cốt yếu của Phật Giáo
  1. Điều quan trọng trước tiên là chúng ta phải hiểu thuyết Vô Ngã bằng lý thuyết
  2. Sau đó phài thực hành Thiền Minh Sát mới hiểu thấu đáo hơn. 

Đức Phật thuyết bài pháp Vô Ngã cho năm người học trò đầu tiên. Sau khi thuyết bài pháp đầu tiên “Chuyển Pháp Luân” cho các thầy Kiều Trần Như, năm ngày sau Đức Phật mới thuyết bài pháp Vô Ngã Tướng. Sau khi nghe và thực hành, năm thầy Kiều Trần Như đắc quả A La Hán.

Trong bài Kinh Vô Ngã Tướng (AnattaLak-khana). Đức Phật tuyên bố Năm Uẩn là Vô Ngã. Thật ra, Đức Phật lấy từng uẩn một mà nói rằng: Vật Chất là Vô Ngã, Thọ là vô Ngã, Tưởng là Vô Ngã, Hành là Vô Ngã, Thức là Vô Ngã. Như vậy, Đức Phật dạy rằng: Tất cả Năm Uẩn là Vô Ngã.

Anatta là Vô Ngã, có nghĩa không phải là Ngã (Atta). Chữ Anatta trong tiếng Pāḷi có hai phần: Na và Atta. Na có nghĩa là không, Atta có hai nghĩa:

  1. Một nghĩa để chỉ cho chính ta, đó là dùng chữ Atta như một đại danh từ.
  2. Một nghĩa khác là tôi, ta, linh hồn, tự ngã, một thực thể vĩnh cửu. Ý niệm này được rất nhiều người trong quá khứ và ngày nay chủ trương. Theo những người này, Atta có nghĩa là cốt lõi của tất cả chúng sinh.

Như vậy chữ Atta có ít nhất hai nghĩa.   
  1. Nghĩa thứ nhất chỉ là một Đại danh từ ngôi thứ nhắt, như: Tôi ăn, tôi uống… 
  2. Nghĩa thứ hai là “thực thể vĩnh cửu” như: Linh hồn, tự ngã v.v… Đây là điều được mọi người chấp nhận vào thời kỳ Đức Phật.

Đức Phật đã từ chối Ngã (Atta) theo nghĩa thứ hai này như tôi đã nói trước đây. Ngày xưa cũng như ngày nay, người ta tin tưởng có một linh hồn vĩnh cữu hiện diện thường xuyên trong cơ thể con người. Khi cơ thể bị già đi, bị hủy hoại từ từ và chết thì Ngã (Atta) sẽ rời khỏi cơ thể này đến nhận một cơ thể khác.

Cũng vậy, họ tin tưởng rằng: Có một cái Ngã (Atta) hoàn toàn vĩnh cửu. Ngã (Atta)là một “thực thể trọn vẹn” làm nhiệm vụ một kẻ tạo ra tác động, và cũng là một kẻ nhận chịu đau khổ hay hạnh phúc. Họ cho rằng: cái “thực thể trọn vẹn” hay cái “thực thể hoàn toàn” này là chúa tể. Vị này có quyền năng điều khiển mọi hoạt động của cơ thể v.v…

Khi Đức Phật ra đời, Ngài tuyên bố rằng: Năm Uẩn không phải là Ngã (Atta), Năm Uẩn không thể được xem như là một thực thể trọn vẹn. Trong Kinh Vô ngã Tướng Đức Phật nói Vật Chất không phải là Ngã (Atta). Đức Phật phân tích toàn thế giới thành ra Năm Uẩn, ngoài Năm Uẩn ra không có gì cả. Như vậy, Khi Đức Phật nói Năm Uẩn là Vô Ngã tức là Đức Phật muốn nói rằng: chẳng có Ngã (Atta) nào trên thế gian này. Mặc dầu Đức Phật chẳng nói rằng: không có Ngã (Atta). Nhưng khi Ngài nói Năm Uẩn không phải là Ngã (Atta) thì có nghĩa là không có Ngã (Atta).

Ngã (Atta) là gì? Vô Ngã (Anatta) là gì? Tôi vừa nói với bạn rằng: Đức Phật tuyên bố Ngũ Uẩn không phải là Ngã (Atta).

Có ba câu nói nổi tiếng trong Phật Giáo:

  1. “Tất cả Pháp Hữu Vi” đều Vô Thường. 
  2. “Tất cả Pháp Hữu Vi” đều Khổ.
  3. “Tất cả Các Pháp” đều Vô Ngã.

Như vậy hai câu đầu tiên Đức Phật nói rằng: Tất cả Pháp Hữu Vi (hay tất cả các Pháp có điều kiện, hay Vật Chất và Tâm) đều Vô Thường và Khổ. Nhưng câu thứ ba Đức Phật không dùng “Tất cả Pháp Hữu Vi” mà Ngài dùng “Tất cả các Pháp” (Dhamma). 

Như vậy, theo câu thứ ba thì tất cả các pháp đều là Vô Ngã. 

Tất cả các Pháp” có nghĩa là cả Ngũ Uẩn và Niết Bàn. Như vậy, chúng ta phải hiểu rằng: không những chỉ có Ngũ Uẩn mới Vô Ngã mà Niết Bàn cũng Vô Ngã. Đôi lúc chúng ta có thể nghĩ rằng: bởi vì Niết Bàn là đối tượng của thế gian, nên Niết Bàn phải có ngã, nhưng ở đây Đức Phật nói rằng: tất cả các pháp đều Vô Ngã. Mà các pháp ở đây bao gồm cả Niết Bàn. Như vậy, khi nói đến Vô Ngã (Anatta) ta phải hiểu rằng: Tất cả Năm Uẩn lẫn Niết Bàn đều Vô Ngã. 

Bởi vậy, chúng ta phải hiểu câu thứ ba: “Tất cả các pháp đều Vô Ngã” một cách đúng nghĩa tùy theo bản kinh. 
  1. Khi nói một cách tổng quát thì chúng ta phải hiểu tất cả Các pháp (Dhamma) ở đây là Năm Uẩn và Niết Bàn. 
  2. Nhưng khi nói đến Vipassana thì Các Pháp ở đây chỉ là Năm Uẩn mà thôi, bởi vì không thể lấy Niết Bàn làm đối tượng của Thiền Minh Sát.

Trong Kinh Vô Ngã Tướng, Đức Phật không nói Niết Bàn là Vô ngã. Tại sao Đức Phật không nói Niết Bàn là Vô Ngã trong bản kinh này. Tôi nghĩ rằng: bởi vì Đức Phật muốn hướng dẫn năm học trò trực tiếp hướng đến sự thực tập Thiền Minh Sát. Đối với những người hành Thiền Minh Sát chỉ có Năm Uẩn mới là đối tượng để hành thiền. Đó là lý do tại sao Đức Phật không nói đến Niết Bàn là Vô Ngã trong Kinh Vô Ngã Tướng.

Theo nguyên nghĩa Anatta (Vô Ngã) tức là không có Ngã. 
Nhưng Chú Giải đưa ra một nghĩa nữa, Vô Ngã (Anatta) có nghĩa là không có cốt lõi, hay không có một thẩm quyền nào trên nó. 

Như vậy, chúng ta có thể hiểu chữ Vô Ngã ít nhất hai nghĩa: Vô Ngã có nghĩa là 
  1. không có cốt lõi và 
  2. không có thẩm quyền trên nó. 

Do đó, Đức Phật nói Vật Chất hay Sắc là Vô Ngã, có nghĩa là Vật Chất không có cốt lõi hay không có chủ quyền. Không có quyền lực nào có thể hành xử chủ quyền hay làm chủ Vật Chất được.

Theo hai lời giảng giải trên thì Vô Ngã có nghĩa là “không có cốt lõi” và “không ai có thẩm quyền trên nó”, nhưng nghĩa thích hợp nhất khi nói về Vô Ngã là “không có cốt lõi”. Nhưng khi ta nói: Vật Chất là Vô Ngã (Anatta) bởi vì nó không có cốt lõi thì người ta có thể lý luận rằng: Đồng ý Vật Chất không có cốt lõi, nhưng phải có một cái có cốt lõi ở đâu đó; chỉ có Vật Chất không có cốt lõi mà thôi.   Theo lời dạy của Đức Phật thì luận cứ đưa ra đó không đúng.

Chữ “cốt lõi” hay “bản chất” hoặc “cốt tủy” ở đây có nghĩa là gì? Theo Chú Giải thì đây là một quan niệm sai lầm: cho rằng: có một cái ngã, một cái tôi, một thực thể trường tồn, vĩnh viễn. Chữ không có cốt lõi ở đây muốn nói đến không có thực thể trọn vẹn, không có một linh hồn. Trước đây tôi cũng có nói với các bạn rằng: Người ta thường có quan niệm sai lầm cho rằng: có một linh hồn hay một thực thể trọn vẹn nằm trong cơ thể của chúng sinh, và thực thể này là một thực thể hằng cửu. Khi cơ thể một người trở nên già và chết thì linh hồn hay thực thể này chuyển qua một thân thể mới.

Cốt lõi ở đây cũng là “kẻ tạo tác”, có nghĩa là một kẻ nào đó đã thể hiện hành động. Người ta có quan niệm sai lầm rằng: “Mặc dầu chúng ta nghĩ rằng: chúng ta đang làm một hành động theo ý muốn của chúng ta, nhưng thật ra đó là cái “Ngã” (Atta) đã làm ra hành động này chứ không phải chính chúng ta làm”. Như vậy, “Ngã” (Atta) thể hiện hành động hay tác động, chúng ta chỉ là dụng cụ hay phương tiện của “Ngã”. Cũng vậy, mỗi khi chúng ta kinh nghiệm điều gì, hạnh phúc hay đau khổ thì cũng không phải chúng ta kinh nghiệm mà cái “Ngã” (Atta) đã kinh nghiệm, và chúng ta cũng chỉ là dụng cụ hay phương tiện của cái Ngã thôi.  Ngã (Atta) này là chủ nhân ông”.

Một người làm chủ chính mình, đó mới là điều quan trọng. Không thể làm chủ chính mình có nghĩa là không có cốt lõi. Như vậy,Vật Chất (Rūpa) không có cốt lõi, bởi vì là Vật Chất (Rūpa) không có những đặc tính trên. Vật Chất không phải là kẻ thực hành, Vật Chất cũng không phải là kẻ kinh nghiệm. Vật Chất (Rūpa) cũng không phải là kẻ làm chủ chính mình. Khi chúng ta hiểu Ngã (Atta) theo cách này thì chúng ta có thể biết được Vật Chất (Rūpa) là Vô Ngã hay không có linh hồn, không có tự ngã, không phải là kẻ sống trong cơ thể này, không phải là người tác động, không phải là người kinh nghiệm, và không phải là kẻ làm chủ chính mình. Chú Giải đã giải thích rằng: Trước tiên chúng ta thấy Vật Chất là Vô Thường, vậy nó là Khổ. Hai điều đó chúng ta đã hiểu, nếu Vật Chất là Vô Thường thì nó phải Khổ, nó sẽ không có cốt lõi, không có bản chất, và tất nhiên là không có chủ quyền, bởi vì nó không thể ngăn cản cho mình khỏi bị Vô Thường, khỏi bị Khổ.

Đây là luận cứ được dạy trong Chú Giải: Cái gì bị Vô Thường, Khổ thì không thể ngăn cn chính mình không b s Vô Thường và s Khổ chi phối.

Còn về vấn đề kẻ tác động, kẻ kinh nghiệm thì sao? Có nghĩa là một vật gì đang Vô Thường thì không thể nào trở thành Thường được. Nếu cái khổ không tự mình ngăn cản trở thành không khổ được, thì làm sao nó có thể làm chủ được chính nó để làm kẻ tác động hay kẻ kinh nghiệm. Như vậy, cái gì là Vô Thường, cái gì là Khổ, thì chắc chắn cái đó là Vô Ngã hay có thể nói chúng là Vô Ngã trong ý nghĩa là không có cốt lõi, không có bản chất.

Điều này đưa đến sự giải thích khác về chữ Vô Ngã (Anatta). Đó là không thể hành xử chủ quyền được. Đơn giản có nghĩa là không thể theo ý muốn của chúng ta được. Tất cả Năm Uẩn đều là Anatta; bởi vì Đức Phật đã nói rằng: Cái gì Dukkha thì cái đó là Anatta. Anatta không nhận chịu quyền hành xử của kẻ khác. Nếu chính nó không thể ngăn cản mình trở thành Vô Thường, Khổ thì nó là Anatta, Vô Ngã.

Đức Phật đã đưa ra một tiêu chuẩn để ta dựa vào đó mà phán đoán; như vậy chúng ta có hai mô thức ở đây:

  1. Cái gì Vô Thường là Khổ, 
  2. Cái gì Khổ là Vô Ngã.

Vậy cái gì là tiêu chuẩn để dựa vào đó, ta có thể đoán định một vật là Vô Thường. Nói một cách nôm na thì đó là: nó “biến mất” sau khi “khởi sinh”. Như vậy, biến mất sau khi khởi sinh đó là dấu hiệu của Vô Thường. Bất kỳ cái gì khởi sinh và biến mất là Vô Thường. Cái gì Vô Thường thì cái đó là “Dukkha” hay đau khổ. Cái gì “Dukkha” thì “Anatta”. Chúng ta đã biết Năm Uẩn tức Sắc, Thọ Tưởng, Hành, Thức khởi sinh rồi hoại diệt hay hoại diệt sau khi khởi sinh. Khi chính ta thấy chúng khởi sinh rồi hoại diệt, ta biết chúng Vô Thường. Khi chúng ta biết chúng Vô Thường, thì chúng ta cũng biết chúng “Dukkha”. Chúng Dukkha hay Khổ không có nghĩa là Khổ về phương diện vật lý nhưng có nghĩa là bị đàn áp, bị áp chế bởi sự sinh diệt.  Như vậy, nghĩa của Dukkha ở đây là bị đàn áp, bị áp chế bởi sự sinh diệt. Điều này có nghĩa là một vật gì bị định luật sinh diệt chi phối là Dukkha. Bất kỳ cái gì có sự sinh diệt đều gọi là Dukkha. Nếu bạn thấy cái gì có bản chất Vô Thường thì bạn biết rằng:, bạn không thể làm cho nó trở thành Thường Còn được. Nếu bạn thấy cái gì đó là Dukkha thì bạn không thể chuyển nó thành Sukha được. Như vậy, bạn không thể hành xử gì trên chúng được. Do đó, chúng không có Tự Ngã hay chúng là Anatta (Vô ngã), trong ý nghĩa là chúng không tuân theo nghe theo ý muốn của bạn. Có nghĩa là chúng khởi sinh và hoại diệt theo ý của chúng, chứ không theo ý của bạn. Như vậy, Vật Chất và Tâm khởi sinh rồi hoại diệt, tùy theo điều kiện. Dầu ta có muốn chúng khởi sinh hay không, chúng cũng tùy thuộc vào điều kiện của chúng. Chúng khởi sinh rồi chúng hoại diệt. Như vậy, chúng ta không thể điều khiển hay kiểm soát sự sinh diệt của chúng được. Đó là lý do tại sao chúng ta không có thẩm quyền, không thể kiểm soát điều khiển được chúng. Đó là biểu hiện của Vô Ngã. Nếu chúng ta muốn biết chúng Vô Ngã hay không, chúng ta phải tìm xem những dấu hiệu đó, đó là chúng không chìu theo quyền điều khiển của một ai. Theo Chú Giải thì đặc tính hay dấu hiệu của Anatta là không chịu dưới quyền điều khiển của ai cả.

Chúng ta cần phải hiểu rằng: không có cốt lõi là một đặc tính của Anatta. Vậy khi chúng ta muốn biết xem một vật nào đó có Anatta không thì chúng ta có thể nhìn vào một trong hai dấu hiệu: 
  1. không có cốt lõi, không có bản chất 
  2. hay không chìu theo ý muốn của chúng ta.

Phần lớn không thể thấy được Anatta của sự vật. Bởi vì bản chất Anatta hay Vô Ngã bị che lấp bởi ý niệm “toàn khối”. Chúng ta xem một vật dưới cái nhìn toàn khối. Bởi vì chúng ta nhìn sự vật dưới cái nhìn toàn khối, nên chúng ta không thấy được bản chất Vô Ngã (Anatta) của sự vật.

Sự vật bị che lấp bởi “toàn khối” có nghĩa là chúng bị che lấp bởi “ý niệm toàn khối”. Chúng ta tưởng rằng: chúng ta là một khối: Vật Chất này là toàn khối và Tâm này cũng toàn khối. Bao lâu chúng ta còn nghĩ rằng: chúng ta là toàn khối thì chúng ta chưa thể thấy được sự không có bản chất của chúng ta.

Bởi vì chúng ta không chú ý đến sự tan vỡ của các yếu tố nên bị ý niệm toàn khối che lấp bản chất của các yếu tố. Bao lâu chúng ta còn thấy Vật Chất và Tâm là toàn khối bấy lâu chúng ta chưa thấy được bản chất Vô Ngã. Nhưng khi chúng ta đập vỡ Thân và Tâm này thành những yếu tố. Đó là những yếu tố đã kết hợp lại thân tâm này thì chúng ta sẽ thấy sự không có cốt lõi hay không có bản chất của sự vật.

Nhiều người, ngay cả Vật Chất và Tâm là hai chuyện riêng biệt mà họ cũng không thấy được.   

Đôi lúc họ nghĩ Vật Chất và Tâm chỉ là một.   Bao lâu chúng ta chưa thấy được sự tách rời hay sự riêng rẽ của “Vật Chất và Tâm” (cùng“những yếu tố khác tạo nên Vật Chất”, và “những yếu tố khác tạo nên tâm”) thì bấy lâu chúng ta chưa thể thấy rõ được chúng; chúng ta chưa thể phá vỡ ý niệm về sự toàn khối. Nếu chúng ta không thể phá vỡ ý niệm về sự toàn khối thì chúng ta sẽ không thấy được bản chất của Vô Ngã (Anatta). Khi chúng ta chú tâm quán sát vào những gì đang xảy ra đối với chúng ta, những gì xảy ra trong thân chúng ta, hoặc những sự vật trong hiện tại thì chúng ta sẽ thấy rõ ràng những gì trước đây chúng ta nghĩ là toàn khối thật ra là sự kết hợp của những thành phần rất nhỏ. Nếu chúng ta không hành Thiền Minh Sát thì chúng ta sẽ nghĩ rằng: chỉ có một cái tâm làm tất cả các nhiệm vụ thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ. Nhưng khi chúng ta quán sát kỹ càng tâm mình thì sẽ thấy và hiểu rõ rằng: 
  1. Ta thấy với một cái tâm khác; 
  2. ta nghe với một cái tâm khác; 
  3. ta ngữi với một tâm khác;
  4. ta nếm với một cái tâm khác, 
  5. ta suy nghĩ với một tâm khác… 
Chúng là những tâm riêng biệt, chúng là những yếu tố riêng biệt. 

Nhiều yếu tố kết hợp vào trong đó. 

Có bốn yếu tố chính là đất, nước, gió, lửa. Khi chúng ta thấy rõ ràng những yếu tố này tách rời hẵn nhau thì chúng ta sẽ phá vỡ ý niệm về toàn khối. Chúng ta có thể phá vỡ ý niệm toàn khối của sự vật vì chúng ta hiểu rõ rằng:, những cái mà chúng ta tưởng rằng: có cốt lõi, có bản chất thật ra chẳng có cốt lõi hay bản chất gì cả. Như vậy, ta thấy được chúng là Vô Ngã. Khi ta thấy những yếu tố tách rời hẳn nhau, cái này khác cái kia, và khi chúng ta thấy rõ chúng khởi sinh rồi biến mất tùy thuộc vào những điều kiện thì chúng ta sẽ hiểu rõ rằng: chẳng có một thẩm quyền nào có thể hành xử chúng. Chẳng hạn như trường hợp Tâm Thấy hay Thức Thấy: Khi có một vật thấy, và khi vật ấy đi vào lộ trình của mắt thì sẽ có Thức Thấy. Bạn không thể nào ngăn trở hay kiểm soát Thức Thấy khi có đủ điều kiện để thấy. Dầu cho bạn có mong muốn Thức Thấy đừng khởi sinh thì Thức Thấy cũng sinh khởi bởi vì có những điều kiện để Thức Thấy khởi sinh. Như vậy, chẳng có một thẩm quyền nào hành xử hay kiểm soát của Thức Thấy. 

Thức Thấy tùy thuộc vào những điều kiện. Bao lâu có đủ điều kiện, thì bấy lâu Thức Thấy khởi sinh. Bạn không có thẩm quyền trên chúng. Không có thẩm quyền trên chúng là một biểu hiện của sự Vô Ngã. Khi thực hành, chúng ta có thấy thật sự, thấy rõ bản chất Vô Ngã của sự vật. 

Chỉ khi nào chúng ta hành Thiền Minh Sát (Vipassana), chỉ khi nào chúng ta chú tâm chánh niệm vào sự vật thì mới thấy rõ chúng không có bản chất, không có cốt lõi và không bị sai khiến, không nhận chịu một sự hành xử hay chủ quyền nào. Không thực hành Thiền Minh Sát, chúng ta không thể nào thấy được bản chất Vô Ngã một cách rõ ràng. Chúng ta có thể đọc sách, chúng ta có thể nghe nói, và chúng ta nghĩ rằng: chúng ta đã hiểu bản chất của Vô Ngã nhưng thật ra sự hiểu biết này không phải là sự hiểu biết của chúng ta. Sự hiểu biết này chỉ là một sự hiểu biết vay mượn.  Chỉ khi nào chúng ta hành Thiền Minh Sát, chỉ khi nào chúng ta chú tâm chánh niệm một cách chặt chẽ vào sự vật trong giây phút hiện tại, chúng ta mới thấy được bản chất Vô Ngã của sự vật cùng với bản chất Vô Thường và bản chất Đau Khổ.   

Như vậy, bản chất Vô Ngã chỉ có thể chứng nghiệm xuyên qua việc hành Thiền Minh Sát. Bởi vì, khi hành Thiền Minh Sát chúng ta thấy chẳng có cái gì là bản chất, chẳng có cái gì chúng ta có thể hành xử quyền hành trên chúng thì chúng ta sẽ hiểu rõ rằng: Chỉ có sự đau khổ mà không có ai đau khổ.  Bởi vì những cái mà chúng ta gọi là người, tôi, ta chỉ là sự kết hợp của Vật Chất và Tâm.  Chẳng có gì vượt qua hay nằm trên Vật Chất và Tâm. 

Như vậy xuyên qua việc hành Thiền Minh Sát, chúng ta sẽ thấy rằng: chỉ có đau khổ mà thôi. Chỉ có sự sinh và sự diệt mà chẳng có cái gì sinh diệt. Khi chúng ta quán sát những tác động, chúng ta sẽ thấy tác động chỉ là tác động, chẳng có ai thể hiện tác động cả.

Cũng vậy, khi nói rằng: Có sự chấm dứt của đau khổ hay Niết Bàn nhưng không có người nào kinh nghiệm Niết Bàn. Chỉ có Vật Chất và Tâm mà không có ai cả. Cũng vậy khi nói rằng: Có Bát Chánh Đạo, hay có Đạo, nhưng không có ai đi trên Đạo này.  Ngoài tám (8) yếu tố của Đạo chẳng có cái gì gọi là Đạo cả.  Như vậy, Đạo chỉ là tám (8) tâm sở, bởi vì trong sự phân tích tuyệt đối (chân đế) chúng chỉ là Vật Chất và Tâm. Ngoài Vật Chất và Tâm chẳng có gì có thể gọi là người hay cá nhân nào cả. Bản chất Vô Ngã của Vật Chất và Tâm hay của Ngũ Uẩn không phải là đoạn cuối của việc thực hành Thiền Minh Sát mà thật ra chỉ là sự khởi đầu của thiền Thiền Minh Sát. 

Chúng ta phải cần nhiều cố gắng để đạt được những tầng mức cao hơn cho đến khi đạt được tầng mức thấy rõ được Tứ Diệu Đế. Sự chứng ngộ Tứ Diệu Đế không thể có được nếu không có sự hiểu biết bản chất Vô Ngã.  Thật ra, không phải chỉ bản chất Vô Ngã mà còn bản chất Vô Thường, bản chất Khổ của Vật Chất và Tâm hay hay của Ngũ Uẩn.

Như vậy, điều rất quan trọng khi chúng ta hành Thiền Minh Sát là chúng ta phải, qua kinh nghiệm của chính mình hay tự mình, thấy rõ bản chất Vô Thường, Khổ, Vô Ngã của Vật Chất và Tâm để chúng ta có thể đi trên Đạo, tiến đến những tầng mức cao hơn của Thiền Minh Sát cho đến khi chúng ta đạt được mục đích tối hậu.

Tóm lại, Đức Phật dạy cho chúng ta biết không có Atta (Ngã) trong Ngũ Uẩn. Nhưng trên thế gian này chỉ có Ngũ Uẩn mà thôi, vậy không có Atta (Ngã) trên thế gian này. Đặc tính Vô Ngã (Anatta) là một trong ba đặc tính phổ thông của Vật Chất và Tâm hay của mọi hiện tượng có điều kiện. Thấy được đặc tính của Vật Chất và Tâm (hiện tượng có điều kiện) cuối cùng sẽ đưa ta đến Giác Ngộ.

 
Reply
Phật Pháp Căn Bản Phần II – Phụ Lục –
Hãy Tìm Hiểu Tôn Giáo Này
Tác giả: U Silananda
Người dịch: Sư Khánh Hỷ
https://theravada.vn/phat-phap-can-ban-p...-giao-nay/


PHỤ LỤC -- HÃY TÌM HIỂU TÔN GIÁO NÀY 


Hòa Thượng Siri Dhammananda giảng
Sư Khánh Hỷ sọan dịch

Mọi người đều nên có một Tôn giáo và Tôn giáo này biểu lộ tư tưởng của họ.  Không có Tôn giáo, con người sẽ trở thành mối nguy hiểm cho xã hội.  Các nhà khoa học và tâm lý học có thể giúp ta mở mang kiến thức sâu rộng, nhưng họ không đem lại cho ta mục đích và ý nghĩa của cuộc sống.

 
Chỉ có Tôn giáo mới có thể làm được điều đó.  Mọi người phải chọn cho mình một Tôn giáo hợp lý và khoa học tùy theo ý muốn của mình.  Không ai có quyền cưỡng bách người khác phải chấp nhận một Tôn giáo nào, đồng thời cũng không thể lợi dụng sự nghèo túng, sự thiếu học cũng như tình cảm để khiến kẻ khác chấp nhận một Tôn giáo nào đó.  

Mọi người đều có quyền tự do lựa chọn Tôn giáo của mình tùy theo sở thích và khả năng trí tuệ của mình.  Tin theo Tôn giáo một cách mù quáng sẽ đánh mất giá trị tinh thần của Tôn giáo.  Con người không phải thú vật.   Họ có trí thông minh và lương tri để phân biệt phải, trái.  Họ   có   thể   thích  ứng với  hoàn  cảnh chung quanh.  Cho nên, họ phải chọn một Tôn giáo hợp lý và làm tăng trưởng sự hiểu biết của họ.

Trung Đạo

Tôn giáo mà chúng tôi sắp giới thiệu cùng các bạn trong bài này là một hệ thống giáo dục khoa học đã được một đấng Đại Bi Đại Giác truyền bá trên thế giới hơn hai mươi lăm thế kỷ qua.  Tôn giáo này được mệnh danh là con đường Trung Đạo hay Chính Đạo hoặc lối sống đứng đắn.  Đây là một hệ thống đạo đức và triết lý, vừa là Tôn giáo của Tự Do và Lý Trí.  Tôn giáo này dạy cho chúng ta những điều sau đây:  "Không làm điều ác, làm mọi điều lành và giữ tâm trong sạch bằng cách loại bỏ những điều xấu xa trong tâm hồn". 
  
Đức Hạnh của con người   đóng vai trò rất quan trọng trong Tôn giáo này.  Vị thầy vĩ đại của Tôn giáo này đã nói:  "Ta không dạy ai đến để tin, nhưng đến để thấy và thực hành".   

Điều này đã khích lệ mọi người  nghiên cứu  kỹ  càng những lời dạy của Ngài và để cho họ tự do có nên chấp nhận những điều dạy dỗ đó không.  Ngài không bảo ai đến và chấp nhận Tôn giáo này nếu họ chưa hiểu những lời dạy của Ngài.

Những nghi thức vô bổ cùng những hình thức lễ bái bề ngoài không phải là giá trị và ý nghĩa thực sự của Tôn giáo nầy.

Không có sự tin tưởng và thực hành một cách mù quáng mê tín, cũng không có những lý thuyết kỳ lạ và bí hiểm trong Tôn giáo này.  Mọi vật đều được trình bày và mở ra để người tín đồ tự do lựa chọn và phán đoán.  Họ được tự do nghiên cứu và tìm hiểu những lời dạy dỗ của vị thầy đồng thời họ cũng được tự do hỏi để hiểu thấu đáo những điều gì họ nghi ngờ.

Theo vị sáng lập Tôn giáo vĩ đại này thì chúng ta không nên tin một điều gì chỉ vì điều đó đã được một bậc đáng kính và đại thông thái nói ra hay đã được chấp nhận theo truyền thống từ xưa để lại.  Nhưng chúng ta phải dùng lý trí và  sự thông minh của chúng ta để xét đoán; và chỉ chấp nhận điều gì khi đem ra thực hành sẽ đem lại lợi ích và giá trị.

 Tôn giáo này dạy rằng:  Bát chánh đạo (gồm sự hiểu biết đúng, suy nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng, đời sống đúng, cố gắng đúng, sự ghi nhớ đúng và sự tập trung tư tưở

Trong vòng luân lưu bất định của đời sống, mỗi chúng sinh đều nhận chịu những căn bệnh trầm kha này.

Con đường Trung đạo này không phải là con đường siêu hình hay nghi thức, không phải giáo điều chủ nghĩa hay hoài nghi thuyết, không phải tự phóng túng hay khổ hạnh, không phải chủ nghĩa vĩnh cửu hay hư vô, không bi quan và cũng không lạc quan, đó là con đường giác ngộ, thoát khỏi sự đau khổ.  Tôn giáo này không bao giờ dạy rằng, con người chịu đau khổ trong thế giới hiện tại là do tội lỗi của ông bà tổ tông để lại.  Ngược lại mỗi người mang theo mình phước báu hay lỗi lầm của chính mình.  Mọi người chịu trách nhiệm về những đau đớn và lạc thú của họ, về những việc làm xấu hay tốt của họ.

Người nào đi theo con đường Trung Đạo mà Tôn giáo này giới thiệu, chắc chắn sẽ tìm thấy an bình và hạnh phúc thật sự.  Gặt hái những gì bạn đã gieo.

Tôn giáo này thỏa đáng nguyện vọng cao cả của con người, đồng thời giúp cho họ khắc phục được những nổi đau khổ và phiền muộn trong cuộc sống; hướng dẫn họ cách đối xử với nhau.  Ngoài ra, còn mang lại cho họ ý nghĩa và mục đích của đời sống.  Tôn giáo này không gieo truyền đến con người, không rót vào đầu óc họ những tư tưởng sợ hãi.  Sự sợ hãi và khiếp nhược vắng bóng trong Tôn giáo này.  

"Nhân tốt sinh ra quả tốt, nhân xấu sinh ra quả xấu".  

Mọi hành động đều mang lại hậu quả của nó.  Đó là quy luật tự nhiên của vũ trụ.  Tôn giáo này chấp nhận hoàn toàn qui luật tự nhiên ấy, đã là con người phải "Gặt hái những gì họ gieo".  Những hành động xấu xa, những tội lỗi của con người phát xuất từ sự ham muốn, lòng sân hận và sự ngu muội.  Những điều yếu kém này chỉ có thể được khắc phục nhờ ở sự hiểu biết của chính chúng ta, nghĩa là chính chúng ta phải tự giác ngộ.  An vui và đau khổ con người gặp phải trên cõi đời này không phải do ảnh hưởng từ bên ngoài đem lại mà do những hành động và lời nói tốt hay xấu họ đã làm trong hiện tại hoặc trong những kiếp sống trước đây.  Bởi lý do đó, Tôn giáo này đã nói:  

 "Chúng ta là kết quả của những gì chúng ta đã làm và chúng ta sẽ là kết quả của chúng ta đang làm".

Tôn giáo này dạy rằng:  Nguyên nhân và hậu quả đóng vai trò quan trọng trong mọi kiếp sống của con người.  Trong vòng luân lưu nhân quả này, khó có thể nhận biết đâu là nguyên nhân đầu tiên, vì nhân và quả hỗ tương chuyển biến; nguyên nhân trở thành hậu quả và hậu quả biến thành nguyên nhân.

Vị thầy vĩ đại

Sáng lập ra Tôn giáo độc đáo này không phải là một nhân vật thần thoại mà là một bậc thầy vĩ đại, đã thực sự sống trên thế giới này, Ngài không bao giờ tự xưng mình là đấng siêu nhân, là đấng tạo hóa hay Thượng đế v.v… Mà chỉ là con người đã thấy rõ chân lý, thấy rõ những bí ẩn của cuộc đời; hiểu thấu đáo những nguyên nhân thật sự của khổ đau và hạnh phúc.

Ngày nay, vị Thầy này không những được hàng trăm triệu tín đồ trên thế giới tán dương, tôn thờ mà còn được những nhà văn hóa và trí thức hết lòng tôn kính, ngưỡng mộ.

Đấng cao thượng, đấng giải phóng, nhà dân chủ, nhà cải cách xã hội, người hướng dẫn và khuyến khích nhân loại đến nẻo thiện đã vắng bóng vào năm tám mươi tuổi.  Ngài để lại cho nhân loại thông điệp của tình thương, để lại cho nhân loại những lời chỉ đạo hữu ích, hướng dẫn họ đến an vui, hạnh phúc.  An vui hạnh phúc ngay trong cuộc sống hiện tại cũng như các đời sống sau và cuối cùng đạt đến an bình và hạnh phúc vĩnh cửu.

Vị đại đạo sư đã an ủi kẻ đau thương, đã giúp đỡ kẻ nghèo khó bị ruồng rẫy, nâng phẩm giá người bị khinh khi, đưa kẻ trộm cướp trở lại đường lương thiện.  Ngài khích lệ kẻ yếu, đoàn kết những kẻ phân tán, giải trừ những điều huyền bí, soi sáng người ngu muội, nâng cao người hạ tiện, tán dương người cao thượng.  Người giàu hay kẻ nghèo, thánh nhân hoặc tội phạm đều thương yêu Ngài.  Từ những vị vua tàn bạo cho đến những vị minh quân, từ những bậc vương tử, đến hàng quý tộc, hữu danh hay vô danh; từ những bậc phú hào giàu lòng từ thiện đến những nhà triệu phú keo kiệt; từ những học giả khiêm cung hay hống hách, tự phụ đến những người nghèo nàn, đói khổ, thất học; từ những bậc hiền nhân quân tử đến những tên sát nhân đầy tội; những cô gái mãi dâm bị miệt thị… Tất cả đều tìm thấy an vui, thấy lợi ích bởi những lời dạy đầy trí tuệ và đầy tình thương của Ngài.

Những đức tính cao thượng điển hình của Ngài là nguồn cảm thông và hứng cảm vô hạn của tất cả mọi người.  Dung mạo trầm tỉnh và an bình của Ngài là dấu hiệu an ủi dịu dàng dưới mắt của những tín đồ nhiệt thành.

Thông điệp hòa bình và từ ái của Ngài đã được mọi người hân hoan đón nhận và đã đem lại lợi ích lâu dài cho những ai có cơ hội nghe và thực hành theo.  Ý chí sắt đá, trí tuệ cao thâm, tình thương vô biên, phục vụ bất vụ lợi, xuất thế cao cả, hoàn toàn trong sạch, nhân cách cao thượng, những phương pháp điển hình tuyệt diệu để truyền bá giáo pháp cùng sự thành tựu cuối cùng của Ngài, tất cả những yếu tố ấy đã khiến cho một phần năm nhân loại trên thế giới tôn Ngài là bậc Thầy vĩ đại.  Vì nhân loại còn đau khổ  nên vị đạo sư  đã hy sinh mọi lạc thú của cuộc đời để kiếm tìm chân lý và chỉ cho nhân loại con đường giải thoát mọi đau khổ.  Ngài viếng thăm an ủi kẻ nghèo khó trong khi các vị vua chúa hay đạo sĩ phải đích thân đến hội kiến cùng Ngài.  Trong bốn mươi năm trời sau ngày thành đạo, Ngài đã dành hết thì giờ và tâm trí thuyết pháp độ sinh, giúp nhân loại thoát khỏi vòng đau khổ.

Vị thầy vĩ đại này chẳng bao giờ khiếp sợ điều gì và cũng chẳng gieo vào đầu ai nỗi  lo sợ.  Đó  là  một  trong những nguyên tắc cần được bồi đắp và truyền bá trong cái thế giới ưa chuộng chiến tranh hiện tại, thế giới mà trong đó ngay cả mạng sống con người cũng bị hy sinh cho bạo lực, và vũ khí giết người đang gieo rắc sợ hãi, nghi ngờ và oán giận.

Ngài là một nhà khoa học lỗi lạc trong sinh hoạt con người, và cũng vì vậy mà những lời Ngài thuyết dạy thường được chấp nhận như là một lý thuyết của một Tôn giáo độc nhất có tính cách khoa học và hợp lý.  Ngài soi xét tường tận con người trên cả hai phương diện Danh và Sắc, và cho thấy một cách rõ ràng tiềm năng thật sự bên trong của mỗi chúng ta.  Ngài đã phá tan sự u minh tăm tối bằng cách rọi vào đó ngọn đèn giác ngộ.

Đối với các nhà đạo đức, Ngài đã đặt ra một bộ luật đạo đức có giá trị nhất và Ngài là biểu tượng của sự toàn hảo.

"Ngài có đầy đủ những đức hạnh  quý báu mà Ngài thường khuyên chúng ta thực hành, Ngài là bậc hoàn toàn trong sạch".

Trong số các đạo sĩ, Ngài là một trong những vị có tài thuyết phục mạnh nhất, nhưng chẳng bao giờ Ngài xử dụng phương tiện này để bắt buộc người khác theo Ngài.  Bình thản trước những lời khen chê, Ngài chỉ cố gắng đem  hết  sức  mình  phục vụ nhân loại thoát khỏi vòng đau khổ.  Bình an trong tâm hồn, hạnh phúc và giải thoát .

Vị đại đạo sư đã dạy cho con người con đường đi đến sự bình thản trong tâm hồn, hạnh phúc và sự giải thoát.  Phương pháp đạt đến sự giải thoát vừa có tính chất phóng khoáng, khoa học hợp lý vừa dễ hiểu cho mọi hàng chúng sinh.

Thông điệp hòa bình của Ngài càng trở nên quan trọng hơn vì hiện tại nhân loại đang bị đầu độc bởi thù hận, tham lam ganh tỵ và kiêu hãnh.

Ngài được sinh ra trong thế giới này để đánh tan bóng tối của sự u minh và cứu con người ra khỏi những tội ác của họ.  Còn có rất nhiều người vẫn chưa tin hay thực hành theo một Tôn giáo nào cả.  Tuy nhiên, nếu họ chịu khó nghiên cứu và tìm hiểu những gì mà bậc đại đạo sư đã dạy, họ sẽ thấy những nghi ngờ của họ được giải đáp và cuối cùng họ sẽ chấp nhận rằng đây là một Tôn giáo đã đóng góp rất nhiều cho hạnh phúc của nhân loại.

Dù cho người ta tin hay không, những lời Ngài dạy có ảnh hưởng đối với họ.  Trong lịch sử truyền bá của Tôn giáo này chưa hề có một giọt máu nào đổ dưới danh nghĩa này.

Những lời Ngài dạy đã soi sáng  bước  đường  của  nhân loại, giúp con người vượt qua những điều không vừa lòng toại ý để đến một nơi đầy tình thương an bình và hạnh phúc.

Mặc dù đã trải qua hai mươi lăm thế kỷ, những lời dạy của Ngài vẫn còn đủ sức mạnh để đương đầu với mọi thử thách mà không cần phải có một sự sửa đổi hay sự giải thích mới mẻ nào về những lời dạy đó.  Những lời dạy của Ngài không hề mâu thuẫn với thành quả và sự khám phá của khoa học tân tiến.

Đạo đức rất cần thiết để đạt đến sự giải thoát, nhưng một mình nó chưa đủ.  Đạo đức phải được phối hợp với trí tuệ.  Đạo đức và trí tuệ như đôi cánh của một con chim.  Trí tuệ là đôi mắt của con người và đạo đức là đôi chân.  Đạo đức có thể ví như một chiếc xe đưa con người đến cửa ngỏ của thiên đường nhưng chìa khóa để mở cửa đó là trí tuệ.

Thiên đàng hạnh phúc 

Tín đồ của Tôn giáo này không bao giờ cho rằng chỉ chính họ mới được ban ân phước và chính họ mới đến được thiên đàng hạnh phúc.  Tùy theo cách sống, mọi người tự tạo cho chính mình thiên đàng hay địa ngục.

Theo lời dạy của Tôn giáo này thì mọi người đều có thể hưởng hạnh phúc và thiên đàng nếu họ sống một đời sống đạo đức, lương thiện dù cho họ có tin vào Tôn giáo nào đi nữa.  Thiên đàng không dành riêng hay độc quyền cho một đạo giáo hay một cộng đồng Tôn giáo nào mà mở cửa cho tất cả mọi người.

Khoan dung và hiểu biết 


Khoan dung, hiểu biết và tôn trọng ý kiến của kẻ khác là những hạnh lành đáng quí mà tín đồ của Tôn giáo này cố gắng thực hành theo.  Lòng từ ái và tình thương yêu kẻ khác không phải chỉ giới hạn đối với con người mà còn bao trùm khắp mọi chúng sinh.

Đạo sống

Nhờ đặc tính rõ ràng và hợp lý Tôn giáo này đã giải đáp một cách thỏa đáng những hoài nghi, hướng dẫn và giúp nhân loại cải thiện phương thức sống tốt đẹp.

Tôn giáo này không chia con  người  ra làm hai nhóm:  một nhóm được cứu rỗi và nhóm kia bị bỏ rơi, mà là một sức mạnh khai hóa, biến những kẻ man rợ thành người thuần thục, và những kẻ đã thuần thục thành người tốt đẹp hơn.  Tín đồ của Tôn giáo này không tin vào những lời cầu nguyện khấn vái.  Họ tin một cách chắc chắn vào sự cố gắng của chính bản thân mình, tin ở hiệu năng và sức mạnh của phương pháp thiền có thể dẫn dắt con người đến việc tự chinh phục chính mình; tự kiểm sóat lấy mình, trong sạch hóa bản thân, diệt khổ và giải thoát.  Thiền là phương thuốc vừa bổ óc vừa trợ tim.

Con người có thể thay đổi cuộc đời của mình 

Những ai theo Tôn giáo này đều tin rằng trí óc con người có sức mạnh vạn năng.  Nó tạo ra con người, nhưng cũng chính nó hủy diệt con người.  Số mạng con người tùy thuộc vào nó.  Vì vậy, con người có khả năng làm được tất cả mọi chuyện nếu biết sử dụng trí óc của mình.  Trong thực tế, Tôn giáo này đã là ngọn hải đăng quí giá hướng dẫn nhân loại đến hòa bình, hạnh phúc và an vui vĩnh cửu.  Thế giới này phải đối đầu với những ngộ nhận giữa các giống dân, trên bình diện quốc tế cũng như địa phương, ngộ nhận trên phương diện kinh tế cũng như ý thức hệ.  Để giải quyết những vấn đề phức tạp này con   người   phải   sống  với nhau trong tinh thần vị tha và khoan dung.  Điều này có thể thực hiện được một cách tốt đẹp dưới sự hướng dẫn của Tôn giáo này vì Tôn giáo này chủ trương một sự hợp tác trên căn bản đạo đức vì ích lợi của quần sinh.

Hạnh phúc và an nguy của nhân loại chỉ có được khi con người ý thức được rằng sự phát huy và bành trướng những giá trị đạo đức quan trọng hơn những tiến bộ vật chất.  Con người phải thực hiện công bằng chân lý, phải rải rác tình thương, lòng bác ái và sự tương thân tương trợ.  Có như vậy, thế giới này mới trở thành một nơi đáng sống.

Tôn giáo thật sự

Không có gì tốt đẹp và cao thượng hơn sự vun bồi một tình thương bao la rộng rãi.  Không có lạc thú nào ngọt ngào hơn sự bình thản của tâm hồn, không có chân lý nào rõ ràng hơn sự hiểu thấu những hiện tượng tự nhiên, không có Tôn giáo nào cao siêu hơn sự phát huy những giá trị đạo đức tinh thần và không có một triết lý nào sâu sắc hơn cái triết lý mang lại kết quả tức thì và dễ nhận cho tất cả mọi người.

Tôn giáo tự do

Tôn giáo này không ngăn cản hay cấm đoán tín đồ đọc hay tìm hiểu các Tôn giáo khác, vì việc làm này biểu lộ sự   cuồng   tín.  Một   người cuồng tín không bao giờ tự cho  phép  mình  được hướng dẫn bởi sự hợp lý và tệ hơn nữa, bởi các phương pháp phân tích và quán sát một cách khoa học.  Vì vậy, tín đồ của Tôn giáo này là những người hoàn toàn tự do, tinh thần phóng khóang, không phải thờ phụng một vị thần linh nào cả (để tiến hóa trong bước đường tu tập).  Nếu bạn chịu khó đọc kỹ những lời thuyết giảng về Tôn giáo này, bạn sẽ đánh tan được những ngộ nhận mà bạn đã có từ trước về nó.  Không ai có thể xét đoán một cách  đúng đắn, một Tôn giáo nếu chỉ nhìn cách thức lễ bái cầu nguyện do các tín đồ chưa hiểu đạo của Tôn giáo đó làm.  Trái lại, phải cố gắng tìm hiểu các giáo điều căn bản, mới có một nhận xét rõ ràng về một Tôn giáo.

Con người và Thượng Đế 

Thay vì đặt con người và số mạng của y dưới sự kiểm soát độc đoán của một đấng thần linh xa lạ, bắt y phải tuân hành tuyệt đối những quyền năng của vị đó, Tôn giáo này nâng cao giá trị của con người, tôn trọng và tin tưởng vào trí tuệ của họ.

Tôn giáo này dạy chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác một cách bất vụ lợi, không cần nghĩ đến sự đền ơn.  Tín đồ của Tôn giáo này không làm những điều tội lỗi chẳng phải vì sợ Thượng Đế trừng phạt mà vì họ ý thức được nguyên nhân sâu xa đã làm cho mọi chúng  sinh  đau  khổ.  Động lực thúc đẩy làm điều lành không phải để làm vui lòng Thượng Đế hay được đền ơn mà do lòng yêu thương đối với kẻ khác.

Tôn giáo này dạy con đường đi đến sự toàn thiện và trí tuệ mà không nhờ vào một đấng tối cao nào.  Kiến thức thâm sâu của bạn cũng không phải do ơn trên mà có được.  Trật tự đạo đức thế giới cũng như những hành động và kết quả mà bạn gặt hái được đều diễn biến và thuận hành theo một qui luật tự nhiên.  Sự hiện hữu liên tục của con người từ kiếp này qua kiếp khác không dựa vào một linh hồn bất tử.  Hạnh phúc vĩnh cửu vượt lên trên ý niệm thiên đàng do con người đặt ra, không cần nhờ đến đấng cứu thế mới được cứu chuộc.  Ngay trong cuộc sống hiện tại của chúng ta trên thế giới này chúng ta có thể được giải thoát do năng lực của chính mình.

Không có sự hưởng thụ những thú vui nhục thể, đời sống của con người có kéo dài được không?
Không cầu khấn thượng đế con người có thể trở thành chính trực không?

"Được chứ!" vị sáng lập ra Tôn giáo này đã nói như vậy.  Những điều trên đều có thể đạt được do ở sự phục vụ, sự trong sạch, giới hạnh và trí tuệ.  Những đức tính tốt đẹp  và cao thượng  này  đem lại cho đời sống của con người sự thanh tịnh, bình an hạnh phúc và giải thoát.

Luật tự nhiên của vũ trụ 

Luật tự nhiên của vũ trụ được giải thích trong Tôn giáo này có thể giải quyết những vấn đề về sự đau khổ, bí mật của số mạng, thuyết tiền định của một vài Tôn giáo, vấn đề thần đồng và nhất là sự bất bình đẳng của nhân loại.  Hiểu biết những định luật thiên nhiên này mang lại cho chúng ta sự an vui, niềm hy vọng, lòng tự tin và sự khích lệ tinh thần; giúp chúng ta trở nên tinh tấn, từ ái, nhiệt tâm, độ lượng, khoan dung, cảm thông và vị tha.  Chúng ta có được những đức tính này nhờ chúng ta ý thức được rằng không có gì hoàn toàn  xấu, chỉ có sự tương đối mà thôi.

Tôn giáo tiến bộ mới mẻ 

Đây không phải lý thuyết mà là một lối sống thực tế.  Đây là một Tôn giáo cổ xưa nhất, đồng thời cũng là một Tôn giáo tân tiến mà mọi người đều tôn trọng.  Tôn giáo này giúp cho con người không phải bị nô lệ vào thượng đế hay một quyền lực ngoại lai nào mà phải phát triển những tiềm lực bên trong của chúng ta bằng cách xử dụng nỗ lực và trí thông minh của mình để vượt qua những trở ngại mà chúng ta gặp phải trong đời sống.

Đây là Tôn giáo có đầy đủ những đặc tính mà một Tôn giáo hợp lý đòi hỏi.  Đó là Tôn  giáo  thích  ứng  với thế giới tương lai, là một Tôn giáo khoa học, hợp lý và tiến bộ, là niềm tự hào cho những ai là tín đồ của Tôn giáo này trong thế giới tân tiến.  Thật vậy, về phương diện tinh thần Tôn giáo này còn khoa học hơn cả khoa học và tiến bộ hơn cả mọi tiến bộ.

Không có sự kỳ thị 

Đây là Tôn giáo đầu tiên trong lịch sử đã chống lại hệ thống giai cấp và dạy cho nhân loại biết sự bình đẳng đồng thời mang lại cho mọi giai cấp cơ hội bình đẳng để phát triển.  Chính Tôn giáo này đã đem lại tự do thực sự cho phụ nữ để cho họ có cơ hội học hỏi và nghiên cứu Tôn giáo, cũng là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại họ có sự bình đẳng xã hội.

Vị đại đạo sư đã nói rằng cửa ngỏ của thành công và thịnh vượng được mở ra cho tất cả mọi người không phân biệt điều kiện sống của họ, dầu họ thuộc giai cấp cao hay thấp, thánh nhân hay tội phạm họ cũng có thể cải thiện và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn.  Ngài không bắt buộc những tín đồ của Ngài nô lệ vào Ngài hay những lời dạy dỗ của Ngài nhưng tạo cơ hội cho họ được hoàn toàn tự do tư tưởng.

Sự tạm bợ đời sống 

Tôn giáo này đã phân tích cho con người thấy rõ vật chất và tinh thần là hai yếu tố luôn luôn biến đổi, từ khoảnh   khắc   này   sang khoảnh khắc nọ, từ giây phút này sang giây phút kia sự vật đã   biến  dạng  rồi.  Toàn  thể hiện tượng tâm sinh lý này vẫn luôn luôn giữ mãi tính chất biến đổi của chúng.  Nó xuất hiện rồi biến mất và chu trình đó vẫn tiếp diễn mãi không ngừng, vì vậy không có gì trường tồn vĩnh cữu trong thế giới này hay trong thế giới khác.  Tôn giáo này cũng tin rằng trong vũ trụ này còn có những thế giới khác và trong những thế giới ấy cũng có những sinh vật đang sống.

Giáo điều và giới luật 

Tôn giáo này không có những giáo điều mà mọi người phải tuân theo một cách mù quáng, thay vào đó là những giới luật được chấp giữ một cách tự nguyện.  Giữ giới là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. 

Nhờ tuân hành những giới này con người có thể trở nên trong sạch để giúp đỡ kẻ khác sống trong sự an lành.  

Cho phổ biến bài này, chúng tôi không nhằm mục đích thay đổi lòng tin của người khác mà giúp cho họ tìm thấy được một cách đúng đắn sự bình an hạnh phúc, đồng thời giúp cho họ có được sự sáng suốt khi thực hành Tôn giáo mà họ đã nhận thức đứng đắn, chứ không tin theo một cách mù quáng.

Chúng tôi khuyến khích mọi người hãy thực hành Tôn giáo của họ một cách đứng đắn nếu thực sự họ đã tìm thấy trong Tôn giáo họ chân lý, bình an hạnh phúc và giải thoát.

Tôn giáo này có thể đem lại một lối giải đáp thỏa đáng cho nhiều vấn đề thuộc lãnh vực tinh thần, đồng thời có thể cung ứng cho bạn một chiều hướng mới mẻ trong việc tìm hiểu nghiên cứu Tôn giáo và triết học.  Tôn giáo này  cũng  có  thể  giúp  bạn hiểu biết về đời sống văn hóa Á Châu.  Bạn có thể tìm thấy trong đó sự hướng dẫn tinh thần mà thế giới tân tiến đang đòi hỏi hay cần đến, đồng thời giúp cho bạn xa lánh được những điều ác.

Tôn giáo này đã đem lại cho thế giới một tinh thần mới, niềm hy vọng mới, hướng đi mới.  Những tính chất chân thật và trọng yếu này từ trước đến nay đã được mọi người nhận thấy một cách rõ ràng.
Dù mục đích của bạn là thế nào chăng nữa, chúng tôi cũng xin mời bạn hãy tìm hiểu nhiều hơn và rõ ràng hơn, Tôn giáo và lý tưởng của vị sáng lập ra Tôn giáo này.

Tôn giáo cao thượng được bàn đến trong bài này là PHẬT GIÁO và vị sáng lập đạo này không ai khác hơn là ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI.
Reply
Phật Pháp Căn Bản Phần II – Phụ Lục –
Vấn Đạo Ngài Mahasi
Tác giả: Sayadaw U. Dhammika
Người dịch: Sư Khánh Hỷ
https://theravada.vn/van-dao-ngai-mahasi/


VẤN ĐẠO NGÀI  MAHASI


Sayadaw U.  Dhammika trích
Sư Khánh Hỷ soạn dịch 


1.             Bạch Ngài, có cần phải có đầy đủ đức tin đầy đủ vào việc hành Thiền Minh Sát mới có thể hành thiền không?

Không cần phải có đức tin trọn vẹn trước khi hành thiền.  Bởi vậy tôi không bao giờ bắt buộc hay khiển trách một ai về việc không có đức tin về việc hành thiền khi họ khởi đầu.  Sở dĩ họ chưa có đức tin vào việc hành thiền, bởi vì họ chưa có kinh nghiệm hay có rất ít kinh nghiệm về việc thực hành.  Vào năm 1931, tôi chỉ mới có tám hạ, còn có rất nhiều tò mò và lẫn lộn.  Lúc bấy giờ Ngài Mingon Zetawin dạy tôi: hãy ghi nhận chánh niệm khi đi, ghi nhận chánh niệm khi đứng, ghi nhận chánh niệm khi ngồi, ghi nhận chánh niệm khi nằm.  Hoặc Ngài dạy: khi đi ghi nhận đi, khi đứng ghi nhận đứng, khi ngồi ghi nhận ngồi, khi nằm ghi nhận nằm, khi co ghi nhận co, khi duỗi ghi nhận duỗi.  Nghe Ngài dạy như thế, tôi cảm thấy bối rối và hỗn loạn, bởi vì tôi nghĩ rằng Ngài chẳng dạy tôi quán sát chân đế, hay vô thường, khổ và vô ngã của thân tâm.  Tôi rất thắc mắc là tại sao một thiền sư như Ngài mà chỉ dạy toàn tục đế, nhưng tôi lại nghĩ rằng: “Ngài Hoà Thượng rất tinh thông Tam Tạng kinh điển và là một thiền sư rất nổi tiếng, Ngài dạy thiền sinh bằng chính kinh nghiệm của mình, như vậy việc phán đoán của ta có sớm quá chăng?  Làm sao ta có thể biết được phương pháp nầy tốt hay xấu khi chính mình chưa thực hành”.  Nghĩ như thế tôi yên tâm hành thiền dưới sự hướng dẫn của Ngài.

2.             Bạch Ngài, xin Ngài giảng cho con biết nghĩa của chữ Satipaṭṭhāna.

Sātipaṭṭhāna có nghĩa là chánh niệm hay luôn luôn ghi nhớ.  Thiền sinh phải thường xuyên luôn luôn ghi nhớ rằng: Ta phải luôn luôn tinh tấn ghi nhận chánh niệm mỗi một hiện tượng vật chất và tâm đang xảy ra.

3.             Bạch Ngài, con tin rằng khi hành thiền, Ngài tiến bộ rất nhanh chóng và Ngài đạt được hết tuệ giác nầy đến tuệ giác khác.  Có phải vậy không?

Không, trong ba bốn tuần đầu việc hành thiền chẳng đem lại kết quả, bởi vì tinh tấn của tôi chưa đủ.  Tuy nhiên, một vài thiền sinh ở đây rất cố gắng phát triển định tâm và chánh niệm nên chỉ sau một tuần lễ họ đã bắt đầu thấy được vô thường, khổ và vô ngã.  Riêng tôi, cả tháng trời chưa tiến bộ; hành thiền bốn năm ngày đã thấm thía vào đâu.  Hơn tháng trời, việc tiến bộ của tôi chỉ là con số không.  Nguyên nhân của việc không tiến bộ này là vì tôi không tin vào việc hành thiền và không chịu cố gắng hết mình.  Do đức tin không mạnh, do thiếu nỗ lực tinh tấn, nên tôi không tiến bộ.  Thế rồi tôi đâm ra nghi ngờ.  Chính sự nghi ngờ nầy đã khiến tôi không tiến bộ, các tuệ giác và đạo quả không khởi sinh.  Tôi không tiến bộ vì đã phí thì giờ nghi ngờ và phân tích.  Thế nên, điều quan trọng của người hành thiền là loại trừ hoài nghi.  Lúc đó tôi nghĩ rằng: “Phương pháp thực hành chỉ chú ý đến tục đế, chỉ quán sát đối tượng như đi, đứng ngồi, nằm, co, duỗi… - điều mà Ngài Hoà Thượng Thiền Sư dạy tôi - chỉ là căn bản bước đầu”.  Vì có nghi ngờ như thế, nên tôi không phát triển được tuệ giác.  Nhưng nhờ tôi nghĩ rằng: sau nầy chắc chắn Thiền Sư sẽ dạy cho tôi làm thế nào để phân biệt giữa thân và tâm, nên tôi tiếp tục tinh tấn thực hành.  Không bao lâu sau, nhờ tin tưởng và thực hành đúng theo những lời hướng dẫn của thiền sư, tôi nhận ra rằng, thực ra chẳng phải chỉ là những bài tập căn bản bước đầu mà là sự ghi nhận các trạng thái, các hiện tượng vật chất và tâm trong khi đi, đứng, ngồi, nằm, co, duỗi… Đây đúng là sự hướng dẫn có phương pháp, giúp thiền sinh tiến bộ từ thấp lên cao.  Tất cả những điều mà tôi cần phải làm là quán sát và ghi nhận một cách tinh tấn theo lời chỉ dẫn của thiền sư.

4.             Bạch Ngài, phải chăng chỉ cần quán sát sự đi, theo tục đế thôi, là có thể kinh nghiệm được các hiện tượng của sự vật theo chân đế?

Bạn cần biết có ba loại tôi:
a.   Khi dùng chữ tôi với nghĩa: Tôi là một con người hay một tự ngã, đó là dùng
chữ tôi với tà kiến.
b.   Khi dùng chữ tôi với nghĩa: Tôi là một cái gì quan trọng, đó là dùng chữ tôi
với ngã mạn.
c.    Dùng chữ tôi theo ngôn ngữ thông thường để mà nói chuyện.  
Khi bạn ghi nhận “đi là đi” thì chữ tôi đó nằm trong trường hợp thông thường.  Ngay chính Đức Phật và chư vị A La Hán, các Ngài cũng dùng chữ tôi trong khi nói chuyện với mọi người và chữ tôi của các Ngài dùng chẳng có tà kiến hay ngã mạn gì cả.  Tôi đã hướng dẫn thiền sinh bằng ngôn ngữ thông thường hằng ngày khi ghi nhận từng giai đoạn của mỗi bước đi.  Mặc dầu dùng ngôn ngữ chế định, nhưng thiền sinh phải chú tâm quán sát để kinh nghiệm các hiện tượng vật chất và tâm theo chân đế, và khi tâm định đủ mạnh thì thiền sinh sẽ vượt qua ý niệm tục đế để thấy chân đế.  Chẳng hạn, trong khi đi thiền sinh sẽ thấy được ý định thực hiện một bước đi, sự cứng, sự căng, sự chuyển động bao gồm trong các bước đi, và cũng thấy được sự luôn luôn biến đổi của chúng.  Thiền sinh sẽ không còn thấy một khối hình dáng mà thấy được các hiện tượng khởi sinh rồi hoại diệt theo đường lối của nó.  Dần dần thiền sinh sẽ thấy được rằng không những đối tượng quán sát, mà ngay cả tâm quán sát đối tượng đó cũng khởi sinh và hoại diệt tức thời.  Nếu bạn không tin, cứ thử hành thiền đi thì sẽ biết.  Tôi bảo đảm với các bạn rằng, nếu các bạn nghe theo lời chỉ dẫn của tôi thì chắc chắn chính các bạn sẽ kinh nghiệm điều nầy.  

5.             Bạch Ngài, khi bắt đầu hành thiền, chúng con phải ghi nhận những gì, chúng con  phải ghi nhận cả thân lẫn tâm hay sao?

Yathā pakataṁ vipassanā bhiniveso

Trong phụ chú giải Thanh Tịnh Đạo có viết: Minh sát là quán sát các đối tượng nổi bật nhất.  Như vậy, đối với người mới bắt đầu hành thiền thì phải ghi nhận đối tượng nào nổi bật và rõ ràng nhất.  Vì đối tượng nổi bật là đối tượng dễ ghi nhận.  Đừng khởi đầu việc hành thiền bằng cách quán sát các đối tượng thật vi tế hay khó khăn và có ý nghĩ sai lầm rằng phải quán sát các đối tượng vi tế khó khăn mới đạt được thành quả mau chóng.  Chẳng hạn, một học sinh mới bắt đầu vào học thì phải được học những bài học dễ trước.  Học sinh mới đi học không thể cho bài khó được.  Cũng vậy, khởi đầu hành thiền bạn phải quán sát những đề mục dễ nhất trước.  Đức Phật dạy một phương pháp thật dễ: “khi đi hãy ghi nhận đi”, “khi ngồi phải ghi nhận ngồi”.  Thế thôi.

6.             Phải chăng, Ngài là người đặt ra phương pháp quán sát chuyển động phồng xẹp của bụng.

Không, tôi không phải là người đặt ra phương  pháp quán sát phồng xẹp.  Đó là phương pháp của Đức Phật bởi vì Ngài đã dạy chúng ta quán sát yếu tố gió “vayo dhatu” trong ngũ uẩn.  Sự phồng và xẹp được tạo nên bởi yếu tố gió.  Thoạt đầu, có một số người đặt vấn đề về phương pháp quán sát chuyển động phồng xẹp của bụng nên do dự không hành thiền theo phương pháp này.  Nhưng nếu được bạn bè khuyến khích và cố gắng hành thiền thì chính họ đạt được kết quả nên họ tán thán phương pháp mà trước đây họ chỉ trích thậm tệ.  Tôi bảo đảm rằng người nào cố gắng thực hành thì sẽ tán thán phương pháp nầy qua chính kinh nghiệm của mình, giống như chỉ khi nào nếm vị đường thì mới biết đường là như thế nào.

7.             Bạch Ngài, có thể ghi nhận đề mục sau khi đề mục đã xuất hiện không? 
 
 Dĩ nhiên là không, mặc dầu khi mua một vật gì, bạn có thể mua chịu và trả tiền sau.  Nhưng đối với việc hành Thiền Minh Sát thì không.  Bởi thế, thiền sinh phải ghi nhận đề mục ngay khi nó xuất hiện để khỏi dính mắc vào đề mục.

8.             Hành thiền một cách tích cực có hại cho sức khỏe không? 

Đức Phật dạy: “Hãy tinh tấn hành thiền, dầu cho tánh mạng hay tay chân có mất đi nữa cũng không màng” (Kaye ca jivite ca anapek-khatam upatthapeti).  Đây là câu kinh khuyến khích thiền sinh nỗ lực hành thiền dầu cho phải hy sinh cả tánh mạng hay tay chân.  Nhiều người nghĩ rằng: “Hành thiền thật khó khăn, thật  khủng khiếp”.  Thật ra, chẳng có ai chết do nỗ lực hành thiền, và cũng chẳng có người nào vì hành thiền mà hao mòn sức khỏe.  Có một số người nhờ hành thiền tích cực mà đã  chữa khỏi một số bệnh kinh niên.
  
9.             Bạch Ngài, trong khi hành Thiền Minh Sát có cần phải niệm thầm, chẳng hạn như niệm chữ phồng xẹp …không?

Tên gọi, dầu đó là một từ chuyên môn hay trong ngôn ngữ thông thường, cũng đều là sự chế định hay tục đế.  Tên gọi chẳng có chi quan trọng cả.  Trong khi hành thiền, điều quan trọng nhứt là ý thức chánh niệm những hiện tượng bao gồm trong đối tượng ghi nhận, như chuyển động phồng và xẹp của bụng chẳng hạn.  Trong thực hành, chỉ cần ý thức chánh niệm sự vật, không cần niệm thầm cũng đạt được mục tiêu.  Tuy nhiên, khi không niệm thầm, thiền sinh rất khó ghi nhận đối tượng một cách trọn vẹn, chính xác và rõ ràng, đồng thời thiền sinh cũng sẽ gặp khó khăn trong việc nói lại kinh nghiệm của mình cho thiền sư hay người hướng dẫn mình.  Đó là lý do tại sao thiền sinh được dạy phải niệm thầm khi ghi nhận đề mục.  Tuy vậy, đôi lúc thiền sinh gặp phải khó khăn là không biết phải dùng những chữ gì để niệm các hiện tượng đang xảy ra.  Đó là lý do tại sao thiền sinh dùng ngôn ngữ thông thường (phồng xẹp) khi thực hành.

10.         Bạch Ngài, như vậy phải chăng Ngài luôn luôn khuyến khích việc niệm thầm?

Không, không phải luôn luôn như vậy.  Có nhiều lúc đối tượng xuất hiện và diễn tiến quá nhanh chóng khiến bạn không đủ thì giờ để niệm thầm bằng tên từng đối tượng một.  Lúc bấy giờ, bạn phải bỏ qua sự niệm thầm, chỉ đơn thuần ghi nhận mọi diễn biến qua các thời điểm.  Nhiều khi bạn có thể ý thức chánh niệm bốn, năm hay cả mười đề mục cùng lúc và ngay tức khắc, nhưng bạn không thể niệm thầm bằng tên từng đối tượng một.  Điều nầy thật khó khăn, vì bạn không đủ thì giờ để ghi nhận bằng tên nhiều đề mục như vậy.  Gặp trường hợp như thế, bạn cũng đừng bối rối, lo lắng.  Bạn chỉ thuần ghi nhận các diễn biến xảy ra mà không niệm thầm.  Nếu bạn cố gắng niệm thầm nhận tất cả các đề mục thì chẳng bao lâu bạn sẽ mệt mỏi.  Điểm chính trong việc hành thiền là ghi nhận các hiện tượng xảy ra đúng lúc.  Như vậy, khi có nhiều đề mục xảy ra cùng một lúc, thay vì ghi nhận và niệm thầm chuyển động phồng xẹp như thường lệ, thì bạn có thể đơn thuần ghi nhận các đối tượng đang xảy ra mà không niệm thầm.

(Trích từ Căn Bản Thiền Minh Sát, trang 55) 
  
11.         Bạch Ngài, khi không niệm thầm các đề mục như phồng xẹp, ngồi, đứng, đi… thì có thiệt hại hay bất tiện không?

Dĩ nhiên có, có nhiều sự thiệt hại khi không niệm thầm các đề mục hành thiền.  Thiền sinh sẽ không ghi nhận được một cách chính xác các diễn biến đồng thời của tâm và đề mục hành thiền, Thiền sinh sẽ chánh niệm một cách hời hợt bề mặt, không đi sâu vào đối tượng.  Do đó Tinh tấn có thể bị suy giảm.

12.         Bạch Ngài, nếu ghi nhận “ngồi, ngồi” trong khi ngồi sẽ đạt được mục đích tốt đẹp, thì tại sao thiền sinh được dạy là phải ghi nhận phồng xẹp khi ngồi?

Dĩ nhiên ghi nhận “ngồi, ngồi” thì đạt được mục đích, nhưng nếu thiền sinh chỉ ghi nhận có một đề mục trong một thời gian dài, thì thiền sinh sẽ gặp phải sự bất quân bình do có ít tinh tấn và quá nhiều định tâm, điều nầy dẫn đến dã dượi buồn ngủ và chánh niệm cạn cợt yếu kém.  Chỉ ghi nhận “ngồi, ngồi” cũng khó thấy được diễn biến trong khi ngồi vì thiền sinh dễ rơi vào chỗ ghi nhận tư thế ngồi một cách tổng quát nên không thấy được các đặc tính bên trong sự vật.  Đó là lý do tại sao thiền sinh phải quán sát chuyển động phồng xẹp và lấy chuyển động phồng xẹp làm đề mục chính trong khi ngồi.  

13.         Làm thế nào thiền sinh có thể cân bằng được Định và Tinh Tấn bằng cách ghi nhận chuyển động phồng xẹp?

Khi hành thiền cần phải cân bằng Định và Tinh Tấn.  Định Tâm sẽ quá nhiều khi chỉ có một đề mục ghi nhận.  Và Tinh Tấn sẽ quá nhiều khi có nhiều đề mục ghi nhận.  Khi ghi nhận chuyển động phồng xẹp, thì ta chỉ ghi nhận hai đề mục, đó là phồng và xẹp, nhờ thế tinh tấn và định được quân bình.

14.         Bạch Ngài, tại sao phải ngồi một giờ và đi một giờ?

Đi nhiều thì Tinh Tấn nhiều, nhưng Định Tâm ít.  Đi quá nhiều cũng có khi hại cho sức khoẻ, bởi vậy thiền sinh sau khi ngồi một giờ lại phải đi một giờ.  Một giờ ngồi, một giờ đi xen kẻ như vậy giúp cho Định Tâm và Tinh Tấn quân bình.

15.         Bạch Ngài, khi thiền sinh ghi nhận phồng và xẹp, phải chăng họ chỉ nhằm mục đích thấy được cái bụng phồng và xẹp mà chẳng cần thấy thêm gì cả? 

  Thoạt đầu mới hành thiền, thiền sinh chỉ đơn thuần chú tâm vào bụng, điều đó không có trở ngại gì cả.  Lúc mới đầu hành thiền đừng kỳ vọng phải thấy đạo quả, ngay cả tuệ giác đầu tiên là “Tuệ Phân Biệt Vật Chất và Tâm” cũng đừng mong ngóng.  Đối với người mới hành thiền, việc cần phải làm là chú tâm chánh niệm vào đề mục để ngăn ngừa các chướng ngại, nhất là tâm lang bạc đây đó.  Chỉ khi nào các chướng ngại: tham, sân, bất an, giao động, dã dượi buồn ngủ, nghi ngờ đã tạm thời bị chế ngự trong một thời gian, tâm tạm thời an định không bị quấy nhiễu thì thiền sinh mới bắt đầu thấy được thực tướng của sự vật bao gồm trong sự phồng xẹp như: căng cứng, rung động mà không bị dính mắc vào hình dáng hay tư thế của bụng.

16.         Bạch Ngài, khi hành thiền phải ngồi như thế nào?

Có nhiều cách ngồi:
a.    Ngồi kiết già: hai chân xếp chéo, bàn chân nầy để trên bắp vế của bàn chân
kia, hai gan bàn chân ngữa lên trời.
b.   Ngồi bán già, chân nầy đặt lên chân kia.
c.    Ngồi theo kiểu Miến Điện, hay ngồi thoải mái, hai chân không đặt lên nhau
mà để rời, chân nầy đặt trước chân kia.  

Đối với phụ nữ có thể ngồi theo cách nào thấy thích hợp với mình; trừ khi ngồi nõi công cộng phải theo khuôn mẫu của số ðông.  

Ngồi sao cũng được.  Điều quan trọng là chọn cách ngồi thế nào để có thể ngồi lâu hơn, giúp định tâm có cơ hội phát triển tốt đẹp, đạt được các tuệ giác minh sát.

17.         Bạch Ngài, tại sao thiền sinh không được nói chuyện trong thời gian hành thiền?

Không phải là hoàn toàn không nói chuyện.  Thiền sinh có thể nói chuyện khi cần thiết.  Không nên nói những điều vô bổ không cần thiết.  Phải có ý thức sáng suốt trong khi nói, nói những gì cần nói, nói những gì đem đến lợi ích.  Ngay trong đời sống hằng ngày hay trong khi đang cố gắng phát triển tinh thần, sự điều hòa trong việc nói năng cũng đem lại lợi ích tốt đẹp.

18.         Bạch Ngài, khi một thiền sinh được nghe bài pháp về “Sự Tiến Bộ trong Thiền Minh Sát” phải chăng điều đó chứng tỏ rằng Ngài đã xác nhận rằng thiền sinh đó là Tu Đà Huờn?

Không, chúng tôi chẳng bao giờ xác nhận tình trạng tiến bộ tinh thần của một thiền sinh.  Khi chúng tôi biết chắc rằng một thiền sinh đã đạt được yêu cầu trong việc hành thiền thì chúng tôi sẽ cho thiền sinh ấy nghe một bài pháp của một trong các vị thầy của chúng tôi; bài pháp nói về những tiến triển trong Thiền Minh Sát, những tuệ giác đưa đến giác ngộ đạo quả.  Mục đích của chúng tôi là giúp cho thiền sinh có thể tự đánh giá mức độ tinh thần của mình bằng cách xem xét lại các kinh nghiệm mà mình đã đạt được.  Thêm vào đó, đây cũng là dịp giúp thiền sinh hoan hỷ với những gì mình đã đạt được khiến họ hành thiền tích cực hơn để tiến xa hơn nữa.  Cho thiền sinh nghe những bài pháp về sự tiến triển trong các tuệ giác không phải là để xác nhận họ đã đến mức nào mà để họ tự đánh giá các kinh nghiệm mà mình đã đạt được đó thôi. 
 
19.         Bạch Ngài, trong khi dạy Thiền Minh Sát, Ngài có gặp những trở ngại nào không? 

Tôi bắt đầu dạy Thiền Minh Sát năm 1939 tại quê tôi, làng Saik Khon.  Một số nhà Sư và cư sĩ chống đối, nhưng tôi không phản ứng và vẫn tiếp tục hướng dẫn thiền.  Dần dần nhiều người đến hành thiền với tôi và có tiến bộ thật sự qua kinh nghiệm của chính họ.  Điều này cho thấy những điều tôi hướng dẫn là đúng và nhiều người đến học hơn.  Nhưng khi tôi đến dạy thiền tại Yangoon, một tờ báo viết một loạt bài chống đối tôi.  Tôi giữ thái độ im lặng và tiếp tục hướng dẫn thiền.  Rồi một cuốn sách ra đời, dùng những lời lẽ gắt gao để chỉ trích tôi.  Tôi vẫn tiếp tục dạy dỗ, và quan niệm rằng: Tôi hướng dẫn thực hành Thiền Minh Sát theo những lời dạy của Đức Phật, ai muốn đến học thì học, ai không muốn đến với tôi thì đến với những vị thầy khác.  Thế rồi, mọi chuyện cũng qua đi.  Nhiều người đến hành thiền và đạt kết quả tốt đẹp.  Tôi mở Thiền Viện này năm 1950 với 25 thiền sinh.  Bây giờ vào mùa hè có trên một ngàn thiền sinh đến hành thiền.  Vào mùa đông có ít người đến tham dự, nhưng số thiền sinh cũng hơn hai trăm. 
 
20.         Chúng ta đạt được những phước báu gì khi hành Thiền Minh Sát?

Giả sử trong một giây ta ghi nhận chánh niệm một lần, như vậy một phút ta ghi nhận được 60 lần, một giờ ta ghi nhận được 3600 lần.  Mỗi ngày 24 tiếng, trừ 4 giờ để ngủ, thiền sinh hành thiền 20 tiếng, vị chi 72.000 lần ghi nhận chánh niệm.  Một khối phước báu khổng lồ. 
 
21.         Bạch Ngài, trong khi ăn chúng tôi ghi nhận bao nhiêu lần?

Khi ăn một mình, bạn có thể ghi nhận một cách chính xác và tinh tế.  Bạn có thể ghi nhận từ 50 đến 60 lần trong khi ăn một muỗng cơm.  Như vậy, bạn cần phải bỏ ra khoảng một tiếng đồng hồ để dùng một bửa ăn.  Tuy nhiên, khi bạn ăn chung với nhiều người, bạn không thể ăn chậm và ghi nhận như thế.  Bạn ghi nhận được càng nhiều càng tốt, chứ không thể kỳ vọng như khi ăn một mình.   

22.         Trong khi thiền hành, thiền sinh phải chú tâm ghi nhận những gì?
Ghi nhận trái phải hay ghi nhận giở, bước, đạp.  

Thiền sinh phải chú tâm vào những diển biến bên trong chân và trong cơ thể.  Theo từ chuyên môn thì thiền sinh phải chú ý vào vāyo dhātu - yếu tố gió - biểu hiện qua sự căng cứng, sức ép, chuyển động, rung chuyển.  Tejo dhātu (yếu tố lửa) biểu hiện qua nhiệt độ, nóng, lạnh, mát v.v…Pathāvi dhātu (yếu tố đất) biểu hiện qua sự cứng mềm, trơn, nhám.  Đặc biệt yếu tố vāyo dhātu, là yếu tố ưu thế và biểu hiện trong mọi lúc, vì vậy đây là yếu tố dễ ghi nhận.  

23.         Bạch Ngài, khi đứng thiền sinh phải chú tâm niệm những gì?

Khi đứng thì thiền sinh hãy ghi nhận liên tục “đứng, đứng”, nếu sự ghi nhận đứng, đứng trở thành một điệp khúc và trở thành chỉ có một đề mục thôi, khi đó nên thêm vào điểm tiếp xúc và ghi nhận: đứng, đụng, đứng đụng; hoặc nếu thấy chuyển động phồng xẹp mạnh hơn thì chú ý vào chuyển động phồng xẹp.

24.         Khi ngồi hay nằm thì phải ghi nhận chánh niệm như thế nào?

Khi ngồi chỉ ghi nhận ngồi, ngồi liên tục.  Nếu cảm thấy chán nản khi chỉ ghi nhận một đề mục thì phải thêm vào những điểm đụng có cảm giác nổi bật và ghi nhận: ngồi, đụng.  Hoặc là có thể ghi nhận sự phồng xẹp của bụng và không chú tâm gì đến cảm giác của yếu tố gió như là căng cứng, di chuyển.  Tương tự như vậy thiền sinh chánh niệm vào sự nằm.

25.         Bạch Ngài, thiền sinh phải làm gì khi thấy có những khoảng trống giữa phồng và xẹp, giữa xẹp và phồng?

Thiền sinh phải thêm vào khoảng hở của chuyển động phồng xẹp tư thế ngồi.  Chẳng hạn như ghi nhận: phồng, xẹp.  ngồi, phồng, xẹp, ngồi.  Ngay cả khi có nhiều khoảng trống, thiền sinh cũng chỉ thêm vào những chỗ đụng nổi bật nhất: phồng, xẹp, ngồi, đụng.  Khi nằm xuống cũng phải ghi nhận tương tự: phồng, xẹp, nằm, đụng; hay phồng nằm xẹp nằm.   

26.         Bạch Ngài, khi ghi nhận yếu tố lạnh hay nóng là ghi nhận yếu tố nhiệt độ hay khổ thọ?

Thiền sinh chỉ đơn thuần ghi nhận sự nóng.  Đó là kinh nghiệm về yếu tố nhiệt độ.  Nếu thiền sinh cảm thấy cái nóng hay lạnh nầy khó chịu.  Đó là đã kinh nghiệm được khổ thọ.

27.         Muốn thành tựu hoàn toàn các tuệ giác, cần phải thực hành trong thời gian bao lâu?

Điều nầy tùy thuộc vào nhiều yếu tố; có người chỉ trong một tuần.  Phần lớn phải cần trong một tháng rưởi hay hai tháng.  Cũng có người cần đến ba hay bốn tháng mới hoàn thành.  Tuy nhiên, người nào tinh tấn thực hành, tuân theo lời chỉ dẫn của thiền sư trong vòng một tháng thì sẽ đạt đến kết quả.  Bởi vậy, thiền sinh được yêu cầu đến trường thiền ít nhất một tháng.  

28.         Bạch Ngài, phải hành thiền bao lâu mới đạt được tuệ sanh diệt

Phần lớn thiền sinh, nếu tinh tấn hành thiền, đều có thể đạt đến tuệ giác thấy được sự sinh diệt (Udayabbaya ñāna).  Điều này tùy thuộc vào nhiều yếu tố.  Tuy nhiên, một số thiền sinh có thể đạt được trong vòng ba bốn ngày.  Nhưng cũng có người phải mất đến mười hay mười lăm ngày mới đạt được bởi vì thiếu tinh tấn và quyết tâm.  Cũng có một số thiền sinh thực  hành hơn một tháng cũng chưa đạt được tuệ giác nầy bởi vì còn nhiều khiếm khuyết trong việc thực hành.  Một thiền sinh thông thường nếu chịu khó cố gắng thì chỉ trong vòng vài tuấn là đạt được.  Tuy nhiên, nếu thiền sinh thật nỗ lực tinh tấn thì trong vòng một tuần lễ sẽ thấy được sự sinh diệt 

29.         Thiền sinh cần phải làm gì để thấy các hiện tượng một cách rõ ràng?

Vào đêm tối, chẳng hạn, ta không thấy được mọi vật chung quanh một cách rõ ràng, nhưng nếu có một cái đèn bấm thì ta có thể phân biệt được vật nầy hay vật kia.  Cũng vậy, định tâm có thể so sánh với ánh sáng.  Nhờ định tâm chúng ta có thể thấy các hiện tượng một cách rõ ràng.  Nhờ định tâm ta có thể thấy được sự căng cứng, chuyển động… sinh và diệt.

30.         Bạch Ngài, làm thế nào kinh nghiệm được Yếu tố nước? (Apo dhatu: Yếu tố dính hút, ướt, chảy lỏng)

Thật ra, khó cảm nhận được yếu tố nước.  Chúng ta chỉ nhận được yếu tố nước xuyên qua ba yếu tố đất, lửa và gió.  Bởi vậy, khi chúng ta cảm thấy nước mắt chảy ra hoặc khi nuốt nước miếng, chúng ta kinh nghiệm được yếu tố chảy lỏng hay sự ướt.  Sự cảm nhận nầy xuyên qua ba yếu tố kia, khi nước mắt trào ra, ta cảm nhận được nước mắt từ mắt chảy dài xuống má.  Nhận ra sự chuyển động của giọt nước mắt là gió.  Giọt nước mắt nóng, ta cảm nhận được yếu tố lửa.  Giọt nước mắt lăn xuống ta cảm thấy nhột nhột, đó là yếu tố đất.  Qua ba yếu tố đó ta gián tiếp cảm nhận được sự ướt, sự chảy lỏng.  Thật ra, ta không thể quán sát yếu tố nước được, ngay cả mười hai thành phần uế trược của thân gọi là nước, (mật, đàm ,mủ, máu, mồ hôi, mở, nước mắt, huyết tương, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu) cũng phải được cảm nhận xuyên qua ba yếu tố kia chứ không thể cảm nhận trực tiếp được.  

31.         Bạch Ngài, phải chăng chúng ta đừng chấp nhận điều gì nếu chính ta chưa tự mình kinh nghiệm?

Có nhiều vật chúng ta không thể thấy bằng mắt thường được mà phải nhờ kính hiển vi hay kính viễn vọng.  Mặc dầu chúng ta chẳng thấy một phần nào đó, nhưng chúng ta có thể tin được lời nói của những người đã thấy chúng.  Chúng ta tin tưởng hay chấp nhận những khám phá của các phi hành gia, mặc dầu chúng ta chưa đi ra ngoài không gian.  Những quy luật tự nhiên mà giáo pháp đã nói đến thật là tế nhị.  Chúng ta chưa kinh nghiệm được điều đó bởi vì chúng ta thiếu khả năng tinh thần và nỗ lực tinh tấn, hoặc bị các chướng ngại như, phiền não, nghiệp, quả, các tội trọng, chê bai thánh nhân (kilesa, kamma, vipaka, vitikamma, ariyupada).  Tuy nhiên, phần lớn trường hợp các tuệ giác chưa thành đạt bởi vì thiền sinh thiếu tinh tấn và định tâm.  Như vậy, nếu bạn không hành thiền một cách nghiêm túc như những người khác đã làm thì đừng kỳ vọng đạt được những gì mà người khác đã đạt được.

32.         Bạch Ngài, tại sao Ngài dạy những thiền sinh mới lúc đầu phải ghi nhận chuyển động phồng xẹp? 

Bởi vì những đề mục vi tế rất khó ghi nhận và đòi hỏi nhiều thời gian để đạt được sự định tâm, trong khi đó những đề mục hiển hiện rõ ràng như chuyển động phồng xẹp của bụng có thể đạt được sự định tâm mau hơn.  Đó là lý do tại sao tôi hướng dẩn các thiền sinh khởi đầu việc hành thiền của mình bằng cách quán sát các đặc tính căng cứng, chuyển động của sự phồng xẹp.

33.         Bạch Ngài, phải chăng chỉ có hai đề mục phồng xẹp để ghi nhận.

Vâng, thoạt đầu thiền sinh chỉ ghi nhận hai đề mục phồng và xẹp; đó là hai đề mục chính.  Tuy nhiên, thiền sinh còn phải ghi nhận những tư tưởng khởi sinh trong tâm.  Sau khi ghi nhận, lại trở về đề mục chính.  Tương tự như vậy đối với sự đau, thiền sinh ghi nhận đề mục đau.  Khi sự đau biến mất, thiền sinh trở về với đề mục chính.  Nếu ghi nhận sau một khoảng thời gian nào đó mà sự đau vẫn còn hiện diện, thiền sinh hãy trở về đề mục chính.  Trong các tác động co duỗi tay chân, thay đổi tư, thế thiền sinh cũng chánh niệm ghi nhận như trên.  Thiền sinh phải ghi nhận mỗi một tác động hay thái độ bao gồm trong các đề mục rồi trở về đề mục chính.  Khi thiền sinh thấy hay nghe mà các đề mục nầy nổi bật, thiền sinh phải ghi nhận “thấy, thấy”, “nghe, nghe”.  Sau khi ghi nhận ba bốn lần thiền sinh phải tinh tấn trở về đề mục chính.

34.         Bạch Ngài, phải chăng có một số người chỉ nhờ nghe giáo pháp mà đắc quả?

Không phải nhờ nghe giáo pháp mà đắc quả.  Muốn đạt đạo quả, điều thiết yếu là phải ý thức sáng suốt và chánh niệm thân, thọ, tâm, và các hiện tượng tổng quát.

35.         Phải chăng vấn đề tuổi tác ảnh hưởng đến việc hành thiền?

Vâng, có một vài khác biệt giữa người già và người trẻ.  Để đạt được một vài tuệ giác, nếu thiền sinh ở vào khoảng tuổi từ mười lăm đến bốn mươi thì phải thực hành khoảng một tháng.  Đối với những người lớn tưổi hơn, từ sáu mươi đến bảy mươi thì phải cần hai đến ba tháng.  Tại sao vậy?  Bởi vì những người còn trẻ, có sức mạnh về thể lực, tâm nhạy bén, tích cực, và ít lo âu phiền muộn.  Dĩ nhiên, càng già thì càng đau yếu.  Người lớn tuổi thì trí nhớ và sự hiểu biết cũng yếu kém và lại có nhiều phiền muộn hay đã chất chứa nhiều kinh nghiệm không tốt đẹp trong quá khứ.  Đối với các nhà sư, nếu sau khi xuất gia mà hành thiền ngay thì sẽ gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp, bởi vì một vị sư mới tu, tuổi còn nhỏ, có đức tin mạnh mẽ vào việc thực hành, giới luật lại trong sạch.  Do đó, theo ý của tôi, dầu cho việc học hành kinh điển là quan trọng, nhưng ngay sau khi xuất gia, phải hành thiền ít nhất ba tháng.  Đáng thương thay, một số nhà sư đã chết trước khi thực hành.  

36.         Bạch Ngài, phải chăng chỉ đơn thuần quán sát những đề mục như trái bước, phải bước – như sự luyện tập trong quân đội mà mọi người ai cũng biết – lại có thể đạt được các tuệ giác sao? 

Cho rằng chánh niệm, định tâm và tuệ giác không thể phát triển do chú tâm vào trái phải, và cho rằng chú tâm vào trái phải chẳng khác nào sự huấn luyện trong quân đội nhằm mục đích tạo sức khoẻ và thể dục; đó là sự chỉ trích sai lầm.  Chú tâm vào hai chân trái phải trong hành Thiền Minh Sát khác hẳn với sự huấn luyện trong quân đội.  Sự chú tâm ghi nhận trái phải trong khi hành Thiền Minh Sát là để phát triển niệm, định, tuệ.  Nếu bạn chối bỏ, chỉ trích sự thực nầy có nghĩa là bạn đã chối bỏ lời dạy của Đức Phật.

37.         Bạch Ngài, danh từ ghi nhận hay chánh niệm ghi nhận nghĩa là gì?

Danh từ ghi nhận hay chánh niệm ghi nhận có nghĩa là chú tâm vào đề mục hành thiền, mục đích là để ý thức rõ ràng các hiện tượng thực sự đang xảy ra trong từng sát na hay từ sát na nầy sang sát na khác.

38.         Bạch Ngài, tại sao trong lúc hành thiền phải làm các tác động một cách chậm rãi?

Chỉ khi nào làm các tác động một cách chậm rãi thì định tâm và chánh niệm mới theo kịp đối tượng quán sát.  Bởi thế, tôi thường khuyên các bạn mới bắt đầu  hành thiền  phải làm mọi tác động một cách chậm rãi và chánh niệm.  Thật vậy, vào lúc mới bắt đầu việc hành Thiền, nếu bạn làm mọi tác động một cách nhanh chóng thì chánh niệm sẽ không thể bắt kịp.

39.         Tại sao những người đạt được các tầng thiền chỉ, không thấy thân tâm là vô thường?

Vì không quán sát các hiện tượng vật chất và tâm hiển lộ thật sự trong mỗi một sát na khi đi, đứng, ngồi, nằm, thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng; nên họ không thấy được thân và tâm vô thường.

40.         Bạch Ngài, phải chăng Định và Niệm của chúng ta khác biệt lúc bình thường và lúc đau?

Khi Niệm và Định của bạn chưa mạnh mẽ thì sự đau của bạn càng gia tăng.  Khi bạn đang ghi nhận đau, cứng, nóng thì dầu cảm giác đau, cứng, nóng có trầm trọng đến đâu đi nữa bạn cũng hãy tiếp tục ghi nhận bền bỉ.  Khi Niệm và Định đủ mạnh, đôi lúc trong khi đang ghi nhận sự đau bạn sẽ thấy rõ cơn đau biến mất tức khắc, và cảm giác đau này chẳng bao giờ trở lại nữa.

41.         Bạch Ngài, phải chăng Đạo và Quả không thể chứng nghiệm trong thời đại nầy dầu ta có cố gắng đến đâu đi nữa?

Những người nào có tư tưởng như thế thì chắc chắn sẽ thất bại trong việc hành thiền, nói chi đến việc đạt đến đạo quả.  Đây là một loại tư tưởng tạo chướng ngại trên đường thực hành để đạt đến đạo quả.

42.         Bạch Ngài, đàn ông với đàn bà người nào hành thiền tiến bộ mau hơn?

Thường thì đàn bà chịu khó tinh tấn, có nhiều đức tin và tuân theo những lời chỉ dẫn của thầy hơn.  Kết quả là họ phát triển định tâm sớm, và nhờ thế, họ đạt đến tuệ giác nhanh hơn.  Thật vậy, tôi thường thấy đàn bà hành thiền tiến bộ nhanh hơn đàn ông.  Tuy nhiên, tôi cũng thấy một số phụ nữ đã phí thì giờ vào việc suy nghĩ lung tung nên không tiến bộ.  Có nhiều lý do khiến họ không tiến bộ hay tiến bộ rất ít, đó là làm biếng, tuổi già, sức khoẻ kém… Dĩ nhiên, cũng có những nam thiền sinh và các nhà sư tiến bộ rất nhanh khi họ nghiêm túc thực hành theo lời chỉ dẫn của thiền sư.

43.         Bạch Ngài, ngay trong kiếp sống nầy chúng ta có thể đạt được đạo quả không?

Sao không?  Nếu bạn có một công thức để làm thuốc thì bạn có thể làm được thuốc và uống thuốc ấy để trị bệnh.  Cũng vậy, những lời dạy của Đức Phật cũng giống như công thức đang có trong hiện tại đây và bạn cũng đã có sẵn thái độ tinh thần tốt để hành thiền.  Điều quan trọng là bạn phải thực hành, và khi bạn tinh tấn thực hành thì chắc chắn bạn sẽ đạt được đạo quả.  Hãy nhớ kỹ điều đó.  Hơn nữa không có chỗ nào trong kinh Pāḷi nói rằng trong thời đại nầy không thể đạt được đạo quả.  Kinh điển xác định rõ rằng: ngày nay người ta có thể đạt được đạo quả Alahán với tam minh: túc mạng minh, sinh tử minh và lậu tận minh.  Ngay trong chú giải của Luật Tạng còn nói rằng nếu không đạt đạo quả A La Hán thì ít nhất cũng đạt được quả thánh thứ ba.  Lúc gần Niết Bàn, Đức Phật còn nói với Subhada, người học trò cuối của Ngài rằng: “Bao lâu còn có người thực hành một cách đúng đắn thì thế gian không thiếu vắng A La Hán”.  Hiện nay, chúng ta còn tìm thấy những thiền sinh tích cực thực hành theo lời hướng dẫn đúng đắn.  Bởi thế tôi chắc chắn rằng ngay cả bây giờ, thế gian nầy không thiếu vắng thánh nhân, không thiếu vắng A La Hán.

44.         Bạch Ngài, những người đã đạt được đạo quả kinh nghiệm như thế nào?

Một người đạt được đạo quả thì tâm họ lúc bấy giờ tức khắc thay đổi một cách kỳ diệu.  Họ cảm thấy như vừa mới tái sanh.  Đức tin của họ hoàn hảo.  Đó là kết quả của hỷ lạc và hạnh phúc tuyệt diệu.  Đôi lúc trạng thái tâm nầy hiển lộ mạnh mẽ đến độ thiền sinh không thể xuyên thấu vào đối tượng như trước đây, dầu cho họ hết sức chú tâm vào đề mục.  Tuy nhiên, vào một vài giờ sau, hay vào một vài ngày sau đó, trạng thái tâm nầy dịu bớt, thiền sinh có thể hành thiền một cách tốt đẹp trở lại.  Một số người, cảm thấy đạt được một sự thư giản tốt đẹp.  Một số không muốn thực tập nữa, có thể vì thấy đến đây là đủ, đã thoả mãn những gì đã đạt được và không muốn đạt thành quả cao hơn. 
 
45.         Bạch Ngài, phải chăng những người hiểu biết giáo lý nhiều là một chướng ngại cho việc hành  thiền?

Không, không thể nói như thế được.  Không thể nào có chuyện kiến thức về giáo pháp lại là trở ngại trong thực hành.  Như bạn biết, Ngài Pothila, một nhà sư có kiến thức uyên thâm về Phật Pháp, đã đắc quả A La Hán mau chóng nhờ thực hành dưới sự hướng dẫn của một sa di nhỏ tuổi.  Điều nầy chứng tỏ rằng kiến thức của một người không trở ngại cho việc thực hành giáo pháp.  Chướng ngại thực sự trong việc hành thiền là ngã mạn, (cho rằng mình học cao hiểu rộng nên không tin hay ít tin tưởng vào sự thực hành) hoài nghi, không nghiêm túc tuân theo lời hướng dẫn của thiền sư, thiếu nỗ lực tinh tấn chứ không phải là kiến thức.

46.         Bạch Ngài, có sự khác biệt giữa một người hành thiền và người không hành thiền khi họ phải đương đầu với cơn bệnh nặng chăng?

Dĩ nhiên là có sự khác nhau, người không hành thiền chỉ nhớ đến việc xin giới, nghe tụng kinh Paritta, cúng dường y bát và thực phẩm cho chư Tăng.  Thật đáng thương làm sao! Họ chỉ biết làm phước và giữ giới thôi.  Đối với người hành thiền, họ cố gắng thực hành để đạt những tuệ giác cao hơn, cho đến khi giác ngộ đạo quả, bằng cách chánh niệm ghi nhận khắn khít vào đề mục, vào chính cảm giác đau đớn khó chịu từng sát na một.  

47.         Bạch Ngài, phải chăng có những loại đau khổ, không thoải mái do việc hành thiền đem lại, nếu có thì làm thế nào để đương đầu với chúng?

Vâng, khi đạt được định tâm mạnh mẽ, thiền sinh sẽ kinh nghiệm một vài cảm giác khó chịu như ngứa, nóng, đau nhức, nặng nề, tê cứng, nghẹn...  Những cảm giác nầy sẽ chấm dứt ngay khi bạn ngưng hành thiền.  Nhưng khi hành thiền trở lại thì những cảm giác nầy lại xuất hiện.  Chắc chắn đây không phải là bệnh hoạn mà chỉ là những cảm thọ liên quan đến sự thực hành.  Đừng lo lắng, cứ tiếp tục ghi nhận.
 
Cuối cùng những cảm giác khó chịu nầy sẽ biến mất.

48.         Bạch Ngài, khi sự phồng xẹp biến mất, thiền sinh phải ghi nhận những gì?

Khi sự phồng xẹp biến mất, bạn phải chú tâm ghi nhận ngồi, đụng hay nằm, đụng.  Bạn có thể thay đổi nhiều điểm đụng.  Chẳng hạn, như bạn ghi nhận ngồi, đụng và chú tâm vào điểm đụng ở chân phải; sau đó niệm ngồi đụng và chú tâm vào điểm đụng ở chân trái.  Như vậy, bạn có thể chuyển sự chú tâm từ điểm đụng nầy sang điểm đụng khác.  Hoặc bạn có thể chuyển sự chú tâm vào bốn, năm hoặc sáu điểm đụng xen kẽ.

49.         Bạch Ngài, khi không có đầy đủ Ba La Mật thì chúng ta có thể hành thiền để đạt đạo quả không?

Nếu bạn không hành thiền thì làm sao vun bồi được Ba La Mật.  Ngay cả khi Ba La Mật đã tích tụ đầy đủ, bạn cũng không thể giác ngộ nếu không hành thiền.  Mặt khác, nếu bạn hành thiền thì Ba La Mật sẽ được vun bồi và điều nầy sẽ giúp bạn kinh nghiệm được Niết Bàn sớm hơn.  Nếu Ba La Mật của bạn được phát triển trọn vẹn thì bạn sẽ được giác ngộ ngay trong kiếp sống nầy, hoặc ít ra cũng sẽ tạo được mầm mống cho việc giác ngộ trong tương lai.

50.         Bạch Ngài, xin Ngài hãy kể ra một vài người mà Ngài tin rằng họ đã kinh nghiệm Niết Bàn.

Vâng tôi sẽ kể, trong số những người đầu tiên hành thiền dưới sự hướng dẫn của tôi có U.  Pho Chon, anh em chú bác của tôi, là người có trí tuệ nhạy bén.  Khi ông ta đạt được tuệ diệt thì ông bắt đầu thấy cây cối và con người tan rã, ông ta nghĩ rằng cặp mắt ông ta có cái gì không ổn đây, bởi vì ông ta đã được học từ một vị thầy rằng: Những sự vật như cây cối, khúc gỗ, đá, thân thể con người, tùy thuộc vào nhiều nguyên nhân và điều kiện như nghiệp và tâm và các điều kiện khác mà biến đổi một cách nhanh chóng.  Sinh ra chúng chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn rồi biến mất.  Nhưng ở đây lạ quá, ông không thấy sự vật sinh diệt mà chỉ thấy sự vật tan biến.  Ông đến gặp tôi và hỏi tại sao có hiện tượng như vậy.  Tôi khích lệ ông ta và nói rằng chẳng có gì sai lầm đối với sự nhìn của ông ta cả.  Đó là tuệ thứ năm, ở tuệ nầy ông ta có thể thấy sự vật diệt mất một cách nhanh chóng, tức thì.  Vài ngày sau đó, ông ta diển tả một cách rõ ràng cho tôi biết kinh nghiệm Niết Bàn, kinh nghiệm về sự chấm dứt của vật chất và tâm của ông.
  
51.         Bạch Ngài, những người Ngài nghĩ đã đạt Niết Bàn, mô tả Niết Bàn như thế nào?

Những người tôi tin rằng họ đã đạt Niết Bàn, đã mô tả lúc họ chứng nghiệm Niết Bàn như sau:

Tôi thấy đối tượng ghi nhận, và tâm ghi nhận ngưng bặt một cách đột ngột.

52.         Bạch Ngài, có bao nhiêu thiền sinh dưới sự hướng dẫn của Ngài mà Ngài tin rằng họ đã giác ngộ đạo quả?

Tôi tin rằng có hàng ngàn thiền sinh, chỉ thực hành trong vòng một tuần lễ đã thấy được tuệ đầu tiên là “Tuệ Phân Biệt Thân-Tâm”.  Đó là nhờ họ tích cực hành thiền và nghiêm túc tuân theo lời chỉ dẫn của thiền sư nên có định tâm mạnh mẽ.  Cũng có hàng ngàn thiền sinh thấy được liên hệ nhân quả, thấy rõ vô thường, khổ và vô ngã của vật chất và tâm.  Và cũng có hàng ngàn thiền sinh do tinh tấn quán sát thân tâm một cách khắn khít từng giây phút một, định tâm phát triển, tuệ giác chín muồi và đã đạt đạo quả. 
 
53.         Phải chăng thấy được vô thường là khi ta thấy một vật gì đang bị hủy hoại như cái bình bị bể chẳng hạn, hoặc sẽ thấy khổ khi bị một cái gai đâm vào da thịt?

Đôi khi bạn thấy được sự vô thường khi nhìn thấy bình bể, thấy được khổ khi bị gai nhọn đâm vào da thịt.  Nhưng ý niệm vô thường và khổ đó chỉ là trí tuệ hiểu biết về vô thường và khổ theo tục đế, không giúp cho bạn thấy rõ được vô ngã qua chân đế.  Mặt khác, một thiền sinh chỉ thấy được vô thường khi họ thấy các hiện tượng trong hiện tại sinh và diệt liên hồi và thấy được khổ khi họ thấy thân tâm trong hiện tại bị đàn áp bởi sự hủy hoại, chỉ khi đó thiền sinh mới thực sự thấy vô ngã đúng theo chân đế.

54.         Bạch Ngài, xin Ngài  diển tả cho biết sự chứng ngộ vô ngã qua chân đế là như thế nào?

Có nhiều người nghĩ rằng thấy rõ được vô ngã khi bạn mất ý niệm về hình dáng do thấy được những yếu tố vi tế của vật chất.  Thực ra, đó không phải là thấy vô ngã qua sự thực hành, đó là bởi vì bạn đã có kinh nghiệm rõ ràng về cái tâm hay biết và cho rằng cái tâm hay biết đó là tôi hay linh hồn.  Giống như trường hợp ở cõi trời vô sắc.  Những người ở cõi trời đó không có cơ thể vật chất nhưng họ vẫn có ý nghĩ sai lầm rằng tâm của họ là tôi ta, linh hồn, tự ngã .  Như vậy, chỉ đơn thuần thấy mất ý niệm về hình thể vật chất không phải là thấy vô ngã đâu.  Chỉ khi nào thiền sinh quán sát vật chất và tâm, trong giây phút hiện tại và thấy rõ chúng khởi sinh và hoại diệt ngay tức khắc theo đường lối của chúng, mà chẳng có một uy quyền hay thực thể nào thúc đẩy hay điều khiển; lúc đó thiền sinh mới thấy rõ vô ngã qua chân đế 

55.         Làm thế nào để thấy được vật chất và tâm là vô thường?

Nếu bạn quán sát chánh niệm thân tâm một cách khắn khít từng giây phút một thì bạn sẽ thật sự thấy rõ bản chất của các hiện tượng và thấy rõ chúng khởi sinh và hoại diệt ngay tức khắc.

56.         Chúng tôi phải ghi nhận hay niệm những điểm đụng hay điểm tiếp xúc nào?

Điểm đụng hay điểm tiếp xúc nào cũng ghi nhận hay niệm được: chẳng hạn điểm đụng nơi mông, nơi chân, nơi đầu gối… Tất cả nơi nào chú tâm đến đều ghi nhận: đụng, đụng hay tiếp xúc, tiếp xúc.

57.         Phải chăng muốn thấy đặc tính của sự vật khi đi, phải chú ý vào sự cứng, sự chuyển động?

Đức Phật dạy thầy Tỳ Khưu phải: ý thức chánh niệm vào sự đi khi đi.  Khi chúng ta đi thì yếu tố gió được hiển lộ.  Kinh nghiệm được yếu tố gió là khi chúng ta thấy rõ sức ép, sự nâng đỡ, sự chuyển động, sự đẩy.  Khi kinh nghiệm được sức ép, sự nâng đỡ là thấy được đặc tính của yếu tố gió.  Khi kinh nghiệm được sự chuyển động là thấy được chức năng của yếu tố gió.  Tuy nhiên, Đức Phật không bảo ta phải ghi nhận: sức ép, nâng đỡ, chuyển động hay đẩy… Đức Phật chỉ dạy rằng khi đi phải ý thức đến sự đi.  Chỉ thế thôi.  Sở dĩ Ngài dạy như thế bởi vì Ngài muốn cho ta dễ hiểu.  Ghi nhận bằng ngôn ngữ tục đế là phương pháp dễ dàng, và hầu như ai cũng làm được.

58.         Bạch Ngài, phải chăng thấy được vô thường thì tức khắc thấy được khổ và vô ngã? 

Đúng vậy, cái gì vô thường thì cái đó khổ và vô ngã.

59.         Bạch Ngài, tại sao các thiền sư không thể xác nhận sự giác ngộ của một thiền sinh?

Đúng vậy, thiền sư không thể xác nhận một thiền sinh nào đã đắc quả.  Chỉ có Đức Phật mới xác nhận sự chứng đắc Đạo Quả của thiền sinh, người nào đã đắc quả gì: Tu Đà Huờn, Tư Đà Hàm v.v… Ngay cả Đại Đức  Sariputta cũng chẳng bao giờ xác nhận ai đắc quả gì.  Chúng tôi chẳng bao giờ xác nhận sự chứng đắc của một thiền sinh nào.  Đó là đường lối thích ứng theo truyền thống Phật Giáo.

60.         Bạch Ngài, nếu chỉ hành thiền trong vòng một tháng mà thiền sinh đã có thể diễn tả kinh nghiệm chứng đắc đạo quả của mình sao? Như vậy có quá sớm chăng?

Không quá sớm đâu, Đức Phật đã dạy rằng: phương pháp hành thiền của Ngài là phương pháp tuyệt hảo có thể giúp thiền sinh tinh tấn hành thiền đạt quả thánh thứ ba trong vòng một tháng.  Nếu có người nào nói rằng không thể giác ngộ chỉ trong vòng một tháng dầu cho có hành thiền tích cực đến đâu đi nữa thì người đó đã chê trách những lời dạy của Đức Phật và đã cản trở việc hành thiền của mọi người.
Reply
Phật Pháp Căn Bản Phần II – Phụ Lục –
Hướng Dẫn Hành Thiền
Tác giả: U Silananda
Người dịch: Sư Khánh Hỷ

(post # 747, p 50)
HƯỚNG DẪN HÀNH THIỀN

Tài  liệu  này  được  soạn  dịch  theo  cuốn  Practical  Vipassanā  Meditational Exercises của Hòa Thượng Mahasi (Hội chủ Đại Hội Kết Tập Tam Tạng Pāḷi lần thứ sáu tại Yangon Miến Điện 1954-1956) và cuốn Four Foundation of Mindfulness của Hòa Thượng Sīlānanda.

Chúng ta sẽ nói đến ba loại thiền: 


  1. Thiền Tha Thứ, 
  2. Thiền Từ Ái (Niệm Tâm Từ) và 
  3. Thiền Minh Sát.

THIỀN THA THỨ VÀ THIỀN TỪ ÁI

Muốn hành thiền, trước tiên bạn phải tìm một nơi thích hợp để giúp cho việc hành thiền của bạn được tốt đẹp.  Nơi thích hợp là nơi yên tịnh.  Bạn có thể tìm được nơi yên tịnh trong thiên nhiên. Tuy nhiên, nếu bạn hành thiền trong nhà, bạn phải tìm một nơi thích hợp cho việc định tâm của bạn, và mỗi khi hành thiền bạn nên đến đó. Bạn có thể tôn trí nơi hành thiền bằng một pho tượng hay ảnh Phật, đèn, hoa và thắp một nén nhang để hổ trợ cho việc hành thiền. Tuy nhiên, những thứ trên không phải là điều thiết yếu. Ðiều quan trọng là bạn phải có một nơi yên tịnh để hành thiền.

Bắt đầu hành thiền, bạn phải chọn một thế ngồi thoải mái thích hợp với bạn. Bạn có thể ngồi xếp bằng, lưng giữ thẳng. Nếu ngồi kiết già, hai chân tréo vào nhau. Nếu quá khó đối với bạn thì bạn có thể ngồi bán già, đặt chân này lên chân kia. Nếu ngồi bán già cũng còn khó khăn đối với bạn thì bạn có thể ngồi theo “lối Miến Ðiện” hay còn gọi là “lối dễ dàng”, chân này đặt trước chân kia, hai chân rời ra mà không chồng lên nhau. Nếu vẫn còn thấy khó khăn, bạn có thể ngồi trên ghế hoặc trên băng dài. Bạn cũng có thể dùng gối đệm nếu muốn. Mặc dầu ngồi kiết già là tư thế lý tưởng, nhưng bạn phải quyết định chọn cho mình một tư thế thích hợp để có thể duy trì việc hành thiền một cách tốt đẹp nhất. Dầu ngồi ở tư thế nào đi nữa, điều quan trọng là phải giữ thân thể và lưng cho ngay thẳng.

Thiền Tha Thứ

Chúng ta hành Thiền Tha Thứ để loại bỏ mọi cảm giác hối hận và sân hận. Thiền Tha Thứ có ba phần: xin người khác tha thứ cho mình, tự mình tha thứ cho người khác, và chính mình tha thứ cho mình.

Trước khi muốn viết gì lên bảng đen, bạn phải chùi sạch bảng. Cũng vậy, trước khi tha thứ cho người khác và tha thứ cho chính mình, bạn phải được người khác tha thứ. Ðôi khi bạn làm một điều gì sai lầm đối với người nào, bạn cảm thấy ân hận. Ðặc biệt lúc hành thiền, bạn muốn giữ tâm trong sạch thanh tịnh nhưng những tư tưởng ăn năn hối tiếc này cứ lãng vãng trong tâm trí khiến cho việc hành thiền của bạn bị rối loạn.  Do đó, điều trước tiên bạn phải xin người khác tha thứ cho bạn.

Sau đó, chính bạn phải tha thứ cho người khác về những lỗi lầm của họ. Có thể, có người nào đó làm điều gì sai lầm đối với bạn và làm bạn giận dữ, bực tức thì bạn cũng phải loại bỏ những tư tưởng sân hận ấy đi để cho tâm trí được thảnh thơi. Bạn phải tha thứ cho mọi người, nếu không tha thứ thì bạn không thể hành thiền được; bởi vậy, Thiền Từ Ái và Thiền Tha Thứ đi liền với nhau, nếu bạn không thể tha thứ cho một người nào đó thì bạn không thể rải tâm từ tới họ được. Như vậy, điều thứ hai là bạn phải tha thứ cho mọi người.

Một điều rất quan trọng nữa là bạn phải tha thứ cho chính mình. Ðôi khi bạn cảm thấy tha thứ cho mình là một điều khó khăn. Nếu bạn không thể tha thứ cho chính mình thì những tư tưởng sân hận, bực tức về chính mình sẽ quấy rối việc hành thiền của bạn. Bởi thế, điều thứ ba là trước khi hành thiền từ ái là bạn phải hành thiền tha thứ cho chính mình.

Như vậy, Thiền Tha Thứ là điều kiện tiên quyết để hành Thiền Từ Ái.

Thiền Từ Ái (Niệm Tâm Từ)

Tâm từ (metta) là một trong bốn đề mục của Tứ Vô Lượng Tâm hay phạm trú (Brahma- vihara: nơi trú ngụ của các bậc phạm thiên). Thiền từ ái được giải thích và hướng dẫn kỹ càng trong sách Thanh Tịnh Đạo (Visudhimagga). Người nào muốn hành thiền từ ái một cách nghiêm túc cần phải theo đúng những lời chỉ dẫn trong sách này. Phần thực hành ghi lại ở đây là để bổ túc cho các thiền sinh hành Thiền Minh Sát. Trong khi hành Thiền Minh Sát, thiền sinh cần dành thì giờ mỗi ngày (khoảng 30 phút) để thực hành bốn pháp hỗ trợ. Niệm tâm từ là một trong bốn pháp hỗ trợ đó. Ba pháp kia là: Niệm ân Đức Phật, Niệm cơ thể ô trược, và niệm sự chết.

Lòng từ ái có thể ví như một lọai dầu nhớt chế vào máy giúp máy chạy trơn tru. Không ai muốn lái một chiếc xe đã hết dầu nhớt vì sợ xe hư, thế mà ít ai nhớ châm thêm dầu nhớt từ ái trong sự liên hệ với mọi người; thảo nào có rất nhiều sự bế tắt, nhiều trục trặc trong sự liên hệ với nhau. Nếu người ta chịu châm một ít dầu nhớt từ ái vào sự liên hệ giữa người với người thì biết bao sự tắt nghẹn, bế tắt được giảm thiểu; biết bao nỗi giận hờn, ghen ghét thù hận, ác ý, ganh tỵ sẽ vắng mặt trên thế gian.

Thực hành Thiền Từ Ái sẽ đem lại cho ta mười một lợi ích sau đây, như Đức Phật đã dạy:



  1. Ngủ an lành.
  2. Không gặp ác mộng.
  3. Thức dậy an lành.
  4. Được mọi người thương mến
  5. Được phi nhân thương mến
  6. Được Chư Thiên bảo vệ.
  7. Lửa, thuốc độc, và vũ khí không làm hại được.
  8. Dễ tập trung tâm ý.
  9. Mặt mày trong sáng dễ mến.
  10. Không bối rối trong lúc chết.
  11. Nếu tâm từ được phát triển cao hơn thì được tái sinh về cõi Phạm Thiên. Muốn hưởng được lợi ích trên, chúng ta phải thực hành Thiền Từ Ái.

Muốn hưởng được lợi ích trên, chúng ta phải thực hành Thiền Từ Ái.
 

Từ ái là một loại tình thương, lòng thành thật mong muốn tất cả chúng sinh được an vui hạnh phúc.  Lòng từ ái chẳng dính dấp gì đến sự luyến ái, dính mắc vào riêng một cá nhân nào.  Ðó là một tình thương thật trong sạch, một sự ước mong thành thật cho chính mình và cho người khác.  Khi lòng từ ái chân thành tràn ngập tâm bạn, bạn cảm thấy an bình và tĩnh lặng, nguồn an lạc thanh tịnh này sẽ tuôn tràn đến những người mà bạn hướng tâm đến.  Khi bạn hướng lòng từ ái này đến tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh sẽ được thấm nhuần lòng từ ái của bạn.  Tư tưởng từ ái này cũng sẽ tạo một bầu không khí thân thiện, an lành giữa mọi người, khiến cho sự liên hệ giữa mọi người được hài hòa, thoải mái.
Khi thực hành Thiền Từ Ái, bạn khởi đầu rải tâm từ cho chính mình, bạn mong ước cho chính mình được an vui hạnh phúc.  Khi đọc thầm câu: "nguyện cho tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại"  không có nghĩa là bạn ích kỷ, bởi vì muốn rải tâm từ ái đến người khác thì trước tiên bạn phải có tư tưởng từ ái với chính mình.  

Khi rải tâm từ ái cho chính mình bạn cũng lấy mình làm ví dụ điển hình.  Ðiều này có nghĩa là bạn nói: "nguyện cho tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại" thì đồng thời bạn cũng liên tưởng rằng: "ta muốn có tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, muốn có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại" thì người khác cũng có mong cầu như ta vậy, lấy bụng ta suy ra bụng người ta cũng cầu mong cho "người khác có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại"  như ta vậy.

Sau khi rải tâm từ cho chính mính, bạn rải tâm từ đến cho tất cả chúng sinh.  Sở dỉ bạn phải rải tâm từ cho mình trước bởi vì nếu chính ta không đuợc an lạc tĩnh lặng thì làm sao có thể rải sự an lạc tĩng lặng đến cho người khác.  Bởi vậy, trước khi rải tâm từ đến mọi người, mọi chúng sinh, bạn phải khởi động và vun bồi lòng từ ái này trong chính mình.  Bạn có thể rải tâm từ bằng nhiều cách.  Bạn có thể rải tâm từ đến tất cả chúng sinh căn cứ theo chỗ ở.  Chúng sinh ở đây bao gồm cả súc vật, côn trùng v.v...  Trước hết, bạn rải tâm từ đến tất cả chúng sinh trong nhà bạn.  Tiếp theo đó bạn rải tâm từ đến tất cả chúng sinh trong khu vực bạn đang cư ngụ, trong thành phố, trong quận, trong tiểu bang, trong nước, trên thế giới, trong vũ trụ, và cuối cùng là rải tâm từ đến tất cả chúng sinh một cách tổng quát.  Khi nói các câu trên, bạn hãy cố gắng hình dung ra những chúng sinh mà bạn hướng đến đang mạnh khoẻ, an lạc và hạnh phúc.  Tư tưởng từ ái của bạn sẽ đến với họ và khiến họ thật sự mạnh khoẻ, an lạc và hạnh phúc.  Việc hành Thiền Từ Ái kéo dài trong mười lăm phút.  Bạn cũng có thể rải tâm từ ái đến từng hạng người: Thầy tổ, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, người không quen biết, người không có thiện cảm với mình và tất cả chúng sinh.  
           
Thực Hành Thiền Tha Thứ và Thiền Từ Ái
 
Khi hành Thiền Tha Thứ, xin bạn chắp hai tay và đọc:

Vì lầm lạc và không minh mẫn nên tôi đã có hành động, lời nói và ý nghĩ sai lầm làm thiệt hại và gây ra đau khổ cho người khác, cho chúng sinh khác.  Xin tất cả mở rộng lòng từ bi và trí tuệ tha thứ cho tôi.

Tôi thành thật tha thứ cho tất cả những ai đã có hành động, lời nói và ý nghĩ sai lầm làm thiệt hại và gây ra đau khổ cho tôi.

Tôi thành thật tha thứ cho chính tôi và nguyện từ nay về sau làm lành, lánh dữ, giữ tâm trong sạch.

Bạn nên đọc các câu trên từ năm đến mười lần trước khi hành Thiền Từ Ái hay Niệm Tâm Từ.

Ngay sau Thiền Tha Thứ, bạn có thể hành Thiền Từ Ái như sau:

a) Rải tâm từ qua từng hạng người:

Khi hành Thiền Từ Ái theo cách này, bạn có thể niệm thầm trong tâm vào khoảng mười lần những câu sau đây:

Nguyện cho tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho thầy tổ tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho cha mẹ tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ,có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho những người trong gia đình tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho thân bằng quyến thuộc tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho bạn bè tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho những người cùng sở làm với tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả thiền sinh tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho những người không quen biết tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho những người không có thiện cảm với tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự an vui, đừng có khổ, đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng; hãy cho được sống lâu, đừng có bệnh hoạn, hãy cho được thành tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được an vui; tất cả chúng sinh đang đau khổ, xin cho dứt khổ, đang kinh sợ, xin cho hết kinh sợ, đang thương tiếc, xin cho hết thương tiếc.

b) Rải tâm từ đến chúng sinh theo nơi chốn:

Khi hành Thiền Từ Ái theo cách này, bạn có thể niệm thầm trong tâm vào khoảng mười lần những câu sau đây:

Nguyện cho tôi tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh trong nhà này tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh trong khu vực này tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh trong thành phố này tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh trong tiểu bang này tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh trong nước này tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh trên thế giới thân tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh trong vũ trụ tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh tràn đầy tình thương, khoan dung, tha thứ, có đầy đủ sức khỏe, bình an, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

Nguyện cho tất cả chúng sinh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự an vui, đừng có khổ, đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng; hãy cho được sống lâu, đừng có bệnh hoạn, hãy cho được thành tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được an vui; tất cả chúng sinh đang đau khổ, xin cho dứt khổ, đang kinh sợ, xin cho hết kinh sợ, đang thương tiếc, xin cho hết thương tiếc.

Sau khi hành thiền tha thứ và thiền từ ái các bạn hành Thiền Minh Sát.
Reply
Phật Pháp Căn Bản Phần II – Phụ Lục –
Hướng Dẫn Hành Thiền
Tác giả: U Silananda
Người dịch: Sư Khánh Hỷ
https://theravada.vn/phat-phap-can-ban-p...anh-thien/


THIỀN MINH SÁT 
Hòa thượng Mahasi
 
Thực tập Thiền Minh Sát là nỗ lực quán sát chánh niệm của thiền sinh để thấy rõ ràng chính xác bản chất của các hiện tượng tâm vật lý đang xảy ra trong chính thân thể mình.

Hiện tượng vật lý là những vật hay đối tượng mà thiền sinh thấy rõ ràng chung quanh họ.  Toàn cơ thể của thiền sinh mà thiền sinh có thể nhận ra một cách rõ ràng là tập hợp của một nhóm vật chất (rūpa) và những hiện tượng tâm lý hay tâm, là những hoạt động của ý thức hay nhận biết (nāma).

Chúng ta sẽ thấy rõ các hiện tượng tâm vật lý hay vật chất và tâm này mỗi khi có sự nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm hay suy nghĩ diễn ra.  Chúng ta phải nhận biết những hiện tượng này bằng cách quán sát và ghi nhận: thấy, thấy, thấy;  nghe, nghe, nghe;  ngửi, ngửi, ngửi; nếm, nếm, nếm;  đụng, đụng, đụng  hoặc  suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ.

Mỗi khi thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng hay suy nghĩ, thiền sinh đều phải ghi nhận.  Nhưng khi mới bắt đầu thực tập, thiền sinh không thể ghi nhận được từng chuyện xảy ra.  Bởi thế, các thiền sinh mới chỉ nên tập ghi nhận những gì dễ nhận ra mà thôi.

Mỗi khi thở, bụng phồng lên và xẹp xuống.  Các chuyển động này thường dễ nhận ra.  Sự chuyển động này là đặc tính của gió vāyo dhātu (yếu tố chuyển động hay yếu tố gió).  Thiền sinh nên bắt đầu ghi nhận những chuyển động này bằng cách chú tâm quán sát bụng.  Bạn sẽ thấy bụng phồng lên khi bạn hít vào và xẹp xuống khi bạn thở ra.  Khi bụng phồng lên, bạn ghi nhận phồng, phồng, phồng, và khi bụng xẹp xuống thì ghi nhận xẹp, xẹp, xẹp.  Nếu không thấy được chuyển động phồng xẹp thì hãy đặt tay lên bụng để ghi nhận.  

Không nên thúc ép hơi thở, đừng cố ý thở chậm hay nhanh lên, cũng đừng thở quá mạnh.  Bạn sẽ mệt nếu bạn thúc ép hơi thở.  Thở đều đặn bình thường và ghi nhận phồng xẹp khi chúng xuất hiện, hãy niệm thầm phồng, xẹp, không niệm ra lời.

Trong việc hành thiền minh sát, việc định danh cho một hiện tượng không thành vấn đề.  Điều quan trọng là biết hay thấy.  Khi ghi nhận sự phồng của bụng, hãy ghi nhận chuyển động phồng từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt.  Phải ghi nhận kỹ càng như đang thấy bằng mắt.  Tâm ghi nhận phải đi song song với chuyển động phồng của bụng.  Sự chuyển động và tâm ghi nhận phải gắn bó và hướng về cùng mục tiêu.  Tâm phải dán sát vào đối tượng như hòn sỏi ném trúng vào đích vậy.  Ở giai đoạn xẹp của bụng, thiền sinh cũng phải ghi nhận rõ ràng kỹ lưỡng như vậy.

Trong khi ghi nhận chuyển động của bụng, tâm bạn có thể bị phóng đi nơi khác, tức là tâm không còn dán sát vào bụng.  Khi bị phóng tâm phải niệm thầm: phóng tâm, phóng tâm, phóng tâm.  Ghi nhận như vậy một, hai lần thì sự phóng tâm sẽ chấm dứt; lúc ấy thiền sinh hãy trở về ghi nhận sự phồng xẹp ở bụng.  Nếu tâm đi lang thang đến một nơi nào đó hãy ghi nhận tới, tới, tới rồi trở lại sự phồng xẹp.  Nếu bạn tưởng tượng gặp ai hãy ghi nhận gặp, gặp, gặp rồi trở về sự phồng xẹp.  Nếu bạn tưởng tượng gặp và nói chuyện với người nào đó, phải ghi nhận nói, nói, nói.  Tóm lại, khi suy nghĩ hay liên tưởng đến điều gì bạn đều phải ghi nhận.

Nếu bạn tưởng tượng, hãy ghi nhận  tưởng tượng, tưởng tượng, tưởng tượng.  Nếu bạn suy nghĩ, hãy ghi nhận  suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ.  Nếu bạn tính toán hay dự định hãy ghi nhận  tính toán, tính toán, tính toán  hay  dự định, dự định, dự định;  nếu bạn thấy, hãy ghi nhận  thấy, thấy, thấy.   

Nếu bạn liên tưởng đến điều gì, hãy ghi nhận liên tưởng, liên tưởng, liên tưởng.  Nếu bạn cảm thấy vui, hãy ghi nhận vui, vui, vui.  Nếu bạn cảm thấy chán, hãy ghi nhận  chán, chán, chán;  nếu bạn cảm thấy mừng, hãy ghi nhận mừng, mừng, mừng;  nếu bạn cảm thấy buồn bực, hãy ghi nhận  buồn bực, buồn bực, buồn bực.
 
Ghi nhận tất cả mọi hoạt động của ý thức hay sự nhận biết gọi là niệm tâm (cittānupas-sanā).

Bởi vì không ghi nhận được những hoạt động của ý thức nên ta có khuynh hướng cho đó là người hay là một cá nhân.  Chúng ta có khuynh hướng cho rằng chính tôi đang tưởng tượng, suy nghĩ, tính toán, biết hay thấy, v.v...  Chúng ta nghĩ rằng có một con người đã sống và suy nghĩ từ lúc ấu thơ đến bây giờ.  Thật ra không hề có một con người như thế hiện hữu.  Thay vào đó chỉ có những hành động của ý thức diễn biến liên tục và kế tiếp nhau mà thôi.  Đó là lý do tại sao chúng ta phải ghi nhận mỗi một hoạt động của ý thức khi nó vừa khởi lên.  Khi ghi nhận liên tục như vậy thì các hoạt động của ý thức sẽ chấm dứt.  Chúng ta lại trở về với sự ghi nhận phồng xẹp của bụng.

Khi ngồi hành thiền một thời gian lâu, các cảm giác như cứng đơ và nóng sẽ khởi ra trên cơ thể chúng ta.  Tất cả những cảm giác đó đều phải được ghi nhận một cách cẩn thận.  Các cảm giác đau và mệt cũng phải được ghi nhận như vậy.  Tất cả những cảm giác này được gọi là khổ thọ (dukkhavedanā) và sự ghi nhận chúng được gọi là niệm thọ (vedanānupas-sanā).  Khi quên ghi nhận hay không ghi nhận được các cảm giác này sẽ khiến bạn nghĩ rằng: "Tôi cứng đơ, tôi cảm thấy nóng, tôi đau, vừa rồi tôi cảm thấy thoải mái, bây giờ tôi cảm thấy không thoải mái với những cảm giác bất an này."  Đồng hóa những cảm giác này với tôi hay ta là một điều sai lầm.

Thật ra chẳng hề có một cái tôi trong đó.  Chỉ có những cảm giác bất an kế tiếp nhau diễn ra mà thôi chẳng khác nào sức đẩy kế tục và liên tiếp của điện lực đã làm cho đèn sáng lên.  Những cảm giác bất an trong cơ thể chúng ta cũng diễn ra liên tiếp kế tục cái này theo cái kia vậy.  Thiền sinh phải cẩn thận và tích cực ghi nhận những cảm giác này dù cho chúng là cảm giác cứng, nóng hay đau, dễ chịu hay khó chịu.

Đối với những thiền sinh mới hành thiền, những cảm giác này có thể có khuynh hướng gia tăng và khiến thiền sinh có ý muốn thay đổi tư thế.  Ý muốn này phải được ghi nhận, sau đó trở về với sự ghi nhận các cảm giác cứng, nóng, v.v...

Một câu cách ngôn Miến Điện nói rằng: "Kiên nhẫn dẫn đến Niết Bàn."  Câu này là một câu rất thích đáng để khích lệ sự tinh tấn của thiền sinh.  Thiền sinh phải kiên nhẫn trong lúc hành thiền.  Nếu thiền sinh thường xuyên cử động hay thay đổi tư thế vì không thể chịu đựng với các cảm giác cứng, nóng hay đau nhức khi chúng khởi sinh thì sự tập trung tâm ý hay định tâm không thể phát triển.  Nếu tâm định không phát triển thì trí tuệ cũng không có, và do đó, không thể đạt được đạo quả và Niết Bàn.  

Đó là lý do tại sao kiên nhẫn là điều thiết yếu trong việc hành thiền, nhất là đối với các cảm giác bất an như trơ cứng, nóng lạnh hay đau nhức và những cảm giác khó chịu đựng khác.  Thiền sinh không nên vội vã thay đổi tư thế mỗi khi có những cảm giác đó xuất hiện.  Thiền sinh phải tiếp tục hành thiền một cách kiên nhẫn và ghi nhận những cảm giác đang xảy ra như  cứng, cứng, cứng  hay  nóng, nóng, nóng, v.v...  Những cảm giác đó sẽ biến mất nếu thiền sinh tiếp tục ghi nhận một cách kiên nhẫn.  Khi có định tâm cao thì ngay cả những cảm giác mãnh liệt cũng biến mất.  Sau đó thiền sinh trở về với sự ghi nhận chuyển động phồng xẹp của bụng.

Dĩ nhiên, thiền sinh phải thay đổi tư thế nếu những cảm giác trên không thể biến mất mặc dầu đã ghi nhận một thời gian lâu dài hay những cảm giác này quá mạnh mẽ không thể chịu đựng được.  Nhưng trước khi chuyển động để thay đổi tư thế, thiền sinh phải niệm ý định muốn đổi, muốn đổi, muốn đổi.  Sau đó ghi nhận các tác động của sự thay đổi như: đứng lên, đứng lên, đứng lên;  di chuyển, di chuyển, di chuyển  hay thay đổi, thay đổi, thay đổi'  v.v...

Chẳng hạn trong khi đang ngồi ta muốn đổi chân thì phải niệm muốn, muốn, muốn.  Trong khi đổi chân thì ta phải kéo chân ra rồi đặt chân xuống, lúc ấy ta phải ghi nhận  kéo, kéo, kéo;  đặt, đặt, đặt.  Sau khi đã thay đổi chân xong thì trở về với sự ghi nhận chuyển động phồng xẹp của bụng.

Hãy ghi nhận liên tục không nên để gián đoạn giữa hai tác động ghi nhận, không nên để gián đoạn giữa sự định tâm trước và sự định tâm kế tiếp, giữa trí tuệ nhận biết trước và trí tuệ nhận biết kế tiếp.  Có thế thì trí tuệ nhận biết của thiền sinh mới tiếp tục chín muồi.  Đạo và quả chỉ có thể đạt được khi sự thực hành thiền được liên tục và có trớn đều đặn.  Việc hành thiền chẳng khác nào dùng hai thanh củi cọ xát vào nhau để lấy lửa.  Muốn có lửa phải liên tục và tinh tấn cọ xát không ngừng cho đến khi lửa bật ra.

Tương tự như vậy, việc ghi nhận trong lúc hành thiền minh sát phải được thực hiện một cách liên tục không gián đoạn, không có một sự ngừng nghỉ nào giữa hai tác động ghi nhận khi có bất kỳ một hiện tượng nào đang xảy ra.  Chẳng hạn, trong khi ngồi thiền, một cảm giác ngứa phát sinh và thiền sinh muốn gãi bởi vì không chịu đựng được.  Trong trường hợp này thiền sinh phải ghi nhận cảm giác ngứa và ý nghĩ ‘muốn hết ngứa’ hay ý nghĩ ‘muốn gãi’ chớ đừng vã đưa tay ra gãi ngay khi có ý nghĩ ‘muốn hết ngứa’.  Nếu tiếp tục kiên trì ghi nhận như thế thì sự ngứa sẽ biến mất.  Khi sự ngứa biến mất, thiền sinh phải trở về ghi nhận phồng xẹp ở bụng.

Nếu đã có sự ghi nhận ngứa, ngứa, ngứa mà cảm giác ngứa không biến mất thì thiền sinh sẽ lại có ý muốn gãi.  Nhưng trước khi gãi phải ghi nhận ý muốn gãi.  Tất cả mọi tác động bao gồm trong tiến trình gãi phải được ghi nhận như: tay đụng vào chỗ ngứa, đẩy lui đẩy tới để gãi, cuối cùng trở về với sự phồng xẹp của bụng.

Mỗi khi thay đổi tư thế, bạn phải ghi nhận ý định hay ý muốn thay đổi trước rồi tiếp tục ghi nhận các tác động thay đổi một cách kỹ lưỡng.  Chẳng hạn như khi đứng dậy từ tư thế ngồi hay đưa tay lên hoặc chuyển động và duỗi tay ra.  Tất cả mọi chi tiết bên trong sự chuyển động thay đổi tư thế đều phải được ghi nhận cẩn thận.  Trong lúc đứng dậy từ tư thế ngồi thì thân bạn nghiêng về phía trước, ghi nhận điều này.  Khi đứng dậy, cơ thể bắt đầu nhẹ và từ từ đứng lên, phải ghi nhận tất cả những điều này, nghiêng, nghiêng, nghiêng;  đứng dậy, đứng dậy, đứng dậy;  nhẹ, nhẹ, nhẹ  v.v...  

Thiền sinh phải có thái độ như là một người yếu đuối thiếu năng lực.  Người có sức khỏe bình thường, mỗi lần đứng dậy họ đứng rất nhanh.  Đối với những người yếu đuối, thiếu năng lực, họ đứng dậy một cách chậm chạp nhẹ nhàng.  Cũng như người bị đau lưng, họ phải đứng dậy một cách chậm rãi, nhẹ nhàng để khỏi đau.  Thiền sinh cũng phải có thái độ như vậy, phải thay đổi tư thế một cách từ từ nhẹ nhàng.  Có như thế, chánh định và trí tuệ mới phát triển tốt đẹp.  Bởi vậy, hãy làm mọi tác động một cách nhẹ nhàng như người không có năng lực, đồng thời ghi nhận hay niệm  đứng dậy, đứng dậy, đứng dậy.  Cũng vậy, mặc dầu có mắt, thiền sinh phải làm như mù, có tai phải làm như điếc. 

(Trong khi hành thiền, thiền sinh chỉ chú tâm ghi nhận mà thôi).

Điều quan tâm duy nhất của thiền sinh chỉ là ghi nhận.  Thiền sinh không nên phân biệt đó là hình sắc hay âm thanh gì.  Bởi vậy, dầu cho âm thanh hay hình sắc có kỳ lạ đến đâu đi nữa, thiền sinh cũng làm như mình không nghe hay không thấy gì; chỉ ghi nhận một cách cẩn thận  nghe, nghe, nghe;  thấy, thấy, thấy  mà không phân tích hay tìm hiểu.  Khi hành động phải làm một cách chậm rãi như mình là một người yếu đuối thiếu năng lực.

Khi co duỗi tay chân, khi cúi đầu xuống, ngẩng đầu lên đều phải làm chầm chậm trong chánh niệm.  Khi đang ngồi, muốn đứng dậy, phải đứng dậy từ từ và ghi nhận hay niệm  đứng dậy, đứng dậy, đứng dậy.  Khi đã đứng dậy xong, ghi nhận  đứng, đứng, đứng.  Khi nhìn đây đó hãy ghi nhận  nhìn, nhìn, nhìn  hay  thấy, thấy, thấy.  

Khi đi hãy ghi nhận các bước đi.  Phải ý thức mọi chuyển động nằm trong mỗi động tác đi.  Khi đi nhanh thì chú tâm vào chân trái, phải.

Khi đi chậm hãy ghi nhận hai giai đoạn dở, đạp.  Chú ý ghi nhận cảm giác của chân khi dở lên và khi đạp chân xuống.  Nếu đi chậm hơn hãy ghi nhận ba giai đoạn: dở, bước, đạp.  Phải ghi nhận các cảm giác của từng giai đoạn.  Đối với các thiền sinh mới chỉ cần ghi nhận  trái, phải  hay  dở, đạp  là đủ.  Trong khi đang đi, nếu bạn muốn ngồi xuống, hãy niệm  muốn ngồi, muốn ngồi, muốn ngồi.  Khi đang ngồi xuống hãy chú tâm ghi nhận cảm giác nặng đang trì xuống cơ thể.

Khi đã ngồi xuống hãy ghi nhận các tác động đang diễn ra như sự xếp chân, sự để tay lên đùi, hay sự xếp hai tay vào nhau, v.v...  Khi đã ngồi yên hãy chú tâm vào chuyển động phồng xẹp của bụng.  Trong khi theo dõi ghi nhận chuyển động của bụng, nếu tay hay chân có cảm giác cứng đơ, hoặc một phần nào trên cơ thể cảm thấy nóng mà sự cứng đơ hay nóng này quá rõ rệt, lấn át hẳn sự phồng xẹp thì hãy ghi nhận  cứng đơ, cứng đơ, cứng đơ;  nóng, nóng, nóng, rồi trở về với sự phồng xẹp của bụng.  Trong khi đang ngồi thiền mà ý muốn nằm xuống khởi lên, hãy ghi nhận ý muốn này.  Sau đó ghi nhận các chuyển động liên quan đến sự nằm xuống như: chống tay, nghiêng mình, duỗi chân, đặt đầu xuống, v.v...

Ghi nhận các động tác của cơ thể khi nằm xuống rất quan trọng.  Bạn có thể giác ngộ trong khi đang chánh niệm ghi nhận các tác động này.  Khi định và tuệ phát triển mạnh mẽ thì đạo quả có thể đến bất kỳ lúc nào.  Giác ngộ có thể đến khi bạn đang duỗi tay ra hay đang co tay vào.  Đó là trường hợp giác ngộ đạo quả A La Hán của Ngài Ananda.  Trước ngày kết tập tam tạng lần đầu tiên, Ngài Ananda đã nỗ lực tinh tấn thiền suốt đêm nhằm mục đích đạt đạo quả A La Hán.  Ngài tinh tấn chú tâm theo dõi bước đi trái, phải, dở, bước, đạp, ý muốn đi và những chuyển động bao gồm trong sự đi. 

Mặc dầu nỗ lực không thối chuyển, nhưng mãi cho đến gần sáng Ngài vẫn chưa thành đạt đạo quả A La Hán.  Nhận thấy rằng mình đã kinh hành quá nhiều khiến cho định (Samādhi) và tinh tấn (Vīriya) không cân bằng.  Ngài thấy cần phải nằm thiền một lúc nên quyết định vào phòng.  Ngài ngồi trên giường và nghiêng mình nằm xuống với tâm chánh niệm ghi nhận  nằm, nằm, nằm.  Lúc đầu chưa chạm gối, Ngài đắc quả A La Hán.

Lúc chưa nằm xuống, Ngài Ananda chỉ mới đắc quả Tu Đà Hoàn, còn gọi là nhập lưu.  Nhưng khi nghiêng mình nằm xuống, Ngài liên tiếp trong chớp mắt đắc các quả kế tiếp là Tư Đà Hàm (Nhất lai), A Na Hàm (Bất lai), và A La Hán.

Qua sự giác ngộ đạo quả của Ngài Ananda, chúng ta thấy rằng đạo quả có thể đến bất kỳ lúc nào, không cần đòi hỏi thời gian lâu dài.  Đó là lý do tại sao thiền sinh phải luôn luôn tích cực ghi nhận.  Thiền sinh không được dừng nghỉ ghi nhận dầu chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.  Không nên nghĩ rằng gián đoạn ghi nhận trong khoảnh khắc ngắn ngủi chẳng quan trọng gì.  Mọi chuyển động bao gồm trong tác động nằm xuống đều phải được ghi nhận tỉ mỉ liên tục không gián đoạn.  Sau khi đã nằm yên vào tư thế, hãy trở về với chuyển động phồng xẹp của bụng.  Dầu đêm đã về khuya và đến giờ đi ngủ, nhưng thiền sinh cũng đừng bỏ qua việc ghi nhận.

Một thiền sinh thực hành nghiêm chỉnh và nỗ lực thực sự thì sẽ tích cực giữ tâm chánh niệm mọi lúc dường như không biết gì đến việc ngủ nghỉ.  Khi buồn ngủ thiền sinh tiếp tục ghi nhận cho đến khi hoàn toàn rơi vào giấc ngủ.  Nếu việc hành thiền tiến triển tốt đẹp và vượt trội, thiền sinh sẽ cảm thấy tỉnh táo.  Nếu hôn trầm dã dượi thắng lướt thì thiền sinh sẽ cảm thấy buồn ngủ.  Khi buồn ngủ, thiền sinh phải ghi nhận 'buồn ngủ, buồn ngủ, buồn ngủ.'  Khi mí mắt sụp xuống hãy ghi nhận  sụp xuống, sụp xuống, sụp xuống.  Khi mí mắt trở nên nặng, hãy ghi nhận  nặng, nặng, nặng.  Nếu mắt trở nên cay xốn, hãy ghi nhận  cay xốn, cay xốn, cay xốn.  Nếu ghi nhận mọi tác động  một cách chánh niệm thì sự buồn ngủ biến mất và thiền sinh sẽ tươi tỉnh trở lại.

Khi đã tươi tỉnh và mắt sáng trở lại, thiền sinh phải ghi nhận tươi tỉnh, tươi tỉnh, tươi tỉnh hay  sáng, sáng, sáng rồi trở về sự phồng xẹp của bụng.  Thiền sinh lại kiên trì tiếp tục hành thiền.  Cuối cùng, khi buồn ngủ thắng thế thì thiền sinh sẽ rơi vào giấc ngủ.  Khi hành thiền ở tư thế nằm bạn rất dễ bị buồn ngủ.  Bởi vậy đối với những thiền sinh mới không nên hành thiền ở tư thế nằm quá nhiều mà phải ngồi và kinh hành nhiều hơn.  Nhưng lúc đến giờ đi ngủ, thiền sinh nên hành thiền ở tư thế nằm, ghi nhận những chuyển động phồng xẹp của bụng cho đến khi nào rơi vào giấc ngủ một cách tự nhiên.  Thời gian ngủ là khoảng thời gian nghỉ ngơi cho thiền sinh. 

Nhưng đối với thiền sinh tích cực tinh tấn thì nên giới hạn giờ ngủ khoảng bốn tiếng mỗi đêm.  Đó là ngủ vào khoảng canh hai, tức từ mười giờ tối đến hai giờ sáng, như Đức Phật đã cho phép.  Ngủ bốn tiếng là vừa đủ.  Đối với những thiền sinh mới, nếu thấy ngủ bốn tiếng không đủ cho sức khỏe thì có thể ngủ năm đến sáu tiếng.  Sáu tiếng là quá đủ cho sức khỏe.

Khi thức dậy thiền sinh phải lập tức trở về với sự ghi nhận.  Một thiền sinh thật sự muốn nỗ lực hành thiền để đạt đạo quả thì chỉ ngừng hành thiền trong khi ngủ mà thôi.  Trong thời gian thức, họ liên tục chánh niệm không ngừng nghỉ.  Bởi vậy, khi vừa thức giấc, thiền sinh phải ghi nhận ngay sự thức dậy của tâm  thức dậy, thức dậy, thức dậy.  Nếu thiền sinh không thể ghi nhận được trạng thái của tâm lúc vừa thức dậy, thì hãy bắt đầu ghi nhận sự phồng xẹp của bụng.

Nếu thiền sinh có ý định ngồi dậy và bước xuống đất thì hãy ghi nhận  muốn ngồi dậy, muốn ngồi dậy, muốn ngồi dậy, tiếp theo hãy ghi nhận tất cả các tác động liên quan đến sự ngồi dậy như chống tay, co chân, nhổm dậy, ngồi, v.v...  Khi đã ngồi dậy, nếu muốn ngồi một lát thì hãy chú tâm ghi nhận sự phồng xẹp của bụng.  Muốn đứng dậy để đi rửa mặt thì phải ghi nhận ý muốn, sau đó ghi nhận các tác động đứng dậy.  Khi rửa mặt hay tắm phải ghi nhận các tác động này.  Vì các tác động rửa mặt và tắm là những tác động hơi nhanh nên không thể ghi nhận được hết.  Bởi vậy, hãy cố gắng ghi nhận càng nhiều càng tốt.  Lúc chải đầu, mặt áo quần, mở cửa, đóng cửa, v.v...  đều phải ghi nhận kỹ càng.

Lúc đến giờ ăn thiền sinh vào bàn ăn phải ghi nhận  thấy, thấy, thấy  hay  nhìn, nhìn, nhìn.  Khi đưa tay ra đụng thức ăn, lấy thức ăn, rút tay về, đưa vào miệng v.v...  Tất cả những tác động ấy đều phải được ghi nhận.  Nếu bạn dùng đũa hay muỗng để lấy thức ăn thì cũng phải ghi nhận mọi tác động liên quan đến sự gắp hay múc thức ăn này như  gắp, gắp, gắp;  múc, múc, múc.  Khi nhai thức ăn phải ghi nhận nhai, nhai, nhai.  Khi nhận biết được vị của thức ăn, ghi nhận  biết, biết, biết.  Khi nuốt thức ăn vào cổ v.v...  tất cả đều phải được ghi nhận.  Đó là cách mà thiền sinh ghi nhận trong khi đưa từng muỗng thức ăn vào miệng.  Khi thiền sinh muốn dùng canh thì tất cả các tác động bao gồm như: đưa tay ra, cầm muỗng, múc canh v.v...  đều phải được ghi nhận.  

Việc ghi nhận trong khi ăn hơi khó khăn bởi vì có rất nhiều điều phải quán sát và ghi nhận.  Thiền sinh mới thường hay bỏ sót một số tác động cần phải ghi nhận.  Nhưng càng về sau, khi có tâm định mạnh mẽ, thiền sinh sẽ ghi nhận được tất cả các tác động của sự ăn này.

Đến đây thiền sinh đã học được nhiều cách ghi nhận.  Nhưng tóm tắt lại chỉ có vài điều cần nhớ sau đây: khi đi nhanh hãy ghi nhận  trái, phải;  khi đi chậm hãy ghi nhận  dở, đạp;  nếu chậm hơn, ghi nhận  dở, bước, đạp;  khi đã ngồi xuống hãy chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng;  khi nằm cũng phải chú tâm vào bụng, nếu không có điều gì đặc biệt để ghi nhận.  Trong khi quán sát ghi nhận, nếu bị phóng tâm hãy ghi nhận phóng tâm rồi trở về với sự phồng xẹp của bụng.  Thiền sinh cũng phải ghi nhận tất cả mọi cảm giác khởi lên như tê, cứng, đau, nhức, nóng, lạnh, v.v..  rồi trở về với chuyển động của bụng.  Trong các tác động khác như co duỗi tay, chân, cúi đầu, ngẩng đầu v.v...  đều phải được ghi nhận rồi trở về đề mục chính.

Nếu thiền sinh tiếp tục tinh tấn ghi nhận như thế thì về sau thiền sinh sẽ có thể ghi nhận được rất nhiều những diễn biến đang xảy ra.  Lúc mới tập hành thiền, tâm thiền sinh thường dễ phóng đi đây đó.  Thiền sinh thường quên và bỏ sót ghi nhận, nhưng không nên lấy thế làm chán nản vì mọi thiền sinh mới đều gặp các khó khăn tương tự như vậy.  Hành thiền lâu hơn, thiền sinh sẽ ghi nhận được một cách dễ dàng mỗi khi có sự phóng tâm xảy ra, cuối cùng, thì tâm không còn bị phóng nữa. 

Lúc bấy giờ, tâm sẽ dính chặt vào với đề mục ghi nhận.

Tâm chánh niệm phải đi song song với đối tượng ghi nhận.  Nói cách khác, tâm ghi nhận luôn luôn theo sát với đề mục, chẳng hạn như phồng xẹp và tâm ghi nhận sự phồng xẹp phải đi song song với nhau.  Đối tượng vật chất để ghi nhận và tâm ghi nhận đối tượng đó là một cặp, chẳng có một con người hay cá nhân nằm trong hai hiện tượng này.  Chỉ có đối tượng vật chất ghi nhận và tâm ghi nhận đối tượng đó xảy ra mà thôi.  Thiền sinh sẽ kịp thời và chính mình kinh nghiệm được các diễn biến này.  Trong khi chú tâm ghi nhận sự phồng xẹp của bụng, thiền sinh sẽ phân biệt được rằng sự phồng lên của bụng là hiện tượng vật chất và tâm ghi nhận là hiện tượng của tâm.  Tương tự như vậy, sự xẹp của bụng là hiện tượng vật chất và tâm ghi nhận sự xẹp là hiện tượng của tâm.

Đến đây thiền sinh đã hiểu một cách rõ ràng sự diễn tiến đồng thời của cặp hiện tượng tâm vật lý này.  Do đó, qua mỗi tác động ghi nhận, thiền sinh sẽ tự mình hiểu một cách rõ ràng rằng chỉ có hiện tượng vật chất, đó là đối tượng để ghi nhận và hiện tượng tâm, đó là tác động ghi nhận.  Khi có sự phân biệt này thì thiền sinh đã đạt được tuệ phân biệt danh sắc (nāmarupa-paricchedanāna), đó là tuệ giác đầu tiên.  Đạt được tuệ giác này một cách đúng đắn là điều hết sức quan trọng bởi vì sau khi đạt được tuệ giác này nếu tiếp tục tinh tấn hành thiền, thiền sinh sẽ đạt được tuệ giác kế tiếp, đó là tuệ phân biệt nhân quả (paccaya-pariggahanāna).

Khi thiền sinh tiếp tục ghi nhận đều đặn, thiền sinh sẽ tự mình thấy rõ rằng những gì xảy ra đều biến mất một khoảnh khắc ngắn ngủi sau đó.  Người ta thường cho rằng cả hai hiện tượng vật chất và tâm linh đều kéo dài suốt đời, từ lúc ấu thơ cho đến khi trưởng thành.  Thật ra, điều đó không đúng.  Không có hiện tượng nào có thể trường tồn vĩnh viễn, mọi hiện tượng đều sinh ra rồi diệt ngay một cách nhanh chóng sau đó, chúng không thể kéo dài lâu hơn thời gian của một cái chớp mắt.  Thiền sinh sẽ tự nhận biết đuợc điều đó khi thiền sinh liên tục ghi nhận.  Nhờ thế thiền sinh sẽ thấy rõ rằng tất cả mọi hiện tượng ấy đều là vô thường.  Khi có được sự nhận biết này thì thiền sinh đã có tuệ giác thấy được vô thường (aniccānupassanāñāna).

Tiếp theo đó thiền sinh sẽ được tuệ giác thấy rõ khổ não (dukkhānupassanāñāna).  Khi có được tuệ này, thiền sinh sẽ ý thức rõ ràng rằng tất cả mọi sự vô thường đều đau khổ.  Lúc bấy giờ thiền sinh cũng tự mình kinh nghiệm được hay trải qua các sự đau nhức trong cơ thể.  Cơ thể này chẳng qua chỉ là tập hợp của sự khổ đau.  Tiếp theo, thiền sinh sẽ nhận thức được một cách rõ ràng rằng mọi hiện tượng tâm vật lý đều diễn ra theo chiều hướng riêng của nó, hiện tượng tâm vật lý xảy ra không do ai kiểm soát.  Không ai có thể điều khiển các hiện tượng này theo ý muốn của mình.  Khi nhận thức được điều này, thiền sinh có được tuệ giác thấy rõ vô ngã (anattānupassanā-ñāna).

Khi tiếp tục hành thiền không thối chuyển, thiền sinh sẽ ý thức được một cách chắc chắn rằng mọi hiện tượng đều vô thường, khổ não và vô ngã thì thiền sinh sẽ đạt được Niết Bàn.  Tất cả Chư Phật, các vị A La Hán và các bực Thánh đã đạt được Niết Bàn đều đi theo con đường này.  Tất cả thiền sinh nên nhận ra rằng hiện nay chính mình cũng đang đi trên con đường đó để đạt được sở nguyện là đạo quả và Niết Bàn.  Các thiền sinh phải lấy làm vui mừng vì mình đã đi đúng hướng và sẽ đạt được chánh định và trí tuệ mà chư Phật, chư A La Hán, chư Thánh đã giác ngộ trước đây.

Nếu thiền sinh tích cực hành thiền thì chẳng bao lâu thiền sinh cũng sẽ chính mình kinh nghiệm được đạo quả và Niết Bàn mà chư Phật, chư A La Hán, chư Thánh đã kinh nghiệm.  Thật vậy, thiền sinh có thể đạt được kết quả này trong thời gian mười lăm ngày, hai mươi ngày hay một tháng.  Nếu kiên trì thực tập, đối với những thiền sinh có ba-la-mật đặc biệt có thể đạt được đạo quả trong vòng bảy ngày.  Thiền sinh phải luôn luôn tin tưởng rằng mình có thể đạt được đạo quả trong thời gian hạn định trên.  Ít nhất là đạt được quả Nhập Lưu, dứt được thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ và không còn bị tái sinh vào bốn ác đạo nữa.  Thiền sinh phải tinh tấn tiếp tục hành thiền với sự tin tưởng này.

Cầu mong tất cả các bạn hành thiền một cách tốt đẹp và sớm đạt được đạo quả Niết Bàn mà Chư Phật, Chư A La Hán và Chư Thánh đã đạt được.        
  
--ooOoo--

Bổ Túc về Kinh Hành

Khi thực hành Thiền Minh Sát, điều quan trọng là phải luôn luôn chú tâm ghi nhận chánh niệm; bởi vậy, khi thay đổi tư thế ngồi sang tư thế đứng bạn phải luôn luôn giữ tâm chánh niệm.
Trước khi đứng dậy, bạn phải chú tâm chánh niệm ghi nhận ý định đứng dậy hay niệm thầm: muốn, muốn, muốn;  sau đó, chú tâm vào toàn thể cơ thể, và từ từ đứng dậy;  ghi nhận toàn thể tiến trình của sự đứng dậy hay niệm thầm: đứng dậy, đứng dậy, đứng dậy.  

Khi đã đứng dậy rồi, hãy chú tâm vào sự đứng.  Trong khi chú tâm vào sự đứng bạn có thể niệm thầm: đứng, đứng, đứng.  

Khi đi kinh hành, tốt nhất nên chọn lối đi đã có sẵn, rồi đi tới đi lui trên đó.  Hãy đi một cách chậm rãi; chú tâm vào chân hay chuyển động của chân; chú tâm ghi nhận ít nhât bốn giai đoạn của mỗi bước đi.

Để thực hiện một bước đi, trước tiên bạn phải nhón gót.  Hãy chú tâm vào chân và ghi nhận một cách chánh niệm sự nhón hoặc vừa ghi nhận vừa niệm thầm: nhón, nhón, nhón.

Khi chân đưa ra phía trước, hãy ghi nhận chuyển động đưa tới, trong khi ghi nhận chuyển động bạn có thể niệm thầm: bước, bước, bước. 
 
Khi chân hạ xuống sàn hay xuống mặt đất hãy ghi nhận sự hạ chân xuống này và có thể niệm thầm: đạp, đạp, đạp.

Khi bạn chuyển sức nặng sang chân khác để thực hiện một bước mới hãy ghi nhận chánh niệm trên toàn thân thể và có thể niệm thầm: chuyển, chuyển, chuyển.  

(Bạn cũng có thể chú tâm vào sự ấn xuống của bàn chân sau khi đạp xuống và có thể niệm thầm: ấn, ấn, ấn).  

Sau đó, tiếp tục thực hiện bước kế tiếp và lần lược ghi nhận: dở, bước, đạp, chuyển (hay ấn).  

Hãy đi chậm rãi.  Mở mắt và nhìn vào khoảng hai thước trước mặt.  Đừng nhắm mắt vì nhắm mắt bạn sẽ bị ngã.  Mắt mở vừa phải, nhìn vào lối đi.Khi đi đến cuối đường kinh hành bạn đứng lại, hãy ghi nhận sự đứng lại này và có thể niệm: đứng lại, đứng lại, đứng lại. 
 
Khi muốn quay lui, hãy ghi nhân ý muốn quay và có thể niệm thầm: muốn, muốn, muốn.  Sau đó quay từ từ.  Trong khi quay, hãy chú tâm chánh niệm vào chuyển động quay và có thể niệm thầm: quay, quay, quay.  

Khi bắt đầu đi trở lại, cũng hãy ghi nhận chánh niệm từng giai đoạn một của bước đi: dở, bước, đạp, chuyển (ấn) cho đến cuối đoạn đường kinh hành.  Khi đứng lại, hãy chánh niệm vào sự đứng lại.  Khi muốn quay, chánh niệm vào ý muốn.  Khi quay, chánh niệm vào chuyển động quay, rồi tiếp tục đi.  Khi đi, hai tay có thể nắm lại phía trước hay phía sau.  Cứ như thế, tiếp tục đi cho đến hết giờ kinh hành.

Kinh hành cũng là dịp để thể dục cơ thể.  Nếu chỉ ngồi thiền trong vòng ba mươi phút hay một giờ đồng hồ thì không cần phải đi kinh hành.  Nhưng khi bạn tham gia một khóa thiền suốt ngày thì cơ thể cần phải vận động, vì vậy phải đi kinh hành và ngồi thiền xen kẻ nhau, sau giờ kinh hành lại đến giờ ngồi thiền.

Khi trở vào thiền đường, bạn phải đi chậm rãi, ghi nhận ý thức từng giai đoạn một của bước đi.  Trước khi ngồi xuống, hãy ghi nhận ý muốn ngồi xuống.  Sau đó ngồi xuống một cách chậm rãi, chú tâm vào toàn thể cơ thể.  Khi thân chạm vào sàn nhà hãy ghi nhận: đụng, đụng, đụng.  Khi xếp chân và tay hãy ghi nhận: xếp, xếp, xếp.  Sau đó, chú tâm vào chuyển động của bụng.

--ooOoo--

Hồi Hướng

Sau khi hành thiền cũng như làm được điều thiện nào bạn hãy hồi hướng phước báu đến tất cả chúng sinh, đó là một việc làm tốt đẹp.Chúng tôi xin hồi hướng tất cả những phước báu mà chúng tôi đã tạo đến tất cả chúng sinh, đến tất cả chư thiên khắp mọi nơi.  Xin tất cả đều được an vui hạnh phúc để hộ trì Phật pháp bền vững lâu dài.
Reply
Phật Pháp Căn Bản Phần II – Phụ Lục –
Hướng Dẫn Trình Pháp
Tác giả: U Pandita
Người dịch: Sư Khánh Hỷ

HƯỚNG DẪN TRÌNH PHÁP
Hòa Thượng Pandita

Dầu cho có được hướng dẫn kỹ càng cách hành thiền, thiền sinh vẫn chưa hành thiền đúng, cũng như chưa biết cách trình bày kinh nghiệm của mình cho thiền sư.  Một số thiền sinh hành thiền rất khá nhưng lại không biết cách diễn đạt việc hành thiền của mình và những kinh nghiệm mà mình gặt hái được.  Mục đích của bài này là để giúp thiền sinh trình bày đúng những gì mình đã quán sát được trong lúc hành thiền: Quán sát cái gì và đã kinh nghiệm ra sao? 

Hành thiền minh sát chẳng khác nào trồng cây.  Trước tiên chúng ta cần phải có hạt giống, đó là Chánh Niệm, để quán sát các hiện tượng đang xảy ra một cách đầy đủ và rõ ràng.  Muốn cho hạt giống nẩy mầm, trở thành cây con, rồi trưởng thành đơm hoa kết trái trí tuệ chúng ta cần phải có những điều kiện khác được gọi là năm yếu tố bảo vệ (Panca-nuggahita): 

1. Phải làm hàng rào để ngăn chặn những loài thú lớn nhỏ có thể làm hại cây, đó là Giới.  Giới là yếu tố bảo vệ căn bản (Sila nuggahita).  Giới ngăn ngừa, giúp ta không có những hành vi và ngôn ngữ bất chánh làm giao động tâm, ngăn trở Ðịnh và Huệ phát sinh.  
2. Phải tưới nước để hạt giống dễ nẩy mầm.  Nghĩa là phải nghe pháp, đọc kinh sách, tìm hiểu giáo lý (Suta-nuggahita).  Sau đó áp dụng những hiểu biết của mình vào thực hành.  Không tưới nước quá nhiều làm thối mầm cây.  Nghĩa là chỉ cần vừa đủ giáo lý để hiểu rõ phương pháp hành thiền.  Ðừng để mình lúng túng, hoang mang lạc lối trong rừng ngôn từ ước định của kinh điển.  Nhưng cũng đừng để hạt giống thiếu nước không thể nẩy mầm.  Nghĩa là không hành thiền một cách mê muội, chẳng biết gì đến phương pháp.  
3. Phải vun phân tỉa lá, tỉa cành.  Nghĩa là phải trình pháp với thiền sư để thiền sư biết được kinh nghiệm của mình hầu nhận được những điều chỉ dẫn cần thiết (Sakaccha-nuggahita).  Trong khi trình pháp, thiền sư sẽ tùy theo kinh nghiệm của từng người mà có những điều chỉ dẫn thích hợp, tuần tự hướng dẫn thiền sinh đi những bước vững chắc trên đường hành đạo.  
4. Phải bắt sâu, làm cỏ.  Nghĩa là có sự tập trung tâm ý vào đề mục để có định lực (Samatha-nuggahita) hầu gạt bỏ những tâm niệm bất thiện.  Trong lúc hành thiền, ta phải cố gắng tập trung tâm ý vào đề mục và tỉnh thức để nhận diện những gì đang xảy ra ở sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm).  Khi tâm có định lực sắc bén với sự hỗ trợ của tinh tấn thì tham sân si sẽ không có cơ hội dấy động.  
5. Nếu có được bốn yếu tố bảo vệ đầu tiên thì yếu tố thứ năm sẽ ra hoa kết trái trí tuệ (Vipassana-nuggahita).  Thế nhưng thiền sinh thường dễ bị dính mắc vào những tuệ giác đầu tiên hay những kinh nghiệm đặc biệt hoặc kỳ diệu do tâm định đưa đến.  Sự dính mắc này là một trở ngại khiến thiền sinh không thể tiến xa hơn và sâu hơn đến những tuệ giác kế tiếp.  

Thiền sinh nên tinh tấn hành thiền một cách liên tục không dừng lại để nhàn du hưởng thụ những lạc thú do kết quả của việc hành thiền đem lại.  Tham luyến vào những lạc thú tạm bợ đó là một trở ngại lớn lao trong đường tu tập.  Những lạc thú nhẹ nhàng này có tên là Nikanti Tanha, là một loại ái dục vi tế, linh hoạt và nhẹ nhàng như một mạng lưới nhện mong manh nhưng nó có tác dụng chẳng khác nào một đòn kê cản trở bánh xe trí tuệ.  Nếu thiền sinh gặp phải những cản trở này, trong những buổi trình pháp, thiền sư sẽ tìm ra ngay để hướng dẫn thiền sinh trở về đường chính.  Ðây là lý do cho thấy tầm quan trọng của việc trình pháp. 
 
Khi hành thiền minh sát chúng ta phải quán sát các hiện tượng vật chất và tâm.  Kinh điển đã giải thích rõ ràng là hiện tượng tâm-vật lý luôn luôn khởi lên qua sáu cửa: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm.  Chẳng hạn, khi có một sự nhìn thì mắt nhìn và vật được nhìn là hiện tượng vật chất, và nhãn thức khiến ta nhận ra vật được nhìn là hiện tượng của tâm.  Tương tự như vậy, sự nhận biết âm thanh, mùi, vị, đụng chạm hay suy nghĩ cũng như những hoạt động khác của cơ thể như duỗi tay, co tay, bước đi v.v...  cũng chỉ là các hiện tượng vật chất và tâm.  Hòa thượng Mahasi dạy chúng ta phải quán sát ghi nhận tất cả mọi chuyện trên khi chúng xảy ra, đừng bỏ sót mảy may nào dù nhỏ nhặt đến đâu. 
 
Mặc dầu được hướng dẫn kỹ càng, nhưng khi thực hành thiền sinh cũng gặp nhiều khó khăn.  Ðể giúp thiền sinh vượt qua các khó khăn, Hòa thượng Mahasi đã dạy những điều căn bản cho thiền sinh mới là chỉ quán sát một cách tỉnh thức chuyển động phồng xẹp của bụng.  Thiền sinh phải biết cách quán sát các đề mục chính, cũng như phải ghi nhận như thế nào trong trường hợp có đề mục phụ phát sinh (đề mục chính là chuyển động phồng xẹp của bụng; đề mục phụ là suy nghĩ, liên tưởng, cảm giác, hình sắc, âm thanh, mùi, vị v.v...  cũng có khi là phản ứng của chính thiền sinh trước các đối tượng phụ đó).  

Ðể giúp đỡ cho thiền sinh vượt qua những chướng ngại, các thiền sư đã đặt ra sáu câu châm ngôn ngắn gọn sau đây: 

1. Khi các hiện tượng được ghi nhận kịp thời ngay khi chúng xuất hiện thì đặc tính riêng của thân và tâm sẽ hiển lộ.  
2. Khi đặc tính riêng của thân và tâm được hiển lộ thì đặc tính nhân duyên sẽ
hiển lộ.   
3. Khi đặc tính nhân duyên hiển lộ thì sẽ thấy được tam tướng: vô thường, khổ, vô ngã.   
4. Khi thấy được Tam tướng thì tuệ minh sát sẽ xuất hiện.   
5. Khi bị phóng tâm (suy nghĩ, lý luận, liên tưởng, vv..).  cần phải trình bày cho thiền sư.   
6. Khi có cảm giác hay cảm xúc gì cần phải quan sát, ghi nhận và trình bày cho thiền sư.   

Thiền sinh phải cho thiền sư biết mình đã quán sát chuyển động phồng xẹp như thế nào từ lúc khởi đầu cho đến lúc chấm dứt.  Khi bụng phồng, bụng bắt đầu căng lên nhanh rồi tiếp tục căng cho đến lúc chấm dứt là lúc xẹp.  Hãy quán sát từ lúc bắt đầu phồng, đoạn giữa của phồng và đoạn cuối của phồng (Sabhakaya patisam-vedi).  Nghĩa là tâm quán sát phải đi song song với tiến trình của sự chuyển động từ lúc khởi đầu, kéo dài cho đến khi chấm dứt.  Thiền sinh mới rất khó ghi nhận ba giai đoạn trên nhưng phải cố gắng.  Nếu thiếu cố gắng thì không có kết quả gì cả.  

Một khi thiền sinh đã biết ghi nhận đề mục một cách chánh niệm, biết cách chú tâm song song với diễn biến của đề mục, biết theo dõi các giai đoạn liên tiếp của phồng xẹp, biết ghi nhận những gì mình thấy, những gì mình kinh nghiệm thì sẽ biết cách trình pháp một cách chính xác. 
 
Có hai diễn biến song song trong khi thiền sinh hành thiền: Trước tiên là sự chú tâm quán sát hay ghi nhận đối tượng.  Thứ hai là diễn biến của tâm quán sát đối tượng ấy.  Ít nhất thiền sinh phải nhận ra được điều này thì mới có thể gọi là thấy hay kinh nghiệm.  

Ðối với đề mục chính thiền sinh phải nói được kết quả của tâm lúc đối tượng diễn biến, hay nói được sự diễn biến song song của tâm chánh niệm và đề mục.  Nghĩa là thiền sinh thấy rõ được diễn tiến của đề mục và diễn tiến của tâm ghi nhận đề mục.  Nếu cả hai xảy ra cùng lúc thì phải ghi nhận như thế nào? Ghi nhận chính cái bụng?  Ghi nhận tư thế của bụng?  Hay ghi nhận diễn tiến của bụng trong khi phồng? 

Có ba yếu tố hiện hữu trong sự phồng

1. Hình dạng của bụng.
2. Tư thế hay vị thế của bụng.
3. Ðặc tính của sự phồng.  

Hình dạng: là hình dạng của cái bụng mà tâm thiền sinh chú vào.  Toàn thể thân hình của thiền sinh là hình dạng của thân thể.  Hình dạng của cái bụng cũng như vậy.

Tư thế của bụng: điều này tùy thuộc vào vị thế riêng biệt từng lúc một của bụng.  Nghĩa là bụng đang xẹp, phồng, hay đứng yên.  Tiếng Pali gọi là akara: có nghĩa là tư thế hay vị thế.  Ví dụ: bàn tay đang ở tư thế nắm lại hay đang xoè ra?

Hoặc cơ thể đang ở tư thế đi, đứng, nằm, ngồi? 

Ðặc tính của sự phồng: Nếu thiền sinh chú tâm quán sát bụng thì sẽ thấy hoặc hình dạng hay tư thế trước khi thấy đặc tính.  Nhưng thấy hình dạng hay tư thế thì không phải là thiền minh sát.  Thiền sinh phải thấy đặc tính chủ yếu của sự phồng, như là sự căng thẳng, sự chuyển động của bụng trong lúc phồng.  Nếu quán sát kỹ thì thiền sinh sẽ thấy đặc tính này ngay mà có thể trình bày cho thiền sư một cách chính xác và rõ ràng khi trình pháp.  Nhưng thiền sinh phải thấy chứ không phải tưởng tượng hay nghĩ là thấy.  Khi trình pháp phải chú trọng đặc biệt vào những điểm căn bản này. 
 
Giai đoạn xẹp, thiền sinh cũng phải chú tâm quán sát ghi nhận như thế.  

Cũng vậy trong lúc kinh hành, khi giở chân, thiền sinh phải quán sát kịp thời và cùng lúc với diễn tiến của sự giở chân: Từ lúc khởi đầu đến lúc chấm dứt.  Nếu làm được như vậy thiền sinh sẽ thấy gì? Phải chăng thiền sinh sẽ thấy hình dáng của chân hay tư thế của chân trong giai đoạn giở hay thiền sinh cảm nhận rằng chân bắt đầu nhẹ và nâng lên hay chân bắt đầu căng và đang đưa tới? 

Thiền sinh phải trình bày cả ba đặc tính trên và dĩ nhiên thiền sinh phải hết sức chú tâm theo dõi chuyển động đi để có thể trình bày một cách rõ ràng và chính xác.  Khi chân bước tới thiền sinh cũng phải quán sát kịp thời và cùng lúc với chuyển động của sự bước tới.  Và thiền sinh sẽ thấy gì? Phải chăng thiền sinh thấy hình dáng của chân mình, hay tư thế hoặc cách thức của chân trong giai đoạn đưa tới, hay cảm nhận được sự chuyển động của chân được đưa từ sau tới trước.  

Khi đạp chân xuống, thiền sinh cũng phải chú tâm quán sát từ lúc chân bắt đầu hạ xuống cho tới lúc chân chạm đất.  Nếu chú tâm được như vậy thiền sinh sẽ thấy gì.  Phải chăng thiền sinh thấy chân mình hay trạng thái của sự đạp chân xuống hay cảm nhận đặc tính chuyển động của sự đạp xuống, chẳng hạn như bắt đầu cảm thấy nhẹ và mềm? 

Ðối với các đối tượng khác cũng phải chú tâm ghi nhận kỹ càng như vậy.  Chẳng hạn: khi co tay, duỗi tay, cúi mình, đổi chân, ngồi xuống, đứng dậy v.v...  cũng phải chú tâm ghi nhận như vậy.  

Thiền sinh cũng phải hiểu ý nghĩa ba đặc tính của các hiện tượng tâm vật lý.  Ðó là: 

1. Ðặc Tính Riêng (Sabhava Lakkhana) 
2. Nhân Duyên hay điều kiện (Sankhata Lakkhana)
3. Ðặc Tính Chung hay Tam Tướng (San-nanna Lakkhana) 

1) Ðặc Tính Riêng của hiện tượng vật chất và tâm: 
(1.a) Ðặc Tính Riêng của Vật Chất hay Sắc: Vật chất hay Sắc có các đặc tính căn bản sau đây: 
  1. Sự cứng, mềm, đó là yếu tố chiếm chỗ, làm nền tảng (đất), là đặc tính của xương và thịt.  
  2. Lạnh và nóng đó là yếu tố nhiệt độ tăng giảm (lửa), là đặc tính nóng, lạnh của cơ thể.
  3. Sự kết hợp và tính chất lỏng (nước), đó là đặc tính dính chặt hay liên hợp của cơ thể.
Sự chuyển động đó là yếu tố lưu chuyển (gió), là đặc tính của hơi thở, của sự phồng xẹp, của sự nâng đỡ, của sự di chuyển v.v...  

(1.b) Ðặc Tính Riêng của Tâm:
Ðặc Tính Riêng của Tâm là nhận biết, bao gồm: xúc (sự tiếp xúc của Tâm với đối tượng), Thọ (cảm giác), tri giác kinh nghiệm đối tượng, cùng các trạng thái và phản ứng của Tâm (vui, buồn, giận, chánh niệm, tinh tấn, ganh tỵ, phóng tâm vv..)..  

2) Nhân duyên hay điều kiện là đặc tính: nhân quả, điều kiện, sự khởi lên, kéo dài, và biến mất.  

Các diễn biến tâm vật lý (vật chất và tâm) đều có điểm khởi đầu, điểm giữa và điểm cuối.  Tiếng Pāḷi gọi ba giai đoạn này là uppada, thiti và bhanga.  Uppada có nghĩa là bắt đầu hay khởi lên.  Thiti có nghĩa là diễn tiến hay trải dài (cho đến khi chấm dứt).  Bhanga có nghĩa là chấm dứt hay biến mất.  Cả ba đặc tính này được gọi là Sankhata Lakkhana (Lakkhana: đặc tính, Sankhata: bao gồm hay tương duyên).  

3) Tam tướng: là vô thường, khổ và vô ngã.  Mọi hiện tượng, mọi pháp trong thế gian (danh và sắc) đều mang ba đặc tính này.  

Trong ba đặc tính trên của các hiện tượng, thiền sinh phải hướng đến đặc tính đầu tiên trong khi thực hành thiền, tức là phải chú ý đến đặc tính chuyên biệt của hiện tượng vật chất (đất, nước gió, lửa).  Làm thế nào để nhận thức được hay thấy các hiện tượng vật chất chuyên biệt này? Nghĩa là làm thế nào để nhận thức hay thấy các hiện tượng đất, nước, gió, lửa? Chúng ta phải chú tâm quan sát, ghi nhận kịp thời khi chúng xuất hiện.  Khi chú tâm quán sát ghi nhận ta sẽ thấy đặc tính chuyện biệt này, chứ chẳng có cách gì khác hơn.  

Khi bụng phồng lên hơi vào.  Trước khi bụng phồng lên hơi chưa vào.  Thiền sinh phải quán sát sự phồng của bụng từ khi bắt đầu cho đến khi chấm dứt.  Thiền sinh phải thấy được bản chất của sự chuyển động.  Nhưng thế nào là bản chất của sự chuyển động?  Khi bụng phồng lên: gió vào.  Nhưng thế nào là gió? Ðó là yếu tố bành trướng hay chuyển động.  Yếu tố bành trướng hay yếu tố chuyển động chính là bản chất của gió mà thiền sinh phải nhận ra hay phải thấy.  Thiền sinh sẽ thấy được ba bản chất của gió (chuyển động) khi nào thiền sinh chăm chú theo dõi sự chuyển động của bụng từ lúc khởi đầu, diễn tiến cho đến lúc chấm dứt.  Không chịu chú tâm quan sát, theo dõi thì ngay đến hình dáng hay tư thế của bụng cũng không thấy được, nói chi đến chuyện thấy được bản chất: vô thường, khổ não, vô ngã của gió.  

Cứ cố công theo dõi các hiện tượng phồng xẹp một cách chánh niệm thì năng lực tập trung tâm ý sẽ càng ngày càng mạnh lên.  Khi khả năng tập trung tâm ý hay định lực mạnh mẽ thì thiền sinh sẽ không còn thấy hình dáng hay tư thế của phồng xẹp mà sẽ thấy sự bành trướng, sự căng phồng của chuyển động phồng.  Thiền sinh sẽ thấy cường độ phồng tăng đến một điểm nào đó rồi chấm dứt.  Thiền sinh cũng sẽ thấy cường độ căng phồng giảm xuống đến một điểm nào đó rồi biến mất.  Dần dần thiền sinh sẽ thấy rõ ràng ba đặc tính vô thường, khổ và vô ngã trong các chuyển động của bụng này.  

Tương tự như thế, trong khi đi kinh hành thiền sinh cũng phải quán sát các các chuyển động: giở, bước, đạp một cách thận trọng và tinh tế.  

Thiền sư sẽ không nói cho biết thiền sinh sẽ thấy gì mà chỉ hướng dẫn cho thiền sinh cách quán sát và ghi nhận.  Cũng như khi làm toán thầy giáo chỉ dạy phương pháp làm chứ không cho đáp số. 
 
Sự chỉ dẫn này cũng được áp dụng trong những loại chuyển động khác của cơ thể, trong cảm thọ, hay khi có một tư tưởng hiện khởi trong tâm.  Tất cả đều phải được ghi nhận ngay từ lúc chúng khởi lên.  Có như thế mới bảo đảm là thấy được bản chất của chúng.

2. Khi đặc tính riêng của thân và tâm được hiển lộ thì đặc tính nhân duyên sẽ hiển lộ 
Nghĩa là khi đã thấy được đặc tánh riêng của thân và tâm thì sẽ thấy được ba giai đoạn: khởi lên, diễn biến hay kéo dài, và chấm dứt.  

3. Khi đặc tính nhân duyên hiển lộ thì sẽ thấy được tam tướng: vô thường, khổ, vô ngã  
Khi đã thấy được ba giai đoạn này thì sẽ thấy được Tam tướng.  Thực ra, nếu kiên trì, tinh tấn hành thiền và đã nhận thấy được đặc tính của tứ đại thì chắc chắn sẽ thấy được yếu tố Nhân Duyên và Tam tướng.  

4. Khi thấy được Tam tướng thì tuệ minh sát sẽ xuất hiện  
Khi thiền sinh thấy được tam tướng thì Tuệ Minh Sát sẽ xuất hiện.  Sau khi xuất hiện, Tuệ Minh Sát (Vipassananana) sẽ dần dần phát triển và chín muồi, và cuối cùng thiền sinh sẽ đạt được tuệ ariyamagganana (Tuệ thấy được thánh đạo).  Với tuệ này thiền sinh có đủ khả năng để "thấy" Niết Bàn, chấm dứt vật chất và tâm, chấm dứt đau khổ.  

Cần phải nhắc lại một lần nữa điều quan trọng sau đây: Trong lúc trình pháp, thiền sinh phải cho thiền sư biết mình đã thực sự 'thấy' gì, chứ không phải là 'nghĩ' mình đã 'thấy' gì.  Chỉ những gì thiền sinh 'thấy' mới là tuệ giác.  'Nghĩ' là mình 'thấy' chỉ là vay mượn tuệ giác hoặc chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.  Sự vay mượn tuệ giác không phù hợp với đặc tính của các hiện tượng mà thiền sinh phải quán sát và ghi nhận.

5. Khi bị phóng tâm (suy nghĩ, lý luận, liên tưởng, vv..).  cần phải trình bày cho thiền sư 
Khi ngồi thiền, quán sát đề mục chính là sự phồng xẹp của bụng, nhiều tư tưởng và đối tượng của tâm sẽ đến với thiền sinh, đó là chuyện tự nhiên.  Tâm có khuynh hướng rời đề mục chính để tiến đến tất cả mọi ý niệm: một số là tư tưởng thiện, một số là tư tưởng bất thiện.  Thiền sinh phải làm thế nào? Chỉ cần ghi nhận bất cứ những gì đã đến với tâm.  Bạn có thể làm được điều đó không? Bạn phải làm điều đó, nghĩa là phải ghi nhận sự suy nghĩ hay sự phóng tâm.  Nếu đã ghi nhận được chúng, bấy giờ chuyện gì sẽ xảy ra? Phải chăng sự suy nghĩ đang tiếp tục diễn biến? Sự suy nghĩ đang dừng lại hay đã biến mất tất cả? Lúc ấy thiền sinh có trở về được với đề mục chính không? Tất cả những điều đó đều phải được nói rõ trong lúc trình pháp.  

6.  Khi có cảm giác hay cảm xúc gì cần phải quan sát, ghi nhận và trình bày cho thiền sư  
Ðối với những thiền sinh mới, mọi cảm giác hay cảm xúc sẽ không khởi lên khi thiền sinh đang chú tâm vào đề mục chính.  Nhưng sự suy nghĩ sẽ xảy ra nhiều hơn.  Thiền sinh mới cũng chưa đủ khả năng ghi nhận được tất cả mọi tư tưởng đang khởi dậy đó.  Ðể giảm thiểu những sự suy nghĩ này, nên cố gắng chú tâm khắn khít vào đề mục chính, càng nhiều càng tốt.  Nhưng khi thiền sinh đã ngồi thiền được chừng năm, mười, hay mười lăm phút, một vài cảm giác khó chịu trên cơ thể sẽ đến, tương hợp với những gì đã diễn biến trong tâm.  Khi cảm giác hay xúc cảm xuất hiện thiền sinh phải ghi nhận.  Khi trình pháp nên mô tả chúng bằng những ngôn ngữ thông thường như: "ngứa", "đau", "tê", v.v...  chứ đừng dùng danh từ kinh điển như "cảm thọ" (Vedana).  Những cảm giác khởi lên cũng phải được ghi nhận từ lúc chúng xuất hiện, diễn tiến cho đến khi biến mất.  

Thiền sinh cũng phải ghi nhận hình sắc, âm thanh, mùi, vị và những trạng thái khác của tâm như: ưa thích, nóng giận, dã dượi buồn ngủ, phóng tâm, ân hận, hoài nghi, nhớ thương, thấy rõ, chú tâm, thỏa mãn, dễ chịu, nhẹ nhàng, yên tĩnh v.v...  những trạng thái này là "đối tượng của tâm" (Dhamma-rammana).  Giả sử có sự ưa thích xuất hiện; khi đã ghi nhận được nó thì chuyện gì sẽ xảy ra? Thiền sinh phải biết trình cho thiền sư điều này.  Lấy một thí dụ khác: Thiền sinh cảm thấy dã dượi buồn ngủ.  Khi thiền sinh ghi nhận được trạng thái này thì sự phóng tâm xuất hiện.  Lúc bấy giờ thiền sinh phải ghi nhận như thế nào? Thiền sinh phải ghi nhận phóng tâm. 

Như vậy là thiền sinh phải quán sát ghi nhận tất cả mọi đối tượng của tâm.  

Trong một khóa thiền tích cực, cần phải thường xuyên trình pháp, tốt nhất là trình pháp hằng ngày.  Việc trình pháp nên theo đúng phương cách.  Sau khi thiền sinh trình bày kinh nghiệm của mình thiền sư sẽ đặt một vài câu hỏi liên quan đến các chi tiết mà thiền sinh kinh nghiệm được trong lúc hành thiền.  

Cách trình pháp thật đơn giản.  Chỉ cần mười phút là đủ cho thiền sinh trình bày kinh nghiệm của mình.  Nên nhớ trình bày những kinh nghiệm liên quan đến thân và tâm mà bạn có được trong lúc hành thiền bởi vì đúng nghĩa của Thiền Minh Sát là quán sát những gì đã thực sự xảy ra trong chính thân tâm bạn.  

Trong khi trình pháp cần chú ý những điểm chính sau đây: phải ngắn gọn, chính xác và rõ ràng
 
a) Phải cho thiền sư biết trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ vừa qua, thiền sinh đã dành tổng cộng bao nhiêu giờ ngồi thiền, bao nhiêu giờ kinh hành.  Phải thành thật vì điều đó chứng tỏ sự nghiêm túc trong việc hành thiền.  
b) Trình bày cho thiền sư biết kinh nghiệm của bạn trong lúc ngồi thiền.  Không
cần phải đi vào chi tiết từng giờ ngồi thiền.  Nói một cách tổng quát toàn buổi thiền.  Chỉ đi vào chi tiết những lúc việc hành thiền rõ ràng nhất.  Ðầu tiên phải trình bày đề mục chính: đó là sự phồng xẹp như thế nào? Sau đó trình bày những đối tượng khác khởi lên qua sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm).  
c) Sau khi trình bày về việc ngồi thiền, thiền sinh trình bày tiếp về việc kinh hành.  Thiền sinh chỉ mô tả những kinh nghiệm trực tiếp liên quan đến tác động đi; đừng thêm vào những chi tiết về các đối tượng mà mình phải trình trong giai đoạn ngồi thiền.  Nếu bạn thực hành ba giai đoạn 'giở, bước, đạp' trong lúc kinh hành thì nhớ cho biết những gì đã ghi nhận được trong những cử động 'giở, bước, đạp' đó.  

Tất cả những đối tượng xảy ra đều phải được trình bày theo thứ tự như sau: 
  1. Xác định đối tượng gì xuất hiện?
  2. Khi đối tượng xuất hiện, thiền sinh đã ghi nhận như thế nào?
  3. Diễn tả cho biết đã thấy gì, cảm giác gì, hay hiểu biết gì khi bạn ghi nhận đối tượng xảy ra.  
Lấy ví dụ đối với đề mục chính: sự phồng xẹp của bụng.  Trong lúc hành thiền, cũng như trong lúc trình pháp.  
  1. Việc đầu tiên là phải xác định rõ diễn tiến của "phồng" - Phồng xuất hiện 
  2. Việc thứ hai là sự ghi nhận: Niệm hay ghi nhận đề mục đang xuất hiện- Tôi đã niệm "phồng" 
  3. Việc thứ ba là mô tả những gì đã xảy ra: "Khi tôi niệm phồng tôi có những cảm giác như thế này, thế này...  tôi nhận thấy như thế này, thế này..." (Thiền sinh cho biết đặc tính của cảm giác vào thời điểm đó).  

Giai đoạn xẹp, cũng như trong trường hợp những đối tượng khác xuất hiện, thiền sinh đều trình bày tương tự như trên. 
 
Hãy tưởng tượng rằng tôi đang ngồi trước mặt bạn, bỗng nhiên tôi đưa một cánh tay lên không rồi mở ra cho bạn thấy tôi đang cầm một trái táo nhỏ.  Bạn nhận ra trái táo và bạn tự nói trong tâm "trái táo, trái táo." Tiếp đó, bạn sẽ nhận ra trái táo màu đỏ, tròn và bóng láng.  Cuối cùng, tôi từ từ nắm tay lại để bạn không thấy trái táo nữa.  Bạn sẽ diễn tả kinh nghiệm của bạn về trái táo như thế nào? Nếu trái táo là đề mục hành thiền của bạn, bạn sẽ nói: "Trái táo xuất hiện," tôi niệm "trái táo, trái táo." Tiếp đó, bạn sẽ nhận ra trái táo màu đỏ, tròn và bóng láng.  Cuối cùng, tôi từ từ nắm tay lại để bạn không thấy trái táo nữa.  Bạn sẽ diễn tả kinh nghiệm của bạn về trái táo như thế nào? Nếu trái táo là đề mục hành thiền của bạn, bạn sẽ nói: "Trái táo xuất hiện, tôi niệm: "trái táo, trái táo" và tôi ghi nhận trái táo màu đỏ, tròn và bóng láng, rồi trái táo từ từ biến mất." 

Cũng thế, bạn sẽ trình pháp một cách chính xác trong ba giai đoạn khi bạn chú tâm đến trái táo.  Trước tiên là trái táo xuất hiện và bạn thấy nó.  Thứ hai là bạn nhận ra đó là trái táo.  Bởi vì bạn đang hành thiền trên đề mục trái táo, nên bạn có một sự tinh tấn đặc biệt để niệm thầm "trái táo, trái táo".  Thứ ba, là bạn tiếp tục chú tâm vào trái táo và nhận thức được tính chất và cách thức trái táo đi vào tầm nhận thức của bạn như thế nào cũng như trái táo đã biến mất như thế nào.  

Trong khi thực hành Thiền Minh Sát bạn cũng phải áp dụng ba giai đoạn như trên để theo dõi đề mục.  

Một điều cần lưu ý ở đây, nhiệm vụ của bạn là quán sát trái táo chớ không phải tiến xa hơn để tưởng tượng rằng trái táo mọng nước và ngọt hay mình đang ăn trái táo đó.  Tương tự như vậy, trong khi trình pháp, bạn chỉ diễn tả những kinh nghiệm trực tiếp chớ đừng nói những gì mà bạn tưởng tượng, hình dung ra, hoặc ý kiến của bạn về đề mục mà bạn đang theo dõi.  

Như bạn thấy, phần trình pháp này hướng dẫn thiền sinh phải chánh niệm như thế nào trong khi hành Thiền Minh Sát.  Bởi vậy, khi trình pháp, ngoài việc nhận được những lời hướng dẫn của thiền sư, thiền sinh còn có những lợi ích khác nữa.  Bởi vì muốn có một bài trình pháp chính xác thiền sinh phải có một sự tinh tấn lớn lao, phải chú tâm một cách rõ ràng chính xác trên kinh nghiệm của mình.  

Trong khi trình pháp bạn nên nhớ đến ba yếu tố sau đây: 

  1. Tỉnh thức.  
  2. Chính xác.                                                   
  3. Kiên nhẫn.  
Cần nhớ rõ là khi chú tâm đến chuyển động phồng xẹp, không phải chú tâm vào hình dáng hay tư thế của sự phồng xẹp mà chỉ chú tâm vào diễn biến của chuyển động phồng xẹp.  Phải chú ý xem khi phồng như thế nào: Căng cứng, rung động, nóng, lạnh v.v...  Phải để tâm quán sát từ lúc bụng bắt đầu phồng cho đến khi chấm dứt phồng để chuyển qua giai đoạn xẹp.  Phải quán sát kỹ càng như đang dùng kính hiển vi để xem một mẩu vật bé nhỏ.  

Không được nhìn đối tượng một cách lơ là phớt qua, tự động và thiếu chánh niệm.  Bạn phải nhìn gắn bó với đối tượng bằng tất cả tâm trí của mình.  Bạn phải hết sức chú tâm để có thể thấu suốt được bản chất của đối tượng.  

Dầu chúng ta cố gắng hết sức nhưng tâm không phải lúc nào cũng có thể nằm nơi bụng chúng ta.  Tâm sẽ phóng đi một nơi khác.  Khi có sự phóng tâm bạn phải làm thế nào?  Câu trả lời là: Phải ghi nhận.  Ðó là giai đoạn một.  Bây giờ đến giai đoạn hai: phải niệm phóng tâm, phóng tâm, phóng tâm.  Thường sau khi có sự phóng tâm phải bao lâu sau ta mới nhận ra sự phóng tâm?  Một giây, hai phút, nửa giờ? Mà cái gì xảy ra sau khi ta ghi nhận sự phóng tâm?  Phải chăng sự phóng tâm sẽ biến mất tức khắc?  Hay sự phóng tâm sẽ tiếp diễn? Hoặc lúc đó sự suy nghĩ sẽ giảm cường độ và sau đó biến mất?  Phải chăng một đối tượng mới xuất hiện trước khi ta nhận ra sự biến mất của đối tượng cũ?  Nếu không thể nào ghi nhận được phóng tâm, bạn phải báo cho thiền sư biết.  

Nếu sự phóng tâm biến mất, bạn phải trở về với sự phồng xẹp của bụng.  Một điều nên nhớ là phải trình cho thiền sư biết là bạn có thể trở về với đối tượng chính hay không và cảm giác của bạn lúc đó như thế nào?  Phần trình pháp của bạn sẽ được rõ ràng và tốt đẹp hơn, nếu bạn cho biết thường thường bạn chú tâm trên bụng được bao lâu trước khi đề mục mới xuất hiện.  

Ðau nhức, cảm giác khó chịu chắc chắn sẽ xảy ra sau khi bạn ngồi thiền một thời gian lâu.  Chẳng hạn tự nhiên bạn ngứa: một đối tượng mới.  Sau khi niệm ngứa năm phút: phải chăng sự ngứa tăng thêm? Hoặc giữ nguyên? Hoặc thay đổi? Hay biến mất? Có thấy một đối tượng mới khác xuất hiện như: có ý muốn gãi không? Tất cả những điều đó đều nên diễn tả một cách rõ ràng.  Ðối với sự thấy, nghe, nếm, ngửi, lạnh, nóng, co rút, rung động, tê v.v...  Ðều phải được mô tả.  Bất kỳ đối tượng nào cũng phải được ghi nhận qua ba giai đoạn: 

1. Xác định đối tượng xuất hiện
2. Khi đối tượng xuất hiện thiền sinh đã ghi nhận như thế nào.
3. Diễn tả cho biết đã thấy gì, cảm giác gì, hay hiểu gì khi bạn ghi nhận đối tượng xảy ra. 
 
Tất cả mọi diễn biến đều được thực hiện một cách lặng lẽ, lặng lẽ như một nhà trinh thám.  Hãy quán sát một cách cẩn thận và chính xác mọi diễn biến mà bạn nhận biết được, không nên phân vân tự hỏi để khỏi lạc vào sự suy nghĩ.  Ðiều quan trọng mà thiền sư cần biết là: Mỗi khi đối tượng xuất hiện bạn có ghi nhận được không? Bạn có chánh niệm một cách chính xác và quán sát đối tượng một cách bền bỉ không? Bạn phải thành thật với thiền sư.  Dầu bạn không thấy được đối tượng, không ghi nhận được đối tượng hay khi niệm mà không thấy được gì hết, điều đó không có nghĩa là việc hành thiền của bạn quá tồi tệ đâu.  Một bài trình pháp rõ ràng và chính xác sẽ giúp thiền sư đánh giá được sự hành thiền của bạn, đồng thời chỉ cho bạn thấy những khuyết điểm mà bổ khuyết chúng và đưa bạn về chánh đạo.  

TÓM LƯỢC CÁCH TRÌNH PHÁP
Hòa Thượng Pandita
 
1. Tất cả những gì diễn ra trong thời gian hành thiền đều phải được diễn tả tuần tự như sau: 

a) Ðối tượng xuất hiện 
b) Ghi nhận 
c) Quán sát

Hãy trình bày các diễn biến tuần tự trước sau, khởi đầu là đề mục chính, đó là chuyển động phồng xẹp của bụng.  

Chẳng hạn như: Khi bụng phồng lên.  "Tôi ghi nhận: phồng và quán sát sự căng thẳng, sức ép và sự rung chuyển..." Khi bụng xẹp xuống.  "Tôi ghi nhận: xẹp và quán sát sự dãn ra, sự bẹp xuống, sự căng cứng giảm dần."

2. Diễn tả cho biết: bạn đã nhận biết ngay tức khắc đề mục và đã quán sát liên tục đề mục như thế nào?
 
Chẳng hạn như: "Tôi chỉ nhận biết sự phồng xẹp sau khi chúng đã đi và tôi chỉ nhận biết độ một hay hai phồng xẹp thì bị phóng tâm" hoặc "tôi nhận biết được đề mục ngay khi chúng xảy ra và tôi có thể quán sát liên tục từ hai mươi đến ba mươi phồng xẹp rồi tâm phóng đi nơi khác." 
Cần phải diễn tả đề mục chính một cách rõ ràng, đơn giản, chính xác và đầy đủ chi tiết.  Sau khi đã trình bày đầy đủ đề mục chính, bạn mới trình bày đề mục phụ mà bạn đã ghi nhận và hiểu biết rõ ràng trong lúc ngồi thiền.

3. Diễn tả đề mục phụ mà bạn đã quán sát, ghi nhận và hiểu biết một cách rõ ràng.

Chẳng hạn như: Cảm giác trên cơ thể: đau, ngứa,...  Sự suy nghĩ, liên tưởng, ý kiến, dự tính, hồi tưởng, nhớ chuyện đã qua...  hoặc các trạng thái của tâm: giận, buồn, hoan hỉ, vui vẻ, thoải mái, tự hào...

a) Ðề mục xuất hiện: "Ðau nơi đầu gối..." 
b) Bạn đã ghi nhận như thế nào? "Tôi ghi nhận: đau, đau" 
c) Bạn quán sát cái gì? "Tôi quán sát sự đau nhói" 
d) Ðề mục diễn ra như thế nào? "Ðau nhói chuyển sang đau cứng" 
e) Tiếp đó bạn làm gì? "Tôi ghi nhận: cứng, cứng" 
f)  Bạn quán sát gì? "Tôi quán sát sự cứng đang rung chậm 
g) Rồi chuyện gì diễn ra? "Khi tôi ghi nhận thì sự đau cứng giảm dần" 
h) Tiếp đó bạn làm gì? "Tôi trở về với chuyển động phồng xẹp của bụng" 
i)  Khi tâm rời khỏi đề mục "Thoạt đầu tôi không nhận biết để ghi nhận, nhưng khi tôi nhận biết mình đang phóng tâm tôi liền ghi nhận phóng tâm.  Rồi thì sự phóng tâm biến mất, tôi bèn trở về với chuyển động phồng xẹp của bụng" 

Bạn phải trình bày toàn thể tiến trình của mỗi đề mục phụ.  

4. Sau khi trình bày về việc ngồi thiền bạn phải trình với thiền sư về việc đi kinh hành.  Trước tiên phải diễn tả đề mục chính của sự đi: giở, bước, đạp.

Chẳng hạn như: 

Trong khi đi, lúc chân giở lên tôi ghi nhận giở, và quán sát như thế này, thế này...  
Trong khi bước, tôi ghi nhận bước, và quán sát như thế này, thế này...  
Trong khi đạp chân xuống, tôi ghi nhận đạp, và quán sát như thế này, thế này...  
Tôi theo dõi và ghi nhận liên tục từ mười đến mười lăm phút thì tâm bị phóng đi.  

Hoặc là: Tôi bị phóng tâm bởi hình ảnh hay tiếng động 

Bạn phải trình bày toàn thể tiến trình của mỗi đề mục phụ trong khi đi: 

a) Khi bị phóng tâm, tôi ghi nhận được ngay.  
b) Khi ghi nhận phóng tâm, thì sự suy nghĩ biến mất dần và biến mất.  
c) Tôi bèn quán sát giở, bước đạp trở lại. 
 
Cách trình bày những kinh nghiệm trong lúc hành thiền này giúp ích rất nhiều cho thiền sinh.  Nó hướng tâm thiền sinh theo dõi khắn khít trên các diễn biến của thân-tâm.  

Bất kỳ những gì bạn kinh nghiệm được trong lúc hành thiền đều phải được trình bày với thiền sư dầu đó là trạng thái hoan hỉ của tâm định, những cảm xúc, cảm giác khó chịu, hay những chướng ngại to lớn đi nữa.  Lợi ích lớn lao nhất của lối trình pháp này là giúp bạn chú tâm trực tiếp trên những diễn biến trong lúc hành thiền chứ không để tâm lạc khỏi đề mục, suy nghĩ đến những gì đang xảy ra.  Phương pháp này giúp cho việc trình pháp được dễ dàng, giúp cho chánh niệm mạnh mẽ và khiến thiền sinh có sự hiểu biết rõ ràng chính xác trong lúc hành thiền.

Hết Phật Pháp Căn Bản II
Reply
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya


1. Kinh Phạm võng
(Brahmajàla sutta)


--ooOoo--


Sư Toại Khanh Giảng Kinh Phạm Võng (1-3)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=kOO8cH8nMGA&abt=Kinh+Ph%E1%BA%A1m+V%C3%B5ng

Kinh Phạm Võng


Quote:Kalama tri ân bạn ngocthytran00 ghi chép.
09/01/2022 - 08:59 - ngocthytran00

Notes:
VD hay vd: chữ tắt cho "Ví Dụ" hay "ví dụ".

Có 1 điểm nho nhỏ tôi muốn quý vị trong room để ý 1 chút đó là bài kinh đầu tiên ở mỗi bộ Kinh Tạng đáng được xem là tinh hoa Phật pháp. 

VD (VD là Ví Dụ)
  1. Trường Bộ có kinh Phạm Võng nói về các loại Tà Kiến trong đây, 
  2. Trung Bộ thì có kinh Căn Bản Pháp Môn, 
  3. Tương Ưng thì có kinh Vượt Bộc Lưu, 
  4. Tăng Chi thì có kinh Tứ Thực. 
Chúng ta thấy rằng đây là điểm đặc biệt mà tôi e rằng đây là dụng ý của các vị Thánh tăng ngày xưa khi kiết tập kinh điển đã cố ý như vậy, bởi vì trật tự trước sau của các kinh 
  1. không xét theo thời gian mà 
  2. xét theo nhiều khía cạnh, vd như nội dung hoặc cách trình bày bên trong.
Nói chung hình thức và nội dung của mỗi kinh quyết định kinh nằm ở đâu chứ còn ở đây ko có vấn đề trật tự thời gian như bên Bắc Tông thời Trí Khải Đại sư bên Thiên Thai ổng bày vụ ngũ thời thuyết giáo, mới thành Phật thì ngài thuyết cho hạng nào hạng nào, kinh nào là thời Hoa Nghiêm giảng cho Đại thừa, rồi cái nào A Hàm giảng cho Tiểu thừa thì bên đây không có. 

Chuyện rất là vô lý ở chỗ là trong cuộc đời hoằng hóa của Đức Phật thì 
  1. ngay cái ngày đầu tiên mới thành đạo cái người Ngài gặp đầu tiên lại là người không có gì nổi bật hết. 
  2. Nhưng chỉ 1 thời gian rất ngắn sau đó, chỉ vài tháng sau thì Ngài lại gặp 2 nhân vật phải nói là hàng đầu trong Thanh Văn đó là ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. 
Ngài thành đạo vào rằm tháng 4 năm nay thì tháng Giêng năm sau ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thọ đại giới Tỳ kheo, như vậy trước sau chỉ có mấy tháng thôi, chỉ có 9 tháng thôi cho nên ở đây cái thời điểm Ngài gặp đối tượng để Ngài tế độ thì lúc rày lúc khác chứ không có cái thời điểm đặc biệt, lúc nào dành cho các loại người nào thì không phải nha. Nhớ cái đó.

Bây giờ tiếp theo là bữa nay chúng tôi sẽ khiến cho quý vị ngạc nhiên cũng có mà thất vọng cũng có khi chúng tôi giảng kinh Phạm Võng theo 1 cái cách rất là kỳ dị. Những ai mà có thành kiến, có ác cảm với chúng tôi thì hôm nay nè xin các vị ghi nhận đây là dịp tốt để các vị tha hồ ném đá…kkk, ném đá giấu tay hay là ném đá công khai…kkk. Thế nào là ném đá công khai, ném đá giấu tay lát nữa các vị biết nha.

Kinh Phạm Võng có nội dung quái gở như thế này.

Toàn bộ kinh Phạm Võng theo chúng tôi thì nên bắt đầu ở cuối kinh, cái vấn đề ở cuối kinh, là sao? Đức Phật xác nhận rằng do không hiểu được Lý Duyên Khởi nên phàm phu đã nảy sinh các loại tài kiến

Giáo lý Duyên khởi nói gì? Giáo lý Duyên khởi dạy về 
  1. nguyên lý nhân quả và 
  2. tam tướng của vạn hữu và đồng thời cũng 
  3. vạch ra con đường giải thoát sinh tử
Nói vậy Giáo lý Duyên khởi cũng chứa đựng trọn vẹn tinh thần của Giáo lý Bốn đế. Một người am tường rốt ráo Giáo lý Duyên khởi bắt buộc người đó phải hiểu Bốn đế. Người am tường Giáo lý Bốn đế cũng am tường Giáo lý Duyên khởi. Và trên đời này chỉ có Thánh nhân mới là người am tường rốt ráo Bốn đế. Rốt ráo là sao?

09/01/2022 - 09:01 - ngocthytran00

Am tường rốt ráo Giáo lý Tứ đế cũng là am tường rốt ráo Lý Duyên Khởi, mà am tường lý Tứ đế là phải cần đến 3 thứ trí tuệ. 

  1. Một là Saccanana biết rõ Bốn đế là gì. 
  2. Thứ 2 là Kiccanana biết rõ việc phải làm đối với Bốn đế. 
  3. Thứ 3 là Katanana có nghĩa là biết rõ mình đã làm xong chuyện phải làm đối với Bốn đế. 
Bữa nay tôi xin thưa rõ một chuyện là 2 năm vừa qua chúng ta học Tương Ưng theo kiểu giỡn chơi. Tôi nói hơi nặng 1 chút là học kiểu giỡn mặt, người ta rống cổ lên người ta giảng, mình ngồi mình trùm mền mình ngủ hoặc mình nghe nhạc rồi hết giờ mình tắt máy đi ra. Nếu không có tào lao như vậy thì 2 năm qua, nhất là nghe đến đâu mà ghi chép đến đó thì chúng ta đã có 1 vốn liếng giáo lý rất là căn bản, rất là đáng kể nha. Mong rằng kể từ hôm nay khi chúng ta bắt đầu với bộ Nikaya Trường Bộ Kinh thì chúng ta nên ghi chép để mai này có lúc cần giở ra xem lại nha.

Bây giờ tôi giảng, tôi ôn lại thôi.

Ngày hôm qua tôi biết có nhiều người cũng thất vọng là tại sao tôi cố ý tôi bỏ hẳn 1 loạt kinh tôi không có giảng là vì 2 lý do. 
  1. Một là tôi đã giảng rồi, 
  2. thứ 2 là toàn bộ những nội dung đó sẽ được nói đến, sẽ được nhắc lại khi chúng ta học qua các bộ kinh khác, 
chứ không phải hôm qua là lần duy nhất, lần cuối cùng chúng ta vĩnh biệt nội dung cái phần chúng ta không giảng tới.

Cái nội dung đó chúng tôi đã giảng rồi và sắp tới đây quý vị cũng sẽ nghe miệt mài ở những dặm đường phía trước. Chúng tôi nhắc lại 
  1. đối với người am tường lý Duyên Khởi thì không thể nào mắc vào các tà kiến mà trong kinh Phạm Võng này Đức Phật nhắc đến. 
  2. Am tường lý Duyên Khởi cũng có nghĩa là am tường Bốn Đế
Am tường Bốn Đế là sao? Là am tường bằng 3 nhận thức sau đây:

  1. Thứ nhất, mọi sự hiện hữu ở đời đều là Khổ Đế. Vì sao vậy? Vì bất cứ hình thức hiện hữu nào nó cũng nằm trong 3 khổ: Khổ Khổ, Hành Khổ và Hoại Khổ. Đó là lý do tại sao mà mọi hiện hữu đều là Khổ Đế.
  2. Thứ 2, bất cứ niềm đam mê thích thú nào của chúng ta cũng là niềm đam mê thích thú trong Khổ Đế, thì niềm đam mê thích thú đó được gọi là Tập Đế. Tập Đế là niềm đam mê trong Khổ Đế.
  3. Thứ 3, cái sự vắng mặt của Tập Đế chính là Diệt Đế, tức là Niết Bàn. Và con đường dẫn đến Diệt Đế được gọi là Đạo Đế, con đường đó chính là tinh thần Bát Chánh Đạo. Các vị nghe kịp chưa? Cái đó quan trọng.
  1. Hiểu được 1 cách đại khái qua sách vở chữ nghĩa từ sự trao truyền của người khác thì cái hiểu biết đó được gọi là biết qua trí văn
  2. Còn trí là sau khi mình học rồi, mình đọc rồi, mình nghe rồi, mình về mình ngồi nghiệm lại, mình gẫm lại, suy tư lại thì cái đó được gọi là trí tư. 
  3. Còn trí tu chính là sự thể nghiệm thân chứng của hành giả tu tuệ quán tức là tứ niệm xứ. Dùng chánh niệm để ghi nhận cái gì nó đang xảy ra, nó là gì, bản chất nó ra sao và hiện giờ nó đang hoạt động như thế nào? Phải qua loại công phu tuệ quán này thì hành giả mới hiểu được Bốn Đế và Duyên Khởi bằng trí tu. Tôi cố ý nói thiệt là chậm nha, thiệt là chậm.
Như vậy thì đối với Bốn Đế 
  1. việc đầu tiên mình phải biết Bốn Đế là cái gì trước đã, cái trí đó được gọi là Saccanana. 
  2. Cái trí thứ 2 gọi là Kiccanana có nghĩa là mình biết rõ với Bốn Đế mình phải làm việc gì
             Khổ Đế cần được nhận diện, 
             Tập Đế cần được đoạn trừ, 
             Diệt Đế cần được chứng ngộ và 
             Đạo Đế cần được hành trì. 
         Bốn nhận thức này được gọi là Kiccanana. 
  1. Cái trí thứ 3 được gọi là Katanana là 
              biết rõ ta đã nhận thức đầy đủ và chín chắn về Khổ Đế, 
              biết rõ Tập Đế đã được đoạn trừ, 
              biết rõ Diệt Đế đã được đã được chứng ngộ, 
              biết rõ Đạo đế đã được hành trì viên mãn. 
Bốn cái này gọi là Katanana. Cái này gọi là Thành Sở Tác Trí của Nam Tông không phải Thành Sở Tác Trí bên Duy Thức. Người nào hiểu được Tứ Diệu Đế qua 4 trí này được gọi là am hiểu 1 cách rốt ráo. Và chỉ có Thánh nhân tức La Hán mới am hiểu rốt ráo Bốn Đế qua 3 loại trí này. 

  1. Am hiểu Bốn Đế cũng là am hiểu lý Duyên Khởi, 
  2. am hiểu lý Duyên Khởi thì không còn mắc vào thứ Tà Kiến nào nữa.
Nội dung Kinh Phạm Võng phải bắt đầu từ cuối kinh học ngược lên và nếu cắc cớ mà các vị muốn học thuộc lòng kinh Phạm Võng mà trí nhớ kém quá thì các vị chỉ học đoạn cuối thôi, đoạn cuối khoảng 2 trang vở học sinh, chỉ có 2 trang tiếng Pali hay tiếng Việt không cần biết, học tiếng gì học tiếng Anh, tiếng Tàu, tiếng Đức, Tây Ban Nha nhưng đại khái tối đa chỉ có 2 trang vở học sinh ở đoạn cuối kinh Phạm Võng. Trong đó ngài có xác nhận thế này, bao nhiêu quan điểm Tà Kiến liên hệ đến quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều khởi đi từ nhận thức sai lầm của 1 người không hiểu biết Lý Duyên Khởi. Hết. Chỉ nhớ bao nhiêu đó thôi, nhớ nha.

62 tà kiến nó nhiều quá cỡ thợ mộc bây giờ mình học bằng cách nào đây. Bây giờ tôi gợi ý bà con thế này, có 2 cách để chúng ta học về thực vật học. 

  1. Cách 1 chúng ta phân loại những nhóm lớn, rồ khi nào quởn chúng ta mới đào sâu thêm. Đó là cách 1, đó là phân loại các loại thực vật theo từng nhóm lớn, gom hết các thực vật trên hành tinh này theo từng nhóm lớn. 
  2. Kiểu học thứ 2 là học chi li có nghĩa là mình học từng loại cỏ, từng loại rêu của những làng mạc xa xôi hóc bò tó bên Châu Phi, Nam Mỹ, Đông Nam Á, Trung Á, Trung Đông gì đó. Nó khổ cái chỗ có những loại thực vật đặc hữu ở 1 địa phương nào đó, ngoài vùng đó ra, ngoài những điều kiện khí hậu đặc biệt ở địa phương đó ra thì nơi khác không có.
Chúng ta vẫn học luôn, đó là cách 2 còn cách 1 là chúng ta phân loại đại cương các loại thực vật. 

Thì ở đây chúng tôi sau nhiều trở trăn thao thức quyết định chọn cách 1 có nghĩa là cho quý vị học 62 tà kiến theo cách đại cương vì 3 lý do.

Thứ nhất tất cả những tà kiến Đức Thế Tôn giảng trong đây bao gồm những tà kiến phổ biến nhấtnhững tà kiến cá biệt nhất

Cá biệt là sao? Là những tà kiến chỉ có ở 1 số chúng sanh trong 1 số hoàn cảnh đặc biệt nào đó mà mình học vô mình thấy nó rất mù mờ xa lạ với mình. Ở đây chú giải có giải thích rất rõ nhưng mà tôi xin thề là bà con không cách nào nhớ được bởi vì chỉ nghe 1 lần rồi thôi quên mất. VD trường hợp đặc biệt là có những người, những loại chư thiên do duyên nghiệp họ có đời sống không giống những vị thiên nhân khác, từ chỗ duyên nghiệp khiến họ có hình hài không giống ai cho nên họ có sinh hoạt không giống ai, họ có kiểu sống và kiểu chết không giống ai. Và từ chỗ không giống ai này cộng với vô minh trong Duyên Khởi, trong Bốn Đế cho nên nó mới lòi ra 1 thứ tà kiến cá biệt, rất là đặc dị gọi là hàng độc không đụng hàng với ai hết. Tổng cộng là có 62 trường hợp như vậy.

Bây giờ chúng ta gom gọn lại 62 loại Tà kiến gồm có 2 thứ là 
  1. Sassataditthi Thường kiến và 
  2. Ucchedaditthi  Đoạn kiến.
Thường kiến
Thường kiến gồm có 3 trường hợp tiêu biểu: 
1)Tin vào 1 cái tôi vĩnh cửu
2)Tin vào 1 đấng bề trên tối thượng toàn quyền sinh sát
3)Tin vào 1 cứu cánh thoát khổ nào đó đi ngược lại lý nhân quả
Đó gọi là Thường Kiến.

Đoạn kiến
Đoạn kiến gom gọn trong 3 trường hợp: 
1)Ahetukaditthi vô nhân kiến cho rằng mọi thứ ngẫu nhiên mà có, không do nhân quả gì hết. 
2)Akiriyaditthi vô hành kiến cho rằng thiện ác giống hệt nhau chỉ là hành động mà thôi, mỗi người có thể tha hồ sống và hành động theo ý thích. 
3)Natthikaditthi vô hữu kiến cho rằng những gì mình không thể chứng minh, không thấy biết được thì là không có thật chẳng hạn như các vấn đề nhân quả báo ứng, luân hồi tái sinh, sự hiện hữu của Thánh nhân, của các loài khuất mặt.

VD như mình biết 1 cọng cỏ nhỏ xíu nó muốn có mặt cần phải có bao nhiêu yếu tố sinh học thì nó mới có mặt, rồi 1 con ong cái kiến hay là 1 con người rồi đến cái chi tiết nhỏ nhặt ở trong đời sống của muôn loài như giọt nước mắt, nụ cười, niềm vui, nỗi buồn, sướng khổ nóng lạnh nhất nhất mỗi thứ trong đời nó đều có nhân quả đàng hoàng hết nhưng mà đằng này mình cứ nghĩ mọi thứ ngẫu nhiên mà có, không có nhân quả gì hết đó. Cái đó là thứ tà kiến gọi là vô nhân kiến.

Cái thứ 2 gọi là vô hành kiến có nghĩa là cho rằng thiện ác không có khác gì nhau hết. chẳng qua người ta không có thích nó người ta sợ nó người ta gọi nó là ác, người ta thích nó quá thì gọi nó là thiện chứ thiện ác là không có, vốn không có chỉ là vì hành động thôi. Có nghĩa là mình thích sống làm sao, thích hành động thế nào thì mình cứ thế mà tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc thừa thắng xông lên chứ còn không có tùy duyên, tùy thích mà sống, chứ không có thiện ác gì hết nha. Cái chuyện làm lành lánh dữ là chuyện tào lao, chuyện đó vốn không có, cái đó là lông rùa sừng thỏ, cái đó là trò bịp bợm của những tay giáo chủ các tín ngưỡng vậy thôi chứ cái đó là hù, nhát ma dụ dỗ người ta chứ cái đó nó không có thật nha.

Còn cái vô hữu kiến là cho rằng cái gì mình không thấy được không biết được không chứng minh được thì cái đó không có. Cái này mới vui chứ, tôi nhớ tôi đã kể cho các vị nghe câu chuyện ruồi bu của chính tôi mà tôi cũng mong là quý vị cũng nên ghi nhận câu chuyện đó để bỏ túi biết đâu có lúc xài. Tôi đã kể câu chuyện đó, hôm nay tôi vẫn kể lại ha.

Trong 1 buổi giảng ở chùa Phước Sơn Việt Nam 20 năm về trước có 1 ông cán bộ về hưu cộng sản ổng cũng lên chùa ổng tu thiền thì lúc đó cô Thu là học trò của hòa thượng Kim Triệu về dạy thiền ở chùa Sơn. Sau buổi giảng, sau buổi thiền tọa đại chúng thầy phương trượng có mời tôi, có 1 pháp thoại cho bà con vào ngày cuối tháng – ngày 30 đó mà. Tôi nói cái gì tôi không nhớ, tôi nhớ là tôi giảng xong tôi về phòng ở dưới suối thì ông cán bộ ổng đi theo, trời mát ổng đi theo, ổng xuống ổng hỏi tôi vậy chứ thầy mà chứng minh được có thiên đường địa ngục có luân hồi báo ứng tôi xin nguyện đi theo thầy hết kiếp. Thì tôi nhớ, lúc đó tôi mệt lắm rồi, tôi nhớ tôi trả lời vắn tắt thế này. Tôi nói tôi không có khả năng chứng minh cho ông thấy là có thiên đường địa ngục có ma quỷ có các loài siêu hình khuất mặt, tôi không có khả năng. Tôi không thể chứng minh cho ông thấy để mà ông theo tôi nhưng mà nếu ông có thể chứng minh những thứ đó không có thì tôi xin theo ông, ông nghĩ làm sao?

Tôi chỉ nói vậy thôi, chứ tôi mệt quá rồi. Tôi nói nếu mà ông nói rằng nếu tôi chứng minh được là có thì ông theo tôi nhưng mà bây giờ tôi mệt rồi tôi không muốn ông theo tôi, giờ tôi khoái theo ông thôi à. Tôi muốn ông chứng minh nếu cái ông nói không có thì tôi theo ông.

Thường kiến
Bây giờ tôi giảng lại thường kiến. Ở đây Đức Phật ngài dạy rằng khi chưa am tường lý Duyên Khởi thì ta luôn có nhiều điểm tựa để nảy sinh Tà Kiến. 

  1. Thứ 1 là do học từ người khác
  2. Thứ 2 là do tự mình suy diễn lý luận
  3. Thứ 3 là do dựa vào sở chứng có thật của bản thân - ở đây là thiền định và thần thông.
Quý vị thấy đời khổ, tự mình thấy đời khổ rồi đi tìm hiểu, tìm hiểu thầy này bà nọ kinh này sách kia, nói chung là mình đi tham khảo từ những nguồn thông tin của người khác, rồi người ta dạy mình cái gì. Cái đó nếu nó hợp với tạng phủ tâm tư của mình thì mình theo mình thờ. Cái đó là trường hợp thứ 1 – cái đó là do học từ người khác.

Trường hợp thứ 2 là tự mình suy diễn, nghĩa là mình dựa vào nền tảng trí tuệ, nền tảng học thức, rồi kinh nghiệm sống, cảm giác, cảm xúc cá nhân rồi mình mới lấy cái này mình cộng mình ghép mình nhân chia trừ cộng các thứ cuối cùng mới đi ra cái kết quả suy luận. Nếu mình chưa có phải là người am tường hiểu lý Duyên Khởi, lý Tứ Đế thì những cái suy diễn này của mình dứt khoát có vấn đề bởi vì tôi nhớ tôi đã từng nói với bà con rồi. Thông minh bằng trời mà muốn tự ngộ thì phải mất tối thiểu là 2 a tăng kỳ (100 ngàn đại kiếp). Chứ còn ngồi cộng ghép chuyện đời, cộng ghép cảm xúc, kiến thức bản thân, mình ngồi tưởng tượng để mà thấy được Bốn Đế, thấy được lý Duyên Khởi để mà chứng thánh chấm dứt phiền não thì cái chuyện đó không có nha. Nhớ cái đó, cái đó quan trọng.

Trường hợp thứ 3, cái này mới ghê, cái thứ 3 là do sở chứng của bản thân là chính mình tu thiền, chính mình thấy rõ ràng chứ đâu phải do ai dạy mình đâu. Chính mình rõ ràng mình thấy là thiền định mặt mũi ra làm sao, chính thiền định là xa lìa phiền não thông thường – phiền não thông thường chính là 5 triền, phiền não thô đó, chính mình thấy tâm mình thanh tịnh, không còn tham thích 5 dục, chính mình không còn bất mãn, sân hận sợ hãi ghen tuông đố kỵ, chính mình không còn hôn trầm thụy miên lười biếng dã dượi buồn ngủ, không còn trạo hối, không còn hoài nghi, chính mình thấy rõ mình được an lạc. Thì trên cái nền tảng này nè, mình bắt đầu mình suy diễn các thứ.

Trong kinh Đức Phật ngài dạy rằng giống như con chó bị cột vào điểm nào đó thì nó có cào cắn, nó có sủa, nó có la, nó có hét, nó có rên xiết cỡ nào thì nó cũng quẩn quanh chỗ cột nó thôi. Cái điều đó như thế nào thì 1 người phàm phu chưa giác ngộ lý Tứ Đế có nghĩa là chưa thấy được lý Duyên Khởi, chưa thấy được rốt ráo lý nhân quả và lý tam tướng vạn hữu do duyên mà có, có rồi phải mất. Họ chưa thấy rốt ráo thì họ có suy tư diễn dịch lý luận như thế nào thì cuối cùng họ cũng vẫn quẩn quanh, quẩn quanh cái gì, quẩn quanh những cái tà kiến, những cái ngã chấp.

Cuối bài kinh Phạm Võng này chính Đức Thế Tôn cũng xác nhận lại đó là người không hiểu lý Duyên Khởi thì họ có suy diễn, có tưởng tượng, họ có nhìn thấy, họ có nhận thức, họ có quan sát được cái gì thì những cái đó nó vẫn là trong lưới chụp của tà kiến, trong lưới chụp của 62 tà kiến. Quý vị xem lại cuối kinh có phải như vậy không? (35’43”)

11/01/2022 - 07:16 - ngocthytran00

Cho nên từ chỗ đó mới có tên kinh là Phạm Võng, tên kinh này là do chính Đức Phật ngài đặt chứ không phải là do các vị A Xà Lê kiết tập. Chữ Jala đây là cái lưới, cái lưới là sao? Có 2 nghĩa: 
  1. Một là cái bài kinh này có nội dung bao trùm tất cả các trường hợp tà kiến của chúng sinh không có sót. Cái chữ võng ở đây là lưới. Lưới ý nghĩa thứ 1 là bài kinh này Đức Phật thuyết gọi là đầy đủ không sót một loại tà kiến nào của phàm phu trong vô lượng vũ trụ, vô lượng thế giới
  2. Nghĩa thứ 2 Phạm Võng là ngài vạch ra cho mình thấy các kiểu tà kiến của phàm phu, hễ còn là phàm phu thì chạy trời không khỏi nắng có nghĩa là hễ chưa hiểu được duyên khởi thì tất cả đều nằm trong cái lưới của 62 tà kiến cho nên đó là lý do vì sao kinh này được gọi là kinh Phạm Võng.
Hồi nãy đầu buổi giảng tôi đã nói rồi, buổi giảng của tôi hôm nay về kinh Phạm Võng sẽ làm cho một số người rất là ngạc nhiên, một số người rất là thất vọng mà thậm chí có loại thứ 3 là có một số người rất là mãn nguyện khi mà họ vốn không tin chúng tôi có thể giảng kinh Phạm Võng. (Ổng không thể giảng kinh này được đâu, cũng có thể có trường hợp đó).

Nhưng mà tôi đã xét kỹ bây giờ tôi phân loại cho bà con từng thứ cây cỏ mà bà con không có dịp thấy chỉ nghe tôi nói thôi, đó là loại lá, loại nấm ở bên Châu Phi, bên Bắc Mỹ bên Trung Đông đối với tôi sớm muộn bà con cũng quên thôi thì bây giờ tôi chỉ phân loại chung chung những cái nhóm lớn của sinh vật học của các nhóm thực vật (37’40”) trên thế giới thôi.

Ở đây cũng vậy, 62 tà kiến gom gọn lại gồm có 2 đó là Thường Kiến và Đoạn Kiến.

Thường Kiến chúng tôi đã nói rồi. Thứ 1) Tin vào cái tôi vĩnh cửu là sao? Các vị nhìn trong chánh kinh các vị sẽ thấy, khi mắt tay mũi lưỡi thân ý của mình làm việc thì mình luôn luôn nghĩ rằng tôi thấy tôi nghe tôi vui tôi buồn. Rồi biết đạo chút đỉnh tu hành làm phước thì tôi làm thiện tôi lánh ác, rồi mai này mình có thiền định chút đỉnh tôi đắc thiền rồi sớm muộn gì tôi cũng đắc quả mong rằng tôi sẽ thành thánh nhân. Chúng ta luôn luôn nhìn vấn đề từ góc độ cái tôi dầu cho mình đã biết Phật Pháp rồi, miệng nói như két là mọi thứ vô ngã vô thường vậy chứ cũng lén lén trong bụng nghĩ tôi là người hiểu lý Vô Ngã sâu nhất trong cái đám này, cái chuyện đó có thiệt. Tôi là người giỏi A tỳ đàm nhất trong cái đám này, tôi là người hiểu lý Vô Ngã nhất, tôi là người hành giả tuệ quán xuất sắc nhất. Cứ liên tục, đó là mình không ra khỏi cái lưới của 62 tà kiến, mình bị cột vô cái cây trụ mình có làm cỡ gì cũng không thoát được nha.

Cho nên ở đây ngài dạy rằng có quán chiếu lý Duyên Khởi, có hiểu biết có nhận thức đúng đắn về Bốn Đế thì tự dưng ở chừng mực tương đối thì chúng ta sẽ tránh được tà kiến ở mức độ tương đối, còn nhận thức rốt ráo tuyệt đối ở mức độ của Thánh nhân thì chúng ta sẽ lìa bỏ hẳn các tà kiến ở mức độ tuyệt đối.

Và ở đây cũng phải nói rõ là pháp môn Tuệ quán xưa giờ chúng ta thường nghe nói là pháp môn dạy mình sống trong hiện tại, tại đây và bây giờ, nhận thức cái gì đang xảy ra. Xin thưa cái gọi là sống trong hiện tại hay là thực tại hiện tiền hay tại đây và bây giờ đó là những cái chữ nói cho vui, nói trên cái khái niệm thời gian thường thức của phàm phu qua khía cạnh tục đế chế định nha chứ còn nói rốt ráo (tôi nói chậm nha) thì hành giả phải thấy rằng tất cả những gì thuộc về danh sắc mà mình ghi nhận được đều là những thứ đã thuộc về dĩ vãng.

VD như tôi biết rằng tôi đang nổi giận thì khi tôi biết rằng tôi nổi giận thì lúc đó cái biết đó chính là tâm thiện, còn cái đang nổi giận đó là tâm sân trong quá khứ. Tại sao tôi đang giảng về Duyên Khởi, tôi đang giảng về tà kiến mà tôi nói đến cái này? Nó liên quan mật thiết lắm. 

Hành giả tu tập tuệ quán về hành trì đó thì 
  1. dựa trên tinh thần của Tứ niệm xứ là Tuệ quán Vipassana 
  2. còn về lý thuyết là phải có kiến thức A tỳ đàm
Để làm chi? 
  1. Để mình có nhận thức tối thiểu về Bốn Đế, về Duyên Khởi 
  2. để mình thấy rằng thực ra không có một điểm tựa nào, không có một chỗ dựa nào cho một cái tôi như hồi đó giờ mình vẫn tưởng.

- Khi mình hiểu rằng cái mình thấy được là cảnh quá khứ
- Khi mình thấy được rằng trong 1 ngày đời sống thân và tâm của mình chỉ gồm 4 thứ: THIỆN, ÁC, BUỒN, VUI. Chỉ có 4 thứ đó thôi, nó tiếp nối nhau sanh diệt. 

Nếu mình có quan sát bằng kinh nghiệm của 1 hành giả, thấy được như vậy thì mình mới thấy trên đời này không có cái gì gọi là chiếc xe hết mà nó do các món phụ tùng ráp lại nha.

Mới nghe qua thì 1 người không biết đạo họ sẽ ngạc nhiên ủa cái nhận thức như vậy nó giúp cho việc tu hành giải thoát chỗ nào. 

Xin thưa nó giúp rất là nhiều, nếu không muốn nói đó chính là linh hồn của giải thoát của đạo Phật . 

Vì sao vậy? 

Khi mà mình thường trực sống trong cái nhận thức mọi thứ do duyên giả hợp mà có thì cái thái độ của mình trong cuộc đời này đối với các trần cảnh chắc chắn sẽ khác đi. Tôi nhắc lại nếu mình chỉ nhận thức trên kinh nghiệm sách vở chữ nghĩa thì từ chương thì nó giúp mình không được nhiều lắm so với người không biết gì thì có đó, nhưng so với 1 hành giả thì chưa thấm.

Phải là 1 hành giả phải sống trong quán chiếu trong nhận thức thường xuyên, thường trực để thấy rằng mình là đồ lắp ráp, mọi thứ do duyên mà có. Duyên đây tới 1 tỷ duyên chứ không phải 3 duyên 5 duyên mà tới 1 tỷ duyên. Tôi đã nói không biết bao nhiêu lần cái duyên mà trong kinh kể là kể đại khái, còn duyên thực tế mà chúng ta quán chiếu nó nhiều lắm. Chỉ đưa cái tay lên cầm tách trà hớp 1 ngụm thôi thì nó có tới 8 ngàn tỉ nhân duyên mình mới hớp được cái ngụm trà đó. Không biết các vị còn nhớ cái đó không?

Muốn hớp được 1 ngụm trà phải có vô số nhân duyên chứ còn 8 ngàn tỉ là ít nha. VD như bây giờ trong 1 xứ sở như Sirya hay là Iraq, các vị nghĩ coi có thể bình tâm thanh thản mà ngồi uống trà hay không? Tôi thì không rồi đó. Tôi dứt khoát là không bởi vì tôi không biết nó nổ lúc nào. Rồi bây giờ tôi 1 vợ 3 con ở tại VN mà bây giờ biển bị nhiễm độc như vậy bà xã tôi không biết đi chợ ăn cái gì, thì quý vị tưởng tượng tôi là 1 người chồng 1 người đàn ông 1 vị gia trưởng, 1 trụ cột trong gia đình, tôi có thể bình tâm ngồi uống trà hay không? Quý vị làm được tôi không làm được.

Như vậy thì chuyện xã hội, chuyện chính trị, chuyện tôn giáo bây giờ về Phật pháp Phật giáo trong đạo mình có nhiều tai tiếng, mình là 1 người Phật tử mình nghe mình có vui hay không? Sức khỏe của mình, mình bị nhức đầu chóng mặt, nhức răng, đau lưng, bác sĩ nghi ngờ mình bị sạn thận, nghi ngờ mình bị xơ gan, nghi ngờ mình bị siêu vi B, A gì nè. Thì với những cái đó quý vị có thể bình tâm mà ngồi uống từng ngụm trà, rung chân làm thơ hay không? Tôi thì không nha.

Cho nên vợ con phải OK, gia đạo OK, xã hội OK, đất nước OK, khu vực OK, rồi tài chánh phải OK. Dĩ nhiên chữ OK ở đây là quý vị phải hiểu mỗi người có kiểu OK riêng nhưng mà tối thiếu nó phải OK ở mức độ nào đó tôi mới có thể ngồi uống trà được nha.

Cho nên khi 1 hành giả tuệ quán họ quán chiếu họ thấy ồ thì ra đây là ý muốn giơ tay, từ ý muốn này mình mới giơ tay mình lên ý muốn là DANH, cái tay giơ lên là SẮC. Trước khi giơ tay là cái gì ta? Là ngứa, cái ngứa đó là KHỔ THỌ, cái muốn gãi đó là TÂM THAM, rồi từ tâm tham đó nó mới dẫn đến chuyện là tôi muôn gãi, rồi tôi muốn gãi mới dẫn đến chuyện là cái đầu tôi mới cử động tôi mới xê dịch, tôi mới nhúc nhích bàn tay, bắt đầu tôi gãi, gãi nó đã chính là TÂM THAM. Ngứa là SÂN nhưng cái đã là THAM.

18/01/2022 - 02:36 - ngocthytran00

(Còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Phạm Võng (2-3)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=kOO8cH8nMGA&abt=Kinh+Ph%E1%BA%A1m+V%C3%B5ng


18/01/2022 - 02:36 - ngocthytran00

Khi tôi quan sát tôi thấy thì ra cái gọi là tôi, cái gọi là Lê Văn Tèo, Nguyễn Văn Tý thì nó là đồ lắp ráp không, lúc thiện lúc ác lúc tham lúc sân lúc sướng lúc khổ. Mà trong kinh đã nói rõ do vô minh trong Bốn Đế nó mới dẫn đến 3 Hành, tức là do không biết Bốn Đế là gì cho nên khi mà chạy trốn cái khổ người ta mới đầu tư thiện và ác, đó gọi là 3 Hành. Cái này tôi đã giải thích rồi, hành vi duyên Thức, thức ở đây chính là tâm tái tục, khi tạo ra 3 nghiệp Dục, Sắc và Vô Sắc nó dẫn đến tâm tái tục để đi vào 3 cõi.

Mà chính vì có tâm tái tục, tâm đầu thai vô cõi này cõi kia mình mới có cái Danh Sắc hoặc là chỉ Danh hoặc là chỉ Sắc trong các cõi. Chỗ này bắt đầu nhức đầu rồi. Từ có Danh Sắc mới có Lục Nhập, lục nhập ở đây có cõi đủ có cõi không đủ nhưng mà gom chung nói chung có lục nhập nhưng có cõi không đủ. Rồi có Lục Nhập có Duyên Xúc, có nghĩa là từ chỗ có 6 căn thì nó mới có chuyện ghi nhận 6 căn mà có 6 căn 6 cảnh mới có 6 thức. Mà chính vì 6 căn làm điểm tựa cho 6 thức để ghi nhận 6 trần, cái chỗ gặp nhau giữa 3 thứ này nè được gọi là XÚC. Từ 6 xúc, nghĩa là cái biết của CĂN-CẢNH-THỨC của nhãn căn, nhãn thức và cảnh sắc, 3 cái này nó tạo ra nhãn xúc và các căn còn lại cũng theo vậy mà hiểu Diệt Phục Như Thị ha.

Do có nhãn căn nhãn thức và cảnh sắc nó mới có nhãn xúc, rồi từ nhãn xúc nó mới có nhãn thọ, mà từ nhãn thọ này nè nó mới lòi ra sắc ái tức là thích trong cảnh sắc mà ái ở mức độ sâu đậm thì gọi là Thủ, trong trường hợp này gọi là Dục Thủ. Nếu là 1 phàm phu thì dục thủ nó đính kèm theo nó nào là kiến thủ, ngã chấp thủ và có thể là giới cấm thủ. Từ thủ nó mới quay ra cái vòng tròn có nghĩa là nó tạo ra nghiệp thủ có nghĩa là tâm đầu thai nữa. Nghiệp thủ là nghiệp thiện ác nó mới tạo ra sanh hữu và tâm đầu thai. Rồi từ có tâm đầu thai bắt đầu 1 kiếp sống mới đó là hữu duyên do sanh.

Thủ nó tạo ra 2 hữu nó dẫn đến 2 hữu đó là nghiệp hữu tức là thiện ác còn sanh hữu và tâm đầu thai các cõi. Có tâm đầu thai các cõi nó có sự có mặt ở các cõi, mà hễ có mặt ở các cõi thì nó có sanh già đau chết sầu bi khổ ưu não. Và hễ có sanh già đau chết sầu bi khổ ưu não thì người ta mới tìm lối thoát. Tìm bằng cách nào? Do không hiểu Bốn Đế cho nên người ta mới chạy trốn nỗi khổ bằng cách làm các nghiệp thiện ác. Như vậy các vị thấy nó thiết lập 1 vòng tròn không? Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Nhập, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh. Tưởng làm sao tới Sanh thì nó duyên cho Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Mà muốn trốn chạy muốn lánh tránh sầu bi khổ ưu não này thì phải làm sao? Mà cái đầu thì bư không biết Bốn Đế là gì thế là tiếp tục tạo 3 hành. Thì cứ hành duyên thức mà nó cứ đi vòng vòng như vậy.

Nếu 1 người có học có tu có suy tư đúng đắn bằng chánh kiến, họ hiểu cái này thì họ không có nảy sinh ra ảo tưởng là có 1 cái tôi hằng tại vĩnh cửu di chuyển từ đời này sang kiếp khác. Mà mọi thứ do nhân duyên, 6 căn của đời này là quả của 6 ái đời trước. Với 6 căn bây giờ mà không khéo tu tập thì nó tiếp tục nó lại là điểm tựa cho 6 ái của đời sau. Mà cứ như vậy cứ đi vòng vòng vòng vòng đi suốt mùa như vậy, nhớ nha. Cho nên là 1 người hiểu như vậy thì họ không có mắc vào tà kiến. 

--ooOoo--


Thường Kiến là sao ?

Thứ nhất là Thường kiến.

Thường kiến có 3:

1) TIN VÀO 1 CÁI TÔI.

2) KHÔNG TIN VÀO SỰ HIỆN HỮU CỦA 1 ĐẤNG TỐI CAO, 1 đấng cha chung, 1 đấng Thượng đế, 1 đấng Chúa trời, 1 đấng Ala, 1 đấng sáng tạo chủ có quyền ban phước tha tội cho muôn loài hay không cũng có, mọi thứ do nhân duyên. Nếu hôm nay nói sơ sơ thì là như vậy còn nếu bàn sâu 1 chút thì các vị sẽ thấy có 2 điểm để phản bác lại quan điểm về thượng đế.

Thứ 1) Nếu có 1 đấng Thượng đế sáng tạo muôn loài ta nói đó là 1 con người rất là tàn nhẫn, tạo chi 1 thế giới bất toàn, bất trắc bất tường. Bên Thiên Chúa họ có thể giải thích Chúa tạo ra thế giới này là để thử thách muôn loài, phải có đói có nghèo có bệnh để thử thách muôn loài. Nhưng mà nghe qua thì thấy nó suông đó nhưng mà ngẫm lại tại sao với quyền lực vô biên của Chúa Chúa không làm direct 1 thứ hoàn hảo, mắc gì phải đi thử với con người. Con người đôi khi mình chế máy bay đợt 1 còn nhiều trục trặc . Mình bay thử, thấy trục trặc mình mới chế đợt 2 mình đưa những kỹ thuật bổ sung, rồi đợt 3 đợt 5 đợt 8 đợt 10 tới đợt thứ 19 là hoàn hảo bắt đầu mình mới đưa nó vào sử dụng trong hàng không dân dụng, hàng không thương mại nha.

Nhưng mà Chúa thì không, Chúa đâu phải dỏm như mình đâu phải con người bất toàn như mình. Nếu đúng Chúa là đấng vạn năng toàn tri, 1 đấng tối cao nào đó thì có thể tạo ra ngay từ buổi đầu cho perfect ngay từ buổi đầu nó đã hoàn hảo toàn bích hoàn thiện 100% mắc chứng gì phải thử tới thử lui, mắc cái gì phải đi thử thách những sản phẩm của mình. Tôi nhắc lại con người thì ok Chúa phải làm ba cái chuyện đó Chúa không phải là toàn năng. Mà dầu có lý luận theo thần học triết học gì đi nữa phải nói Chúa đã tạo ra 1 thế giới quá tàn khốc, vui ít khổ nhiều. Phải nói tôi không hề mang ơn sự sáng tạo đó, thà đừng tạo ra, tạo ra làm chi mà nó buồn quá, nha.

Thứ 2) Nếu mình là 1 hành giả tuệ quán thường xuyên quán chiếu danh sắc thân tâm, chúng ta sẽ thấy rằng thật ra chúng ta không cần đến sự hỗ trợ nào của đấng tối cao bởi vì rõ ràng là buồn vui, cái nào vô ngã là vô ngã, cái nào do duyên tạo là do duyên tạo. Hai cái này nó là một, khía cạnh nào là vô ngã, khía cạnh nào là do duyên tạo. 

  1. Cái nào do duyên tạo thì cái đó là vô ngã
  2. mà cái nào vô ngã thì cái đó do duyên tạo
Ở đây không có sự can thiệp của ai hết. VD như bây giờ tôi sống phóng dật, sống thất niệm thì tôi mới nói mới làm mới suy tư những điều mà khiến cho mình khổ tâm khiến cho người khác phiền bực. Từ chỗ thất niệm nó là duyên nó mới dẫn đến chuyện tôi khổ và người khác phiền. 

Cái chuyện này tôi thấy rất là rõ ràng, tôi ăn uống bất cẩn đương nhiên tôi bị bệnh, tôi thức khuya thì bữa sau tôi lừ đừ. Nếu 1 hành giả tu tập tuệ quán thấy rất là rõ. 

Tất cả những thiện ác buồn vui đều do nhân xa nhân gần nào đó chứ không có phải là tự nhiên. 

Mình quan sát từ cái chuyện nhỏ đến chuyện lớn nó có điểm giống nhau là ở đời mọi thứ nó vận hành nó hiện hữu nó tồn tại trên những điều kiện tác động. Mà phải thường xuyên quán chiếu như vậy chứ không phải học suông như con nít còn bú bình. Phải thường xuyên quán chiếu lâu ngày nó mới thấm mới hiểu đúng rồi mọi thứ do duyên. Còn đằng này cứ không lo hành trì cứ sống thất niệm lâu lâu quởn nhào vô nghe pháp 3 mớ rồi về tiếp tục sống thất niệm nữa, sống không niệm không tuệ, lâu lâu quởn quởn vô làm 1 chầu nữa thì tôi nghĩ rằng khó lắm nha, khó lắm.

20/01/2022 - 07:50 - ngocthytran00

Cho nên Phật pháp gọi là Sandithiko có nghĩa là mình có nghe đạo nhiều cách mấy đi nữa, thầy của mình có là Đức Phật đi nữa thì phải Sandithiko có nghĩa là cái sự chứng nghiệm phải do chính mình chứ không thể nào thầy bà bè bạn láng giềng thân thuộc có thể thấy dùm mình chứng đạo dùm mình, chuyện đó không thể có. Cái đó gọi là Sandithiko. Và điều thứ 6 trong hồng ân pháp bảo (tiếng Pali 54:34) là cái đạo này phải cần đến sự động não, cần đến khả năng trí tuệ, chứ đạo này không dành cho người ăn rồi nằm hả họng chờ sung rụng nha. Chuyện đó không có, trong đạo này không có vụ nằm chờ sung rụng nha. 

Bản thân mình phải có khả năng động não, mà khả năng đó chỉ có ở người trí nha.

Cho nên tôi nhắc lại chánh pháp là Sandithiko, thầy của mình là ai, bạn của mình là ai ba má của mình là ai, chuyện đó không thành vấn đề trong vấn đề nhận thức chân lý.

Bà già của mình thương mình lắm, dám chết cho mình nhưng bà không có khả năng đắc đạo dùm mình, bởi vì bà uống café thì bà biết mùi café bà không thể nào vì tình mẫu tử mà bà tìm mọi cách để cho mình hiểu café là gì, cái mùi café ra sao khi mà mình chưa hề biết chạm môi vô trong tách café nha. Ly café còn cần đến sự thân chứng thể nghiệm thì nói chi là chân lý ở đời. Cho nên thứ 1 Thường kiến là do không hiểu được lý Duyên Khởi, không hiểu được lý Bốn Đế cho nên nó nhận thức sai lầm cho rằng CÓ 1 LINH HỒN TỪ ĐỜI NÀY QUA KIẾP KHÁC từ phút giây này qua phút giây khác, tôi hồi nhỏ ở trong bụng mẹ với tôi lúc 4 tuổi là một. Rồi từ lúc bốn tuổi đến lúc 40 tuổi là một, từ 40 tuổi cho đến tôi 90 tuổi nằm ngoắc ngoẻo trong bệnh viện là một. Thì đó là THƯỜNG KIẾN.

Tức là cho 1 cái tôi nó luân lưu luân chuyển từ nơi này qua nơi khác lúc này qua lúc khác thì cái đó gọi là THƯỜNG KIẾN. 

Mà tại sao có Thường Kiến?  Vì khuynh hướng tâm lý. 

Khuynh hướng tâm lý là sao? Là tôi sợ mất, tôi không cam tâm chịu nổi cảnh trời xanh mây trắng nắng vàng như thế này, gió mát hiu hiu có 1 dòng sông vắng có 1 con đò trưa đang trôi lững lờ trên đó có 1 cô thôn nữ ngồi giặt áo bên cầu rồi trai thanh gái lịch tung tăng trong xóm rồi những đêm trăng điệu hò giã gạo, trên phố thì có đèn màu có vũ trường có những khu phố đêm sang trọng shopping… bao nhiêu là thứ để mà yêu để mà mê đùng 1 phát… chết mất tiêu không còn gì hết. Tôi chịu sao nổi quý vị.

Mình còn tình yêu với quê hương dân tộc yêu người dưng yêu người thân đủ thứ hết đùng 1 cái mất sao mà chịu nổi ? Rồi trong đạo công phu tu hành của mình từ đó đến giờ cũng núi cao rừng thẳm kiêng khem chay tịnh khổ hạnh bần tăng khổ sãi rồi bây giờ tự nhiên buông sạch hết là làm sao? Tôi chịu không nổi, nha.

(Thứ 1 là tôi giảng tôi nhắm mắt, thứ 2 nữa có 1 nhân vật “trời ơi” - Pháp Hỷ, các vị có biết câu hỏi của quý vị nó tào lao cỡ nào không? Khi tôi tập trung giảng, tôi trả lời quý vị cái câu hỏi đó tôi trả lời đến Tết cũng chưa xong. Mà trong khi đó là tôi đang trả lời câu hỏi cho quý vị, quý vị đang ngồi quý vị nhớ hay là cái gì không nghe, quý vị đi hỏi 1 câu mà nó tàn tệ như thế này).

Cho nên là 1 người có đời sống theo đạo theo Phật pháp là phải tận dụng 3 thứ trí là Văn Tư Tu để có thể nhận thức từ tương đối qua tuyệt đối về Duyên Khởi và Bốn Đế

Để làm chi? Để từ đó nó không có cơ sở cho các loại Tà Kiến

Còn nếu mà mình 
  1. vì sự thiếu sót không có trí tuệ về Bốn Đế và Duyên Khởi 
  2. cộng với khuynh hướng tâm lý thích hưởng thụ, thích hiện hữu, thích tồn tại, tâm lý sợ mất đi cái mình đang có, không cam tâm không đành lòng sự vắng mặt khỏi trần gian này
  3. Với khuynh hướng tâm lý này chúng ta tuyệt đối có lý do có cơ hội để mắc vào Thường Kiến. 
Nhớ nha, ok.

Tôi muốn nói thêm nữa nhưng mà tôi suy nghĩ có nên nói thêm nữa hay không. Riêng bài kinh này tôi hứa với quý vị tôi có thể giảng suốt 3 tháng, 1 kinh Phạm Võng. Tới đây tôi muốn nói thêm 1 chút.

Đừng nghĩ rằng 
  1. mình có học A Tỳ Đàm 
  2. mình có tu Tuệ quán Tứ Niệm Xứ 
mà mình không mắc Thường Kiến. 

Cái đó là 1 suy nghĩ rất là sai lầm. Là sao? Hồi nãy tôi có nói rồi, 

  1. cái khuynh hướng tâm lý mình là sợ mất, từ chỗ đó mới lòi ra cái chuyện người ta đã dựa vào Tâm Hữu Phòng của A Tỳ Đàm nguyên thủy mà người ta chế ra A Lại Da Thức ở bên Duy Thức. 
  2. Từ chỗ luyến tiếc nắm níu sự hiện hữu danh sắc, người ta mới chế ra Đại Viên Cảnh Trí Thành Sở Tác Trí 4 loại trí của Duy Thức. 
Tôi biết tôi nói cái này sẽ gây sốc cho nhiều người nhưng mà cái đó tôi phải nói thiệt là 
  1. họ tiếc họ tìm cách nắm níu, họ giữ lại 1 cái gì đó và chưa có hết, 
  2. ngay bên Phật giáo Nam tông cũng có không ít các vị đại đại sư bên Thái có, bên Việt có tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng nói là vô ngã nhưng mà cái ngã tào lao thì không có nhưng mà cái ngã chơn thường ngã thanh tịnh thì nên có phải có và chắc chắn có.
Làm ơn dò dò kỹ coi tôi đang nói trường hợp nào. Tiếc chịu không nổi, tiếc quá tiếc, bị cái thằng có nó đã quá. Đức Phật Ngài dạy rằng khi nào mình quán chiếu mình thấy rằng 1 tí xíu hiện hữu cũng là khổ thì lúc đó mình mới vội vã lìa bỏ buông tay còn hễ mình còn 1 chút gì đó để mình thương yêu mình nắm níu thì bằng mọi cách mình phải tìm cách mình giữ nó lại.

Tôi nhớ VN mình có 1 câu tầm bậy tầm bạ vô cùng nhưng mà chỗ này tôi mong quý vị hiểu khác. Nói là:

“Tiếc gì 1 nải chuối xanh
Năm bảy người giành cho mủ dính tay”

Cái câu đó người ta nói trong cái ý khác hoàn toàn không có mắc mớ gì Phật pháp nhưng mà thật sự chỗ này, tự nhiên tôi rùng rùng tôi nhớ lại. Khi mình có cuộc sống quán chiếu rốt ráo hoặc khi bản thân mình có qua những trải nghiệm khốc liệt về sự hiện hữu của Danh Sắc. Chẳng hạn như chúng ta trải qua 1 cơn bạo bệnh, trải qua 1 trận bể dâu tang thương quốc phá gia vân, trải qua 1 cuộc sinh ly tử biệt, 1 cuộc mất mát tình tiền dữ dội ác liệt, lúc đó từ từ chúng ta mới thấm, thì ra mất là tốt hơn.

--ooOoo--

Chán đời là sao ?

Tôi đã nói không biết bao nhiêu lần ...

Có nhiều cách để mình chán đời
  1. chán đời kiểu Tạng Kinh, 
  2. chán đời kiểu Tạng Luật, 
  3. chán đời kiểu A Tỳ Đàm.

Chán đời kiểu Tạng Kinh là sao? 

  1. Tạng Kinh cho ta biết rằng ta luân hồi vô số kiếp . Sữa mẹ mà ta bú, nước mắt mà ta khóc, máu mà ta đã chảy, mồ hôi mà ta đã đổ trong vòng luân hồi đó – của mỗi người nha nhiều hơn nước trong 4 biển. 
  2. Cái cơ hội làm người nó mong manh nó hiếm hoi, cái xác suất nó thấp hơn cơ hội của CON RÙA MÙ trăm năm nó trồi đầu lên mà nó chung lọt vô cái lỗ ván. 
Đó là kiểu sợ luân hồi theo cách nói của Tạng Kinh.

Sợ luân hồi theo cách của tạng A Tỳ Đàm là sao? Là quán chiếu thấy rằng ta sanh ra và chết đi trong từng khoảnh khắc quán chiếu thấy rằng niềm vui hay nỗi buồn thì tựu chung lại là khổ hết. Không có 1 hiện hữu nào trên đời này nằm ngoài 3 Khổ. Nhớ nha! Nghĩ vậy mà teo, nản, chán. Đó là cách sợ luân hồi sanh tử theo cách nói A Tỳ Đàm.


Chán đời kiểu Tạng Luật? 

Còn kiểu Tạng Luật ?

Đụng đâu tội đó, đụng đâu phạm đó . Giữ luật cho trong sạch thì nó khó vô cùng . 

Vì sao vậy? 

Vì cái phàm tánh của mình, phiền não của mình nó đầy ắp . Đụng đâu thì mình thấy phiền não đó mà đụng đâu thì phạm giới đó. Thôi thì tội lỗi nó chồng chất lên đó. 

  1. Chỉ riêng người giữ giới họ thấy đói muốn chết mà vì giữ luật phải nhịn thèm . 
  2. Chỉ riêng người giữ luật mới hiểu lạnh muốn chết mà không dám dùng cách nọ cách kia để kiếm đồ đắp , 
  3. Bệnh muốn chết mà không dám dùng cách này cách kia để kiếm thuốc. 
Đói nè, lạnh nè, bệnh nè, nhà dột cột xiêu, y rách nè, mà nếu mình giữ luật cho nó trong sạch thì phải nói có 1 chữ thôi, ráng chịu, nha. Tôi phải nói rõ như vậy.

Cho nên người giữ luật trong sạch họ có nhiều cái cớ để họ sợ sanh tử lắm. 

  1. Bởi vì họ thấy bây giờ lột cái y ra hoàn tục sống như người đời thì khoảng cách giữa người đời với 1 con thú không có xa bao nhiêu hết bởi vì thích là làm. 
  2. Còn bây giờ mình đắp y vô, mình giữ luật thì đụng đâu phạm tội đó, đụng đâu thì phạm giới đó mà phạm đâu thì tội đó. Nếu giữ luật thì khổ vô cùng, khổ lắm. 
Tôi biết trong room này cái người mà có thể chia sẻ quan điểm này của tôi tôi nghĩ không có nhiều. Các vị không thể tưởng tượng được cái khổ của người giữ giới.

Tôi nói như vậy là tôi nói theo kinh chứ tôi không bao giờ dám nói tôi là người giữ giới để mà tôi biết cái đó không có nha. Tôi nói rõ nha, tôi không có nói về tôi, tôi chỉ nói tôi biết theo kinh điển biết theo kinh nghiệm của các bậc tiền bối họ trao truyền lại như vậy.

Có nghĩa là Tạng Luật là 1 thứ kinh nghiệm tàn khốc về vạn hữu, có nghĩa là mình sống như người đời thì tội lỗi, mà sống theo luật thì đụng đâu khổ đó. Khổ lắm quý vị, khổ lắm. Tôi kể quý vị nghe 1 câu chuyện nhỏ thôi, nhỏ xíu.

Ngài Xá Lợi Phất bị bệnh, trong kinh chỉ nói bệnh thôi chứ chẳng nói bệnh gì, đau lắm. Thì ngài Mục Kiền Liên nhìn biết là sư huynh đau lắm, cho nên ngài mới hỏi ngày xưa khi còn ở ngoài đời chưa xuất gia sư huynh có bị như vầy lần nào chưa, nếu bị như vầy thì dùng thuốc men làm sao? Ngài Xá Lợi Phất mới nói ngoài đời tôi cũng có bị, khi mà bị như vầy nè mẹ tôi lấy sữa nấu với chút ít cái này cái kia cái nọ vậy đó, tôi ăn vô cái nó hết.

Trong kinh nói chư Thiên họ nghe được cuộc nói chuyện của ngài họ mới giục, mới khiến cho mấy vị thí chủ thân thiết của Mục Kiền Liên biết được. Còn ngài Mục Kiền Liên ngài ôm bát đến nhà thí chủ để hi vọng người ta sẽ cho ngài món đó. Cái món đó theo lời kể trong kinh thì cũng dễ kiếm lắm giống như canh chua đồ xào đậu xào vậy thôi, cũng dễ kiếm. Thì ngài nghĩ bụng tôn giả Xá Lợi Phất chắc chắn đủ phước để mà hôm nay tìm được món thuốc thích hợp. May mắn là chư Thiên nghe được cuộc nói chuyện giữa 2 bậc Đại Long Tượng Đại Thánh Giả này cho nên họ đã giục thí chủ chuẩn bị sẵn món đó, họ đem món đó cúng dường cho ngài Mục Kiền Liên. Ngài Mục Kiền Liên mới đem món đó về dâng cho ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phật ngài nhìn thấy ngài biết ngay là cái món này do tôi nói mà có; tôi có thể chết ruột tôi có thể đổ ra ngoài nhưng mà tôi không thể ăn món này được. Mặc dù lúc đó ngài đã là vị A La Hán.

Nếu mà nói cho nó rốt ráo cho nó khách quan cho nó công tâm 1 chút, tuy ngài nói ra mới có món này nhưng mà phải nói cho nó hơi khách quan là cái món này đâu phải do ngài đi xin, đâu phải do ngài gợi ý đâu, bởi vì cái người ngài nói ra là 1 vị A La Hán khác. Ấy vậy mà ngài vẫn trong kinh nói là do thói quen nhiều đời là ngài không có dễ dàng chấp nhận những thứ lợi nhuận mà theo ngài là nó có nguồn gốc không minh bạch. Tôi đang kể kinh theo ngôn ngữ hiện đại, là ngài không dễ dàng chấp nhận những thứ lợi nhuận không minh bạch. Thế là ngài từ chối và ngài vượt qua cơn đau bằng thiền định bằng phước báu riêng, nhớ nha.

Các vị thấy chưa tôi kể cho bà con nghe câu chuyện nhỏ xíu thôi, tôi chỉ nói ngài Xá Lợi Phất bị bệnh các vị có biết ngài bệnh gì hay không và các vị biết đau cỡ nào, thì chỉ có trời biết thôi. Tôi nghĩ là không có phải ít đâu bởi vì đau đến mức mà ngài Mục Kiền Liên ngài hỏi thăm, chứ nếu mà đau kiểu chóng mặt váng vất chút đỉnh thì có lẽ ngài Mục Kiền Liên không có hỏi đâu, chắc nhìn ngài như tái mặt đổ mồ hôi thì ngài mới hỏi.

Thì cách đó là cách sợ sanh tử theo Tạng Luật.

Khi mình có thấy sợ sanh tử thì mình mới bắt đầu nhàm chán sự có mặt ở đời này. Tôi đã nói không biết bao nhiêu lần có sanh về cõi nào đi nữa, sống lâu bao nhiêu đi nữa thì cũng có lúc mãn thọ. 

Mà mãn thọ là sao? 
Là nó hết còn sống ở đó nữa, nó trở về với đơn vị gốc . 

Có nhiều người trong room cứ tưởng cái đơn vị gốc là cái chữ tôi nói đùa, không phải, là có thiệt. 

Đơn vị gốc có nghĩa là trừ ra Thánh nhân, còn lại hễ là phàm phu thì anh có đi đâu đi bao xa cuối cùng anh phải trở về Dục Giới. Đó là luật. 

Và anh có đắc thiền gì hay không không cần biết mà anh mãn thọ rồi thì anh trở về Dục Giới này thì anh cũng phải tiếp tục sống với cái tâm dục giới nha. Đó là luật.

Và cái tâm dục giới ở đây đa phần thời gian trong 1 ngày là anh phải sống 90% tâm bất thiện – 12 tâm bất thiện, còn 8 tâm đại thiện nói cho vui thôi, chứ trong 1 ngày như vậy 1 người không biết đạo có được bao nhiêu lần sống bằng tâm thiện. Tiếc vô cùng! Đừng có tự gạt mình, đừng có tự dối lòng. Thật sự là hiếm hoi lắm, 1 ngày mình sống toàn là buông cái này bắt cái kia, không tham thì giận, không tham thì giận, không giận thì tham.

Cho nên phiền não là đơn vị gốc, cõi dục giới là đơn vị gốc và 4 khổ cảnh: địa ngục, a tu la, ngạ quỷ, bàng sanh nó là đơn vị gốc của đơn vị gốc. Có nghĩa là các cõi dục giới là đơn vị gốc của tam giới, 4 khổ cảnh là đơn vị gốc của dục giới. Gốc là sao? Có nghĩa là anh đi đâu rồi cuối cùng anh cũng phải về đó dầu muốn dầu không anh cũng phải về, cái đó gọi là gốc. Cái đó là cố quận của anh, cái đó là quê cha đất tổ của anh, anh phải nhớ cái đó, đó là lý do tại sao mà mình ớn sanh tử, bởi vì đi đâu thì đi, cuối cùng vẫn phải trở về đơn vị gốc. Còn quý vị hỏi tôi tại sao tôi chỉ trả lời 1 cách vắn tắt đó là sức hút của phàm tánh, sức hút của dòng luân hồi, đó là sức hút tự nhiên nhiều đời nhiều kiếp mình đã quen như vậy, nó trở thành quán tính rồi.


Chán đời kiểu A Tỳ Đàm

Khi mình quán chiếu mình thấy mình ngán mình sợ nó đó, đó là sợ theo Tạng Kinh, còn sợ theo A Tỳ Đàm: thằng người hồi sáng giờ nó ngồi trên chiếc du thuyền nó đã sống chết không biết bao nhiêu lần; và thời 8 tiếng đồng hồ từ sáng đến giờ, ngồi trên du thuyền, thời gian khổ của nó nhiều hơn thời gian vui là tại vì nó thất niệm mà nó không biết. Cái thân này chỉ cần chánh niệm 1 chút để thấy rằng nó khổ trăm bề, cái cảm giác đau khổ tự có và sung sướng tự có, các vị trong room trên 18 tuổi chắc hiểu, cái thân này nếu ngồi yên sẽ thấy. Cái cảm giác sung sướng tự có, có nghĩa là mình ngồi yên, vì lý do nào đó mà nó thoải mái, nó ít hơn sự đau khổ tự có.

Trong room có hiểu không ta? Nếu ngồi yên mà nhìn, ngồi yên để coi đó thì cái niềm vui trong tâm mình tự có nó ít hơn nỗi khổ tự có. Rồi cái thân cũng vậy, ngồi yên mà nhìn dùm tôi đi, chứ đừng nghe tôi giảng mà phải tự mình quán chiếu chứng nghiệm nha, chứ đừng nghe ai nói. Ngồi yên để ý cái khổ của thân của tâm, rồi niềm vui của thân của tâm – tự có đó, coi cái nào nhiều hơn. Vì qua cái thiện, bất thiện, cái thiện tự có hiếm hơn cái ác tự có, bất thiện tự có. Mà nếu cái ác tự có nhiều hơn thì theo qui luật tự nhiên là cái khổ tự có nhiều hơn cái vui tự có, đó là luật tự nhiên. Yeah.

Quán chiếu chỗ này nè, hành giả ớn luân hồi và ớn luân hồi đến mức tìm mọi cách nắm níu 1 cái tôi trong cõi đời này, nó giống như mình cố gắng đi tìm 1 quốc tịch ở xứ trời ơi. Chẳng hạn như bây giờ mình chạy cho ra quốc tịch ở Venezuela hay Syria hay Iraq, các vị có biết 3 cái xứ này không ta? Cái xứ đó tôi ớn vô cùng luôn. Cái xứ Venezuela mấy ngày nay quý vị biết không, đi theo định hướng XHCN từ thời ông cố nội Hugo Chavez - ổng bị ung thư chết rồi, ổng để lại di sản gọi là đỉnh cao trí tuệ. Bây giờ người dân Venezuela coi như thành ăn cướp, còn tệ hơn dân miền Bắc thời 45 cướp kho thóc của Nhật, nó tràn vô siêu thị, ngân hàng, tiệm bán nhỏ lẻ cướp được thì cướp, trộm được thì trộm. Cảnh sát bây giờ họ phải xài tới bạo lực rồi, bây giờ không còn thương lượng, không còn giải thích năn nỉ không còn ôn hòa nữa. Do mình đi theo đường lối trời ơi.

Thì quý vị tưởng tượng là 3 cái nước này mà quý vị nghe tin người thân thương nhất của mình đang tìm mọi cách để xin vô trong đó, xin quốc tịch trong đó, định cư trong đó, mua nhà mua đất trong đó, quý vị nghĩ coi người đó có bị ấm trán, rờ trán coi nó có bị khùng không, nha.

Đây cũng vậy, khi mình quán chiếu mình thấy: thân này có vấn đề, thế giới này có vấn đề, tam giới này có vấn đề, thì quý vị nắm níu tìm điểm tựa để mà trụ lại ở đó thì có đúng là mình là mình ba trợn không, nha.

Do hiểu được Bốn Đế, do hiểu được Duyên Khởi thì chúng ta không còn tiếp tục mắc vào thường kiến nữa.

--ooOoo--

Đoạn Kiến là sao?

Đoạn Kiến nó y chang như Thường Kiến, có nghĩa là do không hiểu Bốn Đế, do không hiểu được Lý Duyên Khởi cho nên thấy tồn tại 1 cái tôi. Có 1 điều đặc biệt do khuynh hướng tâm lý của 1 số đông chúng sinh (không phải ít đâu) họ không tin vào cái gì họ không chứng minh được. Có 1 số chúng sanh khổ quá bạ cái gì cũng tin, người ta nói hữu sự thì khấn tứ phương có nghĩa lúc khổ quá, sợ quá cái gì cũng tin. Nhưng mà có loại người thứ 2 cũng độc chiêu nữa, cũng hưởng thụ như người ta, cũng mê đời mê gái mê tiền cũng thích ăn sung mặc sướng lụa là gấm vóc xe cộ nhà lầu y như người ta, nhưng mà ảnh có 1 khuynh hướng độc chiêu đó là ảnh không có tin cái gì mà ảnh không chứng minh được, ảnh không có tin cái gì ảnh không thấy, không sờ được. Nghĩa là ảnh y chang thằng cha Thường Kiến nhưng ảnh cộng với khuynh hướng hơi lạ.

Cái anh chàng kia khổ quá bạ đâu tin đó, còn anh này khổ thì khổ nhưng cái khuynh hướng tâm lý nhiều đời ảnh chỉ tin những gì ảnh chứng minh được. Nghe qua thì nó sang, sang quá, nghe cái thằng Đoạn Kiến nó sang hơn cái thằng cha Thường Kiến, đúng không? Nhưng mà nghĩ lại cái sang này là sang đàng, sang ngang, chứ sang nỗi gì sang, vì sao? Nghe thì có vẻ trí thức hơn Thường Kiến bởi vì không tin vào cái chi mình chưa chứng minh được, sang quá. Nhưng mà nghĩ lại tại sao tôi chê là không sang? Là tại vì anh không tin anh phủ nhận cái anh không thấy được thì ít ra phải tìm được chứng minh là nó không có, chứ không phải anh không thấy là nó không có. Trong room có nghe kịp không ta?

Đâu phải cái gì trên đời này mà cái đầu bư của mình cũng có khả năng chứng minh đâu quý vị không. Làm sao tôi có thể chứng minh mọi sự ở đời này ?
VD như trong room tôi chọn đại 1 người là “Phù Du 21”, tôi có biết Phù Du 21 là ai đâu, tôi không biết Phù Du 21 là nam hay nữ trong nước hay ngoài nước, đang ở châu lục nào, già trẻ giàu nghèo, bệnh hay là khỏe tôi đâu có biết. Như vậy có nghĩa Phù Du 21 không có thật, bởi vì tôi không chứng minh được. Hoặc ở dưới đại dương có những động vật, những loại cá, những loại khoáng chất có những loại rong tảo mà tôi chưa bao giờ tôi biết tới, điều đó có nghĩa là cái thứ đó không có, phải không? Mai này tôi có thấy hình những loại rong tảo, ốc cua sò hến ở dưới đó thì tôi nói cái này là photoshop bởi vì theo tôi biết thì con cua nó có hình dáng như thế này, con ốc có hình dáng như thế này mới là thật, còn hình dáng này thì tôi chưa thấy, cái này là photoshop. Quý vị nghĩ làm sao?

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Phạm Võng (3-3)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=kOO8cH8nMGA&abt=Kinh+Ph%E1%BA%A1m+V%C3%B5ng

Cho nên cái anh này nghe ảnh sang hơn anh Thường Kiến, ảnh trí thức hơn, ảnh chỉ tin cái gì ảnh chứng minh được. Khổ ở chỗ khả năng chứng minh của mình trong cuộc đời nó được bao nhiêu? Thế là lòi ra hạng người thứ 2 là người Đoạn Kiến. Nghĩa là người Đoạn Kiến cũng chấp ngã và thích hưởng thụ như người Thường Kiến nhưng do khuynh hướng tâm lý họ chỉ tin cái tôi ở đời này hoặc 1 thời điểm nào đó. Trong kinh có giải thích có 3 lý do Tà Kiến:

1) Học từ ai đó
2) Tự mình ngồi suy diễn, suy nghĩ, tưởng tượng, lý luận.
3) Do họ là người có thiền định thần thông, chẳng hạn họ đắc thần thông, họ nhớ lại, họ đắc được túc mạng thông, họ nhớ lại thời gian họ sanh về cõi vô tưởng – cõi vô tưởng là cõi không có tâm, tuổi thọ là 500 đại kiếp. Trong kinh có nói rõ Bồ Tát chỉ nhớ được 80 đại kiếp, người thường chỉ nhớ tối đa 40 đại kiếp, Thánh Nhân thì có thể xa hơn giới hạn đó, nhưng tối đa cũng không hơn 4 A tăng kỳ . Mỗi vị Phật chỉ có 4 đại đệ tử nhớ lâu hơn 1 A tăng kỳ như Đức Phật Thích Ca có 2 vị thượng thủ là bà Dadu và ngài Bahiya là nhớ được tiền kiếp lâu hơn 1 A tăng kỳ.


Thì quý vị tưởng tượng dòng luân hồi của mình nó lâu biết là bao nhiêu, nước mắt mà mình khóc sữa mẹ mà mình bú mồ hồ mình đổ ra máu mình chảy ra nó nhiều hơn bốn biển, thì quý vị tưởng tượng khả năng mình nhớ 40, 80 (đại kiếp) nó là cái gì, giống như mình đi giữa biển Thái Bình Dương mà mình thò cây viết chì xuống mình dò đáy biển vậy đó. Nó giống vậy đó, nó còn tệ hơn cái đó nữa, tệ hơn. Bởi vì ít ra chiều sâu của Thái Bình Dương, chỗ sâu nhất là rãnh Mariana nó sâu hơn 10km, cây bút chì, cứ cho là 2 tấc thì 10km này nó là 1 con số limit, chiều dài cây viết chì 2 tấc cũng limit. Nếu thành lập 1 phân số, mẫu là 1 limit, tử số cũng là 1 limit. Trong khi đó 40 hay 80 a tăng kỳ là tử số limit có giới hạn, nhưng mà mẫu số không có giới hạn vì mẫu số là dòng luân hồi. Như vậy thì nó biền biệt nó là phân số có mẫu là n, cho nên chẳng thấm thía vào đâu hết.


Cho nên có nhiều ông đại ca của tôi đắc thiền mới nhớ lại, ổng nhớ lại cách đây là 1 kiếp sống – kiếp sống khác kiếp trái đất nha, ổng nhớ 1 kiếp, 2 kiếp, 3 đời, 8 đời, 15 đời, 2000 đời, 3000 đời, 7 triệu đời, ổng nhớ cho đã nhưng mà ổng nhớ 1 kiếp trái đất, rồi ổng nhớ thêm 1 kiếp trái đất nữa, ổng nhớ tổng cộng maximum là có 40 kiếp trái đất. Bồ Tát Chánh Đẳng Giác thì gấp đôi do phước duyên Ba La Mật hỗ trợ, Ngài nhớ gấp đôi là 80. Mà cái 80 đó nó thấm gì đâu, cho nên Bồ Tát mình để qua 1 bên .  Giờ nói người thường.


Khi họ nhớ nhằm ngay kiếp họ sanh vô cõi Vô Tưởng, không có tâm thì họ mới nghĩ rằng: "À thì ra trước đây ta không có mặt ở đời, ta chỉ mới có mặt ở đời này có 37 kiếp thôi, hoặc ta mới có mặt 13 kiếp thôi, hồi đó ta không có." Rồi họ quán nữa . Cái đó quán quá khứ, giờ quán vị lai nè. Họ quán nhằm ngay kiếp họ sanh về cõi Vô Tưởng rồi lại chết lần nữa.


Như vậy thì trước đây ta không có, ta chỉ tồn tại trong cuộc đời này có ba mươi mấy kiếp và thêm 15 kiếp nữa thì ta sẽ biến mất khỏi cuộc đời này không có mặt nữa. Thật ra không phải là họ vĩnh viễn ra đi mà bởi vì họ sanh vô cõi Vô Tưởng (không có tâm) mà họ không có biết. Trong Kinh nói khi mình nhớ thời gian sanh ở cõi Vô Tưởng, nó giống như là 1 người đứng trong chỗ sáng bắn mũi tên vào bóng đêm. Trong room hình dung được không ta?


Người khả năng ít quá, trừ mấy vị thượng thủ như ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất thời Đức Phật thì thôi, nhưng mà dưới mức đó thì khi các vị đó quán lại nhớ lại mấy kiếp sanh về cõi Tịnh Cư, cõi Vô Sắc giống như người ta đứng trong ánh sáng bắn mũi tên vào bóng đêm. Có nghĩa là có theo dõi được 1 đoạn, có thể thấy mũi tên vút đi 1 lát rồi thì mất tiêu, không thấy nữa, nó đi mất hút vào bóng đêm mịt mù.


1/ Trường hợp một là Tà Kiến nghe do người ta nói, mình cũng có lúc bán tín bán nghi. 

2/ Trường hợp hai là (Tà Kiến) do mình suy diễn, nhiều lúc chính mình cũng có thể nghi ngờ bản thân mình.

Hai trường hợp đầu thấy ghê thiệt nhưng mà cũng có lúc mình tự gỡ được. 


3/ Còn trường hợp thứ ba (Tà Kiến) này mới ghê: Chính tôi là người ly dục, chính tôi là người có thần thông, chính tôi là người đắc thiền, tôi hơn hẳn thiên hạ. Trong 7 tỷ người trên hành tinh này có bao nhiêu người đắc thiền như tôi, tôi thấy rõ ràng bằng trí tuệ của người đắc thiền, tôi thấy rõ ràng cách đây 37 kiếp tôi không có, rồi 18 kiếp nữa tôi mất tiêu nè. Cái thấy này bằng trí tuệ của người ly dục. Trong 7 tỷ người trên hành tinh này tôi là người nằm trong hàng top. Quý vị tưởng tượng Tà Kiến của tôi làm sao gỡ nổi đây?

Cho nên thời Đức Phật còn tại thế, trong Kinh kể, có 1 buổi trưa sau giờ cơm, do trí đại bi Ngài quan sát thế giới Ngài thấy có 1 vị Phạm Thiên có Tà Kiến cho rằng cũng kiểu dạng như vậy đó. Cho rằng không có ai tới đây được ngoài ta, ở chỗ mênh mông xa vắng. Lúc bấy giờ vì lòng đại bi, Ngài biết ông này có huệ căn, độ được, gieo chủng giác ngộ được, cho nên Ngài lập tức biến mất ở chùa Kỳ Viên . Ngài có mặt ở cõi đó, thì ổng nhìn ổng khiếp lắm. Ổng mới nghĩ thì ra mình đâu phải là ông cố nội của thiên hạ đâu ta; có người cũng đến đây được vậy. Đức Phật Ngài lên Ngài ngồi trên đầu ổng, ổng đang ngồi xếp bằng, Đức Phật ngồi trên đầu ổng. Lúc đó Đức Phật mới suy nghĩ thế này, Mục Kiền Liên, Maha Kassapa, Anuruddha và Maha Kaccayana, 4 vị đó lập đó có mặt ở đây. Với sự chiêu cảm và tâm lực vời của Đức Phật, linh cảm của 4 vị đại đệ tử biết được. Các vị có quyền không tin, các vị có thể nghĩ tôi đang kể chuyện phong thần, nguyên thủy, Thiên tôn đóng với Natra cũng được ha. 4 vị đại đệ tử với sự vời gọi bằng tâm định của vị Chánh Đẳng Giác, các vị linh cảm được, các vị lập tức có mặt. Vị ngồi đằng trước, vị ngồi đằng sau, vị ngồi bên phải, vị ngồi bên trái của ông Phạm Thiên này. Ổng mới hết hồn, ồ thì ra nãy 1 ông sư phụ giờ thêm 4 đệ tử nữa cũng lên được hả ta?


Các vị thấy dễ sợ không? Mình ở đây mình dốt đặc, mình là người hưởng dục, mình Tà Kiến thì không nói gì còn ổng lên hàng thượng thừa ổng Tà Kiến mới ghê chứ. Thì lúc đó ổng thấy như vậy ổng ồ, mình “bư” thiệt nè, mình tưởng mình là cái rốn vũ trụ, thật ra mấy vị sa môn này người ta cũng lên tỉnh bơ nè. Lúc đó Đức Phật Ngài mới thấy ổng dao động rồi Ngài biến mất, lần lượt 3 vị đại đệ tử biến mất khỏi cõi Phạm Thiên, còn lại 1 mình Ngài Mục Kiền Liên. Lúc này vị Phạm Thiên mới hỏi tầm khả năng cỡ 4 vị như vậy (tầm đạo sư thì quá rồi tôi không nói) có nhiều không? Thì ngài nói cái kiểu tam tinh lục thông như vầy nhiều lắm, còn Sơ Quả thì nói ra coi chừng nói dối, coi chừng mắc tội vọng ngữ. 


Các vị thấy dễ sợ như vậy không? Thì phải nói là cái thứ càng học thức chừng nào tới hồi nó bị ngộ nhận là hết thuốc gỡ quý vị biết không? Cái thứ dốt dốt mình còn sửa nó được, hi vọng bởi vì nó dốt ít bữa, mình chửi cha mình nói mày ngu quá, mày ngồi tao nói cho mà nghe . Còn cái thứ trí thức mà nó đã ngộ nhận rồi thì chết. 

Bên Tàu có 1 câu thế này:

“Thà chém đầu 1000 viên dõng tướng ngoài trận còn dễ hơn thay đổi suy nghĩ của kẻ thất phu”.


Tại sao vậy? Mình nghe có vẻ hơi vô lý, cái gì kỳ vậy ta? Một ngàn viên dũng tướng kiểu Trương Phi, Mã Siêu, Triệu Tử Long, Ngụy Diên, Khương Duy. Mình chém 1000 tên như vậy còn dễ hơn thay đổi suy nghĩ của 1 thằng ngu. Mình nghe hơi quá nhưng mà ngẫm lại đúng. Là bởi vì sao? Vì ít ra việc mình chém đầu 1000 tên kia tuy nó hoang tưởng thiệt nhưng ít ra trên mặt lý luận có thể, nó khả thi . Vì sao? Là vì mình có thể dùng mỹ nhân kế, ly gián nội bộ, lịch sử đã chứng minh chuyện đó rồi hoặc cuối cùng khùng quá lấy trái bom nguyên tử liệng vô đầu thì 1000 thằng cũng chết sạch. Vd như vậy, nghe nó hơi hài hước nhưng ít ra cũng còn có chỗ khả thi possible. Nhưng mà bây giờ tôi hỏi các vị sửa làm cách nào mà sửa được suy nghĩ của cái thằng trời ơi . Quý vị nói cho tôi nghe đi.
 


Trong room này quý vị nghĩ ra được không chứ tôi nghĩ không ra. 1000 cái đầu dũng tướng tôi nghĩ ra được đó, ít ra tôi cũng nghĩ được là mỹ nhân kế nè, dùng tiền mua nè, ly gián nội bộ nè, xàm tấu nè, hối lộ thái giám nè; như Tần Cối vô mua chuộc thái giám Mao Diên Thọ đẩy Vương Chiêu Quân đi cống Hồ, cái dạng như vậy, dùng tiền, nhớ, cái gì không giải quyết được bằng tiền thì giải quyết bằng nhiều tiền – Năm Cam nói tiếng Việt như tiếng Miên. Và nói theo 1 nhân vật trong phim Tàu, tiền không phải là vạn năng nhưng không có tiền thì vạn vạn bất năng.

Ở đây cũng vậy, chém đầu ngàn viên dũng tướng ngoài trận thấy nó ghê gớm; ít ra mình còn nghĩ ra chiêu này chiêu nọ . Còn cái chiêu thay đổi suy nghĩ của thằng ngu tôi nghĩ rằng không chắc. Tôi nói thiệt không chắc vì sao? Vì một ngàn cái đầu kia là hữu hình hữu tướng sờ chạm được còn cái ngu cái hiểu lầm cái ngộ nhận của một anh trời ơi nó vô tướng vô hình làm sao tôi biết tôi đã chỉnh được chưa ? Sao tôi biết? Mà bữa nay có thể nó nể mặt mình nó nói hiểu rồi, nhưng mà khuất mặt mình nó lại quay lại con đường cũ. Cho nên là khó lắm quý vị.

Ở đây có 3 nhân Tà Kiến:


1) Học từ người khác.
2) Tự mình suy diễn bằng kiến thức trình độ suy tư bản thân.
3) Dựa vào thân chứng sở chứng có thật của mình.


Cái đó là tôi nói cái sườn của Kinh bây giờ tôi nói vô nội dung sâu sâu 1 chút. Là khi ta mắc vào Tà Kiến thì nghĩ về cái gì trong đời này cũng qua lăng kính của Tà Kiến. Do không thấy Lý Tam Tướng, Lý Nhân Quả, mọi thứ do duyên mà có có rồi phải mất nên phàm phu mới tốn công suy tư về thế giới, không gian, thời gian, và chúng sinh. Nếu hiểu mọi thứ chỉ là lắp ráp giả hợp thì ta không còn hứng thú để trăn trở thao thức chúng là hữu biên hay vô biên.


Tôi nhắc lại 1 lần nữa, đằng sau nhà mình là 1 khu rừng. Trong rừng có cỏ, rêu, rong, nấm, cây, hoa, gai… đủ thứ trong đó . Mình thì đầu tắt mặt tối một nắng hai sương, tần tảo gió sương kiếm sống, vợ đẻ con đau, đào có chửa, gia cảnh khó khăn bà con xa bà con gần tùm lum hết. Bây giờ quý vị tưởng tượng phải đi ra đằng sau nhà ghi chép chụp hình mô tả cây cỏ loại nào là loại nào thì tôi không biết nói làm sao, trừ khi mình là một nhà nghiên cứu, một tiến sĩ, nghiên cứu sinh, một sinh viên, một dược sĩ tương lai thì còn may ra, chứ còn nếu mình chỉ là một phó thường dân;thì nam bộ chữ nghĩa không nhiều mà trong khi gia cảnh thì khó khăn, cái chuyện trước mắt là miếng cơm manh áo mình không có lo, cứ ra đằng sau đi ngồi ghi chép là quý vị thấy nó kỳ kỳ rồi . Thằng cha này cũng là loại mát dây rồi nha.


Ở đây cũng vậy, trong Kinh nói một người trúng mũi tên, chuyện đầu tiên là anh ta phải lấy mũi tên đó ra, coi đó có phải là tên độc hay không, nó ghim tới đâu, nó trúng chỗ nào, phải nghĩ làm sao lấy nó ra an toàn để không chết. Giờ đó mà bỏ công tìm hiểu ai bắn tôi, nam nữ, mập ốm, già trẻ, đẹp xấu, sang hèn, trí thức hay thất học thì cái đó mệt lắm nha. Ở đây cũng vậy, khi một người nhìn đâu cũng thấy một tuồng ảo hóa, giả hợp, giả lập thì họ không còn tha thiết cái chuyện tìm hiểu cái nọ cái kia.


Và tôi đã nói bao nhiêu lần ... 

Có hai cách để chấm dứt nghi hoặc, chấm dứt hoài nghi không biết trong room còn nhớ không ta?

Có 2 cách chấm dứt hoài nghi, chấm dứt hoang mang nghi hoặc.


1) ĐỂ SANG 1 BÊN. 


Yeah, đúng rồi. VD như bây giờ quý vị tưởng tượng nhà tôi có 1 đứa bé 4 tuổi, nó đi chơi không biết làm sao nó làm mất viên bi, nó buồn nó khóc tùm lum hết, nó có nhờ tôi, nó nói sư kiếm dùm đi, khổ quá bây giờ không có bi để chơi, tôi cũng có ý tôi đi tìm, nhưng tôi ngồi suy nghĩ bỏ ra có mấy xu mua cho nó nguyên hộp bi mới cho nó chơi chứ mắc gì đi kiếm cái đó làm chi, tào lao. Bây giờ có kiếm được nó cũng là viên bi thôi, trong khi thời gian của mình mình làm biết là bao nhiêu, vô trong room giảng kinh hoặc về coi bài vở vô giảng cho bà con người ta, gần 3 giờ rồi người ta vô người ta chờ, thì thôi giờ kêu ai chạy ra chợ mua cho nó 1 hộp có 1-2 đồng cho nó chơi cho nó đã, nha. Chứ còn bây giờ có 1 viên bi cứ canh cánh đau đáu trong lòng đi kiếm, tối mất ngủ đốt đèn soi nến đi kiếm hòn bi thì tào lao quá. Khi tôi thấy nó tào lao tôi để nó qua 1 bên từ đây đến ngày tôi chết coi như viên bi đó chìm sâu vào dĩ vãng luôn.

Tại sao để sang 1 bên? Là vì nó không cần thiết nữa.


2) ĐI TÌM CÂU TRẢ LỜI.

Để sang 1 bên là không nghĩ đến nữa. Một người học đạo biết Bốn Đế là gì, 12 Duyên Khởi là gì, biết Lý Nhân Quả là gì, biết Tam Tướng là gì. Chưa đủ, cái đó mới Trí Văn, Trí Tư thôi . 

Còn cái này mới Trí Tu nè. 

Vô chỗ thanh tịnh yên tĩnh xếp bằng nhắm mắt dùng niệm, dùng tuệ quán sát, quán chiếu để thấy thân tâm này từ sáng tới chiều sướng khổ, buồn vui, thiện ác tiếp nối nhau sanh diệt, nhân quả, quả nhân, nhân quả, quả quả nhân nhân, quả quả nhân nhân, ... từ sáng tới chiều cứ bao nhiêu đó . Ta sao thì người vậ, người sao thì ta vậy. Người sao thì cây cỏ đất đai chim muông nó cũng vô ngã, vô thường và do duyên tạo giống y chang như vậy.

Khi mình sống chìm sâu trong nhận thức quán chiếu thì mình không còn tha thiết gì nữa .  Kính thưa quý vị tin tôi đi, nha. Còn đằng này chỉ ngồi lo học giáo lý, ghi ghi, chép chép mà không có qua 1 ngày thực tập, không hề ngồi lại để thấy rằng bản thân sự có mặt của mình, của mấy chục ký này là 1 cái nợ. 


Không có 1 ngày làm chuyện đó thì mình còn u mê, mình còn rong ruổi kiếm tìm cái nọ cái kia. Trong lúc rong ruổi kiếm tìm, chúng ta nảy sinh Tà Kiến theo khuynh hướng tâm lý bản thân.

Thứ 1 - Thường Kiến: Đã nói rồi, kẻ khoái nắm níu, kẻ sợ mất, sợ vắng mặt thì dính vô Thường Kiến.


Thứ 2 - Đoạn Kiến: Không tin cái gì không chứng minh được, thế là dính vô Đoạn Kiến. 


Từ chỗ này nè, từ chỗ bất tri về Bốn Đế, bất tri về Duyên Khởi, nó mới lòi ra những Tà Kiến về vạn hữu ở đời thông qua 2 lăng kính Thường hoặc Đoạn. Mà cái đề tài ảnh thắc mắc là cái gì? Thắc mắc về thế giới, thắc mắc về không gian, thời gian và chúng sinh ở trong đó.

Như vậy thì hôm nay chúng tôi giảng kinh Phạm Võng mà gần như chúng tôi không có giở chánh kinh ra luôn. Bởi vì chúng tôi đưa cho các vị một cái sườn .

Ai khoái thì tìm hiểu từng loại rong, từng loại cỏ ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Đông Âu . Còn không thì theo bảng thống kê đại lược của chúng tôi nha, cứ nhớ cái đó. Chứ còn bây giờ thêm nữa là bà con chỉ điếc con ráy. Vì có những trường hợp Tà Kiến rất là cá biệt, mà tại sao Đức Phật Ngài lại nói ? Bởi vì đã nói Phạm Võng mà. Ngài bủa 1 cái lưới, Ngài tung 1 cái lưới mà không sót 1 cái kiểu Tà Kiến quái gở nào trong cuộc đời này; và trong đó có những thứ Tà Kiến cực kỳ phổ biến và có những thứ Tà Kiến rất cá biệt.

Và cái quan trọng ở đây chúng ta phải nhớ lại 1 điều, học bài kinh Phạm Võng này 

  1. không chỉ chỉnh đốn nhận thức của mình, 
  2. chỉnh đốn kiến giải Phật học của mình 
  3. mà còn là 1 cơ hội rất tốt để chúng ta nhìn lại công phu tu tập hành trì của mình, 
  4. đặc biệt là hành giả tuệ quán. 
Là vì hành giả phải nhớ rằng mình chỉ là 1 con chó sống trong ý niệm ngã chấp, nhớ nha.
 
  1. Giới luật thanh tịnh là cần thiết, 
  2. thiền định kiên cố vững chải là cần thiết, 
  3. trí tuệ sắc bén tinh tường là cần thiết. 
Nhưng đó chỉ là bước đi trên hành trình giải thoát, đó chỉ là viên thuốc chữa bệnh .Không có thằng khùng nào trên đời này mà nó lại tự đắc, tự hào, tự mãn, tự kiêu, tự đại, tự tôn với thiên hạ rằng tôi đang uống thuốc ung thư, tôi đang uống thuốc xơ gan, tôi đang uống thuốc tim mạch, tôi đang uống thuốc tăng xông. Chuyện đó không có nha, chuyện đó không có.

Hãy nhớ điều này, còn nắm níu 1 chút thì còn ngu 1 chút . Nhớ bao nhiêu đó, bởi vì thật sự không có cái gì đáng để nắm níu và tôi nói luôn cái điều này, kể cả quả vị A La Hán cũng không đáng để mình lấy đó làm niềm tự kiêu. 


Cái quả vị La Hán đáng để đạt đến, đáng tôn kính thì được nhưng nói rằng cái đó đã quá, nếu mà tôi đắc tôi hãnh diện lắm thì sai bởi vì quả vị A La Hán chỉ là trạng thái khỏe mạnh, trạng thái bình phục của 1 người thoát khỏi cơn trọng bệnh nan y triệu chứng mà thôi.

Kiến thức Phật pháp của mình y chang như kiến thức của anh tù am tường phòng giam của anh vậy. Ảnh biết rõ căn phòng này được cất vào năm mấy, có 1 lúc bị cháy, rồi sửa chữa ra sao, rồi từ phòng này có bao nhiêu người vượt ngục, mà trong số đó có người nào thành công, người nào thất bại, trong số thất bại có bao nhiêu người bị bắn chết tại chỗ, con số người trở vô giam tiếp tục hay con số người bị đánh chết trong phòng thẩm cung. Rồi loại gạch ở đây chở từ đâu tới, ông nào chịu trách nhiệm xây dựng cái này tên gì, bây giờ ổng còn hay không, con cháu dòng họ gia quyến tài sản của ổng giờ đang ở đâu? Thì xin lỗi quý vị nha những kiến thức đó chẳng giúp gì cho đám tù hết trơn, biết cho vui để nổ với thằng khác vậy thôi.


20/01/2022 - 11:58 - ngocthytran00


Phật pháp chỉ là kiến thức về cái nhà tù, kiến thức để chúng ta làm sao ra khỏi tù. Nếu chúng ta cứ ôm khư khư kiến thức đó thì xài không được, giống như người muốn qua sông phải dùng bè mà qua sông rồi phải bỏ bè. Ở đây cũng vậy, cái biết của mình về cái nhà tù, cái biết của mình về cái gông cùm, nếu khéo thì dùng được, mà nếu lấy nó làm điều tâm đắc, hãnh diện thì không nên. Bởi nó chẳng là cái gì hết, nó là cái thuốc chữa bệnh mà, nhớ nha.


Tôi nhắc lại 1 lần nữa, bất tri Bốn Đế, bất tri Duyên Khởi, bất tri Nhân Quả, bất tri Tam Tướng thì nảy sinh Tà Kiến, mà Tà Kiến kiểu nào tùy thuộc vào khuynh hướng tâm lý và hành trang thiện ác của mình. Khuynh hướng tâm lý là riêng nhưng mà hành trang thiện ác là riêng. Quý vị còn nhớ 3 nhân tố để thích ghét cái gì không?


1) Tiền nghiệp thiện ác nói chung. 

2) Khuynh hướng tâm lý. 
3) Môi trường sống hiện tại. 

Nhớ nha!

Thích ghét có 3 nhân tố, Tà Kiến, Chánh Kiến cũng có 3 nhân tố y chang như vậy. Đối với Tà Kiến cũng không khác có nghĩa là khuynh hướng tâm lý cộng với môi trường sống cộng với thiện ác nghiệp quá khứ nó mới dẫn đến chuyện là mình nhìn đời qua lăng kính Thường hay Đoạn Kiến.


Làm ơn nhớ bài này dùm tôi, 62 Tà Kiến là 1 mẻ lưới bủa khắp mặt hồ trong đó gom gọn gồm có 2 thứ chánh là Thường và Đoạn.


Thứ 1: Thường là tin vào 1 cái tôi vĩnh hằng, hằng tại, vĩnh cửu.


Thứ 2: Tin vào sự có mặt của 1 đấng chí tôn vô thượng .  Vi' dụ: hồi nãy trong kinh tôi quên nói, là có những vị do nghe người khác nói có Chúa Trời, có Thượng Đế hoặc là tự họ suy diễn: Trời ơi, trái đất này sao nó có những trật tự hay quá mà không có ai tạo ra thì vô lý phải có người nào sắp đặt, an bài chứ. Do tưởng tượng thế là tin vào 1 đấng Chí tôn.


Thứ 3: Là do đắc chứng thiền định mới nhớ lại hồi xưa vào cõi Phạm Thiên thì nhớ hồi xưa mình lên trển mình gặp ông nội đó rồi, mình thấy nhiều vị Phạm Thiên chết mà ông này ổng chưa chết, có nghĩa là ổng đời đời bất tử. Trong Kinh có nói có nhiều vị Phạm Thiên, do thiền chứng của họ, cũng trong tầng thiền đó nhưng mà cái oai lực của họ, tuổi thọ của họ lâu hơn vị khác. Vd trong tầng sơ thiền, căn bản mà nói ở đó sống 1/3 đại kiếp trái đất nhưng mà ở đó nó có ngặt trật tôn ti lắm. Phạm Chúng thiên kém hơn Phạm Phụ, Phạm Phụ thì thua Đại Phạm Thiên, còn mấy ông ở trong cõi đó nhưng thuộc lớp thấp ổng coi mấy ông Đại Phạm Thiên giống như mấy ông cố nội vậy đó. Rồi mai này ổng chết rồi ổng trở về cõi người, ổng tu thiền ổng nhớ lại, ổng nhớ ông Đại Phạm Thiên đó . 


Ừ, cái ông đó, tổ sư rồi đây. Hồi mình vô trong đó mình tái sanh đã gặp ổng rồi, đến hồi mình chết, thằng chả vẫn còn, như vậy ngài chính là Thượng Đế Chí Tôn. 

Các vị tưởng tượng coi đã không? Rồi chính ông đạo sĩ đắc thiền đó ổng là sư phụ của tôi, tôi là 1 cư sĩ có vợ có con, có tiền có bạc, chính sư phụ bay đằng vân giá võ, cưỡi mây, hô phong hoán vũ, kêu mưa gọi gió. chính mắt tôi thấy, tôi tin sư phụ tôi lắm. Chính sư phụ tôi nói có Thượng Đế, có Đấng Sáng Tạo, làm sao tôi không tin ? Thành ra xây dựng đạo tràng, kết nạp đạo hữu, đồng chí, thành lập 1 cái đạo Bà Tám, Ông Tư nước sôi nước lạnh gì đó. Buổi đầu thế hệ của tôi thì tôi còn biết cái này là do sư phụ mình có định nha, sư phụ mình có thiền định, sư phụ mình đắc thiền, sư phụ mình thấy này thấy kia, nhưng mà đến đời con tôi, cháu chắt chút chít chót chét thì nó đâu còn biết cái vụ thiền định nữa . Nó chỉ còn biết thờ đấng Chí Tôn thôi. 

Trong room có nghe không ta? Có nghĩa là những tôn giáo bây giờ nó có gốc . Cái gốc đó là 1 trong 3 cái gốc này:

  1. Một là do đời này truyền lại đời kia, truyền riết mà quên cha nó cái nguyên thủy luôn. 
  2. Hai là do ai đó suy diễn và lập đạo. 
  3. Thứ ba là do cá nhân nào đó chứng đắc rồi đứng lên lập giáo, khai đạo. 
Đời đầu tiên người ta còn biết thiền định này nọ, mấy đời sau coi như trớt quớt luôn.

Cho nên mình phải nhớ rằng bài kinh này cho mình biết là tất cả những tôn giáo trên đời này đều khởi đi từ 3 cái gốc này thôi. 


Nghe ai nói, tự mình suy tư, hay do 1 người chứng đạt, họ lấy thể nghiệm thân chứng của họ, mà thể nghiệm thân chứng đó chưa tới nơi, thế là nó trở thành cái nền cho 1 tỷ thứ Tà Kiến trong đời. 

Nhớ nha! 

Tà Kiến gồm có 2 là Thường và Đoạn. 

Anh mắc Thường hay Đoạn cũng giống nhau là đều chấp ngã và thích hưởng thụ nhưng riêng anh Thường Kiến thì ảnh cũng chấp ngã, cũng thích hưởng thụ nhưng do khuynh hướng tâm lý là sợ mất sự vắng mặt khỏi cuộc đời này thế là ảnh tìm đủ mọi cách ảnh tin vào cái tôi thường hằng bất biến hoặc tin vào Thượng Đế Chí Tôn, tin vào 1 cứu cánh 1 cảnh giới huyền ảo huyền bí xa vời mộng mị chiêm bao nào đó, tin vào 1 cõi thiên đàng, tin vào 1 nơi bất tử trường sanh, tin ở đó chỉ có trời xanh mây trắng nắng vàng, những thảm cỏ xanh, những con cừu, những con bồ câu, hoa hồng, thiên thần lông trắng có cánh bay phấp phới, tất cả những người thân ông bà cố tổ nhiều đời nhiều kiếp của mình sống chết dồn hết trên đó sẽ gặp lại nhau, người yêu xưa, người tình cũ đều gặp lại hết trong đó và đặc biệt không hề có đánh ghen . Đại khái thì cái đó gọi là Thường Kiến. 

Còn thằng cha Đoạn Kiến là sao? Thằng cha Đoạn Kiến cũng chấp ngã, cũng thích hưởng thụ nhưng do khuynh hướng tâm lý nhiều đời, thằng chả không có tin cái gì ngoài tầm nhận thức, ngoài tầm sờ đụng, ngoài tầm chứng minh của mình thế là thằng chả tin vào cái tôi của đời này hoặc trong thời điểm nào đó thôi và cũng dựa trên 3 điều kiện căn bản: 
  1. Một là tự mình suy diễn lý luận. 
  2. Hai là do nghe ai đó bày vẽ, trao truyền, dạy dỗ. 
  3. Ba là dựa vào sở chứng có thật của 1 người có thiền định, có thần thông.

OK tôi đã làm cho nhiều người ngạc nhiên và thất vọng khi tôi giảng kinh Phạm võng trong 1 thời gian kỷ lục của 2560 năm lịch sử Phật giáo là kinh Phạm võng chỉ giảng trong thời gian 2 giờ đồng hồ, và ngưng ở đây, ngày mai học sang kinh mới. Có 1 điều vấn đề của kinh này xin hứa không dừng lại ở đây, nay mai mình sẽ nhắc đi nhắc lại, nhắc đi nhắc lại như là hôm nay tôi đã ôn tập dùm quý vị biết bao nhiêu bài kinh mà mình đã học suốt 2 năm trời qua. OK.


Xin chúc các vị 1 ngày vui 1 đêm đẹp nhiều mộng lành. Xin hẹn gặp nhau tuần sau. 


Hết.

Mục Lục các Bài Giảng
Reply
[Image: Thanh-Tang-Sivali.jpg]

NGÀI SĪVALĪ
(Nhân đầu năm nói chuyện thờ thần tài).

Thờ phụng được nhắc đến trong kinh là sự chiêu niệm công đức người được thờ, không phải thờ để cầu nguyện khấn vái điều chi. Đứng trước xá lợi của một vị thánh hay của Đức Phật, người ta nghĩ tưởng đến ân đức của người để lại di cốt này. Ví dụ trong kinh nói ngài Cūlanāga – thần tài sau thời Phật, phước nhiều như ngài Sīvalī, bất cứ nơi đâu dầu cho hạn hán đói kém thiên tai mất mùa, núi lửa sóng thần… miễn là có ngài thì chư thiên cũng nghĩ cách nào để cho ngài và người chung quanh được ấm no.

Lần đó chư tăng ở xứ xa rủ nhau đi về Bodh Gaya để đảnh lễ xá lợi Đức Phật. Họ đi bộ, trong đoàn có ngài Cūlanāga, ai cũng yên tâm vì cho dù trời có sập nhưng khi có ngài thì không bao giờ bị đói.

 Một chiều kia trên đường đi, ngài họp chư tăng nói:
-Nhân duyên của tôi với anh em tới đây đã mãn, khuya nay tôi Niết bàn, thấy anh em tha thiết nên tôi mới đi chung để hỗ trợ mấy ngày.

Chư tăng nói:
-Ỷ y có ngài chúng tôi mới đi theo, giờ ngài thăng thiên thì chúng tôi thật tiến thoái lưỡng nan.

Ngài nói:
-Anh em cứ thiêu tôi xong rồi lấy xương chia ra mỗi người một miếng bỏ bình bát. Đi tới nơi về tới chốn là luôn được ăn uống no đủ không bao giờ thiếu. Anh em chỉ nhìn xương tôi mà nghĩ tưởng đến công đức của tôi rồi tùy hỷ nhờ vậy cũng được phước lây.

Không phải như bây giờ, người ta cứ kéo nhau quì lạy sì sụp tượng ngài Sīvalī rồi cầu xin trúng đề.

Khi cắt hoa cúng Phật, tôi nghĩ: “Đời đời sinh ra xin cho con dễ nhìn như hoa, khỏe mạnh như hoa và lòng con luôn nở hoa giới, hoa định, hoa tuệ”. 

Khi để bình hoa trước tượng Sīvalī tôi chỉ nghĩ một chuyện: ngài từng là một tỳ kheo đi trai tăng nhà Phật tử về, trên đường thấy con chó mẹ cho con bú mà gầy trơ xương, ngài thương quá, ngài móc cổ để nôn ra cho con chó mẹ ăn. Nhờ phước đó đời đời sinh ra không đói. Mỗi lần nhìn tượng của ngài mình nghĩ, có con người lâu lâu được Phật tử mời ăn một lần mà lại dám móc họng ra cho chó ăn, con người như vậy thì tấm lòng thật vĩ đại. 

Cứ mỗi lần cúng hoa thì nghĩ đến chuyện đó mà tùy hỷ, chớ đừng cái kiểu mong ngài phù hộ, thờ thánh mà như thờ thần là tào lao.

(Trích bài giảng Kinh Đại Bát Niết Bàn, Sư Toại Khanh giảng, Nhị Tường ghi chép)

--ooOoo--

MỖI NGƯỜI LÀ MỘT CHIẾC LÁ TRONG DÒNG CHẢY CỦA CUỘC TỬ SINH


Không phải một người đời này bất hạnh là họ không có phước, không phải là suốt nhiều đời họ không làm công đức.

Suốt nhiều đời họ đã làm nhiều công đức nhưng nhằm ngay kiếp này họ đang nhận quả xấu.

Ngược lại, không phải những người đời này đang vô cùng sung sướng là họ không làm ác nghiệp trong quá khứ, mà chỉ là nhằm ngay lúc này họ đang hưởng quả thôi.

Người sung sướng đời này có thể là đang vào mùa thu hoạch sầu riêng, măng cụt. Người chịu khổ đời này có thể là nhằm lúc vườn trái của họ đang sái mùa.

Vì vậy, dù họ siêng dữ lắm, tu hành dữ lắm, làm cỏ bón phân, cắt tỉa, mà cứ ra lá, còn anh kia xì ke ma túy chích choác nhưng nhằm ngay mùa sầu riêng, măng cụt nên ra vườn là đem vô ăn, đem vô bán.

Phải biết cái này để đừng coi thường ai hết. Bồ tát có lúc còn đọa địa ngục, đọa địa ngục còn khổ gấp triệu lần sống kiếp nghèo trên cõi Người.

Mỗi người chỉ là một chiếc lá trong dòng chảy của cuộc sinh tử, lúc thì chúng ta ghé vào bờ này, khi thì chúng ta ghé sang bến kia.

Nhằm ngay cái lúc được hưởng phước thì sướng như tiên, nhằm lúc chịu khổ thì khổ như điên.

Ngay trong từng phút chúng ta đang gieo nhân mới và đang hái quả cũ.

Quả cũ là đang nhìn cái mình thích, đang nhìn cái mình ghét, đang nghe cái mình thích, đang nghe cái mình ghét, đang ngửi cái mình thích, đang ngửi cái mình ghét v.v...

Suốt hăm bốn giờ đồng hồ, có lúc nào ngũ song thức - năm căn vật chất của quí vị - làm việc không?

Chỉ trừ lúc ngủ! 

Đức Phật dạy rằng: 

Con chim có dịp là bay về trời, con cá có dịp thì nhảy xuống nước, chồn cáo thích về hang như thế nào thì con mắt cũng luôn chờ dịp để nhìn, lỗ tai luôn luôn trong tình trạng sẵn sàng lắng nghe, lỗ mũi của mình luôn luôn trong tình trạng ngửi,lưỡi của mình cũng luôn luôn trong tình trạng sẵn sàng làm việc.

Như vậy là rõ ràng trong từng phút chúng ta đang sống trong quả. Còn nhân thì sao?

Mỗi lần con mắt của mình, lỗ tai của mình nó biết cái gì mình thích thì mình sống bằng tâm tham; nó biết cái gì mình ghét thì mình sống bằng tâm sân.

Mà tham và sân là nhân sinh tử dẫn về cõi đọa.

Còn những khi nghe hoặc thấy chiếc lá vàng rơi, mình tu thiền quán; nghe tiếng suối chảy, mình tu thiền quán; nghe thân này đau đớn, mình tu thiền quán, thì lúc đó mình sống bằng tâm thiện.

Khổ nỗi tâm thiện này cũng là nhân sinh tử, có điều là nó đưa mình về cõi sướng. Chỉ vậy thôi.

Mỗi cái mùi, mỗi âm thanh mình nghe được hoàn toàn có thể là một lối về, một sự dẫn dắt, một sự khơi gợi về một cảnh giới nào đó.

Nói như vậy có nghĩa là trong từng phút những gì mình nghe mình thấy mình ngửi mình nếm, đụng và suy tư rất có thể đó là cơ hội để mình sống thiện và sống bất thiện.

Dầu cho mình sống bằng tâm thiện hay tâm bất thiện đều là sự sanh tử hết.

Nói như vậy không có nghĩa là tôi bài bác cái thiện.

Hễ mình còn trong dòng sanh tử, cái thiện này là cái phải có:

  1. Để mình bớt khổ, thay vì sanh làm con nhà nghèo thì mình sanh làm con nhà giàu đỡ khổ hơn.
  2. Nhờ có thiện pháp mình mới có trí tuệ, có điều kiện để học đạo, tu hành, đắc chứng, giải thoát, chứ nói rốt ráo thiện ác gì cũng sanh tử rồi không trau dồi cái thiện là sai.
Trong khu rừng có những con đường đưa mình tới chỗ chết, nhưng cũng có những con đường đưa mình ra ngoài bìa rừng.

Nói cho sang vậy chứ con đường đưa mình vô rừng sâu hay ra bên ngoài rừng chỉ là một, vấn đề là hướng đi của mình. Hai con đường này chỉ là một thôi, tùy mặt mình xoay hướng nào.

Hễ chưa ra khỏi rừng thì mình còn có mặt trong rừng và đôi chân của mình vẫn tiếp tục đặt trên con đường rừng.

Thiện pháp cũng vậy đó, thiện pháp của người cầu đạo giải thoát cũng y hệt như thiện pháp của người đam mê sanh tử, chỉ khác một điểm là cái NHÌN.

(Sư Giác Nguyên Giảng Giải)

Namo Buddhaya
Namo Dhammaya
Namo Sanghaya [Image: 1f339.png][Image: 1f64f.png]


https://www.facebook.com/MahatheroSivali...3764942579
Reply
Sư Toại Khanh giảng Cảnh Giới Tái Sanh Trong Giáo Lý A Tỳ Đàm (1-3) —> có nhiều lỗi, học bài tương tự trang kế, posts #782-784

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=5ZflhrrfE2k&abt=C%E1%BA%A3nh+gi%E1%BB%9Bi+t%C3%A1i+sinh

Cảnh giới tái sinh

Quote:Kalama tri ân bạn lina.nguyenthu vantam29081996 77july2015 ghi chép.
09/06/2021 - 07:06 - lina.nguyenthuy

Cái con đường, cái chỗ khó đi nhất, xa xôi nhất chính là bản thân của mỗi người. 

Các vị có nghe kịp không? Trời đất thì bao la, nhưng mà cái chỗ khó đi nhất mà xa xôi nhất chính là bản thân của mỗi người. 

Các vị có thể nghĩ rằng tôi đang nói một cách ẩn dụ. 

Bây giờ tôi nói theo nghĩa đen dễ hiểu nhất. 

Các vị muốn leo lên một đỉnh núi cao nhất thì trước hết các vị phải vượt qua được một đỉnh núi trong lòng mình đó là lòng nhút nhát và lười biếng

Có đúng vậy không ? Có hiểu không? 

Nói chung là mình muốn leo lên một ngọn núi hoặc là mình muốn làm một chuyện khó khăn gì đó thì trước hết mình phải giải quyết cái khó trong lòng mình trước là nhút nhát, lười biếng, ham sung sướng, ham ấm êm. Mình phải vượt qua hết những cái đó, mình mới làm được chuyện kia. 

Mà xem chừng, vượt qua những cái đó thì nó khó hơn là cái chuyện leo lên ngọn núi. Nếu cần tôi chứng minh cho quý vị biết. Với cái tướng của tôi, sức khỏe của tôi mà từ nhỏ tới lớn tui đã leo lên ít nhất 50 ngọn núi... Mà từ nhỏ tới lớn tôi nhớ chưa lần nào mà tôi vượt qua được một tật xấu, rồi sau đó nó trở thành một ấn tượng. 

  1. Cái chuyện tôi vượt qua có nghĩa là chiến thắng, khó lắm. 
  2. Và có nhiều cái tôi muốn mà tôi làm không được. 
Đơn giản thôi, tối đang ngồi, thường thời gian bên này tôi thức khuya . Bây giờ tôi đang làm cuốn từ điển, tôi nói mình làm thêm 2 trang nữa thôi mình sẽ đi ngủ. Các vị biết, tôi làm đến nửa trang, cái làm biếng, nghĩ tối giờ mình làm nhiều rồi. Đó là một ngọn núi mà tôi rất khó vượt qua, rất là khó. Tức là 2 trang đó thì đồng ý nó khó thiệt, nhưng mà nó khó hơn nữa là cái chuyện dàn xếp làm sao cho 2 trang đó nó xong. 

Sau đêm thứ 7, quý vị về ôn bài vở... Mấy cô bận rộn, tối về học bài mà nghĩ ổng có bao giờ hỏi bài mình đâu. Làm cả ngày cũng mệt, học thì nghe cho biết vậy thôi chứ còn học bài không ai khen thưởng, không ai phạt gì mình. 

Mà cái tư tưởng đó lặp đi lặp lại nhiều lần suốt cuộc đời mình và nó trở thành thói quen đời sau sinh ra giống như bây giờ

Tôi không chứng minh được cho các vị, tôi biết; nhưng mà tôi không chứng minh được: 
  1. Đó là có một cái sự khác biệt rất là lớn giữa một người không hiểu Phật pháp và một người hiểu Phật pháp. 
  2. Mà ngay cả những người hiểu Phật pháp, nhưng mà những người có học vi diệu pháp và những người không có học vi diệu pháp nó khác nhau nhiều lắm. 
Bây giờ mình học qua phần mới .


CẢNH GIỚI TÁI SINH TRONG GIÁO LÝ A-TỲ-ĐÀM

Duyên nghiệp của mỗi chúng sinh chính là bản sao (bản photo) trung thực của tâm tính mỗi cá nhân. Tâm tính tạo ra duyên nghiệp và duyên nghiệp tác động tâm tính. Đó là một vòng tuần hoàn của dòng sanh tử. Cũng giống như từ một vị trí nào đó, với một sức ném nào đó thì một hòn đá sau khi được tung lên trời chắc chắn sẽ tự rớt xuống ở một điểm thích hợp nhất.

Thí dụ như tảng đá đó, H. đứng đây nè, nhắm mắt lại thì tảng đá sẽ rơi ở một chỗ khác, cho là điểm A đi. Nhưng mà cũng tảng đá đó, H chạy ra H đứng bên cái ghế này, H nhắm mắt, tung lên, hồi nãy tung yếu giờ tung mạnh hơn thì nó sẽ rơi ở một chỗ khác. Hoặc là cũng ở chỗ cũ mà hồi nãy ném yếu giờ ném mạnh hơn hoặc nãy ném mạnh giờ ném yếu hơn thì nó lại rơi chỗ khác. Có nghe kịp không? 

Thì cái duyên nghiệp ở trong đời cũng vậy .  Đời trước mình vun tập nhiều cái tánh tốt, đời sau sinh ra tánh tốt sẽ thành thói quen. Giống như hồi nãy tôi nói . Đời trước sanh ra tìm hiểu Phật pháp, có vận dụng trí tuệ để làm những chuyện lành thì đời sau sanh ra mình cũng là một người có thói quen như vậy. 

Tuy nhiên mọi sự không phải dừng lại ở đó. Bởi, có 
  1. rất nhiều người họ có trí tuệ, 
  2. họ có huệ căn, 
  3. họ có thiện căn 
  4. nhưng mà họ thiếu đi cái điều kiện khách quan. 
Tôi gặp rất là nhiều người, tôi lấy tiếc cho họ. 

Một người thanh niên rất là tốt bụng, hào sảng, trí tuệ, thông minh, ăn học đàng hoàng, hoặc một người con gái nết na thùy mị, con nhà đạo đức, khi mà đi lập gia đình, lọt vào một gia đình không đáng gì hết, lấy một người chồng không ra gì, lấy một người vợ không ra gì. Thế là những đức tánh đó bị bào mòn, bào mòn và cuối cùng gần như không còn nữa. 

Có một chuyện hết sức là đau lòng, mà cái này phải ngồi mà để ý nghiền ngẫm mới thấy đau lòng chớ mà lấy mắt nhìn không có đau lòng đâu. Là sát bên cái chùa của sư huynh tôi bên Việt Nam đó, có một miếng đất, của một cái ông sỹ quan VNCH trước 75. Sau 75, dĩ nhiên ổng không làm ăn gì được trong chế độ mới nên ổng đành phải chăn nuôi, nuôi thỏ, nuôi dê.. Ổng là Thiên Chúa giáo. Ổng xây cái chuồng heo mà thiếu gạch, lúc đó chùa đang xây cất, gạch nhiều mà, ổng kêu con ổng qua mượn đúng 15 cục thôi. (8:31)

17/06/2021 - 03:54 - vantam29081996
17/06/2021-8:31-vantam29081996

Từ cái đá từ nhà ổng hồi xưa dưới kia đó, từ.....nhà ổng xuống lò gạch. Từ nhà ổng nếu mà đi khoảng chừng 1 mile sẽ gặp 3 lò gạch, các vị nghe kịp hông.Từ đó đi qua chùa thì thì gần hơn nhưng mà ổng chỉ kêu con ổng qua mượn đúng 15 viên gạch thôi. Thì thôi cái chuyện đấy coi như hàng xóm với nhau mình không nói, nhưng mà ổng qua ổng xin thì mình hổng tức, ổng làm cái này mình mới tức. Ổng qua ổng mượn 15 viên gạch đúng 15 viên mới lạ xong rồi đó, mà các vị biết 15 viên... nhỏ xíu nó rẻ tiền, tính bằng tiền Việt Nam nó ra bao nhiêu, huống chi là các vị biết ở Mỹ chắc 15 viên đó người qua cho không quá. Thì ổng đi vể đến nhà rồi thì ổng xây, cất, sửa gì ở bển... thì thời gian sau đứa con ổng đại khái nó chơi nó phá gì,nó hái trái gì bên chùa, rồi nó leo lên cây nó hái, chọc phá mấy cái sim la đấy. Các vị có nghe kịp hông. Lên chùa nó hái nó ăn rồi nó phá mấy sim la.. rồi đừng có leo dẫy lỡ con té, mấy sư chịu trách nhiệm dẫy đó.Quý vị lấy cây,... đại khái chỉ nói nhẹ nhẹ nó thôi, mà con nít mà, hổng biết là nó vể nói sao đó mà ông bên nhà hiểu lầm rằng là mấy sư trong chùa là ăn hiếp con của ổng. Tự nhiên con mình qua phá người ta, rồi người ta, người ta hổng có nói gì hết, người ta chỉ ra "còn muốn cái gì con lấy cái cây con hái chứ con leo dẫy con té là chết trong chùa" biết hông, chỉ vậy thôi! Ổng qua chùa ổng nói con nít nó hay ăn đâu nhiêu mà mâý sư chửi nó tùm lum hết. Chưa hết, ổng đi về nhà . Ổng mượn gạch mình hồi xưa tới giờ mà mình đâu có nhớ . 15 viên nó hổng đâu hết xóm làng mề, ổng mượn lâu lắm mình hổng nhớ mấy miếng hồi nào hổng biết10:16

26/12/2021 - 07:57 - 77july2015

10:16 

Bây giờ ông sang chửi chùa xong ổng đi về nhà, ra ngoài sàn nước, lục tất cả các chỗ trong nhà, hang cùng ngỏ hẻm, ổng lôi ra tất cả đúng 15 viên gạch, trong đó có nhiều viên đóng rêu xanh rờn. Ổng kêu con ổng đem qua trả cho chùa, ổng nói là trả 15 viên trước, coi như ổng với chùa không còn dính líu gì nữa hết. Tại sao tui đem câu chuyện đó kể ở đây? Bởi vì có 1 chuyện người học A tỳ đàm mới thấy đau lòng chứ người thường họ thấy hơi kì kì chứ không đau lòng lắm.

Có người đàn bà rất gương mẫu, rất hiền, mà có 1 chuyện hơi tào lao đó là bả đẹp mặc dù đã có tuổi nhưng nhìn bả mình biết hồi con gái bả rất là đẹp. Người thùy mị, nết na . Các vị biết, lấy chồng Thiên Chúa . Bả lại rất mến chùa, có điều biết chồng không ưa chùa nên lâu lâu rằm, lén nhà chồng đi vắng, bả đem chuối, nếp, gạo qua cúng chùa. Lâu lâu khi nào mà ổng đi vắng là bả qua cúng chùa, mà bả dặn là bằng cách gì đó đừng cho ổng biết là bả cúng chùa. Rồi nhà ổng không có điện, ổng qua gắn dây điện qua bên chùa và gắn thêm cái đồng hồ điện, tới tháng thì chia ra. Các vị biết là đúng bao nhiêu kí, ổng trả cho chùa bấy nhiêu tiền, có 1 lần, ổng bắt tui phải thối cho ổng, một số tiền rất nhỏ, nếu đem so với tiền mỹ thì cũng khoảng 1 quarter bên đây, khoảng 25 cents Mỹ. Tui ví dụ chứ không chính xác, tức là tui nhờ cậy đâu đến mức đó mà sau cùng tui phải thối lại 25 cents chỉ vì tui trả dư 25 cents. Mà bà vợ ổng âm thầm đi lấy đồ nhà đi cúng chùa . Ổng ngộ, ổng nuôi con chó, nó chuyên môn ăn cắp đồ chùa. Nó qua lần thì ăn cắp muỗng dùa, tha mấy cái thau bằng nhựa mang về nhà nó, chủ nào chó nấy.

Trở lại câu chuyện, tui muốn nói, 
  1. duyên nghiệp là do tâm tánh con người, 
  2. chính tâm tánh tạo ra duyên nghiệp. 
Nhiều khi tánh mình hồi xưa có tu hành chút đỉnh, trong cái tánh đó có pha 1 chút cặn, lợn cợn cặn cá ác pháp, nên đời sau sinh ra mình sẽ dễ dàng cộng trú những người xấu . 

Khi cộng trú với người xấu thì sao ?  

Yếu tố chủ quan là: 
  1. Mình đã có vốn chút ít xấu rồi . Giờ lại gặp người xấu nữa thì mình sẽ xấu hơn. 
  2. Mình vốn đã tốt rồi . Giờ mình gặp người tốt, mình sẽ tốt hơn.
13:34 

  1. Chính tâm tư tình cảm của mỗi chúng sinh sẽ dẫn đến con đường huân tu các nghiệp thiện ác, thôi sửa thành chữ huân tập - huân tập các nghiệp thiện ác
  2. Từ đó chính những hạnh nghiệp này sẽ dẫn đến các cảnh giới tái sinh

Nói cách khác:

  1. Tâm tánh như thế nào, hạnh nghiệp cũng tương ứng như vậy . 
  2. hạnh nghiệp như thế nào thì cảnh giới hiện hữu cũng tương xứng như vậy. 
(Tâm tánh --> Hạnh nguyện --> Cảnh giới hiện hữu)

Đó là chưa nói đến môi trường cộng sinh chung quanh, những điều kiện khách quan gần gũi với ta nhất. 

Ví dụ, do một cái phước nào đó trong quá khứ, một chút thôi, các anh lại được làm người . Rõ ràng các vị thấy trong thế giới này có biết bao nhiêu tỷ người:

  1. Có những người họ sanh ra trong bối cảnh xã hội đầy ắp nhang khói tôn giáo. Về Phật giáo, ta có dân Thái Lan, Miến điện, Lào . Thiên Chúa thì có Tây phương . Rồi Ấn giáo, Hồi giáo, vân vân .
  2. Có những người họ lớn lên trong môi trường thuần túy là văn hóaVí dụ, họ ở các xứ Tây phương, môi trường văn hóa nó rõ nét hơn ở Á Châu - đời sống tập tục nhiều hơn là văn hóa. Dĩ nhiên cái cao, cái thấp đều gọi chung là văn hóa nhưng ý tui nói văn hóa là văn minh . Ở Á châu dường như nó thấp hơn. 
  3. Môi trường chung quanh, thí dụ cũng ở Mỹ nhưng có ai lái xe xuyên bang không, như từ đây lên San Antonio, lên Dallas hoặc Louisiana,.. dọc đường mình sẽ gặp. Ở Mỹ nhưng có những chỗ tui e là cả năm không thấy mặt người, như mấy cái farm, vắng lắm, cho nên tui nghĩ họ mà có con em trẻ nhỏ chắc họ gửi về phố; chứ tụi nhỏ ở đó chắc tàn đời quá, đâu có trường lớp gì, hoang vu lắm.  Ở xứ văn minh, dân trí về hàng có cỡ trên thế giới, chứ không phải khu vực nữa; ấy vậy mà hôm nay từ trên Zurich (thành phố lớn nhật của Thuỵ sĩ) đi về Baltic biên giới Thụy Sỹ và Đức. Trên đường đó, có những cái làng tôi có cảm giác rằng ở đó người ta không có đi đâu chắc không biết.., mà biết họ có rời khỏi Thụy Sỹ hay không . Mặc dù Thụy Sỹ có chút xíu nhưng tui nghĩ họ không ngờ thế giới này có máy bay. Vắng lắm, hoang vu mà không có đường biên, tui ngồi trên xe lửa ngoài này mà ngó vô trong đó tui thấy cũng không có đường xe hơi chạy nữa, trong đó đi ra ngoài này bằng cái gì tui không biết. Sau này tui nghe là hiện trong lòng Thụy Sỹ, mặc dù nó nhỏ như vậy nhưng vẫn có những ngôn ngữ địa phương, những giống người gốc thổ dân ở đó, kêu thổ dân thì nặng nề nhưng đúng là thổ dân vì họ đã cư trú lâu đời ở đó, chứ đối với Thụy Sỹ, trên đời có 1 số quốc gia có ngôn ngữ riêng, dân chủng riêng, ví dụ Mỹ, tiếng Mỹ là tiếng Anh biến thái thôi. Hoặc Úc, ngoài thổ dân đen thui thùi lùi, mà nay mình thấy trắng trẻo cao lớn mắt xanh đâu phải người Úc, đó là người Anh hay gì đó, chứ người Úc thì đen thui, nhỏ xíu con à, Canada cũng xài ngôn ngữ Anh, Pháp chứ không có tiếng Canada, Thụy Sỹ cũng vậy, không có người thụy Sỹ, lai tùm lum hết đó . Nói người Việt Nam mình là con Rồng cháu Tiên chứ tui nói thật, mình đâu có rồng tiên khi gì đâu, tui nói thật là Chàm, Miên, Mã lai, Tàu, Indonesia, trộn cả ra mình, mình là con hoang. Nếu nói ra, xin lỗi, giống như mình là con gái điếm vậy đó . Mang tiếng mẹ Việt Nam chứ thật ra là 1000 năm đô hộ Tàu, 100 năm đô hộ giặc Tây rồi sau đó Mỹ, Nga, Trung Cộng thì nói ra mình giống như 1 người con gái, nay hết chàng này, mai đến chàng kia, chàng nào cũng mở rộng vòng tay chứ mình không có chàng nào ăn đời ở kiếp hết, vài ba bữa ok, vài ba bữa chửi chàng trận.. cái mình đón chàng khác vô, chơi ít bữa nữa biến mất,... ăn rồi chửi không à. Nước Việt Nam mình là 1 người con gái đanh đá chua ngoa nhưng có điều vô duyên, chết tiệt, trải qua mấy đời chồng nhưng có số sát phu .
30/12/2021 - 02:03 - 77july2015

20:34
Cho nên, cũng sanh làm người nhưng môi trường sống nó không giống nhau .

Có người cũng sanh làm người nhưng cả đời chỉ biết tụng niệm thôi, ví dụ sanh vô những xứ Hồi giáo trong miền quê cả đời đến đúng ngày vô thánh đường làm lễ, lễ xong về nhà chăn lạc đà, vắt sữa dê vậy thôi chứ cả đời không biết văn minh thế giới. Những người được cha mẹ nuôi từ nhỏ, lớn lên học high school vô đại học cho làm luật sư, tiến sĩ mà không hề biết khái niệm tôn giáo, biết thì biết để thi cử thôi, chứ không biết gì hết. 

Mỗi người thích hợp môi trường tôn giáo, thích hợp môi trường văn hóa, thích hợp môi trường mọi rợ là do duyên nghiệp tác động.

(Notes:
"Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị.

Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị."

Nghĩa là:
Muốn biết nhân đời trước, hãy nhìn vào kết quả thọ báo hiện tại.
Muốn biết kết quả thọ báo của đời sau, hãy nhìn vào những tạo tác của hiện tại.)


Trong Kinh nói "Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị." (Muốn biết đời trước mình làm cái gì thì nhìn coi kiếp này đời mình ra sao. Muốn biết đời sau mình thế nào thì nhìn bây giờ mình như thê đó. ) Rất chính xác. 

Chính cái tâm tánh tạo ra duyên nghiệp; chính cái duyên nghiệp sẽ tạo ra cảnh giới hiện hữu. Muốn bảo đảm tui phải thêm cái nữa, đó là chưa kể đến môi trường hiện hữu chung quanh, tức là điều kiện sinh hoạt gần gũi mình nhất, tức là sanh vô cõi nào là thể hiện 1 phần tánh lành mình rồi . Cứ sanh vô cõi người là đã có 1 chút nhân tính còn sót lại từ hồi xưa.

Nhưng mà chưa hết, anh sanh làm người mà anh sanh ở đâu, ở nước nào . Ở nước mà bụng ỏng đít teo, cái đầu chờ vờ, con mắt lòi ra, bụng găm không, ỉa ra lãi, một tháng ăn cơm được 2,3 bữa, môi tím ngắt,.. Còn chỗ thì dư dả, con chó cũng còn sướng hơn con người ở mấy cái nơi đó. 

Gần đây tui nghe câu chuyện rất buồn cười. Đó là người ta làm cái thống kê hỏi ý một số người Mỹ, khoảng mấy chục phần trăm người Mỹ đó, hỏi nếu tái sanh họ làm cái gì, họ nói thích làm chó. Chó nuôi trong nhà, chứ không phải chó sói. Tại vì họ thích được cưng chiều, thích vui, thích yêu đời, không biết buồn lo gì hết, có gì chủ lo hết ... Nói chung y như tui bây giờ vậy đó, tức là có người nuôi, người trả đó .

23:20 

Nếu tâm thức có thiện ác, thánh phàm thì cảnh giới tái sanh cũng bao gồm những cảnh giới tương ứng theo đó.

Theo giáo lý A tỳ đàm, cái gọi là thế giới, tức ám chỉ cho 31 cõi trong đó. 31 cõi trước hết được chia thành 3 nhóm lớn: Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.

A. Dục giới. 

Học bên tâm pháp A tỳ đàm, ta thấy rõ 

Tâm Dục Giới về đại thể gồm có 
  1. dục giới bất thiện và 
  2. dục giới tịnh hảo. 
Các tâm dục giới bất thiện (gồm 12) (bây giờ tui sẽ dạy giống như người ta đánh lưới, bung cái lưới ra rồi gom từ từ lại) tác động chúng sinh thực hiện thập ác

Mấy cô biết thập ác là gì không? Tui dạy từng phần từng phần, sau đó gom lại, ví dụ phần A, B, C, D xong tới khi tui dạy phần F bằng cách nói đến vấn đề gì đó, tui sẽ từng bước nhắc lại sạch sẽ A, B, C, D. 

Để tui chỉ cho các vị kinh nghiệm tui học bài giống như hồi xưa tui ở VN đó. Tui học đời, hồi xưa tui có ra chợ bán khoai đó. Lấy cái bút gạch highline. Ví dụ trong bài 48, thấy có những vấn đề của những bài nào đã học trước đây, thí dụ, nãy giờ tui có nhắc tới những bài học cũ, mình lấy bút highlight gạch dưới chỗ đó 1 xíu, để mình coi lại phần 12 tâm đó là gì, nếu nhớ thì thôi, nếu chưa nhớ thì lát về coi lại. Rồi gạch dưới chỗ thập ác, nãy học rồi, thì mình coi lại bài thập ác. Đó là cách học bài nhanh nhất, chứ không có cách nào over hết, tại vì tui dạy không có theo giáo trình nhưng mà tui nhớ rằng tui đã dạy cái gì, đó là cách các vị ôn lại.

(Notes:
 Thập thiện - Thập ác
Đức Phật dạy rằng: Chúng sinh cho rằng mười hành vi dưới đây là ác và phủ định trái ngược với mười hành vi đó là thiện.

Mười hành vi đó là:
- Thân có ba: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm.
- Khẩu có bốn: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu.
- Ý có ba: Tham, sân, si.
Mười hành vi trên không phù hợp với Thánh đạo nên gọi là Ác. Hành động phủ định trái ngược với mười ác này gọi là Thiện.
https://thuvienhoasen.org/a8878/chuong-4...en-thap-ac)

12 tâm bất thiện, tác động chúng sanh và từ đó dẫn đến ác đạo (gồm 4 cõi đọa xứ: địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ, atula) vậy là mình gom được rồi đó. Rất tiếc bây giờ mình không có bảng nêu, giờ mà có bảng nêu đó, là chỉ cần 1 tuần là học nhanh. Mình lấy số 12 (bất thiện) -> thập ác -> 4 đọa xứ. Vậy trước hết mình học 12 tâm nhé. Dục giới gồm thiện và ác. Ác gồm 12 (thập ác) -> 4 đọa xứ. Từ 4 đọa xứ ra cái gì nữa thì tính sau, mình cứ lo từng phần từng phần 1. (30:16)

04/01/2022 - 12:29 - 77july2015

30:16 

Thiện dục giới ra số 10 thập thiện dẫn đến 7. Còn sắc giới gồm bao nhiêu tâm? Trong trường hợp này, chứ không phải có bao nhiêu tâm sắc giới? Tại sao xài số 5 mà không xài 15. Nãy đúng mà giờ sai rồi. Tại vì để dẫn đến cảnh giới tái sanh thì chỉ có 5 tâm thiện sắc giới thôi. Chính 5 tâm thiện đó mới tạo ra 5 tâm quả sắc giới, ở hàng thứ 2, hàng 5 thứ 2 đó. Chính 5 tâm quả này chính là 5 tâm tái tục, tức là tâm đầu thai đó, mà đồng thời nó cũng là 5 tâm tử cho vị phạm thiên.

Tâm tố là tâm gì? ..31:53 Mình không được kể chữ đại trong đó, mà phải kể chỗ này, 

Tâm tố là tâm làm những chuyện mà lẽ ra nó phải được làm bằng tâm thiện, chứ không được để chữ đại thiện trong đó. (5 tâm thiện thiền Sắc giới và 4 tâm thiện thiền Vô sắc)

Có khi họ hỏi thêm thế nào là đại tố, mình mới nói đó là tâm làm những chuyện lẽ ra phải làm bằng tâm đại thiện. (8 tâm đại thiện)

Còn tui đang hỏi về tâm tố thì cô không được quyền bỏ chữ đại vô. 

Sự khác biệt giữa ĐẠI TỐ và tâm TỐ không? 

Tâm đại tố chính là tâm tố dục giới. 

Tâm tố sắc giới và vô sắc không có đại trong đó nha. Đại thiện mới tới đại tố. Còn tâm thiện chỉ tới tâm tố thôi. 

Trong Vi diệu pháp tui nói lại rất nhiều lần, định nghĩa chính xác, gọi tên chính xác, trong vi diệu pháp không có mơ mơ màng màng. 

Như hồi nãy tui hỏi 5 tâm thiền sắc giới là tâm nào, thì phải nói rõ là 5 tâm THIỆN...33:00 Phải nói rõ đó là 5 tâm thiện sắc giới và 5 tâm quả sắc giới hoặc 5 tâm tố sắc giới. 

Nói rõ chứ trong Vi Diệu Pháp không có mơ màng. Vi Diệu Pháp giống toán vậy đó, không có như văn học mà trời nhiều mưa nhiều, hoa rớt nắng.. đọc cả buổi mà không biết người ta nói gì. "Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc/ Áo nàng xanh, anh mến lá xanh trường"...

33:25 

Vi Diệu Pháp cái gì ra cái đó, còn muốn theo mộng thì lên trên đó theo mộng, ráng học cho giỏi, làm phước cho nhiều, lên trên đó theo mộng, chứ cõi này chưa có thời gian theo mộng đâu. Ở đây đâu có chỗ sống cho những người theo mộng. 

33:43

05/01/2022 - 02:08 - 77july2015

33:43 

Tui hỏi lớp, lớp muốn đi sâu 1 điểm rồi bắt đầu học 1 cái mới, học sâu cái mới, hay là muốn học như cái ruộng xong rồi mình học hình cái ruộng, xong rồi theo cái lớp thích, dĩ nhiên tui dạy, tui phải có chủ kiến của tui. Dù sao hỏi lớp coi cách nào dễ nhớ hơn? Ví dụ, bây giờ tui nhắc tới ác đạo, chỉ riêng 4 cõi, tui lấy phần địa ngục tui nói từ đây cho tới sáng chưa hết. Dễ sợ như vậy, nhiều chuyện như vậy trong A tỳ đàm, chỉ riêng chuyện về địa ngục không. Tại vì nói cái đó tui sẽ lôi ra ba chuyện trời ơi đất hỡi . Ví dụ Cô Ba Cháo Gà, mấy chuyện ruồi bu đó, bắt buộc tui cũng phải nói luôn, không nói không được, ba vụ đồng cốt, xuất vía, xuất hồn...rồi khi tim bị nghẽn, mới thấy cái hồn nó xuất ra, lấp la lấp lánh, nó quay trở lại mới thấy cái xác nó nằm đó, các vị có nghe chuyện đó hông? Nghe có lý lắm.

Có thằng cha ghé chùa, ổng cũng kể chuyện đó nữa. Đang học mà nghe kể chuyện ruồi bu vậy đó. Cái vía của người đó, tự nhiên tim nó bị nghẽn, giống như bị heart attack vậy đó, Rồi bắt đầu vía nó rời ra, như trực thăng vậy đó . Nó tách ra khỏi cái xác . Nó lạng lạng, thấy cái xác của chính mình nằm dưới, thấy làm lạ dường như cái xác có gì đó thân quen, nửa thân quen, nửa không ổn . Sau đó bác sỹ làm những thao tác cấp cứu .  Họ cứu kịp thì cái vía nhập trở lại, coi như người đó sống. Ở đây, nếu có cô Thủy ở đây, cổ nói thấy cái hồn nó chạy lên đây rồi nó chạy xuống, rồi xì ở đâu đó rồi chui trở lại. Điện giật còn thấy không được mà đòi cái vía lại thấy. Cái đó nói dóc chứ cái gì, cái đó cổ nói dóc, nhiều khi ảo giác, mình không rành nhưng đại khái là ảo giác thôi.

Mấy vị phải hiểu, không phải cái gì khoa học chứng minh được bằng giấy tờ, bằng con số là họ đều có thể chứng minh bằng hình ảnh cho mình thấy . Khoa học cũng không dám bảo đảm. Ví dụ, họ có thể chứng minh cho mình sự hiện diện của những nguyên tử, các vị biết nguyên tử mà, kiểu như proton, photon, electron họ biết chứ và chứng minh bằng giấy tờ nhưng họ đâu có nói hình dáng hay là vẽ cho mình thấy đâu. Mình phải học cái đó, nguyên tử vật lý, thu xếp mà học đi rồi tau chỉ mày, mày cứ học đã rồi tau chỉ cách chứng minh, chứ mày dốt đặc biết con khỉ gì đâu.. Tui banh cái chổ đó ra, nó nằm ở đây, tui vẽ hình quỹ đạo, nó xoay như thế này… May là những chuyện về vật chất thôi, vật lý là vật chất chứ có phải siêu hình khỉ gì đâu. Làm gì những chuyện tâm linh của mình, như là hồn vía là phách, sống là kẻ thấp còn.không cách gì thấy được.

Cho nên nói về địa ngục, nói tới sáng chưa hết. Còn vụ như cháo gà, bả nhúng vô nồi cháo..37:35 Tui đang nói vấn đề đọa xứ là mình học luôn đọa xứ, rồi ngoằng trở lại? Thôi học cái sườn trước đi, lỡ mai mốt bỏ học thì cũng có cái để nói dóc. Tui nghĩ lớp này ngày càng yểu thọ, èo uột kiểu này ớn lắm. Dầu sao trước khi mẹ qua đời cũng phải để lại cho con 1 gia tài trước, dầu nghèo khổ.

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh giảng Cảnh Giới Tái Sanh Trong Giáo Lý A Tỳ Đàm (2-3)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=5ZflhrrfE2k&abt=C%E1%BA%A3nh+gi%E1%BB%9Bi+t%C3%A1i+sinh

- dục giới tịnh hảo..dẫn đến tái sanh có mấy? Có 8 thôi, bởi vì tâm đại tố không dẫn đến tái sanh. Tại sao? Tâm của Arahant. Tâm quả là hậu quả của tâm thiện nên mặc kệ nó. Tâm dục giới tịnh hảo dẫn đến tái sanh, kể có 8, đó là 8 tâm thiện. Tâm dục giới tịnh hảo tác động chúng sanh thực hiện thập thiện, từ đó dẫn đến 7 cõi thiện thú dục giới.

Nói cách dễ hiểu hơn, thập ác gọi là ác đạo, còn thập thiện là thiên đạo và nhân đạo; còn thiền sắc và vô sắc không có nhân đạo mà chỉ có thiên đạo thôi. Bên kia họ kêu 5 thừa, bồ tát thừa, thiên thừa, nhân thừa,.. Nhưng mình chỉ có 4 đạo thôi: ác đạo, nhân đạo, thiên đạo, phật đạo (tính từ thấp lên). Phật đạo không phải chỉ riêng cho chánh đẳng chánh giác, mà phật đạo của mình là con đường chấm dứt sanh tử được gọi là phật đạo, dầu mình chỉ gặp Phật mình đắc có Tu đà hoàn thôi cũng kể là mình đã tu theo phật đạo. Hoặc bây giờ mình cũng bố thí, trì giới, tham thiền,.. nhưng tâm mình hướng cầu giải thoát thì coi như mình đang tu theo phật đạo. Mặc dù mình làm mấy cái thiền nghiệp nhiều quá thì chết cũng sanh vào cõi trời hay là cõi người. Thấy giống nhau giữa thiên đạo và nhân đạo phải không? Nhưng vẫn kể vào phật đạo. Tại sao mình sanh về mấy cõi đó? Mình sống thiện dữ lắm mà cũng sanh về cõi thiện. Giống như đứng ở chỗ đó, liệng cục đá thì cục đá phải rớt ở 1 chỗ thích hợp rồi. Đứng chỗ đó mà cầm cục đá ném với sức như vậy, thì nó phải rớt ở chỗ đó. Chứ không thôi mình không cần cầu nguyện, nếu tâm con có lòng thành thiệt, con sẽ rớt ngay chỗ đó, khỏi cần niệm; cứ đứng chỗ đó liệng với sức như vậy, nếu tay mình mà cáng vá thì với sức đó sẽ rớt ở chỗ khác, những cái tay đàng hoàng thì rớt ở chỗ khác. Chứ đâu có chuyện, trước khi thảy, quên nguyện nên đá không rớt đâu. Nó rớt là rớt thôi, mà rớt ở đâu thì tùy cái tay mình có bình thường hay không...

Bảy thiện thú có ai ở đây nhớ được, kể tên được?

Khi nào mình cần cái đó, mình hoán vị, có người khác đem đến cho mình. Đúng như vậy. Phải nhớ. Cõi nào mà phật mẫu, bồ tát kiếp chót hay về đó? Cõi đốn xứ, vì chúng sinh ở đó có đời sống vui hơn cõi khác, hưởng dục, chữ dục đó.., đời sống tự bản chất chư thiên ở đó, tự nó đã vui rồi 42:33

05/01/2022 - 02:08 - 77july2015

33:43 Tui hỏi lớp, lớp muốn đi sâu 1 điểm rồi bắt đầu học 1 cái mới, học sâu cái mới, hay là muốn học như cái ruộng xong rồi mình học hình cái ruộng, xong rồi theo cái lớp thích, dĩ nhiên tui dạy tui phải có chủ kiến của tui. Dù sao hỏi lớp coi cách nào dễ nhớ hơn? Ví dụ, bây giờ tui nhắc tới ác đạo, chỉ riêng 4 cõi, tui lấy phần địa ngục tui nói từ đây cho tới sáng chưa hết. Dễ sợ như vậy, nhiều chuyện như vậy trong A tỳ đàm, chỉ riêng chuyện về địa ngục không. Tại vì nói cái đó tui sẽ lôi ra ba chuyện trời ơi đất hỡi, ví dụ cô ba cháo gà, mấy chuyện ruồi bu đó, bắt buộc tui cũng phải nói luôn, không nói không được, ba vụ đồng cốt, xuất vía, xuất hồn...rồi khi tim bị nghẽn, mới thấy cái hồn nó xuất ra, lấp la lấp lánh, nó quay trở lại mới thấy cái xác nó nằm đó, các vị có nghe chuyện đó hông? Nghe có lý lắm.

Có thằng cha ghé chùa, ổng cũng kể chuyện đó nữa. Đang học mà nghe kể chuyện ruồi bu vậy đó. Cái vía của người đó, tự nhiên tim nó bị nghẽn, giống như bị heart attack vậy đó, rồi bắt đầu vía nó rời ra, như trực thăng vậy đó, nó tách ra khỏi cái xác, nó lạn lạn thấy cái xác của chính mình nằm dưới, thấy làm lạ dường như cái xác có gì đó thân quen, nửa thân quen, nửa không ổn, sau đó bác sỹ làm những thao tác cấp cứu họ cứu kịp thì cái vía nhập trở lại thì coi như người đó sống. Ở đây nếu có cô Thủy ở đây, cổ nói thấy cái hồn nó chạy lên đây rồi nó chạy xuống, rồi xì ở đâu đó rồi chui trở lại. Điện giật còn thấy không được mà đòi cái vía lại thấy. Cái đó nói dóc chứ cái gì, cái đó cổ nói dóc, nhiều khi ảo giác, mình hông rành nhưng đại khái là ảo giác thôi.

Mấy vị phải hiểu, không phải cái gì khoa học chứng minh được bằng giấy tờ, bằng con số là họ đều có thể chứng minh bằng hình ảnh cho mình thấy, khoa học cũng không dám bảo đảm. Ví dụ, họ có thể chứng minh cho mình sự hiện diện của những nguyên tử, các vị biết nguyên tử mà, kiểu như proton, photon, electron họ biết chứ và chứng minh bằng giấy tờ nhưng họ đâu có nói hình dáng hay là vẽ cho mình thấy đâu. Mình phải học cái đó, nguyên tử vật lí, thu xếp mà học đi rồi tau chỉ mày, mày cứ học đã rồi tau chỉ cách chứng minh, chứ mày dốt đặc biết con khỉ gì đâu.. Tui banh cái chổ đó ra, nó nằm ở đây, tui vẽ hình quỹ đạo, nó xoay như thế này… May là những chuyện về vật chất thôi, vật lí là vật chất chứ có phải siêu hình khỉ gì đâu. Làm gì những chuyện tâm linh của mình, như là hồn vía là phách, sống là kẻ thấp còn..không cách gì thấy được..

Cho nên nói về địa ngục, nói tới sáng chưa hết. Còn vụ như cháo gà, bả nhúng vô nồi cháo..37:35 Tui đang nói vấn đề đọa xứ là mình học luôn đọa xứ, rồi ngoằng trở lại? Thôi học cái sườn trước đi, lỡ mai mốt bỏ học thì cũng có cái để nói dóc. Tui nghĩ lớp này ngày càng yểu thọ, èo uột kiểu này ớn lắm. Dầu sao trước khi mẹ qua đời cũng phải để lại cho con 1 gia tài trước, dầu nghèo khổ.

- dục giới tịnh hảo..dẫn đến tái sanh có mấy? Có 8 thôi, bởi vì tâm đại tố không dẫn đến tái sanh. Tại sao? Tâm của Arahant. Tâm quả là hậu quả của tâm thiện nên mặc kệ nó. Tâm dục giới tịnh hảo dẫn đến tái sanh, kể có 8, đó là 8 tâm thiện. Tâm dục giới tịnh hảo tác động chúng sanh thực hiện thập thiện, từ đó dẫn đến 7 cõi thiện thú dục giới.

Nói cách dễ hiểu hơn, thập ác gọi là ác đạo, còn thập thiện là thiên đạo và nhân đạo; còn thiền sắc và vô sắc không có nhân đạo mà chỉ có thiên đạo thôi. Bên kia họ kêu 5 thừa, bồ tát thừa, thiên thừa, nhân thừa,.. Nhưng mình chỉ có 4 đạo thôi: ác đạo, nhân đạo, thiên đạo, phật đạo (tính từ thấp lên). Phật đạo không phải chỉ riêng cho chánh đẳng chánh giác, mà phật đạo của mình là con đường chấm dứt sanh tử được gọi là phật đạo, dầu mình chỉ gặp Phật mình đắc có Tu đà hoàn thôi cũng kể là mình đã tu theo phật đạo. Hoặc bây giờ mình cũng bố thí, trì giới, tham thiền,.. nhưng tâm mình hướng cầu giải thoát thì coi như mình đang tu theo phật đạo. Mặc dù mình làm mấy cái thiền nghiệp nhiều quá thì chết cũng sanh vào cõi trời hay là cõi người. Thấy giống nhau giữa thiên đạo và nhân đạo phải không? Nhưng vẫn kể vào phật đạo. Tại sao mình sanh về mấy cõi đó? Mình sống thiện dữ lắm mà cũng sanh về cõi thiện. Giống như đứng ở chỗ đó, liệng cục đá thì cục đá phải rớt ở 1 chỗ thích hợp rồi. Đứng chỗ đó mà cầm cục đá ném với sức như vậy, thì nó phải rớt ở chỗ đó. Chứ không thôi mình không cần cầu nguyện, nếu tâm con có lòng thành thiệt, con sẽ rớt ngay chỗ đó, khỏi cần niệm; cứ đứng chỗ đó liệng với sức như vậy, nếu tay mình mà cáng vá thì với sức đó sẽ rớt ở chỗ khác, những cái tay đàng hoàng thì rớt ở chỗ khác. Chứ đâu có chuyện, trước khi thảy, quên nguyện nên đá không rớt đâu. Nó rớt là rớt thôi, mà rớt ở đâu thì tùy cái tay mình có bình thường hay không...

Bảy thiện thú có ai ở đây nhớ được, kể tên được?

Khi nào mình cần cái đó, mình hoán vị, có người khác đem đến cho mình. Đúng như vậy. Phải nhớ. Cõi nào mà phật mẫu, bồ tát kiếp chót hay về đó? Cõi đốn xứ, vì chúng sinh ở đó có đời sống vui hơn cõi khác, hưởng dục, chữ dục đó.., đời sống tự bản chất chư thiên ở đó, tự nó đã vui rồi 42:33

24/01/2022 - 02:06 - 77july2015

42:13 Cõi nào mà phật mẫu, bồ tát kiếp chót hay về đó? Cõi Đâu Suất, vì chúng sinh ở đó có đời sống vui hơn cõi khác, hưởng dục, chữ dục đó.., đời sống tự bản chất chư thiên ở đó, tự nó đã vui rồi. 42:33 Hạnh phúc ở đó rất vi tế, cũng cõi dục nhưng nó rất vi tế, niềm vui tự phát, chứ không phải hưởng dục, niềm vui thanh tịnh, cõi vui. Nên tên của nó là hoan hỉ thiên là như vậy. Chữ đâu suât là âm thôi nha, chứ không phải dịch, nghĩa là cõi vui, không phải cái vui do hưởng dục mà cái vui ở đây của những người có phước làm nhiều, tối ngày cứ vui vẻ, hân hoan, phơi phới hoài như vậy, còn mấy cõi kia thì trụy lạc ăn chơi.

- 5 tâm thiện sắc giới bắt đầu từ tâm sơ thiền (1 trình độ được thành tựu từ khả năng cao nhất của tâm đại thiện). Tâm đại thiện là tâm chi? Dục giới, 1 người dù tu thiền chỉ hay thiền quán đều phải tu bằng tâm dục giới, nhưng tâm dục giới đó là tâm nào - thiện hay bất thiện? Tâm thiện dục giới còn có tên gì nữa? Có bao nhiêu tâm thiện dục giới? Tâm thiện dục giới tức là tâm nào? Cứ coi lại bản đồ đi, đã nói tâm thiện thì mình cắt bỏ 12 phải không, rồi cắt bỏ luôn 18 phải không, vì 18 vô nhân mà. Vậy còn lại bao nhiêu? - 24, trong 24 có cái nào là tâm thiện? Bỏ tố phải không? Bỏ quả. Vậy còn lại cái gì? 24 trừ 8 đại tố, lại trừ 8 quả nữa, vậy còn lại 8 tâm thiện dục giới, còn có tên là tâm đại thiện. Cho nên 8 tâm đại thiện có nhiều tên gọi, cho nên gọi là 8 tâm đại thiện cũng được, mà gọi là 8 tâm thiện dục giới cũng được, nhớ dùm tui 1 cái. Tui không muốn nhắc lại chỗ này nữa. Khi tui hỏi, cứ tự cắt bỏ để trả lời. Đã hỏi tâm thiện dục giới thì không thể nào nói tâm tố được, đã nói tâm thiện thì không thể nào kể tâm quả được. Tui nói đi nói lại, trong Vi diệu pháp từ ngữ chính xác, định nghĩa chính xác không có mơ màng. Ví dụ, có rất nhiều người mơ màng, tầm - tứ. Ít khi nào tui nghe học viên A tỳ đàm giải thích cho rõ cái tầm - tứ, cứ thích mơ màng. Hoặc là sở hữu dục - tâm tham; dục là muốn, tâm tham cũng là muốn. Biết bao nhiêu định nghĩa không biết các vị còn nhớ không?

Dẫn sanh 16 cõi trời dục giới. Bây giờ tui hỏi bài vừa rồi lớp này có coi lại không? Bây giờ tui cho lớp làm bài tập, cho coi bài luôn thì có biết sử dụng bài của mình để cho tui biết rằng: Muốn sanh về cõi trời tịnh cư thì mình phải là hạng người gì, chứng cái gì? Muốn sanh cõi thiện hiện thì tui phải là phạm thiên như thế nào thì tui mới sanh vào cõi thiện hiện? 49:23 Một vị A na hàm chứng đắc ngũ thiền, nếu 5 quyền đều yếu cả thì họ sanh về cõi vô phiền. Nói rằng vị đó 5 quyền đều yếu thì mình phải hiểu ngầm là trong 5 cái yếu đó cái nào mạnh nhất - tín quyền, mạnh nhất trong đám yếu, chứ không phải mạnh so với người khác, cái đó nói gì nữa. Tại sao tín quyền mạnh? Vì giá chót anh cũng thành tựu được đức tin bất động nơi tam bảo, đức tin bất động nơi trí tuệ giải thoát. Nói đến chuyện 5 quyền yếu thì mình phải hiểu ngầm rằng tuy là yếu nhưng trong 5 cái yếu đó vẫn có cái nổi bật, đó là tín quyền. Thì vị A na hàm nào chứng ngũ thiền, cả 5 quyền đều yếu, hay nói cách khác, trong 5 quyền chỉ có tín quyền mạnh thì vị đó sanh về cõi vô phiền. Nếu ở cõi vô phiền mà vị đó vẫn chưa đủ duyên thì vô nhiệt. Nếu vô nhiệt rồi mà vẫn tiếp tục không làm gì thì đi lên thiện hiện. Trường hợp thứ nhất. Trường hợp thứ 2, vị đó cũng đắc ngũ thiền, cũng đắc A na hàm nhưng mạnh về niệm quyền. Tui rất là vui khi các vị thuộc bài như vậy. Cô còn biết cách tính, tại sao cõi thì chỉ có cõi tứ thiền, nhưng thiền lại kể ngũ thiền?

51: 50 - Bốn tâm thiện chi gồm sắc giới dẫn sanh (dẫn đây có nghĩa là gì? - đưa đi) 4 cõi vô sắc. Bây giờ mình học đại thể tức là cái sườn đó. Giờ còn nửa tiếng, mình học chi tiết của ác đạo.

BỐN CÕI ÁC ĐẠO

Giờ lớp mình học 4 cõi ác đạo, là mốt không ai biết nhiều về địa ngục bằng mình. Hồi đó có 1 vị tỳ kheo học về địa ngục, học về tam tạng nhưng riêng giải về địa ngục, sợ quá, ổng nói sư phụ, giờ con không có bụng dạ nào con học nữa thôi thầy cho con đi tu thiền đi, chứ thấy ghê quá, lỡ đang học mà con có bề gì... Ổng quay lại học kinh tạng tiếp tục...54:45 Kể cả 1 vị Arahant vẫn làm những chuyện mình ngỡ là không cần thiết, ví dụ những vị Arahant có những vị trước khi chứng, chưa đắc được tầng thiền nào hết, khi chứng Arahant thì họ đi luyện thiền, luyện cho đắc 1 hơi từ sơ - nhị - tam - tứ - ngũ thiền, luyện luôn phi tưởng, luyện thần thông luôn, mình không biết thì cứ tưởng ông này còn là phàm, nên còn ham còn mê cái thần thông, nhưng không phải. Vì có 2 lẽ, lẽ thứ nhất là nhân duyên parami của vị này đời trước là đã có tạo chuyện đắc thiền chỉ - thiền quán cả 2, thiền chỉ gần xong rồi giờ còn thiền quán, người có khả năng đắc được tự nhiên người ta biết 55:30tại sao mình còn 1 bước nữa mà mình không làm. Vì mình đắc được thì mình giúp ích cho chúng sanh nhiều hơn là không chứng thiền, thế là đi luyện. Hoặc vị đó muốn mình được sống an ổn hơn, sống an ổn ở đây không phải vì tâm tham, hoặc vì chết nhát mà muốn ở đây là sống an ổn, an lạc. Chứng Arahant rồi mà chứng thiền nữa thì đời sống mình sẽ được thoải mái hơn, sợ chữ enjoy thì nó hơi quá, thôi mình nói thú vị hơn.

Còn đắc Arahant rồi còn biết làm chuyện gì không? học tam tạng, như vậy đó. Đã nói là bậc vô học tức là không còn việc gì để làm nữa, như vậy thì tại sao đi học tam tạng? Chữ vô học ở đây nghĩa là không có chuyện gì ghê gớm đến mức phải thực hiện được, còn vị này học tam tạng chẳng qua vì thói quen đời trước hiếu học, ham học, hoặc là vì muốn giúp đời, hoặc là vì tâm xưa nay mến Pháp, có thói quen thích Phật pháp. Bởi vì nói là Arahant chứ Tam tạng là sản phẩm trí tuệ của chánh đẳng chánh giác chứ không phải của vị Arahant thường cho nên vị này vẫn cảm thấy thú vị trong đó. Ngay cả đức phật đã giảng bài đó cho chư tăng nghe rồi mà mai kia ngài nghe chư tăng đọc lại, ngài cũng hoan hỉ nữa. Khi ngài bệnh, ngài mới kêu ngài Ananda đọc bài Thất giác chi cho ngài nghe, ngài Ananda có trí nhớ tốt, có gì ngài nghe qua 1 lần là ngài nhớ, cho nên khi đức Phật đang nằm bệnh thì ngài Ananda đọc hết bài kinh cho đức phật nghe xong, ngài hoan hỉ nói, đụng cái ngài kêu ngài junda tụng. Có lúc ngài bệnh vậy ngài kêu ngài Mục kiền liên tụng, ngài nằm vậy đó rồi ngài nghe tụng bài kinh, đọc nguyên bài như vậy, đọc xong ngài hết bệnh, đó là bài kinh Thất Giác Chi. về sau chư tăng, thứ nhất vì hiếu học bài kinh đó, ý nghĩa cao sâu của bài kinh và đồng thời tin tưởng vào năng lực của bài kinh đó. Tụng cầu an cho đệ tử, khi đó chư tăng tụng tiếng pali, phật tử nghe tiếng pali. Hoặc kể cả trường hợp chư tăng tụng tiếng việt nhưng phật tử đâu có học phật pháp nên nghe đến niệm giác chi, cần giác chi, hỷ giác chi, người bệnh nằm ngáp ngáp nghe đâu chữ chi chi chi chi, không biết nghe có hết bệnh không biết đâu còn thấy mệt nữa. Chữ vô học đó, không có chuyện gì phải dốc toàn tâm toàn lực hi sinh mọi thứ, chính là vì nói đến trách nhiệm cao cả nhất, lý tưởng cao cả nhất trong đời sống phạm hạnh chính là chữ chấm dứt phiền não và thành tựu chánh trí giác ngộ thì các vị đó không cần phải làm nữa cho nên các vị đó được gọi là bậc vô học. Còn ở trong tam tạng, chữ học không phải chữ học trong chữ vô học.

Tui nhớ có ông nhà văn Dante người Ý (?), năm ổng mất 70 mấy 80 tuổi, hồi còn sống thế giới gọi ổng là nhà bác học, học giỏi lắm, bác học mà, năm 70 tuổi ổng còn ráng học tiếng Đức, ổng có 1 đứa con làm nghề giáo, giáo sư dạy tiếng Đức, người con mới nói là: - Bố ơi bố học tiếng Đức làm gì? - Thì học để đọc sách báo với con, các tài liệu tiếng Đức. - Con thì không giỏi gì nhưng chuyện bố cần dịch tài liệu gì thì bố nói con làm. Bố là bác học mà.. - Bác học không có nghĩa là ngừng học. Bác học chỉ có nghĩa là học rộng thôi, chứ không có nghĩa ngừng học. Đó, 70 tuổi còn học ngoại ngữ. Còn như mình..1:00:20 Mình nhớ cái thời ông Nguyễn Lê có 1 câu rất hay - Bất cứ môn gì chỉ cần 1 ngày ta dành ra 1 tiếng đồng hồ thôi thì 1 năm, 2 năm, 3 năm, 5 năm ta cũng giỏi được môn đó. Bất cứ môn gì, 1 ngày 1 tiếng đồng hồ, thì 1,2,3 năm là đã có dấu hiệu tiến bộ và 5 năm là ta phải giỏi nó thôi. Năm năm trời, ngày 1 tiếng đồng hồ, mình cứ chê 1 tiếng ít, cứ làm theo lời tui coi là nó ít hay nhiều, biết liền à. Không có ít đâu, ngày 1 tiếng nó cũng gần gần với chương trình mình học trong trình độ highschool, ngày nào cũng học và 1 tiếng đồng hồ không ít đâu. Một tiếng đồng hồ mình ngồi chơi, đánh bài, nhậu nhẹt sao tui không biết chứ 1 tiếng đồng hồ ngồi học nó lâu lắm à. Vô lớp mình tui thấy ai cũng coi đồng hồ hoài thì tui biết, lâu lắm. 1:01:23

24/01/2022 - 02:06 - 77july2015

42:13 Cõi nào mà phật mẫu, bồ tát kiếp chót hay về đó? Cõi Đâu Suất, vì chúng sinh ở đó có đời sống vui hơn cõi khác, hưởng dục, chữ dục đó.., đời sống tự bản chất chư thiên ở đó, tự nó đã vui rồi. 42:33 Hạnh phúc ở đó rất vi tế, cũng cõi dục nhưng nó rất vi tế, niềm vui tự phát, chứ không phải hưởng dục, niềm vui thanh tịnh, cõi vui. Nên tên của nó là hoan hỉ thiên là như vậy. Chữ đâu suât là âm thôi nha, chứ không phải dịch, nghĩa là cõi vui, không phải cái vui do hưởng dục mà cái vui ở đây của những người có phước làm nhiều, tối ngày cứ vui vẻ, hân hoan, phơi phới hoài như vậy, còn mấy cõi kia thì trụy lạc ăn chơi.

- 5 tâm thiện sắc giới bắt đầu từ tâm sơ thiền (1 trình độ được thành tựu từ khả năng cao nhất của tâm đại thiện). Tâm đại thiện là tâm chi? Dục giới, 1 người dù tu thiền chỉ hay thiền quán đều phải tu bằng tâm dục giới, nhưng tâm dục giới đó là tâm nào - thiện hay bất thiện? Tâm thiện dục giới còn có tên gì nữa? Có bao nhiêu tâm thiện dục giới? Tâm thiện dục giới tức là tâm nào? Cứ coi lại bản đồ đi, đã nói tâm thiện thì mình cắt bỏ 12 phải không, rồi cắt bỏ luôn 18 phải không, vì 18 vô nhân mà. Vậy còn lại bao nhiêu? - 24, trong 24 có cái nào là tâm thiện? Bỏ tố phải không? Bỏ quả. Vậy còn lại cái gì? 24 trừ 8 đại tố, lại trừ 8 quả nữa, vậy còn lại 8 tâm thiện dục giới, còn có tên là tâm đại thiện. Cho nên 8 tâm đại thiện có nhiều tên gọi, cho nên gọi là 8 tâm đại thiện cũng được, mà gọi là 8 tâm thiện dục giới cũng được, nhớ dùm tui 1 cái. Tui không muốn nhắc lại chỗ này nữa. Khi tui hỏi, cứ tự cắt bỏ để trả lời. Đã hỏi tâm thiện dục giới thì không thể nào nói tâm tố được, đã nói tâm thiện thì không thể nào kể tâm quả được. Tui nói đi nói lại, trong Vi diệu pháp từ ngữ chính xác, định nghĩa chính xác không có mơ màng. Ví dụ, có rất nhiều người mơ màng, tầm - tứ. Ít khi nào tui nghe học viên A tỳ đàm giải thích cho rõ cái tầm - tứ, cứ thích mơ màng. Hoặc là sở hữu dục - tâm tham; dục là muốn, tâm tham cũng là muốn. Biết bao nhiêu định nghĩa không biết các vị còn nhớ không?

Dẫn sanh 16 cõi trời dục giới. Bây giờ tui hỏi bài vừa rồi lớp này có coi lại không? Bây giờ tui cho lớp làm bài tập, cho coi bài luôn thì có biết sử dụng bài của mình để cho tui biết rằng: Muốn sanh về cõi trời tịnh cư thì mình phải là hạng người gì, chứng cái gì? Muốn sanh cõi thiện hiện thì tui phải là phạm thiên như thế nào thì tui mới sanh vào cõi thiện hiện? 49:23 Một vị A na hàm chứng đắc ngũ thiền, nếu 5 quyền đều yếu cả thì họ sanh về cõi vô phiền. Nói rằng vị đó 5 quyền đều yếu thì mình phải hiểu ngầm là trong 5 cái yếu đó cái nào mạnh nhất - tín quyền, mạnh nhất trong đám yếu, chứ không phải mạnh so với người khác, cái đó nói gì nữa. Tại sao tín quyền mạnh? Vì giá chót anh cũng thành tựu được đức tin bất động nơi tam bảo, đức tin bất động nơi trí tuệ giải thoát. Nói đến chuyện 5 quyền yếu thì mình phải hiểu ngầm rằng tuy là yếu nhưng trong 5 cái yếu đó vẫn có cái nổi bật, đó là tín quyền. Thì vị A na hàm nào chứng ngũ thiền, cả 5 quyền đều yếu, hay nói cách khác, trong 5 quyền chỉ có tín quyền mạnh thì vị đó sanh về cõi vô phiền. Nếu ở cõi vô phiền mà vị đó vẫn chưa đủ duyên thì vô nhiệt. Nếu vô nhiệt rồi mà vẫn tiếp tục không làm gì thì đi lên thiện hiện. Trường hợp thứ nhất. Trường hợp thứ 2, vị đó cũng đắc ngũ thiền, cũng đắc A na hàm nhưng mạnh về niệm quyền. Tui rất là vui khi các vị thuộc bài như vậy. Cô còn biết cách tính, tại sao cõi thì chỉ có cõi tứ thiền, nhưng thiền lại kể ngũ thiền?
51: 50 - Bốn tâm thiện chi gồm sắc giới dẫn sanh (dẫn đây có nghĩa là gì? - đưa đi) 4 cõi vô sắc. Bây giờ mình học đại thể tức là cái sườn đó. Giờ còn nửa tiếng, mình học chi tiết của ác đạo.

(tiếp theo)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh giảng Cảnh Giới Tái Sanh Trong Giáo Lý A Tỳ Đàm (3-3)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=5ZflhrrfE2k&abt=C%E1%BA%A3nh+gi%E1%BB%9Bi+t%C3%A1i+sinh

BỐN CÕI ÁC ĐẠO

Giờ lớp mình học 4 cõi ác đạo, là mốt không ai biết nhiều về địa ngục bằng mình. Hồi đó có 1 vị tỳ kheo học về địa ngục, học về tam tạng nhưng riêng giải về địa ngục, sợ quá, ổng nói sư phụ, giờ con không có bụng dạ nào con học nữa thôi thầy cho con đi tu thiền đi, chứ thấy ghê quá, lỡ đang học mà con có bề gì... Ổng quay lại học kinh tạng tiếp tục...54:45 Kể cả 1 vị Arahant vẫn làm những chuyện mình ngỡ là không cần thiết, ví dụ những vị Arahant có những vị trước khi chứng, chưa đắc được tầng thiền nào hết, khi chứng Arahant thì họ đi luyện thiền, luyện cho đắc 1 hơi từ sơ - nhị - tam - tứ - ngũ thiền, luyện luôn phi tưởng, luyện thần thông luôn, mình không biết thì cứ tưởng ông này còn là phàm, nên còn ham còn mê cái thần thông, nhưng không phải. Vì có 2 lẽ, lẽ thứ nhất là nhân duyên parami của vị này đời trước là đã có tạo chuyện đắc thiền chỉ - thiền quán cả 2, thiền chỉ gần xong rồi giờ còn thiền quán, người có khả năng đắc được tự nhiên người ta biết 55:30tại sao mình còn 1 bước nữa mà mình không làm. Vì mình đắc được thì mình giúp ích cho chúng sanh nhiều hơn là không chứng thiền, thế là đi luyện. Hoặc vị đó muốn mình được sống an ổn hơn, sống an ổn ở đây không phải vì tâm tham, hoặc vì chết nhát mà muốn ở đây là sống an ổn, an lạc. Chứng Arahant rồi mà chứng thiền nữa thì đời sống mình sẽ được thoải mái hơn, sợ chữ enjoy thì nó hơi quá, thôi mình nói thú vị hơn.


Còn đắc Arahant rồi còn biết làm chuyện gì không? học tam tạng, như vậy đó. Đã nói là bậc vô học tức là không còn việc gì để làm nữa, như vậy thì tại sao đi học tam tạng? Chữ vô học ở đây nghĩa là không có chuyện gì ghê gớm đến mức phải thực hiện được, còn vị này học tam tạng chẳng qua vì thói quen đời trước hiếu học, ham học, hoặc là vì muốn giúp đời, hoặc là vì tâm xưa nay mến Pháp, có thói quen thích Phật pháp. Bởi vì nói là Arahant chứ Tam tạng là sản phẩm trí tuệ của chánh đẳng chánh giác chứ không phải của vị Arahant thường cho nên vị này vẫn cảm thấy thú vị trong đó. Ngay cả đức phật đã giảng bài đó cho chư tăng nghe rồi mà mai kia ngài nghe chư tăng đọc lại, ngài cũng hoan hỉ nữa. Khi ngài bệnh, ngài mới kêu ngài Ananda đọc bài Thất giác chi cho ngài nghe, ngài Ananda có trí nhớ tốt, có gì ngài nghe qua 1 lần là ngài nhớ, cho nên khi đức Phật đang nằm bệnh thì ngài Ananda đọc hết bài kinh cho đức phật nghe xong, ngài hoan hỉ nói, đụng cái ngài kêu ngài junda tụng. Có lúc ngài bệnh vậy ngài kêu ngài Mục kiền liên tụng, ngài nằm vậy đó rồi ngài nghe tụng bài kinh, đọc nguyên bài như vậy, đọc xong ngài hết bệnh, đó là bài kinh Thất Giác Chi. về sau chư tăng, thứ nhất vì hiếu học bài kinh đó, ý nghĩa cao sâu của bài kinh và đồng thời tin tưởng vào năng lực của bài kinh đó. Tụng cầu an cho đệ tử, khi đó chư tăng tụng tiếng pali, phật tử nghe tiếng pali. Hoặc kể cả trường hợp chư tăng tụng tiếng việt nhưng phật tử đâu có học phật pháp nên nghe đến niệm giác chi, cần giác chi, hỷ giác chi, người bệnh nằm ngáp ngáp nghe đâu chữ chi chi chi chi, không biết nghe có hết bệnh không biết đâu còn thấy mệt nữa. Chữ vô học đó, không có chuyện gì phải dốc toàn tâm toàn lực hi sinh mọi thứ, chính là vì nói đến trách nhiệm cao cả nhất, lý tưởng cao cả nhất trong đời sống phạm hạnh chính là chữ chấm dứt phiền não và thành tựu chánh trí giác ngộ thì các vị đó không cần phải làm nữa cho nên các vị đó được gọi là bậc vô học. Còn ở trong tam tạng, chữ học không phải chữ học trong chữ vô học.


Tui nhớ có ông nhà văn Dante người Ý (?), năm ổng mất 70 mấy 80 tuổi, hồi còn sống thế giới gọi ổng là nhà bác học, học giỏi lắm, bác học mà, năm 70 tuổi ổng còn ráng học tiếng Đức, ổng có 1 đứa con làm nghề giáo, giáo sư dạy tiếng Đức, người con mới nói là: - Bố ơi bố học tiếng Đức làm gì? - Thì học để đọc sách báo với con, các tài liệu tiếng Đức. - Con thì không giỏi gì nhưng chuyện bố cần dịch tài liệu gì thì bố nói con làm. Bố là bác học mà.. - Bác học không có nghĩa là ngừng học. Bác học chỉ có nghĩa là học rộng thôi, chứ không có nghĩa ngừng học. Đó, 70 tuổi còn học ngoại ngữ. Còn như mình..1:00:20 Mình nhớ cái thời ông Nguyễn Lê có 1 câu rất hay - Bất cứ môn gì chỉ cần 1 ngày ta dành ra 1 tiếng đồng hồ thôi thì 1 năm, 2 năm, 3 năm, 5 năm ta cũng giỏi được môn đó. Bất cứ môn gì, 1 ngày 1 tiếng đồng hồ, thì 1,2,3 năm là đã có dấu hiệu tiến bộ và 5 năm là ta phải giỏi nó thôi. Năm năm trời, ngày 1 tiếng đồng hồ, mình cứ chê 1 tiếng ít, cứ làm theo lời tui coi là nó ít hay nhiều, biết liền à. Không có ít đâu, ngày 1 tiếng nó cũng gần gần với chương trình mình học trong trình độ highschool, ngày nào cũng học và 1 tiếng đồng hồ không ít đâu. Một tiếng đồng hồ mình ngồi chơi, đánh bài, nhậu nhẹt sao tui không biết chứ 1 tiếng đồng hồ ngồi học nó lâu lắm à. Vô lớp mình tui thấy ai cũng coi đồng hồ hoài thì tui biết, lâu lắm. 1:01:23


25/01/2022 - 02:19 - 77july2015


1:01:23 Chứ giờ đang bộ 52 lá, chia em 1 mớ mớ là đánh tới sáng luôn. Đi tiểu còn không thèm nữa mà, ngồi đánh, sợ mất thời giờ...


1:02:25 ĐỊA NGỤC

Đây là cảnh giới dành cho những chúng sanh đã tạo trọng nghiệp. Trong tập sớ A tỳ đàm, các ngài có nhắc đến 8 đại địa ngục, khổ chưa: (Rất tiếc ở đây tui không viết pali cho các vị được)


1) Địa ngục trùng sanh (đau khổ cùng cực thậm chí có thể chết đi nhưng sau đó lập tức sống trở lại để tiếp tục chịu khổ) thử hỏi làm sao mà chịu nổi.


2) Địa ngục hắc thằng (Kālasutta). Chữ sutta trong pali rất là nhiều nghĩa, sutta nghĩa là sợi chỉ, sợi dây, nghĩa là kinh luận. Kinh Tạng (Sutta Pitaka), Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Abhidhamma là vi diệu pháp, tức A tỳ đàm. Chữ sutta ở đây nghĩa là kalasutta naraka là hắc thằng. kala màu đen còn sutta sợi dây mà trong đây giải thích là cái roi màu đen. (Ở đây các tội nhân bị hành hạ, tra tấn bằng 1 cây roi dài màu đen, mỗi lằn roi có thể là tan xương nát thịt).


Bây giờ chờ tui một chút, có chỗ nào cho mình chen không? Đúng ra đây họ dạy mình nhiều bài lắm nhưng lớp mình đâu có thuộc bài đâu nên mình học mình gom lại nhiều bài cho nó nhớ.


Giống như thuốc tể, nhiều người theo y học trung quốc, phục dược bất như thực dược. Uống thuốc đúng là không bằng ăn thuốc, là ăn đồ có thuốc. Quanh năm trong thức ăn như đồ kho, đồ nướng, đồ xào nấu chiên mình ăn như hoa trái có dược tính thì tốt hơn. Thường người ta làm biếng ăn cái đó lắm, lỡ khi bệnh người ta chịu uống thuốc. Đợi lúc bệnh mới đi uống thuốc thì không bằng chưa bệnh ăn uống có vị thuốc trong đó. Có nhiều em quá làm biến đi nên người ta đành làm theo thuốc cho nó uống, có nhiều người không uống thuốc tể được, người ta uống thuốc tán, uống thuốc tán không được thì uống thuốc sắc,.. Lớp mình không chịu thực dược thì đành cho phục dược, mà lớp mình không chịu sắc thuốc, ngâm thuốc, đành làm thuốc tể xả vô họng cho uống.

Bây giờ, chỗ hồi nãy là địa ngục gì đó? - Địa ngục trùng sanh - dành cho những người… 1:08:51 tay trộm cướp tham tài hiếu sát…


1:09:42 Nguyên văn trong tiếng thái, dành cho những đại đạo tặc, đốt nhà phóng hỏa, giết người cướp của, ham tài hiếu sát. Trước ngày tui đi, còn ở VN, tui đi có 1 tên có cái tật, ảnh lấy xong còn phải giết mới chịu, có những trường hợp lấy chiếc nhẫn của đứa con nít chừng 12 13 tuổi cũng phải giết nó, giữa đồng không mông quạnh đứa nhỏ cũng không biết đâu mà nó tố ảnh, mà ảnh ghiền, thấy máu là thích lắm, ở không liếm máu người, đưa cái dao lên liếm hoặc đâm máu văng vô mặt thấy vui. Vụ án cuối cùng trước khi ảnh bị bắt tức là 2 vợ chồng thổi sáo bên ngoài, ảnh chặn lấy tiền xong xuôi 2 vợ chồng xin tha mạng, quỳ xuống, rồi ảnh lấy dao cắt từng miếng miếng chờ coi 2 vợ chồng gục vậy đó, thích lắm. Hai vợ chồng cũng 60 ngoài mà người ta đưa tiền đưa xe rồi quỳ lại, ảnh bắt người ta lạy rồi ảnh phun nước miếng xuống, hai vợ chồng hun tới gót ảnh luôn vậy đó mà cũng có tha đâu, bắt quỳ lạy xong ảnh giết luôn. Vì sao tui biết chuyện đó, bởi vì vô tù ảnh khai, mà lạ lúc ảnh khai là nghe như chuyện làm ăn vậy đó, khai mà quay có camera đàng hoàng, lúc khai là nhà nước công an quay sao đó, rồi người trong đoàn quen mang về cho gia đình coi, rồi họ mang về cho mấy sư coi. Tức mấy vụ án lớn, thường lấy cung là quay phim hết, quay làm tài liệu đó, để mốt người ta xử trí mấy tên, bên đây kêu là biến thái đó, bên y học tây phương kêu là biến thái. Những người như vậy sanh vô địa ngục.


- Địa ngục hắc thằng 1:12:32 dành cho những đao phủ thủ, những vị xuất gia dễ duôi.


3) Địa ngục sangata nghĩa là nghiến nghiền đè cán, từ đó tui nhớ có dịch chữ này mà giờ tui quên rồi. Chúng sanh ở đây từng giờ phút bị đè bẹp dưới một hòn khiết sơn cháy đỏ. Khiết sơn là núi sắt, cháy đỏ. Địa ngục này dành cho những chúng sinh ích kỷ, sẵn sàng vì niềm vui của mình mà bất chấp chuyện sanh tử của người khác, như đá gà, đá cá,.. Chứ nói theo bây giờ là mình làm bầu.. giống ở Madison, Holyphil tổ chức cho 2 thằng đấu, mình bỏ tiền ra tổ chức, bán vé, đăng báo, quảng cáo. Cái đó tội chết luôn, hoặc là mình ủng hộ chuyện đó nhưng ít tội hơn nhưng nhẹ hơn người làm bầu, nghe nói sắp có trận đấu quyền anh là mình khoái chí đi coi, rủ người này kia mua vé, rồi dô dô đập cho nó chết đi, knock out là rồi, xuống đây. Đá dế mình thấy nó nhẹ nhưng thực ra đây là chuyện sanh tử người ta. Đá gà cũng vậy, chơi bọc tiêu vô cái cánh, rồi mấy con gà nó hay chọc cái đầu nó vô đó, nó ngợp nó cay rồi là con kia móc cho đui con mắt luôn. Đá gà giỏi là đá xong máu với lông, lông gà văng tùm lum, cựa sắt. Tui biết là do 1 phần coi phim, 1 phần bến xe mà tui đi học là đủ chuyện ở đó, bài gian bạc lận, đánh ghen, đá gà, buôn lậu vậy đó. Hai con gà mỗi con chừng 1 kí ngoài, nhỏ xíu không hiểu sao mà đá, tui còn không dám dòm, máu không thấy ghê quá, nó mà móc vô 1 phát, máu nó tuôn ra xệ ruột. Dĩ nhiên không phải giống con dao nhưng mà nó xì cái ruột ra, chúng sanh loài mà đang sống, đụng tới là nó phù ruột ra. 1:18:43


25/01/2022 - 08:25 - 77july2015


1:18:41 Như có 1 lần ông sư bạn ổng đi xe từ Sài gòn về miền tây, cái thằng đó lên xe nó dựt tiền, móc túi người ta, sau đó trên xe có người phát hiện, lơ xe phát hiện được - Sao mày lấy tiền người ta? Ảnh rút dao ra ảnh lụi thằng lơ, ảnh đâm con dao vô ảnh ngoác ngang, cái ảnh dọt ra - Bớ người ta đâm người nè. Ảnh từ trên xe, đang chạy, nhảy cái ào ra ngoài ruộng luôn. Trên xe, áo thằng lơ, ruột nó ngộ lắm, thấy nó bình thường vậy đó, chỉ 1 dao là nó ọt ra mà nhét vô không được, chỉ có bác sỹ mới nhét vô thôi.


1:20:14 1) địa ngục trùng sanh 2) địa ngục hắc thằng 3) địa ngục... dành cho thợ săn, đồ tể, địa ngục nuốt sắt 1:21:37 4) địa ngục thống khắc. Thống là đau khổ, khắc là khóc, giống như khắc trích lệ, khắc phu tức là nốt ruồi suốt đời lấy chồng, 1 là ổng èo uột chết, 2 là liệt dương cũng chết, không thì lấy xong thì bị tù đày chết, bị bạo bệnh chết, tai nạn chết, thắt cổ chết, tăng sông chết, bị stroke chết, vô thường. Số mất chồng, người ta kêu là trích lệ khắc phu, khắc là khóc.


Tức là chúng sanh ở đây suốt ngày kêu khóc, rùng rợn, chỉ riêng những âm thanh cũng là 1 hình thức tra tấn. Các vị tưởng tượng mình sống gần viện tâm thần là đã sợ rồi, hồi xưa tui còn ở quận 5 sài gòn, lầu 3 tui ở mình tui, giấc khuya tui cứ nghe tiếng ré lên, rùng rợn, con gái; sáng tui mới biết là hồi xưa có cô đó vượt biên rồi bị công anh bắt. Hồi đó, công an mà bắt có 2 cách, nếu nó biết mình quan trọng, nguy hiểm thể nào cũng thủ tiêu, hai là tra tấn, lôi tên nào ra tổ chức, ba là khảo của coi vàng mình nằm ở đâu. Cho nên mấy cô, nhìn chắc đoán cổ có tiền có của, xui cho cổ lại có sắc, khảo của không được nó quay qua nó khảo người, khảo sao cũng đông quá, nhỏ về nhỏ ngáp luôn. Khuya đang ngủ, 1 2 giờ khuya nó dựng đầu kêu Nguyễn Văn Hoàng, đang ngủ ngon cái nó đưa mình tờ giấy viết lí lịch cha đâu, mẹ đâu, nhỏ lớn làm gì, buồn ngủ muốn chết luôn, mới viết viết, nó đập bàn 


- Buồn ngủ hả? hỏi xong năm ba câu cái nó đạp mình kêu đi về. Mình về mình nằm, bữa sau nó đợi mình lên ngủ trưa vậy đó, lại dựng đầu mình kêu Nguyễn Văn Hoàng, làm riết chập nữa nó chơi chiêu khủng bố tinh thần, làm lúc nào mình cũng nơm nớp không biết tối nay nó kêu ai. Hôm qua thì dẫn miết qua tới bên này, rồi 1 tiếng nổ lớn, mà nó kêu giờ độc không à, sau mình gặp nó cũng ớn nữa, gặp cái tướng nó đi ngang thôi là mình tiêu cái đằng rồi. Tối ngày mình nghe tiếng la hét như vậy, cổ có bị khùng không, không khùng sao cổ la. Mà độc lắm, những lúc về khuya, đó là những kỉ niệm êm đềm của bả, hồn nó hiện về hay sao, khuya bả mới la, la cái tiếng ghê lắm, tiếng hãi hùng bằng cộng với tiếng la của thất thanh của 1 người nó khủng khiếp lắm. Ai đã từng nghe âm thanh đó rồi thì mới biết địa ngục khủng khiếp thế nào. 1:25:15


Mục Lục các Bài Giảng 

(hết)
Reply
89-121 loại tâm (Thức Uẩn) 

A/ 12 tâm bất thiện: (thập ác, cho 7 tâm quả bất thiện - nhóm B --> 4 ác đạo)
8 tâm tham
2 tâm sân
2 tâm si

B/ 18 tâm vô nhân:
7 tâm quả bất thiện
8 tâm quả thiện vô nhân
3 tâm duy tác vô nhân

C/ 24 tâm tịnh hảo dục giới: 
8 tâm đại thiện
8 tâm đại quả
8 tâm đại duy tác

D/ 15 tâm thiền sắc giới:
5 tâm thiện thiền sắc giới
5 tâm quả thiền sắc giới
5 tâm duy tác thiền sắc giới

E/ 12 tâm thiền vô sắc:
4 tâm thiện thiền vô sắc
4 tâm quả thiền vô sắc
4 tâm duy tác thiền vô sắc

F/ 8-40 tâm siêu thế: (4-20 đạo tâm, và 4-20 quả tâm)
1-5 Nhập lưu đạo tâm
1-5 Nhất lai đạo tâm
1-5 Bất lai đạo tâm
1-5 A la hán đạo tâm

1-5 Nhập lưu quả tâm
1-5 Nhất lai quả tâm
1-5 Bất lai quả tâm
1-5 A la hán quả tâm


-----------------

A+B+C: 54 Dục giới tâm
D: 15 Sắc giới tâm
E: 12 Vô sắc giới tâm
F: 8-40 Siêu thế tâm

(A+B+C)+D+E: 81 tâm Hiệp Thế
F: 8-40 tâm Siêu Thế 
Reply
Sư Toại Khanh Giảng Cảnh Giới Tái Sinh

https://www.toaikhanh.com/read.php?doc=202008241313&lan=vn

Tuỳ thuộc vào hai điều kiện tiền nghiệp và khuynh hướng tâm lý mà các chúng sanh có không gian hiện hữu khác nhau trong một môi trường tương ứng với hai điều kiện ấy. Các cảnh giới tái sinh có thể kể vào các trường hợp sau:
  1. Người sống nhiều về thập ác thì phải sanh về 4 cảnh giới sa đoạ. Ở đây gọi là cảnh giới mà không gọi là cõi vì loài bàng sanh, ngạ quỹ, a tu la là ba trong bốn đoạ xứ không có cõi riêng. Chúng sống xen kẽ, rải rác trong địa ngục, cõi Người và cõi Tứ Thiên Vương.

  2. Người sống nhiều với thập thiện (Thiền ở đây chỉ đến cận định) thì sanh về các cõi nhân thiên dục giới. Càng ly dục thì càng lên cõi cao. Cho nên bát giới là điều kiện cần thiết để sanh về 4 cõi dục thiên cao này (Dạ ma, Đâu suất, Hoá lạc và Tự tại thiên). Hình thức hưởng dục ở các cõi cao thấp cũng thô tế khác nhau. Càng lên cao thì nỗi khổ niềm đau cũng vi tế theo.
Tứ Đại Thiên Vương là một cõi rất là tạp, nó hơn cõi người thôi chứ nó rất là tạp. 

Tứ Đại Thiên Vương có mấy ông nhà giàu ở trển, mấy ông phước nhiều, tuổi thọ họ lên tới 9 triệu năm nhân loại lận, mấy ông này có khả năng đắc đạo. Còn mấy ông nhà nghèo là ai? Là mấy ông dạ xoa, ngạ quỷ cao cấp.

Ngạ Quỷ cao cấp cũng có cung điện lâu đài. Do kiếp trước là những người vừa tu mà vừa có tội. Vừa tu mà vừa hại người, vừa tu vừa làm ác, vừa tu vừa hưởng thụ. Nhưng mà phải có tu nên nó chết nó sinh về trển. Và tùy cái nghiệp mỗi người. Thí dụ ba người đều sanh làm cái tội đó hết. Nhưng tôi thì đêm sướng ngày khổ, hoặc là ngày sướng đêm khổ. Còn Cô là tuần sướng tuần khổ. Còn bà này tháng sướng tháng khổ. Mà tại sao có cái vụ đó? Là tùy vào lúc mình sống kiếp người, cái khoảng cách giữa thiện và ác trong cõi người của mình nó càng khít, thì khi mình sinh vào cái cõi đó, cái khổ và cái sướng nó càng khít. Hiểu không? Tối tui tụng kinh, sáng tui đi câu cá, thì khi tui sanh vô đó, thì tui sáng khổ chiều sướng. Còn mấy vị tu hành đàng hoàng lắm, nhưng mà lâu lâu cuối tuần đi câu cá một lần. Thì cuối cùng sinh vô loại này. Tức là nó có tuần sướng, tuần khổ. Nói chung là nó tương ứng, quý vị hiểu chưa?

Việt Nam mình có chữ "nhặt" chữ "khoan". Độ nhặt và độ thưa của thiện ác nó quyết định độ khổ và độ sướng của cái kiếp sa đọa. Chính khoa học hôm nay cũng nhìn nhận cái này. Có những loài coi như là nó khổ suốt. Ví dụ nó ở trong cống suốt. Rồi có những loài lúc dơ lúc sạch. Có biết cái đó hông? Có những con nó không có khổ lắm, có những con nó khổ nhiều hơn. Ví dụ như nó sống trong cái môi trường đói khát triền miên, hoặc nó ở trong môi trường nhiệt độ rất là khắt nghiệt, rất là dễ chết. Tức là tùy vào mức thiện ác của mình mà nó nhặt nó thưa thế nào thì mình sanh vào cảnh giới mà khổ với lạc nó cũng nhặt nó thưa giống thế đó.

Cho nên cũng là ngạ quỷ mà ngạ quỷ cao cấp 
  1. nó ở xen lẫn trong cõi người, 
  2. nó ở xen lẫn trong cõi Tứ Thiên Vương, và 
  3. nó xen lẫn trong địa ngục. 
Xen lẫn bằng cách nào? 
  1. Là có những con ngạ quỷ nó khổ tại chỗ. Tức là nó có lâu đài nằm ở đó. Rồi, thí dụ, ban đêm nó sướng, ban đêm cái lâu đài nó hưởng thụ, còn ban ngày thì cái lâu đài đó chính là cái chỗ nó bị đốt. Đó là khổ tại chỗ. 
  2. Còn khổ mà khổ ở xa thì sao? Tức là đến cái lúc nó khổ nó phải xuống địa ngục, nó phải chịu khổ ở địa ngục, rồi sau nó mới quay trở lên. Đó là khổ ở xa, nó bị đày ở xa. Tức là lúc chịu khổ nó phải xuống địa ngục để nó chịu khổ ở đó.
Có chuyện cái bà vợ cả. Đại khái bả là một trong hai bà. Thì bả sợ cái bà kia có con trai thì nguyên cái gia tài bà kia sẽ ăn hết. Nên mỗi khi bà kia bả mang bầu là bà này cho uống thuốc, mà uống thuốc bằng cách bả dụ ngon ngọt, cho ăn chè ăn cháo, ăn cho hư cái thai. Và cứ cho ăn chè ăn cháo để cứ hư thai liên tục như vậy. Thì cái bà bị mất con bả mới nghi. Đến bữa đó bả họp dòng họ nhà chồng lại bả nói: "Không có chuyện trùng hợp vậy được. Hễ tui có bầu là bà cả này bả chăm sóc tui. Bình thường bả đâu có thương, bả đâu có mến gì tui. Mà hễ tui có bầu là bả chăm sóc, mà chăm sóc là thai nó hư. Đã 4-5 lần." Thì bà cả mới thề: “Tui mà có làm như vậy mai mốt tui đời đời tui sinh ra tui ăn thịt con của tui.” Bả tưởng thề như vậy là cho nó qua. Mà do cái nghiệp giết con nít sau khi bả chết bả sanh vào loài rất lạ. Do bình thường bả cũng có bố thí làm phước tùm lum hết nhưng bả lại mang cái tội giết người nặng quá nên sau bả chết bả sanh ngộ lắm. Cứ một tuần bả làm tiên, một tuần bả làm ngạ quỷ. Mà hễ bả sinh con ra bao nhiêu lần là bả bị cơn đói hành dữ quá là bả phải ăn thịt con bả. Hễ bả sanh ra là bả phải ăn thịt con liền. Mà đứa con không phải chúng sanh nào hết, mà chỉ là cái hình thức nghiệp nó tạo ra vậy thôi. Hễ bả chuyển dạ bả sanh ra là tự nhiên bả đói quá và bả không ăn được cái gì khác hết, bả chỉ ăn thịt được đứa con đó thôi.

Rồi có một bà bả cũng làm bậy rồi bả thề: “Tui có làm chuyện đó, đời đời sanh ra bị chó xé, tức là chó ăn thịt.” Rồi bả chết bả sinh làm cái loài là đêm sướng ngày khổ. Lúc bả chịu khổ là xuất hiện nguyên bầy chó nó xé nát người rồi bả sanh trở lại. Thì đó là cái loại ngạ quỷ cao cấp.

Còn cái loại bàng sanh cao cấp là sao? Là rồng (kim xí điểu). 
Còn bàng sanh hạ cấp là những con mình gặp dưới đây: chó, heo, mèo, chuột, gà, vịt, ... 

Học cái này mới biết chúng sanh mà không có Phật Pháp nó u mê lắm. Những người đi thờ con rồng, thờ linh vật. Trong đạo mình gọi là thứ bị đọa mà lại đem đi thờ. Trong Kinh nói có những vùng có những dọa xa chiếm ngự, làm mưa làm gió. Rồi người dân lập miếu thờ, bệnh họa tai nạn người ta cũng tới cầu cúng. Nhưng thật ra cái con mà mình thờ chính là con bị đọa. Cho nên, tùy thuộc vào tiền nghiệp, và khuynh hướng tâm lý mà chúng sanh có cảnh giới khác nhau.

Tại sao có cái tiền nghiệp? 
Mình phải hiểu chính là do cái nghiệp nó đẩy đến cảnh giới đó
Vậy sao có cái khuynh hướng tâm lý nữa? Là bởi vì do tiền nghiệp

Ví dụ 3 người mình phải đọa làm súc vật. Mà do khuynh hướng tâm lý của tôi rất nặng về ăn uống nên tôi sinh làm heo. Còn cô này nặng về tình dục, có phước ít, cô sinh làm con dê. Trong khi bà này cũng nặng về tình dục, nhưng có phước nhiều, bả sinh làm con chim sẻ. Dê và chim sẻ, hai con này nhu cầu tình dục rất cao. Chim sẻ gần như cứ cách giờ là nó có nhu cầu. Còn như con gà với con vịt thì nhu cầu con gà cao hơn con vịt. Gà mái đi mà gặp gà trống là nó có nhu cầu. Hiểu không? Nghĩa là do cái nghiệp mà mình sinh vào bàng sanh, nhưng khuynh hướng tâm lý mới đẩy mình vô cái khu đó.

Thí dụ, do có kiến thức chuyên môn điện toán nên tôi vào cái công ty đó, vì công ty đó là về điện toán. Nhưng do cái thích của tôi mà tôi làm bên kế toán, trưởng phòng nhân sự hay bảo vệ gác cổng. 
  1. Tiền nghiệp đẩy vô cái lớn. 
  2. Nhưng chính cái tâm lý dắt mình vô cái chi tiết. 
Vì vậy khuynh hướng tâm lý rất là quan trọng.

Dù thích, dù ghét cái gì thì cái đó cộng với nghiệp thiện ác nó đẩy mình về một nơi.

Chứ mình cứ nhắm mắt mà nghĩ "bố thí là được giàu." Nói vậy là nói chung, nó còn có cái riêng nữa. Bố thí là được giàu, nhưng nó giàu kiểu nào?

Có người giàu bằng cách họ đi làm ăn buôn bán rất là may mắn, phước bố thí cho họ may mắn trong đường buôn bán, nhưng họ phải ra tay. Họ đi làm rẫy làm ruộng rất thành công nhưng họ phải đổ mồ hôi.

Còn có người may mắn họ hưởng thừa kế. Tức đẻ ra làm bọc điều liền, đẻ ra là ba má cậu dì lo hết á. Lớn lên nó đi học đại học về là công ty nó được tổ chức sẵn hết rồi, mình về là ngồi vô ghế Chủ tịch hội đồng quản trị. Lâu lâu mình họp thì má ngồi một bên, ba ngồi kế bên. Rồi khi ba má chết rồi thì cái ghế mình ngồi quen rồi, cộng với kiến thức đại học nữa, lúc đó mình chỉ nhúc nhích ngón tay là mình đã điều hành công ty được rồi.

Còn có người bắt đầu từ zero, cho nên là mọi chuyện họ phải làm hết. Cũng số giàu nhưng họ giàu trong mồ hôi, còn có người họ giàu nhàn hạ lắm. Như Hyundai, Samsung, hoặc bên Tàu gia đình của Lý Gia Thành. Hoặc ông Ho vua sòng bài ở Macao. Ổng đẻ ra một đống con, tụi nó sướng, từ nhỏ đã đi học cái trường nổi tiếng quốc tế rồi, trường Anh, trường Mỹ. Học xong họp hành cái gì là ngồi kế bên Bố. Bố điều hành hết, mình ngồi học kinh nghiệm. Còn có người nó đi lên từ con số zero như café Trung Nguyên, Dũng Lò Vôi ở Bình Dương.

[Image: fishing.jpg]

Như vậy điều quan trọng phải nhớ là có 2 cái mà nó dẫn mình tới cảnh giới tái sanh. 
  1. Một là tiền nghiệp dẫn ta vào cảnh giới lớn, 
  2. hai là khuynh hướng tâm lý dẫn ta đi vào cái điều kiện nhỏ. 
Do điều kiện lớn tui qua Đức tui ở, nhưng do khuynh hướng tâm lý tôi lại ở Frankfurt, tui không ở Stuttgart. Tại sao vậy? Bởi vì do tiền nghiệp tui về Đức tui sống, mà do tại tui thích đẹp. Cũng dân Sài Gòn hết mà đứa nó ở Quận 1, quận 3 nó khác cái đứa ở quận 5, quận 8. Cùng vô một cái trung tâm thương mại ở quận 1 nó khác, trung tâm thương mại ở quận 5 nó khác.

  1. Rồi thứ nhất là sống nhiều với thập ác thì sanh vào cảnh giới sa đọa
  2. Thứ hai là sống nhiều với thập thiện thì sao? Sanh về các cõi nhân thiên dục giới
Chú ý thiền ở đây chỉ tới cận định. Vì trong thập thiện nó có thiền, bố thí, trì giới, tham thiền. Thì cái thiền trong thập thiện nó tới cận định thôi, phải ghi rõ cái đó. Cận định là cái trình độ mà sắp đắc. Nhớ cái đó. Thì sanh về các cõi nhân thiên dục giới. Càng ly dục thì càng lên cõi cao. Và bát giới là điều kiện cần thiết để sanh về 4 cõi dục thiên cao nhất là 
  1. Dạ ma (thấp nhất), 
  2. Đâu suất, 
  3. Hoá lạc và 
  4. Tự tại thiên.
Tức là dục thiên có tất cả là 6 cõi: 
  1. Tứ thiên vương, 
  2. Đao Lợi, 
  3. với 4 ông này (Dạ ma, Đâu suất, Hoá lạc và Tự tại thiên).
Nhưng 4 ông này mà Quý vị mà thông minh chút các vị sẽ đoán ra: càng ly dục thì lên càng cao, đúng không? Vậy cái ông Dạ Ma này là ly dục thấp nè. Tự tại thiên là cái ranh giữa dục và sắc. Hình thức hưởng dục ở các cõi cao thấp cũng thô tế khác nhau. Càng lên cao thì nỗi khổ niềm đau cũng vi tế theo. Cái lạc nó cũng vi tế mà cái khổ nó cũng vi tế.

Ở đó nó cũng có cái nhà, mà cái nhà do phước tạo ra chứ không phải do mình thiết tha, mình chăm chút cửa sổ cho nó thành như vầy. Những cái hoa văn đường viền họa tiết đồ nó không có.

Càng ly dục chừng nào thì cái chỗ ở, môi trường sống nó càng đơn giản chừng đó, mà cái đơn giản đó không phải họ thiếu mà do họ không cần cái rắc rối.

Trên đó họ không có chữ viết, trên đó họ nói nhau bằng tâm, trên đó không có gì để lưu truyền. Giờ tui nói cái này bà con một là sốc hai là không chấp nhận được: Cái chữ viết, hay là điêu khắc gì đó là do là mình không có khả năng ghi nhớ, mình mới cần phải lưu trữ. Chứ những bậc Thánh với nhau, nhất là những bậc Thánh có thần thông, cái hiểu về thế giới của họ nó đơn giản lắm: "Mọi thứ đều do duyên mà có, rồi cũng do duyên mà mất." Phải sống chánh niệm để thấy rõ hai điều đó. Đó là toàn bộ kinh điển của bậc thánh. Toàn bộ kinh điển của bậc thánh họ sống có nhiêu đó thôi. Chứ không phải như mình mà tính 15, 18, 23 cái tâm này cộng với tâm sở nọ kia. Họ không có như vậy. Cái đó là cho mình dưới đây. Họ chỉ đơn giản: "Mọi thứ do duyên mà có rồi cũng do duyên mà mất đi." Ngay bây giờ cái chuyện mình cần phải làm là sống chánh niệm để mình phát hiện ra hai điều đó - cho đến bao giờ chứng thánh thì thôi. Mà chứng thánh rồi thì sống bằng thánh tâm thánh trí. Xong. Chỉ đơn giản vậy thôi.

Trích bài giảng Các cảnh giới tái sinh 1
Kalama xin tri ân các bạn Eirahuynh76 & Nguyenhuongbichhue ghi chép
Reply