Mục lục và tóm lược "LTP Học Phật Pháp"
7 nhóm pháp Bồ đề phần (37 phẩm trợ đạo)
  1. Tứ niệm xứ 
  2. Tứ chánh cần  
  3. Tứ như ý túc 
  4. Ngũ căn  
  5. Ngũ lực 
  6. Thất Giác Chi  
  7. Bát chánh Đạo


Thất Giác Chi
  1. Niệm Giác Chi
  2. Trạch Giác Chi
  3. Tấn Giác Chi
  4. Hỷ Giác Chi
  5. Tĩnh Giác Chi
  6. Định Giác Chi
  7. Xả Giác Chi


Hạnh phúc  đến từ 2 nguồn. 
  1. Nguồn 1 đến từ đời sống tội lỗi, từ sự hưởng thụ, từ việc mà mình sở hữu được cái gì đó, mình cái gì đó, mình cầm cái gì đó. 
  2. Nguồn 2 đến từ việc mình buông bỏ cái gì đó, mình không có cái gì đó.


Hỷ giác chi có được do:
  1. buông được cái mình thích và 
  2. buông được cái mình ghét. 
https://www.toaikhanh.com/read.php?doc=202001020758&lan=vn
Reply
Meditation on death


"Mindfulness of death, when developed & pursued, is of great fruit & great benefit. It plunges into the Deathless, has the Deathless as its final end. Therefore you should develop mindfulness of death."

"Niệm chết, tu tập như vậy, làm cho sung mãn như vậy thì được quả lớn, được lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử. Vĩ vậy, các con hãy tu tập niệm chết ."

AN 6.19



http://vietbestforum.com/showthread.php?...#pid452528

Post #937, p 63
Reply
9 ĐIỀU QUÁN TƯỞNG VỀ CHẾT 
Larry Rosenberg - Barre Center for Buddhist Studies 

CHẾT KHÔNG THỂ TRÁNH ĐƯỢC 
1) Mọi người đều phải chết 
2) Tuổi thọ của ta ngày càng ngắn lại 
3) Cái chết sẽ đến cho dù ta có hay không có thực hành Phật Pháp 

KHÔNG BIẾT CHẮC CHẮN LÀ CHẾT LÚC NÀO 
4) Tuổi thọ con người là không xác định 
5) Có nhiều nguyên nhân gây ra cái chết 
6) Thân thể con người rất mong manh 

CHỈ CÓ THỰC HÀNH PHẬT PHÁP LÀ GIÚP TA KHI CHẾT 
7) Lúc chết , tài sản của ta không giúp gì được 
8) Lúc chết, người thân của ta không giúp gì được 
9) Lúc chết, thân thể của ta không giúp gì được


http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=15534&pid=452528#pid452528

Post #937, p 63
Reply
(Tóm tắt Lời Phật Dạy về Niệm Chết)

Thực hành Niệm Chết qua Lời Phật Dạy

Niệm chết nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử. 

1/ Hãy tu tập niệm chết như sau: 
– “ Mong rằng trong khoảng thời gian ngắn như nhai và nuốt một muỗng thức ăn, hay trong khoảng thời gian ngắn như khi thở vào thở ra, ta vẫn chú tâm đến lời dạy của Thế Tôn.” 

Như vậy là sống không phóng dật, tu tập sắc sảo niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc. (AN 6:19 ) 

--ooOoo--

2/ Khi ngày vừa tàn và đêm bắt đầu , hãy suy tư: 
− “Ta có thể chết trong đêm nay vì nhiều lý do. Do vậy, ta phải nỗ lực đoạn tận các pháp bất thiện, và hoan hỷ học tập trong các pháp thiện.” 

3/ Khi đêm vừa tàn và ngày bắt đầu, hãy suy tư: 
– “Ta có thể chết trong ngày hôm nay vì nhiều lý do. Do vậy, ta phải nỗ lực đoạn tận các pháp bất thiện, và hoan hỷ học tập trong các pháp thiện.” 

Niệm chết nếu được tu tập, được làm cho sung mãn như vậy , sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn , nhập vào bất tử , cứu cánh là bất tử. (AN 6:20 )


http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=15534&pid=452528#pid452528

Post #937, p 63
Reply
Tứ Vô Lượng Tâm 

... Làm công đức bằng "Tâm Vô Lượng" thì mới có quả vô lượng. 

Vô lượng có nghĩa là không bị ràng buộc bởi cái ý cầu danh cầu lợi. Đối với vô lượng chúng sanh không phân biệt giới trí, không phân biệt ngôn ngữ, màu da, chủng tộc, tôn giáo, huyết thống, nhân chủng ...

  1. "Từ vô lượng" là mong cho chúng sanh được nhân lành quả lành.
  2. "Bi vô lượng" là bất nhẫn khi thấy cảnh chúng sanh sống trong quả xấu nhân xấu.
  3. "Hỷ vô lượng" là vui khi thấy các chúng sanh sống trong nhân lành quả lành. 
  4. "Xả vô lượng" là giữ tâm bình thản khi nghĩ về nghiệp riêng của mỗi người.
"Vô lượng" là nhắm đến đối tượng không giới hạn. 
  1. Khi ta làm công đức bằng "tâm vô lượng" thì công đức mới vô lượng. 
  2. Khi ta không có lòng mong lợi ích nhỏ thì ta sẽ có lợi ích lớn.
Trích Tạp Ghi, #1296, p 87
Reply
Để có Jhanna - Chánh Định (một trong 8 chi thuộc Bát Chánh Đạo), chúng ta cần:
  1. niềm tin vào Tam Bảo, 
  2. giữ giới luật, và 
  3. thực hành dāna. 
(Ajahn Brahm)

http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=15534&page=59
# 881, p 59
Reply
Huynh abc ới ời,

http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=15534&page=59

(# 881, p 59)

1/ Tại sao 3 điều để có Jhana ta cần dana vậy ?  

2/  Nghe nói chỉ cần giữ Giới nghiêm chỉnh là ta có thể đạt Jhana, không cần có đức tin về Tam Bảo, vì thế những vị theo các tôn giáo khác có thể có kinh nghiệm về Jhana (Định) , 

(Nhưng nếu nói đến Chánh Định, dĩ nhiên, ta cần có đức tin về Tam Bảo vì Chánh Định (Samma Samadhi) là một chi trong Bát Chánh Đạo, mà Bát Chánh Đạo chỉ có trong Phật Pháp .)  

Phải không huynh ?
Reply
(2022-10-31, 01:05 PM)LeThanhPhong Wrote: Huynh abc ới ời,

http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=15534&page=59

(# 881, p 59)

1/ Tại sao 3 điều để có Jhana ta cần dana vậy ?  

2/  Nghe nói chỉ cần giữ Giới nghiêm chỉnh là ta có thể đạt Jhana, không cần có đức tin về Tam Bảo, vì thế những vị theo các tôn giáo khác có thể có kinh nghiệm về Jhana (Định) , 

(Nhưng nếu nói đến Chánh Định, dĩ nhiên, ta cần có đức tin về Tam Bảo vì Chánh Định (Samma Samadhi) là một chi trong Bát Chánh Đạo, mà Bát Chánh Đạo chỉ có trong Phật Pháp .)  

Phải không huynh ?

bạn LTP,

theo thiển ý , những từ ngữ dùng trong bài dịch hay nguyên tác của AB cần phải được hiểu đúng

-Jhana là các tầng thiền , đơn vị đo lường mức độ thâm sâu của sự tập trung và những gì mà những sự tập trung này có được
-Samadhi là sự tập trung 
-Dana là sự bố thí - hào sảng


Trở lại câu 1 , tại sao 3 điều để có Jhana ta cần dana ? Xét trong toàn cảnh thì bài viết xuất phát từ một bài giảng , trong đó AB nói về "trong cái thấy chỉ có cái thấy" ... và trong lúc kết thúc, AB  nói :The practice of 'in the seen will be merely what is seen...' requires the suppressing of the Five Hindrances. The suppressing of the Five Hindrances requires Jhāna. Jhāna requires the rest of the Noble Eightfold Path,(6) the first seven factors. It requires faith in the Triple Gem, the keeping of precepts and the practice of dāna. There is only one path to Nibbāna, and that is the Noble Eightfold Path. There are no short cuts."   

Theo tui thì AB nói " để thực tập "trong cái thấy chỉ có cái thấy" đòi hỏi đè nén 5 triền cái , và để đè nén 5 triền cái phải ít nhất đạt được mức định thâm sâu cỡ các tầng thiền (4 thiền) . để đi tới giác ngộ giải thoát không những cần chánh định (tui nghĩ AB không có ý định nói Jhana require the rest.. mà là sama samadhi) mà còn cần 7 chi còn lại . Và hơn nữa còn cần đức tin nơi Tam Bảo , bố thí , giữ giới và hành thiền .... chỉ có con đường duy nhất là bát chánh đạo , không có đường tắt"

Khi thuyết giảng, sự lựa chọn từ ngữ có thể eo hẹp vì không có nhiều thời gian chọn lựa cho thích hợp , mạch văn , sự hưng phấn ... làm ảnh hưởng đến bài giảng 


câu 2 thì đúng vậy ... các tầng thiền , các mức định thâm sâu , các cảnh giới .... đã có nhiều người chứng đạt trước kia và bây giờ
Reply
Cám ơn huynh abc .

Tóm lại, LTP đừng lười .  Nếu có thể tìm đọc bản nguyên ngữ thay vì đọc bài dịch mà thôi .

Cheer
Reply
Post #940, p 63:

Để sửa soạn đời sống tu hành cho kiếp sau, cư sĩ Phật tử cần::
  1. Giữ giới
  2. Học pháp
  3. Tập kiên nhẫn
Chịu trách nhiệm với lời nói và hành động của mình.

Và thật sự chán sự sinh tử luân hồi.
Reply
Chữ Hiếu

Hỏi: Là Phật tử, khi cha hoặc mẹ không thương mình, mình nên đối xử với cha mẹ như thế nào?

Trả lời: Vẫn một lòng biết ơn cha mẹ vì nhờ có hai vị, mình mới có cơ hội may mắn được sinh ra làm người, và gặp Phật pháp trở thành Phật tử.
Reply
Sư Hạnh Tuệ - Tứ Niệm Xứ

(post # 945, p 63)

Sư Hạnh Tuệ giảng Tứ Niệm Xứ qua hai link:

https://www.youtube.com/watch?v=GNmmQjZ-nA4: Quán Thân
https://www.youtube.com/watch?v=WSgvftrReVw: Quán Thọ, Quán Tâm, Quán Pháp .

Tứ Niệm Xứ là 4 nơi để thiết lập Niệm, 4 nơi để ghi nhận với sự nhiệt tâm tỉnh giác và ghi nhớ .  
Nhiệt tâm nghĩa là nỗ lực, tinh tấn, đẩy cái tâm mình lên chứ không phải là làm cái tâm yếu xìu .
Tỉnh giác (Sampajañña) (Ngài Chánh Thân) có nghĩa là:
  • Sống trong trạng thái thức tỉnh, không phải mê ngủ, ghi nhận cả hai tâm Thiện / Bất Thiện / không Thiện hay Bất Thiện . 
  • Điểm đặc biết của tỉnh giác được diễn tả như người lính gác ở biên cương lúc nào cũng ở trong trạng thái cảnh giác cao độ, quan sát .

Niệm: ghi nhớ

Diệt trừ những tham ưu ở đời: Để hành thiền TNX, trước hết phải giữ Giới . Người không giữ Giới không thể có tâm trong sạch để hành thiền .


Tham dự các khoá Thiền:

1/ Để lại những gánh nặng thế tục ở ngoài cổng trường Thiền
2/ Trong các khoá Thiền, việc đầu tiên là thọ Giới với hai hành động sau để có giới trong nền tảng trong sạch trước khi hành Chỉ và Quán (ở đây chúng ta nói đến TNX):
  1. sám hối những lỗi lầm trong quá khứ
  2. thọ Giới 
3/ Các vị tì kheo ni bị giới luật cấm không được ngồi kiết già (tìm "Sư Hạnh Tuệ Kiết Già" sẽ có đủ information).
4/ Ngồi theo tư thế nghiêm túc .


Tứ Niệm Xứ: Quán Thân

1/ Để ý đến trước mặt để theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra .

2/ Khi lái xe thuần thục, trước khi quẹo trái / phải, chúng ta tự động quẹo, không cần phải tự nhủ: trái, trái, trái hoặc phải, phải, phải .  Tương tự, khi hành thiền, chúng ta biết rõ sẽ thở vào / ra (không cần ngôn ngữ) .  Nếu cần, chỉ cần nhắc tâm một lần để tâm ghi nhớ . Cho nên, sự biết không cần ngôn ngữ .

3/ Biết hơi thở vào và biết hơi thở ra .  Không phải: TÔI đang thở vào và TÔI đang thở ra . 

8/ Không cần thiết phải biết hơi thở dài ngắn vì chưa đạt Tứ Thiền (Định) vì tiêu chuẩn lý tưởng trước khi thực hành TNX là đã chứng đắc Tứ Thiền . Cụ thể ở đây là Tứ Thiền Hơi Thở .  Đó là lý do tại sao Chỉ và Quán đều có hơi thở .

4/ Sau khi ra khỏi hơi thở của Tứ Thiền (Định), chúng ta mới có thể thoải mái quan sát những đặc tính của hơi thở: hơi thở dài / ngắn . Chưa có Định mà phân tích đặc tính của hơi thở sẽ làm gián đoạn Định .

5/ Hai điều cần làm:
  1. Quan sát sự sanh lên và diệt đi của hơi thở . 
  2. Từ đó, nhận ra rằng chỉ có tấm thân này đang thở chứ không có ai đang thở .
Chỉ có Trí Tuệ quan sát hơi thở, ghi nhận đối tượng chứ không có ai quan sát . Như vậy, vị ấy không y cứ, không bám víu vào bất cứ cái gì trên đời .  Đó là thực hành TNX .

6/ Biết hít vào / thở ra chưa phải là thực hành TNX .

7/ Không nên nghĩ rằng: Tôi ngồi là tôi thiền, khi không ngồi tôi không thiền nữa .  Hành thiền trong tất cả các oai nghi .

8/ Nếu thất niệm: Nhắc lại một lần, sau đó tiếp tục quan sát là đủ rồi . Trí panna là trí biết rõ đang đi; sự biết rõ đó không cần ngôn ngữ; biết nó rồi thì không cần phải diễn tả . Tương tự như vậy, biết tất cả các tiểu oai nghi đang xảy ra; toàn bộ đều có sự nhận biết . Và bản thân sự nhận biết đó không cần ngôn ngữ .

9/ Khi quan sát người khác cũng vậy: co tay duỗi tay, v.v. Từ đó nhận thức được bản chất của vũ trụ này là gì . "Toàn bộ chỉ là một khối tổng hợp ." 

10/ Quán thân trên thân: Tổng hợp này đang đi / đứng / nằm /ngồi . Không có ai cả . Ở đây chỉ có sự ghi nhận, ghi nhớ đối tượng: từ Thân tới Tâm, từ Mình đến Người .

  1. tỉnh táo, nhận thức vấn đề
  2. bản chất của nó là gì: biến đổi không ngừng, sanh diệt liên tục, là sự tổng hợp lắp ráp., không có TÔI.
  3. nhờ thấy rõ sự thật, sẽ đi đến nhàm chán .
  4. từ nhàm chán, đến ly tham
  5. từ ly tham, đến giải thoát .
Không có tầng tuệ nào .  Chỉ có những trạng thái tâm lý diễn ra khi thực hành .

11/ Quan trọng khi hành thiền là biết cái gì đang diễn ra vậy .  
  1. Nhìn sự sanh diệt của nó thấy mình cũng vậy .  
  2. Nhìn cái tổng hợp của nó và mình chợt nhận ra ở đây không có ai cả .
  3. Đơn thuần là sự chuyển động và quan sat mà thôi .
Đó là quán thân trên thân .

12/ Cần thực hành những gì Sư đang hướng dẫn qua bối cảnh, thời gian và địa điểm để có kết quả.

Tứ Niệm Xứ: Quán Thọ

Thọ:

1/ thọ lạc (dễ chịu) và thọ khổ (khó chịu): trong hiện tại, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đang thọ lạc hay thọ  khổ
2/ phân biệt sự dễ chịu này có liên quan đến Dục không .
Ví dụ: tâm hân hoan khi lễ Đức Thế Tôn không liên quan đến Dục, nhưng cảm thọ thích thú khi uống nước vì khát có liên quan đến Dục .
3/ sự khó chịu cũng vậy .  Các cảm thọ về thân có liên quan đến Dục không .
Ví dụ: ưu tư lo lắng khi nấu ăn cho chư tăng không liên quan đến Dục, nhưng thọ khổ vì nóng nực có liên quan đến Dục Lạc .
4/ Xét cảm thọ này biến đổi không ngừng .

Khi ngồi đau quá, chịu hết nổi thì đứng dậy đi thiền . Lúc này cảm thấy dễ chịu .  Đi một hồi từ dễ chịu chuyển qua khó chịu . Đau chân, đau lưng, chịu hết nổi, lại ngồi thiền .

Khi ngồi xuống, sẽ có cảm giác dễ chịu . Dần dần, ta lại cảm thấy khó chịu .

Như vậy, cảm thọ biến đổi không ngừng .

5/ Chúng ta phải tách thọ nhận được từ thân hay từ tâm .  
  1. Nếu khó chịu từ thân, mình không để cho tâm ưu phiền . 
  2. Sau đó, tìm nguyên nhân sự khó chịu đó (do ngồi nhiều quá, bị đau lưng, đau bụng, không dám  uông nước nên khát, không dám đi tiểu).
Nhờ phân tách như vậy, khi ăn ngon miệng sẽ không đưa đến Tham Ái từ Ý .  Nhờ vậy, có chánh niệm, nhận thức rõ 
  1. ăn ngon và sự thích thú không phải là một, sự dễ chịu của thân không dính dáng gì đến tâm . Sau cùng, khi bị khổ thân, tâm không khổ ---> bớt khổ rất nhiều .
  2. tương tự vui, buồn, không vui không buồn là những cảm thọ của tâm . Như cảm thọ của thân, cảm thọ của tâm là cảm thọ, chứ không có ai cả . Mình như thế nào thì người như thế đó .
  3. Từ đó, mình có thể xem sự sanh lên của các cảm thọ, nhìn xem sự diệt đi của các cảm thọ .  Nhờ vậy, ta có thể nhìn các cảm thọ theo tư thế của người ngoại cuộc . Và không bị chúng cuốn đi .
Tứ Niệm Xứ: Quán Tâm

Để ý xem nó là Tâm Tham hay là Tâm Sân:
  1. Tâm Tham có nghĩa là đang thọ Lạc, có nghĩa là dễ chịu .
  2. Tâm Sân thọ Ưu .
Như vậy, không bị nhầm lẫn: 
Ghi nhận tâm có tham hay tâm có sân . 
Khi ai đó mắng chửi mình, 
  1. mình cảm thấy  sự khó chịu, hãy ghi nhận tâm có sân và quan sát tâm sân .
  2. mình cảm thấy không có sự khó chịu, hãy ghi nhận tâm không có sân và quan sát tâm không sân . 
Ghi nhớ: Muốn quán được TNX, trước hết giới hạnh cần được trong sạch . Sau đó, chúng ta cần phải:
  1. đề phòng
  2. luôn giữ chánh niệm
để có thể coi cái gì đang diễn ra . Nhờ đó, chúng ta không mắc phải trường hợp LỪA MÌNH DỐI NGƯỜI .  Ví dụ: Đập bàn đập ghế, nhưng miệng nói tôi không sân .  Nắm tay người khác giới, nhưng miệng nói tôi không tham .

Càng tu tập, tâm càng nhạy cảm . Mức độ nhạy cảm tuỳ thuộc vào sự thực hành của mỗi người .
1. Người ở bẩn, 7 ngày không tắm, sống gần cống rãnh, nếu nằm dưới đất vẫn không sao .  Người tắm rửa sạch sẽ, khi ngón tay chạm đất sẽ thấy dơ bẩn .
2. Người sống với tham sân si rất nhiều, sẽ không phát hiện được tâm đang tham / sân / si .  Đó là vì tâm bị ô nhiễm quá nhiều rồi, nay thêm một đống ô nhiễm nữa cũng vậy thôi .

Ví dụ: Nhờ quán tâm kỹ lưỡng, 
  1. Khi qua quán bán bánh canh, họ nhận ra ngay tâm Tham đang có mặt .  
  2. Không cần phải nhìn thấy phụ nữ, mà chỉ cần nhìn thấy đôi giày phụ nữ, thỏi son, hình nộm phụ nữ (mannequin), hoặc y phục phụ nữ, lập tức họ phát hiện tâm Tham nổi dậy . 
Nếu không quán tâm đều đặn, cho dù nắm tay phụ nữ, họ không thấy tâm Tham vì bình thường họ đã Tham sẵn rồi .

Các tâm còn lại cũng vậy .

Cần quan sát:
Tâm Tham này có Dục đi kèm hay không .  Nếu có, hãy ghi nhận: Tâm Tham này có Dục đi kèm .  Ví dụ: ăn ngon cảm thấy thích thú, hãy ghi nhận "Tâm Tham có Dục đi kèm ."  Thích thú trong việc hành thiền / học Pháp, là có Tham nhưng không dính dáng đến Dục .

Sách Tam Tạng Chỉ Nam dạy chúng ta nên có: 
  1. những cái Tham không dính dáng đến Dục (thích bố thí, thích hành thiền, thích giữ giới) và 
  2. những cái Sân không dính dáng đến Dục (lo lắng không biết làm sao để "giữ giới" / "hành thiền" /"tâm được tinh tấn" tốt hơn).
TNX dạy phải biết đang Tham loại gì đang xảy ra, không nhầm lẫn, CHÂN THẬT VỚI CHÍNH MÌNH. 

Tứ Niệm Xứ: Quán Pháp

Quán Pháp đòi hỏi chúng ta có kiến thức về giáo lý Phật Pháp . 

Ví dụ: Khi quán tâm Tham, phải biết cái Tham này từ đâu mà có . 

Uống ly nước thấy ngon quá do lưỡi tiếp xúc với nước, do thân này mới có lưỡi, do đầu thai mới có thân tâm này, do tạo các Nghiệp Thiện Ác trong quá khứ mới đi đầu thai, do đi đầu thai nên mới có cái Thân cái Tâm này . Do cái Thân Tâm này, mình mới có cái miệng và có ly nước .  Chính vì cái miệng và ly nước gặp nhau nên các cảm thọ nảy sinh .  Do các cảm thọ này sinh ra chuyện thích thú . Do sự thích thú đưa đến sự dính mắc . Do dính mắc nên đưa đến phản ứng và đến thiện ác . Do thiện ác đưa mình đi tái sanh . Hễ còn tái sanh là không thể tránh KHỔ .

Phải quan sát tới mức độ như vậy: 
  1. Quan sát dựa trên 12 Nhân Duyên, đi theo chiều nghịch rồi đi theo chiều thuận .  
  2. Thấy rõ sự tai hại của cái Tham này , và 
  3. làm sao chấm dứt được cái Tham này .
Phương pháp chấm dứt được cái Tham này đòi hỏi chúng ta phải 
  1. có kiến thức về Phật Pháp, học hỏi Kinh Điển và biết các phương pháp, và
  2. biết nên áp dụng phương pháp nào để chấm dứt tâm Tham .
Tương tự như vậy với tâm Sân .  Chỉ quan sát thôi .

Như vậy, chúng ta cần biết Bát Chánh Đạo: 
  1. Chánh Kiến là gì, mình có Chánh Kiến hay chưa, từ lời nói, hành động, hay suy tư của mình có Chánh Kiến hay chưa, 
  2. Chánh Mạng mình có  hay chưa, từ lời nói, hành động hay suy tư của mình có phù hợp vơi Chánh Mạng hay không, mình đang làm gì để nuôi sống bản thân có đúng hay không .
(cứ thế, quan sát tiếp tiếp theo)

Quan sát xem nội tâm đang bung xung loạn động hay đang lui sụt:

  1. Tâm đang bung xung loạn động: lý do gì, và phương pháp gì để ngăn ngừa / hạn chế nó .  Bài Kinh nào nói về chuyện đó, học và thực hành cách nào để ngăn tâm bung xung loạn động .
  2. Tâm đang bị đóng rêu (buồn ngủ, dã dượi): do đâu có tâm này, cách giải quyết .
Vì thế, quán Pháp đòi hỏi kiến thức sâu rộng về Giáo Lý để có thể quán Pháp linh động hơn .

Kết Luận: 

Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành để phát triển Trí Tuệ, không phải là một công thức để tụng niệm . Tâm phải quan sát chuyện gì đang xảy ra và làm sao để giải quyết nó . Nhờ vậy mình thành thật với chính mình, có gì thì phát hiện cái đó, đề phòng nó, tách nó ra . Ở đây, chỉ có vấn đề, không có ai có vấn đề . Ví dụ: Một bà mẹ đứng trước cổng trường chửi xối xả: Nhận biết đây có tâm Sân, không có con người, có vấn đề nhưng không có con người đang gặp vấn đề . Như vậy, mình nhìn vấn đề bằng một cặp mắt tỉnh táo và thành thật với chính mình .  Từ đó, mình không bị người ta dắt mũi chạy theo cảm xúc .

--ooOoo--

Tứ Chánh Cần

Khi thực hành Tứ Niệm Xứ, có nghĩa là chúng ta đang thực hành Tứ Chánh Cần .
Reply
Phiếm luận: 
  1. không giúp sự giác ngộ, 
  2. không giúp sự tu tập.

https://youtu.be/WU7ZYS2ZX0o
Reply
Cần sử dụng trí tuệ để biết khi nào cần sống với Chân Đế, khi nào cần sống với Tục Đế .

Ngài Mahasi khuyên dạy thiền sinh không nên lẫn lộn giữa pháp chân đế và tục đế khi thực hành. 
  1. Sống với Chân Đế: tu tập Tứ Niệm Xứ sẽ tạo duyên sinh phước Tuệ .
  2. Sống với Tục Đế: sinh hoạt hàng ngày cần tâm hoan hỉ .
Cần tâm hoan hỷ khi thực hiện các pháp thiện như bố thí, trì giới, phục vụ, vv... 

(Post # 950, p 64)

--ooOoo--

Không nên nhắm mắt tin theo ai, cho dù người đó là một vị sư Phật Giáo Nam Tông nổi tiếng .  

(Post # 951, p 64)
Reply
Hỏi: Địa Ngục có thật không ?

Đáp: Có thật .  Chính Đức Thế Tôn từng dạy về cảnh giới Địa Ngục trong bài Kinh 130 thuộc Trung Bộ Kinh .

http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=15534&pid=457860#pid457860

Post #953 và 954, p 64


Kết Luận:
Chúng ta học Phật Pháp để hiểu rõ thế giới tâm linh hoạt động ra sao .  Một khi hiểu rõ, kiến thức này sẽ giúp chúng ta cách sống thuận theo lẽ đạo, bớt lo sợ không căn cứ .
Reply