Người về qua cõi phù vân ... Nghiêng vai trút gánh phong trần bỏ đi...

Vận hội mới cho Việt Nam
#1
Ông Hùng Cao tới Việt Nam - Chống Cộng hay Giúp Cộng?


Năm 1971, miền Nam Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc chiến tranh kéo dài hơn một thập niên.

Sau chiến dịch Lam Sơn 719, quân lực Việt Nam Cộng hòa đối mặt với thực trạng suy giảm tinh thần chiến đấu. Quân đội chịu tổn thất nặng nề, đặc biệt ở các đơn vị dù và thủy quân lục chiến. Tất cả những biến động ấy tạo nên phong nền lịch sử của Sài Gòn năm 1971, thời khói lửa chia rẽ và những toan tính cuối cùng của một chánh thể đang cố gắng chứng minh khả năng tự tồn tại.

Giữa bối cảnh đó, trong một gia đình miền Nam, Cao Hùng ra đời, anh là con của một trí thức từng là phụ tá cho Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo trong lĩnh vực phát triển kinh tế.

Bốn năm sau, ngày 30 tháng 04 năm 1975, khi quân đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, gia đình anh là một trong hàng ngàn hộ dân rời khỏi đất nước trên những con tàu di tản. Họ không chỉ mang theo hành lý và ký ức mà còn mang theo tinh thần của một nền cộng hòa non trẻ chưa kịp trọn giấc mơ. Lúc đó Hùng được bốn tuổi, dù còn nhỏ tuổi nhưng Hùng đã mang theo toàn bộ ký ức của một quốc gia thành vượng. với các giá trị tự do và hơn hết là mang trong mình dòng máu kiêu hùng của người con miền Nam.

Nửa thế kỷ sau, đứa trẻ tị nạn năm nào tuyên thệ nhậm chức thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ. Chức vụ dân sự số hai trong hệ thống chỉ đạo của Bộ Hải quân đứng sau Bộ trưởng trực tiếp tham gia hoạch định ngân sách, chính sách và chiến lược biển toàn cầu của quốc gia Hải Cường số 1 thế giới.
Năm 1989, Hùng gia nhập hải quân Hoa Kỳ với tư cách là thủ binh. Năm 1996, anh tốt nghiệp học viện hải quân Hoa Kỳ với học vị trưởng nhân kỹ thuật đại dương.

Sau đó ông còn lấy bằng thạc sĩ chuyên ngành vật lý ứng dụng tại Naval Postgraduate School (NPS) năm 2008.

Trong khi bạn bè chọn nghề kỹ sư, bác sĩ, ông lại đi gỡ mì. Là sĩ quan đặc nhiệm EOD, ông phục vụ ở Iraq, Afghanistan, Somali, những mặt trận khắc nghiệt nhất sau vụ khủng bố 11 tháng  9. Là người gốc Việt, nhưng khoác áo lính Mỹ, ông chiến đấu không nhân danh mối hận thù mà là vì lời thề trung thành với đất nước đã cưu mang mình. Khi Việt Nam mở (3:05) cửa hòa nhập, Hùng Cao cũng bước vào hành lang quyền lực.
Sau khi giải ngũ với cấp hàm tương đương Đại tá, vào năm 2021, ông bước vào chánh trường với tư cách đảng viên đảng Cộng hòa. Năm 2022, ông ứng cử vào hạ viện Hoa Kỳ nhưng thất bại. Năm 2024, ông ra ứng cử thượng viện Hoa Kỳ tại Virginia và cũng thất bại trước Tim Ken với tỷ số 45% so với 54%.

Nhưng sự nghiệp chánh trị của ông không dừng lại ở đó. Ngày 28 tháng năm 2025, Tổng thống Donald Trump đề cử ông vào vị trí thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ. Sau khi được thượng viện Hoa Kỳ thông qua, ông tuyên thệ nhậm chức vào ngày 3 tháng 10 năm 2025. Từ đó, Hùng Cao chánh thức trở thành một chánh khách Hoa Kỳ gốc Việt là niềm tự hào của cộng đồng người Việt tị nạn.

Những sự ngộ nhận: -chức danh Thứ trưởng Hải quân là vị trí dân sự cấp cao thứ hai trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ. Chịu trách nhiệm chính sách, ngân sách, chiến lược và tổ chức của hải quân và thủy quân lục chiến.

Một số ý kiến trong nước cho rằng chức vụ này tương đương Phó Tư lệnh hải quân Việt Na không có cửa so với Bổ Quốc phòng, là một sự ngộ nhận nghiêm trọng do không hiểu cơ chế quốc phòng của Hoa Kỳ. Đây không phải là vị trí thuần quân đội mà là chức vụ hành chánh, chiến lược cấp cao trong chính phủ liên bang. Khác với mô hình quân sự tập trung của Việt Nam, Hoa Kỳ đã có quân đội dưới quyền kiểm soát dân sự Bộ Hải quân lo về hành chánh chiến lược, còn tư lệnh tác chiến không làm chánh sách.

Ngân sách năm 2025 của Bộ Hải quân bao gồm Navy và Marine vượt 255 tỷ USD lớn hơn GDP nhiều quốc gia và Cao Hùng chính là người quản lý ngân sách này.

So với hải quân Việt Nam chỉ là một binh chủng thuộc Bộ Quốc phòng biên chế nhỏ, không hàng không mẫu hạm, không tàu ngầm hạt nhân thì chức phó tư lệnh của hải quân Việt Nam không thể đặt ngang hàng về quy mô lẫn tầm ảnh hưởng.

Phản biện những lời chỉ trích:

Tháng 11 năm 2025 khi phái đoàn bộ chiến tranh Hoa Kỳ đến Hà Nội, Hùng Cao xuất hiện với tư cách viên chức tháp tùng. Một số trang mạng trong nước lập tức gán nhãn ba que phản động, thậm chí chế nhạo ông trước ánh nhìn của Thứ trưởng Nguyễn Trượng Thắng. Họ ghép hình ảnh, gán thái độ, tạo tiểu phẩm xuyên tạc, nhai lại giọng điệu chiến tranh lạnh.

Phải cần khẳng định rõ Hùng Cao không trở về thăm quê, không mang tư cách Việt Kiều mà đang thi hành công vụ cấp cao với tư cách là một viên chức Hoa Kỳ do Tổng thống đề cử, được thượng viện phê chuẩn và đang giữ chức vụ hành chánh cao thứ hai trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ. bộ phận quản lý toàn bộ hệ thống hành chánh của hải quân và thủy quân lục chiến Mỹ trong khuôn khổ hợp tác quốc phòng song phương.
Việc một thứ trưởng hải quân Mỹ có mặt tại Hà Nội không khác gì việc một thứ trưởng ngoại giao hay Bộ trưởng kinh tế các nước khác sang Công cán. 

Đây là đối tác chính thức của Việt Nam và đương nhiên cũng không phải để trình diện bất kỳ ai. Việc bản thân ông là người gốc Việt lại càng cho thấy thông điệp của chính phủ Mỹ. Một người tị nạn cộng sản nay là quan chức chính phủ Mỹ có thể ngồi ngang hàng với lãnh đạo Việt Nam đương nhiệm trong tinh thần hợp tác bình đẳng cùng hướng đến lợi ích hai quốc gia. Nếu người trong nước gạt bỏ định kiến thì người Việt tị nạn cũng có thể gạt bỏ đau thương.

Một số dư luận viên thay vì nhìn thấy cơ hội hòa giải lại sa vào việc bới móc quá khứ, dựng chuyện cá nhân, nhưng cần phải thấy rõ.

Thứ nhất, Hùng Cao là công dân Hoa Kỳ, phục vụ theo pháp luật Mỹ, trung thành với hiến pháp Mỹ. Khi kể lại ký ức gia đình tị nạn năm 1975, ông không chống phá ai mà đang nói lên một sự thật lịch sử của cá nhân mình. Đó là quyền tự do phát biểu được Hiến pháp bảo vệ và cũng là một phần lịch sử mà Việt Nam không nên né tránh.

Thứ hai, việc gán ghép cụm từ ba que cho một quan chức Mỹ gốc Việt vừa vô nghĩa vừa phản tác dụng. Nó không chỉ làm tổn hại đến hình ảnh Việt Nam trong con mắt quốc tế mà còn trực tiếp làm suy yếu mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Mỹ đang ngày càng quan trọng, nhất là trong bối cảnh địa chánh trị biển Đông ngày một phức tạp.

Thứ ba, nếu Hùng Cao và gia đình ông không rời khỏi Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 thì gần như chắc chắn ngày hôm nay ông sẽ không thể nào trở thành một sĩ quan cấp cao, càng không thể trở thành thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ. Bởi lẽ con cháu của quân nhân, công chức trí thức miền Nam Việt Nam Cộng hòa xem là con ngụy, vậy nên không được kết nạp đoàn đảng, không được thi đại học, bị xa lánh, xếp loại ý thức kém và cần được cải tạo tư tưởng. Nếu ở lại, Hùng Cao có thể chỉ là một người đàn ông sống bằng lao động chân tay như bao đứa trẻ miền Nam khác bị đẩy ra lề xã hội vì cái lý lịch ngụy quân ngụy quyền.

Thứ tư, xuyên tạc rằng ông cúi đầu hay sợ ánh nhìn của lãnh đạo Việt Nam là điều nhảm nhí, ngu ngục và phản tác dụng.

Nó là biểu hiện của tâm thế tự ti, pha lẫn hằn học, thiếu hiểu biết về phép tắc ngoại giao hiện tại. Một người từng chỉ huy đội đặc nhiệm gỡ mìn, từng dẫn đầu lực lượng quân sự, lính chiến tại Iraq, Afghanistan, Somali, từng được Tổng thống Hoa Kỳ đề cử và thượng viện phê chuẩn điều hành ngân sách 250 tỷ đô la sẽ không cúi đầu vì sợ ai cả.

Nếu có cúi đầu là vì phép lịch sử ngoại giao, điều mà chính các lãnh đạo Việt Nam cũng đã từng làm. Hãy nhớ lại, khi cựu thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bước tới bắt chuyện với Tổng thống Donald Trump đang ngồi khoanh tay, ông Phúc phải cúi đầu nghiêng người về phía trước, trước ống kính báo chí quốc tế. Đó có phải là cúi đầu vì sợ hãi không? Chắc chắn là không. Đó là ngoại giao và là cách ứng xử đúng mực của một nhà lãnh đạo trong chánh trường toàn cầu.

Vậy thì tại sao khi Hùng Cao với tư cách là một thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ, đối tác chánh thức trong khuôn khổ quốc phòng song phương nghiêng đầu (trong một khung hình của máy quay) lại bị gán ghép bêu riếu? Phải chăng những người tung tin đó không muốn Việt Nam và Hoa Kỳ bình đẳng, không muốn có hình ảnh người Việt tị nạn ngồi ngang hàng với lãnh đạo quốc nội? Nếu vậy, những dư luận viên này không chỉ xúc phạm ông Hùng Cao mà đang chống lại chính sách ngoại giao của nhà nước Việt Nam, phá hoại chính mối quan hệ đang được vun đắp giữa hai quốc gia.

Một điều cuối cùng cần lưu ý, bên cạnh những lời xuyên tạc từ dư luận viên trong nước, một số người Việt hải ngoại vốn mang nhiều tổn thương sau năm 1975 cũng bày tỏ thái độ phản đối khi thấy ông Hùng Cao xuất hiện trong phái đoàn chính phủ Hoa Kỳ đến Việt Nam. Họ cho rằng việc các viên chức Mỹ gốc Việt về nước là một hành động hợp thức hóa cộng sản tiếp tay làm giàu cho chế độ. Một số người thậm chí chỉ trích chính phủ Hoa Kỳ là thiếu lập trường, giờ đi bắt tay với kẻ thù cũ.

Tuy nhiên, hợp tác Mỹ Việt ngày nay không xuất phát từ sự tin cậy hoàn toàn về ý thức hệ mà PHẢI LÀ từ sự đồng thuận về lợi ích chiến lược. Đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng sự ảnh hưởng ở biển Đông và toàn bộ Đông Nam Á.

Không có chuyện về làm giàu cho cộng sản mà là bảo vệ chuỗi lợi ích của Hoa Kỳ. Trong đó có cả cộng đồng người Việt tại Mỹ và các doanh nghiệp quốc phòng, các tổ chức khu vực và quyền tự do hàng hải của thế giới.

Những ai nghĩ rằng phải đoạn tuyệt với Việt Nam có lẽ đang mang tư duy độc tài, hoặc tư duy chiến tranh lạnh của thế kỷ trước chứ không hiểu rằng trong thế giới hôm nay quyền lực nằm ở vị thế ngoại giao và khả năng điều phối lực lượng thực tế. Nếu Hoa Kỳ thất thế trước Trung Quốc thì tương lai của người dân Hoa Kỳ cùng cộng đồng tị nạn cũng không mấy tốt đẹp.

Nhìn lại lịch sử:

Ngày 22 tháng 6 năm 1940, Pháp ký kết thỏa thuận ngừng bắn với Đức quốc xã dẫn đến sự thành lập chính phủ. Việc chuyển giao quyền kiểm soát nhiều lãnh thổ hải ngoại của Pháp bao gồm Đông Dương. Tuy nhiên, khả năng kiểm soát thuộc địa của Pháp đã giảm sút đáng kể. Sau nhiều cuộc đàm phán với đế quốc Nhật Bản, Pháp đồng ý để Nhật Bản thiết lập căn cứ quân sự tại Đông Dương và thành lập Đông Dương Phái Khiển Quân, đánh dấu sự hiện diện của quân Nhật tại Việt Nam.

Trước tháng năm 1945, lực lượng cộng sản trong hàng ngũ Việt Minh chưa tới 5000 người, trong khi phần lớn thành viên là từ các đảng phái quốc gia khác. Điều này khiến ảnh hưởng của cộng sản đối với tình hình chánh trị miền Nam không đáng kể so với các lực lượng như Cao Đài, Hòa Hảo và Quốc Dân đảng. Ngược lại, uy tín của Việt Minh ở miền Bắc rất cao, đặc biệt là vào giữa năm1945 khi nạn đói lên tới đỉnh điểm, Nhật và Pháp đã thu mua gạo ở miền Nam và cắm vận chuyển ra Bắc. Số lượng gạo từ miền Nam ra Bắc giảm mạnh từ hơn 126.000 tấn vào năm 1942, xuống chưa tới 7.000 tấn vào năm 1944.

Số người chết vì đói lên tới hơn 1,5 triệu, tương đương khoảng 17% dân số miền Bắc. Hơn 55.000 tắn gạo tôn động ở miền Nam phải bán gấp cho các xưởng rượu để tránh hư hỏng do thời tiết ẩm móc. Tuy nhiên, dă kháng chiến miền Nam vẫn lén lút tìm cách chuyển lương thực ra Bắc để cứu đói. Ở Quảng Ngãi, từ tháng năm 1945, đội du kích Ba tơ được Việt Minh giao nhiệm vụ đã chặn tất cả các đoàn tàu thuyền từ miền Nam ra Bắc cứu đói. Mục đích để gia tăng sự câm phẳn của người Bắc Kỳ đối với quân Nhật và kêu gọi phá kho thóc để giải quyết nạn đói, qua đó củng cố uy tín của Việt Minh.

Hơn 3 năm sau, khi Nhật Bản tấn công Trân Châu cảng, chánh phủ Hoa Kỳ đang tìm kiếm đồng minh để hoạt động trong lòng địch ở Đông Dương. Họ hy vọng việc huấn luyện người Việt Nam, chiến thuật du kích sẽ giúp chống lại quân Nhật và thu thập thông tin tình báo giá trị. Vì vậy, một nhóm tình báo chiến lược của OSS mang tên đội Con Nai đã nhảy dù xuống gần căn cứ Việt Minh tại miền Bắc.

Câu chuyện bắt đầu vào tháng 11 năm 1944, khi Trung Quý Rod Shaw phi công thuộc không đòan 14 bị buộc phải nhảy dù xuống vùng Cao Bằng sau khi phi cơ của anh bị trúng đạn. Tại đây, Shaw đã gặp Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Cuộc gặp cỡ này đã tạo nên một thương vụ lịch sử ảnh hưởng lớn đến vận mệnh của Việt Nam trong nhiều năm sau. Trong suốt 30 ngày lẩn trốn quân Pháp và Nhật, Việt Minh đã đưa Shaw đi từ căn cứ này đến căn cứ khác. Shaw cho biết vào thời điểm này Việt Minh rất kính trọng anh vì biết rằng anh không chỉ chiến đấu cho nước Mỹ mà còn vì tự do và dân chủ của thế giới và Đông Dương.

Sau khi đưa Shaw trở về căn cứ Mỹ ở Côn Minh, Hồ Chí Minh đã từ chối món quà của anh và chỉ yêu cầu được gặp tướng Claire Channel, chỉ huy đừng danh của công đoàn Cọp Bay. Tuy nhiên yêu cầu này nhanh chóng bị từ chối. Hành động giải cứu Trung Quý Shaw đã khiến người Mỹ tin rằng Việt Nam cũng chống Nhật và có thể đứng về phe đồng minh. Vào lúc 8:18 ngày 9 tháng năm 1945, tướng Suji Hashi Yusu chỉ huy đạo quân Thiên Hoàng 38 ở Sài Gòn đã ra lệnh cho 67.000 binh sĩ và các lực lượng giáo phái bản địa gọi là bộ đội Hải Hồ bắt đầu cuộc đạo chánh chống Pháp. Theo nhà sứ học David More, khoảng 2100 sĩ quan và quân dân Âu Châu bị giết hoặc mất tích trong cuộc đảo chánh và 15.000 binh sĩ Đông dường đang bị Nhật giam giữ, trong đó có 12.000 người Âu Châu.

Vào quý đầu năm 1945, OSS đã cử một đội chuyên gia đến Việt Bắc để hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng và huấn luyện lực lượng Việt Minh. Hồ Chí Minh đã cung cấp cho họ bản báo cáo hành quân và những lưu ý khi hành quân ở Đông Dương. Hy vọng rằng báo cáo này sẽ được gửi về Côn Minh để Việt Minh giành được thiện cảm và tăng cường viện trợ từ đồng minh (Trung cộng).

Đội Con Nai đã mang đến Việt Bắc vài khẩu carbin, một khẩu R và nhiều súng ngắn cùng đạn dược khiến Việt Minh vui mừng vì phần lớn họ sử dụng súng tự chế hoặc vũ khí lỗi thời như Reminton 1904.

Các máy điện đài kỹ thuật số mà OSS thả dù xuống cũng giúp Hồ Chí Minh thiết lập thêm nhiều trạm điện đài hiện đại tại Hà Giang, Lạng Sơn và Cao Bằng. Trong thời gian hợp tác, đa số các thành viên OSS đều coi ông Hồ Chí Minh như một người bạn thân thiết. Các binh sĩ Việt Minh lần đầu tiên được tiếp xúc với cà phê từ những người Mỹ vì trước đây nó chỉ là thức uống cao cấp của thực dân và giới trung lưu. Tổ chức này bao gồm cả người Mỹ da trắng, người Mỹ gốc Hoa và người Pháp.

Nhưng sự hiện diện của người Pháp đã khiến Việt Minh không hài lòng. Bên cạnh các thông tin tình báo và chỉ điểm, ông Hồ Chí Minh còn liên tục soạn thảo các bản báo cáo về tội ác của Pháp tại Đông Dương. Điều này làm tăng sự cách ly giữa ông và các thành viên khác của đội. Hồ Chí Minh đã cung cấp cho 1000 chiến sĩ du kích thiện chiến sẵn sàng hỗ trợ Hoa Kỳ trong các kế hoạch chống Nhật.

Tuy nhiên, chỉ huy OSS tại Việt Bắc Party đã lưỡng lự trước đề nghị này vì trong hai tuần đầu tháng sáu, đội Con Nai đã đạt nhiều tiến bộ với người Pháp và có thể sẽ quay lại hợp tác với họ.

Nhưng OSS một lần nữa đã chọn Việt Minh với sự hỗ trợ từ tình báo OSS trong việc xây dựng Vệ quốc đoàn, và sau này là quân đội nhân dân Việt Nam. Chánh phủ của ông Hồ Chí Minh đã sát cánh cùng Hoa Kỳ trong cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật. Bộ đội Việt Minh được huấn luyện sử dụng các loại vũ khí hiện đại trong khuôn khổ chiến dịch của OSS, tiền thân của CIA.

Vào tháng 6 năm 1945, khi đội Con Nai đến Tân trào, ông Hồ Chí Minh nghiêm túc đề nghị Hoa Kỳ biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ và yêu cầu loại bỏ người Pháp khỏi Đông Dương, đồng thời mở cửa tiếp đón 10 triệu người Mỹ. Thiếu tá Alison Thomas, chỉ huy đội Con Nai, đánh giá Hồ Chính Mi là một người cộng sản giáo điều, trước khi là người cộng sản, ông ấy là một người quốc gia yêu nước.

Do vậy, hầu hết các chuyên gia OSS đều báo cáo cấp trên rằng nên hợp tác với Hồ Chí Minh thay vì với người Pháp. Tuy nhiên, yêu cầu về vũ khí, quân phục và thiết bị quân sự của Việt Minh ngày càng cao khiến OSS lo ngại rằng mục đích chính của Hồ Chí Minh không phải là chống Nhật mà là lợi dụng OSS để xây dựng lực lượng vũ trang của riêng mình nhằm kiểm soát Bắc Kỳ.

Mối quan hệ hợp tác này không phải lúc nào cũng suông sẻ. Trung tá Peter Drugy, 28 tuổi, chỉ huy phái bộ ở Nam Kỳ, phản đối sự can thiệp võ lực của Anh và Pháp, nhưng bị thiếu tướng Ruxy ra lệnh trục xuất. Ngày 26 tháng ông bị Việt Minh bắn chết vì bị lầm là người Pháp khi đang trên đường ra phi trường chưa kịp rời khỏi Việt Nam.

Đơn vị võ trang của Việt mình cũng tấn công cơ quan và sát hại nhiều người Mỹ làm rạn nứt mối quan hệ tốt đẹp giữa Hoa Kỳ và Việt minh. Thiếu tá tình báo AG Medic Party, công tác ở Bắc Kỳ đã nhận xét rằng họ đã giết người bạn duy nhất của họ ở Nam Kỳ và chắc chắn người dân Hoa Kỳ sẽ không còn tin tưởng vào Việt Nam nữa. Party cho biết ông từng hy vọng rằng Việt Minh không phải là thủ phạm giết Drugy.

Từ năm 1945 đến cuối năm 1946, ông Hồ Chí Minh đã nhiều lần kêu gọi sự công nhận và hỗ trợ từ quốc tế Cộng sản nhưng bị Liên Xô từ chối vì muốn giữ mối quan hệ trung lập với quốc tế. Niềm hy vọng cuối cùng của ông là Hoa Kỳ quốc gia đã từng sát cánh cùng Việt Minh trong kháng chiến chống phát xích Nhật. Hồ Chí Minh đã gửi tám bức thư và điện đến tổng thống Harry Truman. Ba bức thư và  điện đến ngoại trưởng James Burns nhằm thuyết phục rằng ông không phải là đặc phái viên của quốc tế cộng sản.

Nhiều bức điện trong số đó được gỡ qua máy điện đài của đội Con Nai do William Yaskii điều hành. Tuy nhiên, tất cả các bức thư đều không nhận được phản hồi từ tổng thống Truman và chánh phủ của Truman đã quyết định ủng hộ việc Pháp quay trở lại Đông Dương. Suốt từ thời gian hoạt động bí mật cho tới lúc thành lập chánh quyền, đồng minh ngoại quốc duy nhất bên cạnh Việt Minh chỉ có Hoa Kỳ.

Đây là lý do mà bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam dân chủ Cộng hòa được biên soạn dựa trên nền tảng của tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ và có sự góp ý chỉnh sửa của Achim Medis Py. Do mối quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ xấu dần sau sự bắt đầu của cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhiều chiến công và ghi chép hoạt động của đội Con Nai ở Việt Nam nhanh chóng rơi vào quên lãng.

Nhiều thành viên của XX khác từng hoạt động tại Việt Nam đã giải ngủ khỏi quân đội và lên tiếng phản đối sự can thiệp của Mỹ tại Đông Dương cũng như cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Những thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến chiến lược của Việt Minh mà còn làm gia tăng các yếu tố bất ổn trong khu vực, đặt nền móng cho những diễn biến chánh trị sau này ở Việt Nam.

[Image: 577880808_122166706592675463_28950272088...e=69159FC2]

%%%%
TỬNG TỪNG TƯNG  Biggrin  Lol
Reply
#2
...........................................

Tại sao bằng đại học của Việt Nam Cộng hòa có giá trị ở hơn 60 quốc gia trên khắp thế giới trước ngày 30 tháng 04 năm 1975?

Thứ nhất, nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa dựa trên giá trị cá nhân của từng em học sinh để phát huy, đào tạo và phát triển thành tài năng trong tất cả lĩnh vực, ngành nghề.

Thứ hai, tuyệt đối tôn trọng tánh tự do, tư tưởng của các em học sinh ngay từ tuổi thiêu niên.

Thứ ba, lấy giá trị nhân bản dân tộc làm nền tảng để phát triển xã hội, xây dựng đất nước văn minh.

Thứ tư, ngay từ lớp 7 đến lớp 9, các em học sinh đã được làm quen với nghệ thuật và kỹ năng hùng biện để bảo vệ các quan điểm cá nhân độc lập của mình.

Thứ năm, Anh ngữ tuy không phải là ngôn ngữ thứ hai nhưng số tiết học Anh ngữ rất cao. Rất nhiều học sinh lớp 11 và 12 hoàn toàn có thể đọc sách tạp chí nước ngoài ngay từ nguyên bản.

Thứ sáu, đến lớp 11, 12 học sinh bắt đầu làm quen với môn triết học được tiếp cận và tự do nghiên cứu tất cả các triết thuyết của những nhà tư tưởng có ảnh hưởng quan trọng nhất của nhân loại và trên thế giới, kể cả Cát Mác, Lenin, Mao Trạch Đông và Thuyết Cộng sản chủ nghĩa xã hội với tài liệu đầy đủ.

Thứ bảy, từ lớp 6 đến lớp 9, học sinh đã làm quen với môn thuyết trình. Từ lớp 10, học sinh sẽ bắt đầu học về khoa hùng biện để khi lên đại học hoàn toàn có đủ khả năng trình bày, diễn thuyết trước đám đông về một đề tài khoa học xã hội nào đó của mình một cách chặt chẽ thuyết phục.

Thứ tám, học xong trung học, tất cả các học sinh đều có ý thức về nhân quyền, dân quyền, quyền ứng cử, quyền tranh cử và luôn đặt tổ quốc trách nhiệm danh dự lên hàng đầu. Thời Việt Nam Cộng Hòa lương của giáo viên, bác sĩ, y tá thuộc loại cao nhất. Giáo dục được nâng lên tầm quốc sách để xây dựng thành chiến lược phát triển quốc gia. 

Sau năm 1975, Việt Nam bỗng nhiên là lò đào tạo tiến sĩ thuộc dạng khủng trên thế giới! lol...Hiện nay, trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới về số lượng tiến sĩ. lol....

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2016, Việt Nam có 24.000 tiến sĩ, trong đó có 15.000 tiến sĩ làm việc trong các trường đại học cao đẳng trên khắp cả nước. Theo chỉ tiêu hàng năm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đề tài về đào tạo tiến sĩ, có lẽ hiện nay số tiến sĩ Việt Nam đã lên đến 30.000 vị trên thế giới.LOL...

Nếu khảo sát tạp chí FS. Năm 2014, Hoa Kỳ là quốc gia có tiến sĩ cao nhất với 67.449 vị. Đức có 28.147 vị. Anh quốc thì 25.028 vị và thứ tư là Ấn Độ với 24.300 vị. Nhật Bản đứng thứ năm nhưng chỉ có 16.039 vị. Kế đến là Pháp với 13.729 vị tiến sĩ. Các quốc gia này đều có những tiến sĩ đạt các giải thưởng khoa học danh giá trên thế giới và họ có những đóng góp thiết thực không chỉ cho quốc gia của họ mà cho cả thế giới nữa. Một vài con số tham khảo cho thấy Việt Nam là một lò đào tạo tiến sĩ thuộc dạng khủng. Quân bình mỗi ngày có thêm một người thăng học vị tiến sĩ và gần 10 người đổ thạc sĩ. Theo đó, năm 2016 tổng số thạc sĩ và tiến sĩ tốt nghiệp là 35.918, trong đó có 1234 tiến sĩ. Đến năm 2018, số người tốt nghiệp sau đại học tăng lên 38.021 người, trong đó có 1545 tiến sĩ. Số liệu này không tính các trường thuộc khối quốc phòng, an ninh, quốc tế hoặc những ai lấy bằng tiến sĩ ở nước ngoài.

Dân miền Nam mình ngày xưa, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên chắc đều nhớ rõ cách tổ chức độc đáo ở các lớp học tiểu học cách đây hơn bốn thập niên hồi đó cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ theo thứ tự từ lớn đến nhỏ lớp năm là lớp 1 ngày nay rồi đến lớp tư lớp ba lớp nhì trên cùng là lớp nhất lớp năm tức là lớp thấp nhất thường do các thầy cô giỏi hoặc các cao niên dồi dào kinh nghiệm nhất để phụ trách. Sở dĩ như vậy á là vì bậc học này được xem là vô cùng quan trọng. Vậy học trò từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đọc, biết viết, biết những kiến thức cơ bản đầu tiên. Nghĩa là biến từ chỗ không có gì đến chỗ bắt đầu có.

Học trò không phân biệt vào nghèo. Khi đến lớp chỉ được dùng một thứ viết duy nhất. Đó là cây viết ngòi lá tre. Gọi là lá tre bởi vì cây viết này có cái ngòi có thể tháo rời ra được giống hình lá tre nho nhỏ. Khi viết thì chấm vào bình mực. Bình mực thường là mực tím có một cái khoen nơi nắp để móc vào ngón tay cho nó tiện. Thân bình bên trong gắn liền với một ống nhựa hình quặng dưới nhỏ trên lớn để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học trò. Khi vào lớp thì học trò đặt bình mực vào một cái lỗ tròn vừa vặn khoét sẵn trên bàn học cho khỏi rớt.

Bút bi thời đó cũng đã có gọi là bút nguyên tử. Đây là thứ đầy ma lực hấp dẫn đối với học trò ngày ấy. Nhưng bị triệt để cấm dùng. Các thầy cô quan niệm rằng rèn chữ là rèn người nên nếu cho phép học trò lớp nhỏ sử dụng sớm bút bi thì sợ là khi lớn lên chúng sẽ dễ sinh ra lười biến và cẩu thả trong tính cách.

Mỗi lớp học chỉ có một thầy hoặc một cô duy nhất để phụ trách tất cả các môn. Thầy gọi trò bằng con và trò cũng xưng con chứ không xưng em với thầy. Về việc dạy dỗ không thầy nào dạy giống thầy nào nhưng mục tiêu, kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như nhau.
Thí dụ như học xong lớp 5 thì phải đọc thông viết thạo, nắm vững hai phép toán cộng trừ. 

Lớp tư thì bắt đầu tập làm văn thuộc bảng cử chương để làm các bài toán nhân chia. Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất nên không có lớp học nào giống lớp nào về nội dung cụ thể của từng bài giảng. Cứ mỗi năm lại có các ban tu thư, có thể là do tư nhân tổ chức. Họ soạn ra những sách giáo khoa mới giấy trắng tinh rồi đem phân phối cấp các nhà sách lớn nhỏ từ thành thị cho đến nông thôn. Các thầy cô được trọn quyền lựa chọn các sách giáo khoa ấy để làm tài liệu giảng dạy, miễn sao hợp với nội dung chung của Bộ Giáo dục là được. Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy thêm, học thêm ở bậc học này nên khi mùa hè đến học trò cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng dài.

Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học thuộc lòng trong sách Việt văn theo tôi là ấn tượng hơn nhiều. Đó là những bài thơ, những bài văn vận dễ nhớ nhưng rất sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu thương loa`i vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng tự tôn dân tộc Việt Nam. Tôi còn nhớ rõ trong sách Tân Việt Văn lớp 5 có bài học thuộc lòng thật hay về bóng đá mà hồi đó gọi bằng một từ rất hoa mỹ là túc cầu.

Trận cầu quốc tế 

Chiều chưa ngã, nắng còn gay gắt lắm.
Hai đội cầu hăng hái tiếng ra sân,
Tiếng hoan hô thêm dũng mãnh bội phần
để cổ võ cho trận cầu quốc tế.


Đoàn tiễn thủ nước nhà hơi nhỏ bé,
nếu so cùng cầu tướng ở phương xa,
còi xuất quân vừa lanh lảnh ban ra
thì trận đấu đã vô cùng sôi nổi.


Tiền đạo ta như sóng cồn tiến tới,
khi dạt ngang khi nhồi bóng làm ba`n
khiến đối phương thành rối loạn hoang mang.

Hậu vệ yếu phải lui về thế thủ

Thiếu bình tĩnh một vài người chơi dữ
nên trận tài cảnh cáo đuổi ra sân
Quả bóng da lăn lộn biết bao lần
Hết hai hiệp và đội nhà đã thắng.


Ta tuy bé nhưng đồng lòng cố gắng
biết nêu cao gương đoa`n kết đấu tranh

Khi giao banh khi phá lưới hãm thành
nên đoạt giải dù địch to gấp bội.

Bài học thuộc lòng này về sau tôi được biết lấy cảm hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại Đông Á vận hội trên sân MDA của Malaysia vào cuối thập niên 50. Với những tên tuổi vang bóng một thời như là Tam Lang, Ngôn, Cù Sinh ,Vinh Đậu sói, Cù Hè, Rạng Tai Nhựa, ...tuy không biết chơi bóng đá nhưng thằng bé là tôi lúc đó rất thích bài học thuộc lòng này nên tự nhiên học thuộc luôn.

Càng đọc càng ngẫm nghĩ, đây đâu phải là bài thơ chỉ nói về bóng đá mà thôi. Nó là bài học đoàn kết của dân tộc nhỏ bé nhưng rất ghen lì, bất khuất khiến chocả thế giới phải ngước nhìn bằng đôi mắt thâm phục. Bạn thấy lạ lùng chưa? Chỉ vì một bài thơ ngắn nói về một thứ trò chơi thôi mà là chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại mà những lời đau to múa lớn ồn ào chưa chắc đã làm được. Nói về môn lịch sử, hồi đó gọi là quốc sử đã có sẵn một bài đọc thuộc lòng khác:

Giờ Quốc sử

Những buổi sáng vừng hồng le lo'i chie^'u
trên non sông la`ng mạc ruộng đồng quê, 

chúng tôi ngồi yên lặng lắng tai
tiếng thầy giảng khắp trong giờ quốc sử.  


Thầy tôi bảo các con nên nhớ rõ  
nước chúng ta là một nước vinh quang
bao anh hùng thiở trước của giang sa
đã đổ máu vì lợi quye^`n  da^n tộc.


Các con nên đêm ngày chăm chỉ học
để sau này mong nói chí tiến thân.
Ta tin rằng sau một cuộc xoây vần
dân tộc Việt vẫn là dân hùng liệt.


Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt
giống anh hùng trên sông núi Việt Nam
bên những trang lịch sử 4000 năm
đầy chiến thắng vinh quan và hạnh phúc!


Hình ảnh ông thầy dạy sử trong bài học thuộc lòng hiện lên nghiêm nghị nhưng lại thân thương quá chừng. Và bài sử của thầy tuy không nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào nhưng lại có sức lây động mãnh liệt với đám học trò chúng tôi ngày ấy. Đến nỗi mấy chục năm sau chúng tôi vẫn nhớ như in. Lại có bài Song Thất lục bát về ông thầy dạy địa lý. Không nhớ tác giả là ai nhưng chắc chắn tựa đề là tập vẽ bản đồ. Phía lề trái còn in cả hình vẽ minh họa của quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Tập vẽ bản đồ

Hôm qua tập vẽ bản đồ,
Thầy em lên bản kẻ ô rõ ràng
Ranh giới vẽ phấn vàng dễ kiếm
Từ Nam Quan cho đến Cà Mau,


Từng nơi thầy thuộc làu làu
Đây sen Đồng Tháp, đây cầu Hiền lương

Biển Đông Hải trùng dương xanh thẳm
Núi cheo leo thầy chấm màu nâu


Tay đưa lên mềm mại đến đâu
Sông xanh uống khúc rừng sâu chập chùng.

Rồi với giọng trầm hùng thầy giảng
Giống rồng tiên chói rạng núi rừng


Trải bao thăng giáng phế hưng
Đem dong máu thắm bón từng gốc cây

Làn không khí giờ đây ta thở
Đường ta đi nhà ở nơi này


Tổ tiên từng chịu đắng cay
Mới lưu truyền lại đêm ngày cho ta

Là con cháu muôn nhà gìn giữ
Đùm bọc nhau sinh tử cùng nhau


Tóc thầy hai thứ từ lâu
Mà tài chưa đủ làm giàu núi sông.

Nay chỉ biết ra công dạy dỗ
Đám trẻ thơ mong ở ngày mai


Bao nhiêu hy vọng lâu dài
Dồn vào tất cả trí tài các con.


Giờ đây, mấy chục năm đã trôi qua, tóc trên đầu tôi cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy địa lý trong bài học thuộc lòng ấy. Nhưng có một điều mà tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra. Ông thầy đang dạy địa hay ông đang âm thầm truyền thụ lại lòng yêu nước, lòng tử tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ qua mấy nét bản đồ. Lời của thầy thật nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng thật là tha thiết. Chạm vào được chỗ chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cấp sách đến trường, nơi chúng nó được dạy rằng ngoài ngôi nhà nhỏ bé của mình với ông bà, cha mẹ, anh em rụ thịnh, chúng còn có một ngôi nhà nữa rộng lớn hơn rất nhiều, nguy nga tráng lệ, thiêng liêng vĩ đại
hơn rất nhiều. Một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vun đắp đó là tổ quốc Việt Nam.


%%%%

Để tang cho sách

Bà tôi thường than thở, hết một nửa cơ nghiệp của nhà này đã tan tành theo sách. Một nửa cơ nghiệp là chỗ lớn, cho xứng với nỗi đau tiếc của bà chứ thực ra chỉ dạy trăm cuốn sách của ông tôi thôi. Có điều đó không phải là những quyển sách bèo nhèo giấy rơm thô kệch đang tràn ngập trong các hẻo sách, trong trường học hay trong thư viện. Chưa nói tới nội dung, chỉ mới lật qua vài trang mờ nhạt gạn đục như những con chữ ốm o đói khát như những người bị sốt rét rừng là đã thấy chán lắm rồi.

Sách của ông tôi, bạn chỉ ngắm không thôi cũng đã thấy thích. Những cuốn sách tự điển của Pháp, của Việt thư pháp, của Trung Hoa, những sách thuốc, sách khoa học, những bộ tiểu thuyết của các nhà văn danh tiếng, những sách học làm người, những sách triết. Chúng đứng sát bên nhau phơi cái gáy mã vàng như một đội ngự lâm quân thật thông thái và oai vệ trang nghiêm nhưng không lạnh lẽo. Bọn họ là thầy, là bạn của ông tôi và vì vậy bạn cũng như tôi chỉ được phép đứng nhìn mà thôi. Ông tôi là một người mê sách, cũng lại là cái cách nói vừa tấm tức vừa giận hờn của bà, mê hơn cả vợ con. Nếu nói rằng Thư Trung Hữu nữ nhan như ngọc thì ông tôi tuy đã già nhưng lại có tới mấy trăm người đẹp như các vua chúa ngày xưa nên bà tôi ghen cũng phải.

Ông mê sách như người mê đồ cổ. Hễ nghe ở đâu có sách quý là ông tìm tới
dù có phải tốn kém tàu xe và phải bỏ ra cả một món tiền lớn để rướt người có
nhan như ngọc đó về thì ông cũng dám chơi một phen cho thỏa chí. Như cuốn Đại
Nam Quốc Âm Tử Vĩ của Paulus của ngày đâu như là ấn bản đầu tiên của một ông
cụ nào đó bắc bực làm cao đến tận trời. Ông tôi đã phải lặn lội vào tận xứ Thủ
Dầu Một, để mua cho bằng được. Công cuộc mua quyển sách đó chẳng những khiến
ông mất đến mấy cây vàng mà còn bệnh một trận thừa sống thiếu chết.

Cuốn sách cũ tới nỗi như đã ngàn năm tuổi, còn hơn một người chợ đồ cổ. 

Ông tôi lại phải tốn thêm cả một món tiền và nhất là tốn rất nhiều thì giờ để năn nỉ và
kiên nhẫn ngồi chờ anh thợ đóng sách đóng lại giùm. Lúc này quyển sách đối với ông như một con bệnh thập tử nhất sinh và anh thợ đóng sách cứ như một bác sĩ. Khi anh thợ tháo bung sách ra, ông đầu nhói như thể gan ruột của mình bị lôi ra vậy. Ông hồi hộp theo dõi từng mũi chỉ khâu, nín thở xem anh ta cắt xén làm bìa. Cho tới khi sách được làm lại một cách khỏe mạnh xinh đẹp. Ông ôm quyển sách trước ngực nhưng người mẹ ôm đứa con bé bỏng vừa được bác sĩ cứu sống. Ông hết lời cảm ơn anh ta, đưa anh ta một tờ tiền lớn và hào phóng không nhận tiền thối lại. Đem quyển sách về nhà,ông lại mất cả buổi ngồi ngắm đến nỗi quên cả bữa cơm khiến bà tôi phải hối giục.


Đó là đối với những sách cũ quý hiếm. Còn sách mới ông lại phá của một cách
không giống ai. Sách nào ông cũng phải mua tới hai quyển, một để đọc và cho
mượn, một để nguyên không đụng tới. Những quyển sách để nguyên ấy nằm im
trong tủ kiếng, mỗi lần mở ra là thơm nồng mùi giấy mới và mực in. Đối với ông, đó là một mùi thơm huyền hoặc đầy quyến rũ và mê đắm lòng người như những người nghiện nghe mùi thuốc phiện. Chẳng những chỉ mùi thơm trinh nguyên không thôi, quyển sách vẫn còn trinh trắng khi hãy còn những lề chưa rọc. Học cách người xưa không để của cải cho con cháu mà để sách. Nên có phải vì thế mà tiêu hết cả cơ nghiệp ông tôi cũng không tiếc. Chỉ có một điều khiến ông băng khoăn ấy là trong đám con cháu thực sự chưa có một người nào đủ để ông tin tưởng.


Gạt hết những đứa chỉ biết có nhà rộng, xe đẹp, những đứa chỉ biết vung tiền trong các cuộc ăn chơi, suốt đời chưa động tới một quyển sách nào. Những đứa mà ông bảo là trong đầu toàn chứa những thứ vớ vẩn, nếu không muốn nói, đó là những thứ hôi thúi. Còn lại chỉ vài đứa có để mắt tới sách nhưng với một thái độ hờ hững, một đôi khi thô bỉ xúc phạm đến sách.


Ông ghét nhất ai đã đọc sách mà miệng cứ nhai ngồm ngoàm, vừa đọc vừa tán chuyện. Bạ chỗ nào cũng đọc, ngay cả trong nhà cầu, đang đọc mà có ai ới lên một tiếng là ném ngay cái xạch sau khi đã tàn nhẫn xếp lại một góc để làm dấu rồi bỏ đi mà không cần biết tới quyển sách có thể bị ướt, bị dơ hay bị cháy.

Ông cũng không chịu được cái cách lật sách thô bạo bằng cả bàn tay úp lên trang giấy hay thấm nước bọt lên đầu ngón tay. Đó là cách cư xử của kẻ phàm phu tục tử của phường giá áo túi cơm. Lật sách mà như vậy có khác gì xàm sở nếu không muốn nói là cưỡng bức.
Phải lật như những nhà sư nâng nhẹ một trang kinh hay như khẽ lay một người đẹp đang ngủ. Đối với ông đọc sách là để được tiếp cận với những tâm hồn ngoại hạng . Cho nên trước hết phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề. Phải dọn mình như con chiên quỳ trước Chúa, như nhà sư đảnh lễ trước bàn thờ Phật. Chẳng những sạch ở phần xác mà còn sạch ở cả phần hồn. Nghĩa là không để những giận hờn phiền muộn hay những ý nghĩ ô trọc dính bám cho dù chỉ một tí trong đầu. 

Chỉ đọc trong lúc thanh tịnh giữa khuya hay khi gần sáng tinh mơ. Đọc với hương trầm cộng với mùi hương ngai ngái của giấy mực. Hương của sương đêm loáng thoáng hayhương của nước mưa mát dịu, đọc là mở hồn ra để hơi thở của sách ùa vào căn buồm lên cho con thuyền bé nhỏ của mình được dọc ngang trên biển học mông mênh, đương nhiên là ông tôi khó tính nhất nhà cái viện sách nhỏ xíu của ông là một nơi khả kính thâm nghiêm như một ngôi đền không một ai ngay cả bà tôi dám động tới.

70 năm sống trên đời của ông thì hết một nửa là ở trong cái gian phòng đựng đầy sách với mùi hương và sắc màu của những tâm hồn kỳ vĩ. Dạo đó, mặc dù được cưng chiều và rất có triển vọng, được ông tin tưởng, tôi cũng chưa một lần đọc một quyển sách nào trong tủ sách ấy. Ông bảo tôi chưa đủ tuổi và chưa học được cách nâng niu gìn giữ theo cách gần như tôn thờ thì đọc chẳng ích lợi gì, mà còn viết sách. Theo ông đọc như tò mò, đọc như lùa cơm, đọc như ngốn ngấu thì đầu óc mình chỉ là một bãi hoang chứa đầy những xác chết của sách bị vứt ngổn ngang mà thôi. Đọc là phải ngẫm từng chữ, từng câu để nó bén rễ trong đầu mới có thể thành cây cho trái ngọt.

Năm tháng qua đi, ông tôi âm thầm làm một cuộc chuyển giao lặng lẽ. Tiền bạc trong nhà cứ cạn dần nhưng sách của ông lại đầy lên. phải đóng thêm tủ, kê cây thêm kệ. Cô chú tôi biết ý ông nên mừng tuổi không bằng trà ngon rượu bổ mà bằng những phong bì ít nhất cũng đủ cho ông mua được hai quyển sách.

Những lúc ấy ông vui như một đứa trẻ lên năm nhận được tiền lì xì. Rồi ông đi ra tiệm sách khệ nể ôm về những chồng sách mà ông ao ước nhưng chưa đủ tiền mua. Ông vuốt ve từng cái bìa, ngẫm nghĩ từng con chữ. Đê mê những sách của lá bối, của An Tiêm, mơ màng với những tác giả Sen Aspery, Bùi Giáng.

Giá như ông sống đến 100 tuổi và giá như ông còn có đủ tiền thì cái diễn sách của ông sẽ kính đầy những sách. Ông sẽ ngồi giữa những bức tường dầy cộm thơm tho đó như một anh lính già đang tử thủ trong một cái lô cốt văn hóa. Sau tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới mộ sâu, ông vẫn còn đau đớn. Những cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đã bị bức tử một cách oan nghiệt. Sách của ông có những quyển già như một ông tiên đầu bạc, có những quyển xinh tươi như những cô thiếu nữ trẻ trung, lại bị chụp lên những chiếc mũ có tên là nọc độc, là đồi trụy, là phản động thì hơn ai hết. Ông hiểu đó là một lời tuyên án tử hình...Ông suy nghĩ lung lắm, không phải để tìm cách chôn giấu hay tẩu tán mà suy nghĩ làm sao để chọn cho sách một cái chết xứng đáng với lòng tin yêu và kính trọng của ông.

Một đêm thức trắng rồi hai đêm thức trắng. Ngày thường ông bình tĩnh là vậy nhưng lúc này ông bối rối và run rẩy. Có lúc mặt ông đỏ bừng và lóe lên những tia lửa căm hờn. Cả nhà chẳng ai dám hỏi nói gì với ông, giống như một con sư tử già bị săn đuổi cùng đường, lâu lâu ông lại gầm lên một cách tuyệt vọng. Cuối cùng ông đã chọn cho mấy trăm cuốn sách một cái chết dũng cảm, đó là chính ông tự mình đốt sách.

Một quyết định thật cháy lòng. Tôi cũng được dự phần trong cuộc hỏa thiêu đau đớn ấy bằng cách giúp ông bê hết sách ra sân. Dù đem đi đốt nhưng ông không cho phép tôi làm rơi rớt xuống đất. Không được nặng tay mà sẽ phải lén, nhẹ êm như đang bồng một em bé say ngủ. Phải rồi, những cuốn sách của ông cũng đang say ngủ. đánh thức chúng dậy, ông sẽ không chịu nổi những tiếng khóc mà chỉ riêng ông mới nghe được thôi. 

Sách được xây thành một cái tháp quanh những thanh củi trẻ nhỏ. Ông không muốn đốt chúng bằng xăng hay dầu. Ông lại càng không muốn xé sách ra từng mảnh nhỏ để mà đốt. Một người coi sách là sinh vật sống để cả đời nâng nêu bồng ẵm. Vậy mà phải giết do chính bàn tay của mình.

Bạn phải biết là ông tôi đã đau khổ đến nhường nào. Đó là một đêm tháng năm lặng do cây cối im ngủ. Những ngôi sao như tan đi trong khói trời mở đục. Ông tôi cử hành lễ đốt sách cũng bi trán và lẫm liệt như huấn cao cho chữ trong ngục. 

Ông mặc toàn đồ trắng, cắm một cây đuốc giữa trời, khấn khứa rì rầm, rồi lạy
bốn hướng mỗi nơi một lạy. Xong, ông lấy cây đuốc đang cháy đặt vào giữa tháp,
dứt khoát và quyết liệt như cái cách mà võ sĩ Đạo Nhật tự đâm kiếm vào bụng 
mình. 

Lửa bắt rất nhanh, chỉ trong phút chốc đã bắn giọt lên đầu ngọn tháp. Đã nghe mùi mực và mùi giấy, đã nghe tiếng giận mình của các bìa sách, đã nghe những âm thanh líu ríu như rung như rẫy của những trang sách méo mó công dên.
Lửa trào ra như từ miệng hoả diễm sơn. Lửa ôm choàng lấy sách, hôn dữ dội bằng đôi môi bỏng cháy. Sau cùng, cái tháp bằng sách đỏ rực như một trái tim để lộn ngược. 

Ông tôi ngồi xếp bằng, cố giữ nét mặt trầm tĩnh một cách cao cả, không một giọt nước mắt nào cho dù là vì khói cay xè. Ông như thượng tọa Thích Quảng Đức đang ngồi kiết già bên ngọn lửa bùng cháy. Có thể nói chính ông cũng đang tự thiêu mình. Bất giác tôi cảm thấy muốn khóc vì lo sợ đến một lúc nào đó biết đâu ông đứng dậy bước thẳng vào ngọn lửa. Ông chết theo sách. Đó là một cái chết đẹp xứng đáng với ông, một người yêu sách.

Nhưng ông chưa muốn chết vì ông còn phải để tan cho rách như một đứa con chí hiếu. Ngay lúc lửa tàn, ông quỳ xuống lạy ba lạy rồi kiên nhẫn ngồi đợi cho tới khi tất cả biến thành tro nguội. Ông biểu tôi hốt tro vào bao, cất vào tủ rồi mới chịu đi vào nhà. Lúc đó trời đã gần sáng, ông lặng lẽ pha trà ngồi uống một mình. Sau cùng ông mệt mỏi gục đầu xuống. Khi bà tôi đến lay ông dậy, mặt ông ràn rụa nước mắt chứ không phải nước trà. Hai hôm sau, ông kêu tôi thuê thợ đóng nhiều chiếc hộp để đựng tro. Rồi ông đưa tôi một danh sách dài những quyển sách bị đốt, biểu tôi viết nhãn đi dán lên.

Những hộp tro lại được xếp ngay ngắn trên kệ tủ. Giờ không phơi cái gáy mạ vàng
như những chàng ngựa lâm quân mà là những chiếc quách của những sanh linh
vừa chết tập thể. Cả viện sách của ông giờ đây thành một nghĩa trang.

Ông trịnh trọng chít khăn trắng lên nhang đèn rồi cung kính khấn vái như
trước bàn thờ tổ tiên. 


Trong những lời rì rầm, nhiều lúc bỗng vang lên như tiếng khóc. Ta là người có tội. Có tội. Theo như tôi hiểu, đó là cái tội không
thể bảo vệ được sách. Tội với các tác giả, tội với những thợ sắc chữ ở nhà in và xa hơn nữa là có tội với giấy và mực.

Ông biết ơn họ bao nhiêu thì bây giờ ông ray rứt vì mình có tội bấy nhiêu. 

Từ đó ông ăn ít và ngủ ít. Ông đem từng hộp tro đặt lên bàn, lặng lẽ ngồi ngắm hàng giờ như đang đọc sách. Mỗi cái nhãn gợi nhớ đến màu bìa, con chữ, tranh vẽ và cả nội dung mà chỉ có ông mới thấy được và hiểu được. Ông như sống lại những năm dài trước đó với những niềm vui kín đáo khi tìm được sách quý hay mua được một quyển sách hay. Những lần như vậy, ông tự thưởng cho mình khiê một binh trà, lúc thì một chung rượu hay một tách cà phê và những điếu thuốc thơm thay cho Hương Trầm. Rồi đến một lúc ông không ăn mà cũng chẳng ngủ, người ông khô kiệt tái xám. Ba tôi và các chú đi cải tạo chưa về và đương nhiên là khoét sâu vào hồn ông những nỗi buồn lo khôn nguôi.

Nhưng dù vậy, tận cùng của đêm thì cũng phải sáng. Ông có thể đợi đến 10 năm hay 20 năm, chỉ có những quyển sách bị đốt là không đợi được. Ông nói với bà, biết trước như vậy tôi đã để hết tiền cho bà chứ mua sách làm chi? Bà tôi cay đắng, ai mà có con mắt sau lưng. Buổi chiều cuối cùng ngồi bóp chân cho ông. Tôi nghe ông hỏi, "Cháu thấy ông thế nào?" Tôi nói: "Dạ, ông nên ăn chút cháo." Dòm ông ốm lắm. Không phải, ông nói:- Da ông ra sao, đã ngã về màu đất chưa?

Không biết. Da màu đất là màu gì? Tôi nói đãi đưa ông mà.

Ngã màu đất là sắp chết đó cháu. Ông nói -ông đã có ý định để lại sách cho cháu nhưng ta tính sao được bằng trời tính. Cháu nhớ giữ dùm ông cái tủ và mấy cái hộp.


Nghe ông nói tôi thấy da ông quả thực rất giống với màu đất bạc phếch lạnh lẽo ở nghĩa địa. Da ông là da của một người đã chết từ lâu nhưng chưa chôn. Hay là ông đã chết từ cái đêm hôm ấy. Hồn ông đã cùng dư hồn sách nương theo
khói bay lên tận trời cao. Cái miếng đất ồn ào đầy ô trọc và thù hận này biết đến bao giờ mới lại có được những con người, những quyển sách biết yêu quý tương kính lẫn nhau như vậy. Chính lúc này tôi mới thấm thía nỗi đau mất sách của ông.
Tôi vừa buông tay ra thì ông ngừng thở, ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một cuốn sách. Tính ra ông đã để tang cho sách đúng 100 ngày.

Hơn 30 năm sau, cái tủ đựng đầy những hộp tro, vẫn đứng im đó như một nhà mồ.
Ngày giỗ ông, chúng tôi đem một bát nhang tới thắp trên đầu tủ, có cảm giác như
hồn ông và hồn sách cùng lãng đãng bay về...


Tác giả Quốc Đấu.
TỬNG TỪNG TƯNG  Biggrin  Lol
Reply
#3
Đập tan tin đồn rạn nứt về Hùng Cao, VN chính thức lên tiếng - Bước ngoặt lớn về giới hạn ngoại giao

[video=youtube]http://https://youtu.be/-alPNsvMBK8[/video]
TỬNG TỪNG TƯNG  Biggrin  Lol
Reply
#4
CHOÁNG! TT Trump liệu việc như thần, tư tưởng của Zohran Mamdani chưa khai sinh đã bóp cнếт nghẹt !

https://youtu.be/96CYXVnU8kY
TỬNG TỪNG TƯNG  Biggrin  Lol
Reply
#5
TT Trump tuyên bố Ngày Cựu Chiến Bình là 'Ngày Chiến Thắng' khi phát biểu tại nghĩa trang Arlington


https://www.youtube.com/live/sjCdKrpl32g...YY7ay_aSJd

Kaos-1

Umbrella

Cheer
TỬNG TỪNG TƯNG  Biggrin  Lol
Reply