2025-11-08, 04:25 PM
Ông Hùng Cao tới Việt Nam - Chống Cộng hay Giúp Cộng?
Năm 1971, miền Nam Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc chiến tranh kéo dài hơn một thập niên.
Sau chiến dịch Lam Sơn 719, quân lực Việt Nam Cộng hòa đối mặt với thực trạng suy giảm tinh thần chiến đấu. Quân đội chịu tổn thất nặng nề, đặc biệt ở các đơn vị dù và thủy quân lục chiến. Tất cả những biến động ấy tạo nên phong nền lịch sử của Sài Gòn năm 1971, thời khói lửa chia rẽ và những toan tính cuối cùng của một chánh thể đang cố gắng chứng minh khả năng tự tồn tại.
Giữa bối cảnh đó, trong một gia đình miền Nam, Cao Hùng ra đời, anh là con của một trí thức từng là phụ tá cho Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo trong lĩnh vực phát triển kinh tế.
Bốn năm sau, ngày 30 tháng 04 năm 1975, khi quân đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, gia đình anh là một trong hàng ngàn hộ dân rời khỏi đất nước trên những con tàu di tản. Họ không chỉ mang theo hành lý và ký ức mà còn mang theo tinh thần của một nền cộng hòa non trẻ chưa kịp trọn giấc mơ. Lúc đó Hùng được bốn tuổi, dù còn nhỏ tuổi nhưng Hùng đã mang theo toàn bộ ký ức của một quốc gia thành vượng. với các giá trị tự do và hơn hết là mang trong mình dòng máu kiêu hùng của người con miền Nam.
Nửa thế kỷ sau, đứa trẻ tị nạn năm nào tuyên thệ nhậm chức thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ. Chức vụ dân sự số hai trong hệ thống chỉ đạo của Bộ Hải quân đứng sau Bộ trưởng trực tiếp tham gia hoạch định ngân sách, chính sách và chiến lược biển toàn cầu của quốc gia Hải Cường số 1 thế giới.
Năm 1989, Hùng gia nhập hải quân Hoa Kỳ với tư cách là thủ binh. Năm 1996, anh tốt nghiệp học viện hải quân Hoa Kỳ với học vị trưởng nhân kỹ thuật đại dương.
Sau đó ông còn lấy bằng thạc sĩ chuyên ngành vật lý ứng dụng tại Naval Postgraduate School (NPS) năm 2008.
Trong khi bạn bè chọn nghề kỹ sư, bác sĩ, ông lại đi gỡ mì. Là sĩ quan đặc nhiệm EOD, ông phục vụ ở Iraq, Afghanistan, Somali, những mặt trận khắc nghiệt nhất sau vụ khủng bố 11 tháng 9. Là người gốc Việt, nhưng khoác áo lính Mỹ, ông chiến đấu không nhân danh mối hận thù mà là vì lời thề trung thành với đất nước đã cưu mang mình. Khi Việt Nam mở (3:05) cửa hòa nhập, Hùng Cao cũng bước vào hành lang quyền lực.
Sau khi giải ngũ với cấp hàm tương đương Đại tá, vào năm 2021, ông bước vào chánh trường với tư cách đảng viên đảng Cộng hòa. Năm 2022, ông ứng cử vào hạ viện Hoa Kỳ nhưng thất bại. Năm 2024, ông ra ứng cử thượng viện Hoa Kỳ tại Virginia và cũng thất bại trước Tim Ken với tỷ số 45% so với 54%.
Nhưng sự nghiệp chánh trị của ông không dừng lại ở đó. Ngày 28 tháng năm 2025, Tổng thống Donald Trump đề cử ông vào vị trí thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ. Sau khi được thượng viện Hoa Kỳ thông qua, ông tuyên thệ nhậm chức vào ngày 3 tháng 10 năm 2025. Từ đó, Hùng Cao chánh thức trở thành một chánh khách Hoa Kỳ gốc Việt là niềm tự hào của cộng đồng người Việt tị nạn.
Những sự ngộ nhận: -chức danh Thứ trưởng Hải quân là vị trí dân sự cấp cao thứ hai trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ. Chịu trách nhiệm chính sách, ngân sách, chiến lược và tổ chức của hải quân và thủy quân lục chiến.
Một số ý kiến trong nước cho rằng chức vụ này tương đương Phó Tư lệnh hải quân Việt Na không có cửa so với Bổ Quốc phòng, là một sự ngộ nhận nghiêm trọng do không hiểu cơ chế quốc phòng của Hoa Kỳ. Đây không phải là vị trí thuần quân đội mà là chức vụ hành chánh, chiến lược cấp cao trong chính phủ liên bang. Khác với mô hình quân sự tập trung của Việt Nam, Hoa Kỳ đã có quân đội dưới quyền kiểm soát dân sự Bộ Hải quân lo về hành chánh chiến lược, còn tư lệnh tác chiến không làm chánh sách.
Ngân sách năm 2025 của Bộ Hải quân bao gồm Navy và Marine vượt 255 tỷ USD lớn hơn GDP nhiều quốc gia và Cao Hùng chính là người quản lý ngân sách này.
So với hải quân Việt Nam chỉ là một binh chủng thuộc Bộ Quốc phòng biên chế nhỏ, không hàng không mẫu hạm, không tàu ngầm hạt nhân thì chức phó tư lệnh của hải quân Việt Nam không thể đặt ngang hàng về quy mô lẫn tầm ảnh hưởng.
Phản biện những lời chỉ trích:
Tháng 11 năm 2025 khi phái đoàn bộ chiến tranh Hoa Kỳ đến Hà Nội, Hùng Cao xuất hiện với tư cách viên chức tháp tùng. Một số trang mạng trong nước lập tức gán nhãn ba que phản động, thậm chí chế nhạo ông trước ánh nhìn của Thứ trưởng Nguyễn Trượng Thắng. Họ ghép hình ảnh, gán thái độ, tạo tiểu phẩm xuyên tạc, nhai lại giọng điệu chiến tranh lạnh.
Phải cần khẳng định rõ Hùng Cao không trở về thăm quê, không mang tư cách Việt Kiều mà đang thi hành công vụ cấp cao với tư cách là một viên chức Hoa Kỳ do Tổng thống đề cử, được thượng viện phê chuẩn và đang giữ chức vụ hành chánh cao thứ hai trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ. bộ phận quản lý toàn bộ hệ thống hành chánh của hải quân và thủy quân lục chiến Mỹ trong khuôn khổ hợp tác quốc phòng song phương.
Việc một thứ trưởng hải quân Mỹ có mặt tại Hà Nội không khác gì việc một thứ trưởng ngoại giao hay Bộ trưởng kinh tế các nước khác sang Công cán.
Đây là đối tác chính thức của Việt Nam và đương nhiên cũng không phải để trình diện bất kỳ ai. Việc bản thân ông là người gốc Việt lại càng cho thấy thông điệp của chính phủ Mỹ. Một người tị nạn cộng sản nay là quan chức chính phủ Mỹ có thể ngồi ngang hàng với lãnh đạo Việt Nam đương nhiệm trong tinh thần hợp tác bình đẳng cùng hướng đến lợi ích hai quốc gia. Nếu người trong nước gạt bỏ định kiến thì người Việt tị nạn cũng có thể gạt bỏ đau thương.
Một số dư luận viên thay vì nhìn thấy cơ hội hòa giải lại sa vào việc bới móc quá khứ, dựng chuyện cá nhân, nhưng cần phải thấy rõ.
Thứ nhất, Hùng Cao là công dân Hoa Kỳ, phục vụ theo pháp luật Mỹ, trung thành với hiến pháp Mỹ. Khi kể lại ký ức gia đình tị nạn năm 1975, ông không chống phá ai mà đang nói lên một sự thật lịch sử của cá nhân mình. Đó là quyền tự do phát biểu được Hiến pháp bảo vệ và cũng là một phần lịch sử mà Việt Nam không nên né tránh.
Thứ hai, việc gán ghép cụm từ ba que cho một quan chức Mỹ gốc Việt vừa vô nghĩa vừa phản tác dụng. Nó không chỉ làm tổn hại đến hình ảnh Việt Nam trong con mắt quốc tế mà còn trực tiếp làm suy yếu mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Mỹ đang ngày càng quan trọng, nhất là trong bối cảnh địa chánh trị biển Đông ngày một phức tạp.
Thứ ba, nếu Hùng Cao và gia đình ông không rời khỏi Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 thì gần như chắc chắn ngày hôm nay ông sẽ không thể nào trở thành một sĩ quan cấp cao, càng không thể trở thành thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ. Bởi lẽ con cháu của quân nhân, công chức trí thức miền Nam Việt Nam Cộng hòa xem là con ngụy, vậy nên không được kết nạp đoàn đảng, không được thi đại học, bị xa lánh, xếp loại ý thức kém và cần được cải tạo tư tưởng. Nếu ở lại, Hùng Cao có thể chỉ là một người đàn ông sống bằng lao động chân tay như bao đứa trẻ miền Nam khác bị đẩy ra lề xã hội vì cái lý lịch ngụy quân ngụy quyền.
Thứ tư, xuyên tạc rằng ông cúi đầu hay sợ ánh nhìn của lãnh đạo Việt Nam là điều nhảm nhí, ngu ngục và phản tác dụng.
Nó là biểu hiện của tâm thế tự ti, pha lẫn hằn học, thiếu hiểu biết về phép tắc ngoại giao hiện tại. Một người từng chỉ huy đội đặc nhiệm gỡ mìn, từng dẫn đầu lực lượng quân sự, lính chiến tại Iraq, Afghanistan, Somali, từng được Tổng thống Hoa Kỳ đề cử và thượng viện phê chuẩn điều hành ngân sách 250 tỷ đô la sẽ không cúi đầu vì sợ ai cả.
Nếu có cúi đầu là vì phép lịch sử ngoại giao, điều mà chính các lãnh đạo Việt Nam cũng đã từng làm. Hãy nhớ lại, khi cựu thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bước tới bắt chuyện với Tổng thống Donald Trump đang ngồi khoanh tay, ông Phúc phải cúi đầu nghiêng người về phía trước, trước ống kính báo chí quốc tế. Đó có phải là cúi đầu vì sợ hãi không? Chắc chắn là không. Đó là ngoại giao và là cách ứng xử đúng mực của một nhà lãnh đạo trong chánh trường toàn cầu.
Vậy thì tại sao khi Hùng Cao với tư cách là một thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ, đối tác chánh thức trong khuôn khổ quốc phòng song phương nghiêng đầu (trong một khung hình của máy quay) lại bị gán ghép bêu riếu? Phải chăng những người tung tin đó không muốn Việt Nam và Hoa Kỳ bình đẳng, không muốn có hình ảnh người Việt tị nạn ngồi ngang hàng với lãnh đạo quốc nội? Nếu vậy, những dư luận viên này không chỉ xúc phạm ông Hùng Cao mà đang chống lại chính sách ngoại giao của nhà nước Việt Nam, phá hoại chính mối quan hệ đang được vun đắp giữa hai quốc gia.
Một điều cuối cùng cần lưu ý, bên cạnh những lời xuyên tạc từ dư luận viên trong nước, một số người Việt hải ngoại vốn mang nhiều tổn thương sau năm 1975 cũng bày tỏ thái độ phản đối khi thấy ông Hùng Cao xuất hiện trong phái đoàn chính phủ Hoa Kỳ đến Việt Nam. Họ cho rằng việc các viên chức Mỹ gốc Việt về nước là một hành động hợp thức hóa cộng sản tiếp tay làm giàu cho chế độ. Một số người thậm chí chỉ trích chính phủ Hoa Kỳ là thiếu lập trường, giờ đi bắt tay với kẻ thù cũ.
Tuy nhiên, hợp tác Mỹ Việt ngày nay không xuất phát từ sự tin cậy hoàn toàn về ý thức hệ mà PHẢI LÀ từ sự đồng thuận về lợi ích chiến lược. Đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng sự ảnh hưởng ở biển Đông và toàn bộ Đông Nam Á.
Không có chuyện về làm giàu cho cộng sản mà là bảo vệ chuỗi lợi ích của Hoa Kỳ. Trong đó có cả cộng đồng người Việt tại Mỹ và các doanh nghiệp quốc phòng, các tổ chức khu vực và quyền tự do hàng hải của thế giới.
Những ai nghĩ rằng phải đoạn tuyệt với Việt Nam có lẽ đang mang tư duy độc tài, hoặc tư duy chiến tranh lạnh của thế kỷ trước chứ không hiểu rằng trong thế giới hôm nay quyền lực nằm ở vị thế ngoại giao và khả năng điều phối lực lượng thực tế. Nếu Hoa Kỳ thất thế trước Trung Quốc thì tương lai của người dân Hoa Kỳ cùng cộng đồng tị nạn cũng không mấy tốt đẹp.
Nhìn lại lịch sử:
Ngày 22 tháng 6 năm 1940, Pháp ký kết thỏa thuận ngừng bắn với Đức quốc xã dẫn đến sự thành lập chính phủ. Việc chuyển giao quyền kiểm soát nhiều lãnh thổ hải ngoại của Pháp bao gồm Đông Dương. Tuy nhiên, khả năng kiểm soát thuộc địa của Pháp đã giảm sút đáng kể. Sau nhiều cuộc đàm phán với đế quốc Nhật Bản, Pháp đồng ý để Nhật Bản thiết lập căn cứ quân sự tại Đông Dương và thành lập Đông Dương Phái Khiển Quân, đánh dấu sự hiện diện của quân Nhật tại Việt Nam.
Trước tháng năm 1945, lực lượng cộng sản trong hàng ngũ Việt Minh chưa tới 5000 người, trong khi phần lớn thành viên là từ các đảng phái quốc gia khác. Điều này khiến ảnh hưởng của cộng sản đối với tình hình chánh trị miền Nam không đáng kể so với các lực lượng như Cao Đài, Hòa Hảo và Quốc Dân đảng. Ngược lại, uy tín của Việt Minh ở miền Bắc rất cao, đặc biệt là vào giữa năm1945 khi nạn đói lên tới đỉnh điểm, Nhật và Pháp đã thu mua gạo ở miền Nam và cắm vận chuyển ra Bắc. Số lượng gạo từ miền Nam ra Bắc giảm mạnh từ hơn 126.000 tấn vào năm 1942, xuống chưa tới 7.000 tấn vào năm 1944.
Số người chết vì đói lên tới hơn 1,5 triệu, tương đương khoảng 17% dân số miền Bắc. Hơn 55.000 tắn gạo tôn động ở miền Nam phải bán gấp cho các xưởng rượu để tránh hư hỏng do thời tiết ẩm móc. Tuy nhiên, dă kháng chiến miền Nam vẫn lén lút tìm cách chuyển lương thực ra Bắc để cứu đói. Ở Quảng Ngãi, từ tháng năm 1945, đội du kích Ba tơ được Việt Minh giao nhiệm vụ đã chặn tất cả các đoàn tàu thuyền từ miền Nam ra Bắc cứu đói. Mục đích để gia tăng sự câm phẳn của người Bắc Kỳ đối với quân Nhật và kêu gọi phá kho thóc để giải quyết nạn đói, qua đó củng cố uy tín của Việt Minh.
Hơn 3 năm sau, khi Nhật Bản tấn công Trân Châu cảng, chánh phủ Hoa Kỳ đang tìm kiếm đồng minh để hoạt động trong lòng địch ở Đông Dương. Họ hy vọng việc huấn luyện người Việt Nam, chiến thuật du kích sẽ giúp chống lại quân Nhật và thu thập thông tin tình báo giá trị. Vì vậy, một nhóm tình báo chiến lược của OSS mang tên đội Con Nai đã nhảy dù xuống gần căn cứ Việt Minh tại miền Bắc.
Câu chuyện bắt đầu vào tháng 11 năm 1944, khi Trung Quý Rod Shaw phi công thuộc không đòan 14 bị buộc phải nhảy dù xuống vùng Cao Bằng sau khi phi cơ của anh bị trúng đạn. Tại đây, Shaw đã gặp Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Cuộc gặp cỡ này đã tạo nên một thương vụ lịch sử ảnh hưởng lớn đến vận mệnh của Việt Nam trong nhiều năm sau. Trong suốt 30 ngày lẩn trốn quân Pháp và Nhật, Việt Minh đã đưa Shaw đi từ căn cứ này đến căn cứ khác. Shaw cho biết vào thời điểm này Việt Minh rất kính trọng anh vì biết rằng anh không chỉ chiến đấu cho nước Mỹ mà còn vì tự do và dân chủ của thế giới và Đông Dương.
Sau khi đưa Shaw trở về căn cứ Mỹ ở Côn Minh, Hồ Chí Minh đã từ chối món quà của anh và chỉ yêu cầu được gặp tướng Claire Channel, chỉ huy đừng danh của công đoàn Cọp Bay. Tuy nhiên yêu cầu này nhanh chóng bị từ chối. Hành động giải cứu Trung Quý Shaw đã khiến người Mỹ tin rằng Việt Nam cũng chống Nhật và có thể đứng về phe đồng minh. Vào lúc 8:18 ngày 9 tháng năm 1945, tướng Suji Hashi Yusu chỉ huy đạo quân Thiên Hoàng 38 ở Sài Gòn đã ra lệnh cho 67.000 binh sĩ và các lực lượng giáo phái bản địa gọi là bộ đội Hải Hồ bắt đầu cuộc đạo chánh chống Pháp. Theo nhà sứ học David More, khoảng 2100 sĩ quan và quân dân Âu Châu bị giết hoặc mất tích trong cuộc đảo chánh và 15.000 binh sĩ Đông dường đang bị Nhật giam giữ, trong đó có 12.000 người Âu Châu.
Vào quý đầu năm 1945, OSS đã cử một đội chuyên gia đến Việt Bắc để hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng và huấn luyện lực lượng Việt Minh. Hồ Chí Minh đã cung cấp cho họ bản báo cáo hành quân và những lưu ý khi hành quân ở Đông Dương. Hy vọng rằng báo cáo này sẽ được gửi về Côn Minh để Việt Minh giành được thiện cảm và tăng cường viện trợ từ đồng minh (Trung cộng).
Đội Con Nai đã mang đến Việt Bắc vài khẩu carbin, một khẩu R và nhiều súng ngắn cùng đạn dược khiến Việt Minh vui mừng vì phần lớn họ sử dụng súng tự chế hoặc vũ khí lỗi thời như Reminton 1904.
Các máy điện đài kỹ thuật số mà OSS thả dù xuống cũng giúp Hồ Chí Minh thiết lập thêm nhiều trạm điện đài hiện đại tại Hà Giang, Lạng Sơn và Cao Bằng. Trong thời gian hợp tác, đa số các thành viên OSS đều coi ông Hồ Chí Minh như một người bạn thân thiết. Các binh sĩ Việt Minh lần đầu tiên được tiếp xúc với cà phê từ những người Mỹ vì trước đây nó chỉ là thức uống cao cấp của thực dân và giới trung lưu. Tổ chức này bao gồm cả người Mỹ da trắng, người Mỹ gốc Hoa và người Pháp.
Nhưng sự hiện diện của người Pháp đã khiến Việt Minh không hài lòng. Bên cạnh các thông tin tình báo và chỉ điểm, ông Hồ Chí Minh còn liên tục soạn thảo các bản báo cáo về tội ác của Pháp tại Đông Dương. Điều này làm tăng sự cách ly giữa ông và các thành viên khác của đội. Hồ Chí Minh đã cung cấp cho 1000 chiến sĩ du kích thiện chiến sẵn sàng hỗ trợ Hoa Kỳ trong các kế hoạch chống Nhật.
Tuy nhiên, chỉ huy OSS tại Việt Bắc Party đã lưỡng lự trước đề nghị này vì trong hai tuần đầu tháng sáu, đội Con Nai đã đạt nhiều tiến bộ với người Pháp và có thể sẽ quay lại hợp tác với họ.
Nhưng OSS một lần nữa đã chọn Việt Minh với sự hỗ trợ từ tình báo OSS trong việc xây dựng Vệ quốc đoàn, và sau này là quân đội nhân dân Việt Nam. Chánh phủ của ông Hồ Chí Minh đã sát cánh cùng Hoa Kỳ trong cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật. Bộ đội Việt Minh được huấn luyện sử dụng các loại vũ khí hiện đại trong khuôn khổ chiến dịch của OSS, tiền thân của CIA.
Vào tháng 6 năm 1945, khi đội Con Nai đến Tân trào, ông Hồ Chí Minh nghiêm túc đề nghị Hoa Kỳ biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ và yêu cầu loại bỏ người Pháp khỏi Đông Dương, đồng thời mở cửa tiếp đón 10 triệu người Mỹ. Thiếu tá Alison Thomas, chỉ huy đội Con Nai, đánh giá Hồ Chính Mi là một người cộng sản giáo điều, trước khi là người cộng sản, ông ấy là một người quốc gia yêu nước.
Do vậy, hầu hết các chuyên gia OSS đều báo cáo cấp trên rằng nên hợp tác với Hồ Chí Minh thay vì với người Pháp. Tuy nhiên, yêu cầu về vũ khí, quân phục và thiết bị quân sự của Việt Minh ngày càng cao khiến OSS lo ngại rằng mục đích chính của Hồ Chí Minh không phải là chống Nhật mà là lợi dụng OSS để xây dựng lực lượng vũ trang của riêng mình nhằm kiểm soát Bắc Kỳ.
Mối quan hệ hợp tác này không phải lúc nào cũng suông sẻ. Trung tá Peter Drugy, 28 tuổi, chỉ huy phái bộ ở Nam Kỳ, phản đối sự can thiệp võ lực của Anh và Pháp, nhưng bị thiếu tướng Ruxy ra lệnh trục xuất. Ngày 26 tháng ông bị Việt Minh bắn chết vì bị lầm là người Pháp khi đang trên đường ra phi trường chưa kịp rời khỏi Việt Nam.
Đơn vị võ trang của Việt mình cũng tấn công cơ quan và sát hại nhiều người Mỹ làm rạn nứt mối quan hệ tốt đẹp giữa Hoa Kỳ và Việt minh. Thiếu tá tình báo AG Medic Party, công tác ở Bắc Kỳ đã nhận xét rằng họ đã giết người bạn duy nhất của họ ở Nam Kỳ và chắc chắn người dân Hoa Kỳ sẽ không còn tin tưởng vào Việt Nam nữa. Party cho biết ông từng hy vọng rằng Việt Minh không phải là thủ phạm giết Drugy.
Từ năm 1945 đến cuối năm 1946, ông Hồ Chí Minh đã nhiều lần kêu gọi sự công nhận và hỗ trợ từ quốc tế Cộng sản nhưng bị Liên Xô từ chối vì muốn giữ mối quan hệ trung lập với quốc tế. Niềm hy vọng cuối cùng của ông là Hoa Kỳ quốc gia đã từng sát cánh cùng Việt Minh trong kháng chiến chống phát xích Nhật. Hồ Chí Minh đã gửi tám bức thư và điện đến tổng thống Harry Truman. Ba bức thư và điện đến ngoại trưởng James Burns nhằm thuyết phục rằng ông không phải là đặc phái viên của quốc tế cộng sản.
Nhiều bức điện trong số đó được gỡ qua máy điện đài của đội Con Nai do William Yaskii điều hành. Tuy nhiên, tất cả các bức thư đều không nhận được phản hồi từ tổng thống Truman và chánh phủ của Truman đã quyết định ủng hộ việc Pháp quay trở lại Đông Dương. Suốt từ thời gian hoạt động bí mật cho tới lúc thành lập chánh quyền, đồng minh ngoại quốc duy nhất bên cạnh Việt Minh chỉ có Hoa Kỳ.
Đây là lý do mà bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam dân chủ Cộng hòa được biên soạn dựa trên nền tảng của tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ và có sự góp ý chỉnh sửa của Achim Medis Py. Do mối quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ xấu dần sau sự bắt đầu của cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhiều chiến công và ghi chép hoạt động của đội Con Nai ở Việt Nam nhanh chóng rơi vào quên lãng.
Nhiều thành viên của XX khác từng hoạt động tại Việt Nam đã giải ngủ khỏi quân đội và lên tiếng phản đối sự can thiệp của Mỹ tại Đông Dương cũng như cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Những thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến chiến lược của Việt Minh mà còn làm gia tăng các yếu tố bất ổn trong khu vực, đặt nền móng cho những diễn biến chánh trị sau này ở Việt Nam.
![[Image: 577880808_122166706592675463_28950272088...e=69159FC2]](https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t39.30808-6/577880808_122166706592675463_289502720885566617_n.jpg?_nc_cat=101&ccb=1-7&_nc_sid=f727a1&_nc_ohc=7lSK0TLqQ90Q7kNvwHTXYwk&_nc_oc=AdnZsUea7V5mJ5rpnCL6gkYnBDcYd2kHRuHpFi_XGtBWodjgGOdVJmPwqidCienJwaU&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&_nc_gid=QyxfhJyDgUq5ag_l9gyOrg&oh=00_AfgeVF6RwO53eeMd3tD39ruQ0VOqPeM1CkfzRJUy9bMeuw&oe=69159FC2)
%%%%
Năm 1971, miền Nam Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc chiến tranh kéo dài hơn một thập niên.
Sau chiến dịch Lam Sơn 719, quân lực Việt Nam Cộng hòa đối mặt với thực trạng suy giảm tinh thần chiến đấu. Quân đội chịu tổn thất nặng nề, đặc biệt ở các đơn vị dù và thủy quân lục chiến. Tất cả những biến động ấy tạo nên phong nền lịch sử của Sài Gòn năm 1971, thời khói lửa chia rẽ và những toan tính cuối cùng của một chánh thể đang cố gắng chứng minh khả năng tự tồn tại.
Giữa bối cảnh đó, trong một gia đình miền Nam, Cao Hùng ra đời, anh là con của một trí thức từng là phụ tá cho Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo trong lĩnh vực phát triển kinh tế.
Bốn năm sau, ngày 30 tháng 04 năm 1975, khi quân đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, gia đình anh là một trong hàng ngàn hộ dân rời khỏi đất nước trên những con tàu di tản. Họ không chỉ mang theo hành lý và ký ức mà còn mang theo tinh thần của một nền cộng hòa non trẻ chưa kịp trọn giấc mơ. Lúc đó Hùng được bốn tuổi, dù còn nhỏ tuổi nhưng Hùng đã mang theo toàn bộ ký ức của một quốc gia thành vượng. với các giá trị tự do và hơn hết là mang trong mình dòng máu kiêu hùng của người con miền Nam.
Nửa thế kỷ sau, đứa trẻ tị nạn năm nào tuyên thệ nhậm chức thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ. Chức vụ dân sự số hai trong hệ thống chỉ đạo của Bộ Hải quân đứng sau Bộ trưởng trực tiếp tham gia hoạch định ngân sách, chính sách và chiến lược biển toàn cầu của quốc gia Hải Cường số 1 thế giới.
Năm 1989, Hùng gia nhập hải quân Hoa Kỳ với tư cách là thủ binh. Năm 1996, anh tốt nghiệp học viện hải quân Hoa Kỳ với học vị trưởng nhân kỹ thuật đại dương.
Sau đó ông còn lấy bằng thạc sĩ chuyên ngành vật lý ứng dụng tại Naval Postgraduate School (NPS) năm 2008.
Trong khi bạn bè chọn nghề kỹ sư, bác sĩ, ông lại đi gỡ mì. Là sĩ quan đặc nhiệm EOD, ông phục vụ ở Iraq, Afghanistan, Somali, những mặt trận khắc nghiệt nhất sau vụ khủng bố 11 tháng 9. Là người gốc Việt, nhưng khoác áo lính Mỹ, ông chiến đấu không nhân danh mối hận thù mà là vì lời thề trung thành với đất nước đã cưu mang mình. Khi Việt Nam mở (3:05) cửa hòa nhập, Hùng Cao cũng bước vào hành lang quyền lực.
Sau khi giải ngũ với cấp hàm tương đương Đại tá, vào năm 2021, ông bước vào chánh trường với tư cách đảng viên đảng Cộng hòa. Năm 2022, ông ứng cử vào hạ viện Hoa Kỳ nhưng thất bại. Năm 2024, ông ra ứng cử thượng viện Hoa Kỳ tại Virginia và cũng thất bại trước Tim Ken với tỷ số 45% so với 54%.
Nhưng sự nghiệp chánh trị của ông không dừng lại ở đó. Ngày 28 tháng năm 2025, Tổng thống Donald Trump đề cử ông vào vị trí thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ. Sau khi được thượng viện Hoa Kỳ thông qua, ông tuyên thệ nhậm chức vào ngày 3 tháng 10 năm 2025. Từ đó, Hùng Cao chánh thức trở thành một chánh khách Hoa Kỳ gốc Việt là niềm tự hào của cộng đồng người Việt tị nạn.
Những sự ngộ nhận: -chức danh Thứ trưởng Hải quân là vị trí dân sự cấp cao thứ hai trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ. Chịu trách nhiệm chính sách, ngân sách, chiến lược và tổ chức của hải quân và thủy quân lục chiến.
Một số ý kiến trong nước cho rằng chức vụ này tương đương Phó Tư lệnh hải quân Việt Na không có cửa so với Bổ Quốc phòng, là một sự ngộ nhận nghiêm trọng do không hiểu cơ chế quốc phòng của Hoa Kỳ. Đây không phải là vị trí thuần quân đội mà là chức vụ hành chánh, chiến lược cấp cao trong chính phủ liên bang. Khác với mô hình quân sự tập trung của Việt Nam, Hoa Kỳ đã có quân đội dưới quyền kiểm soát dân sự Bộ Hải quân lo về hành chánh chiến lược, còn tư lệnh tác chiến không làm chánh sách.
Ngân sách năm 2025 của Bộ Hải quân bao gồm Navy và Marine vượt 255 tỷ USD lớn hơn GDP nhiều quốc gia và Cao Hùng chính là người quản lý ngân sách này.
So với hải quân Việt Nam chỉ là một binh chủng thuộc Bộ Quốc phòng biên chế nhỏ, không hàng không mẫu hạm, không tàu ngầm hạt nhân thì chức phó tư lệnh của hải quân Việt Nam không thể đặt ngang hàng về quy mô lẫn tầm ảnh hưởng.
Phản biện những lời chỉ trích:
Tháng 11 năm 2025 khi phái đoàn bộ chiến tranh Hoa Kỳ đến Hà Nội, Hùng Cao xuất hiện với tư cách viên chức tháp tùng. Một số trang mạng trong nước lập tức gán nhãn ba que phản động, thậm chí chế nhạo ông trước ánh nhìn của Thứ trưởng Nguyễn Trượng Thắng. Họ ghép hình ảnh, gán thái độ, tạo tiểu phẩm xuyên tạc, nhai lại giọng điệu chiến tranh lạnh.
Phải cần khẳng định rõ Hùng Cao không trở về thăm quê, không mang tư cách Việt Kiều mà đang thi hành công vụ cấp cao với tư cách là một viên chức Hoa Kỳ do Tổng thống đề cử, được thượng viện phê chuẩn và đang giữ chức vụ hành chánh cao thứ hai trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ. bộ phận quản lý toàn bộ hệ thống hành chánh của hải quân và thủy quân lục chiến Mỹ trong khuôn khổ hợp tác quốc phòng song phương.
Việc một thứ trưởng hải quân Mỹ có mặt tại Hà Nội không khác gì việc một thứ trưởng ngoại giao hay Bộ trưởng kinh tế các nước khác sang Công cán.
Đây là đối tác chính thức của Việt Nam và đương nhiên cũng không phải để trình diện bất kỳ ai. Việc bản thân ông là người gốc Việt lại càng cho thấy thông điệp của chính phủ Mỹ. Một người tị nạn cộng sản nay là quan chức chính phủ Mỹ có thể ngồi ngang hàng với lãnh đạo Việt Nam đương nhiệm trong tinh thần hợp tác bình đẳng cùng hướng đến lợi ích hai quốc gia. Nếu người trong nước gạt bỏ định kiến thì người Việt tị nạn cũng có thể gạt bỏ đau thương.
Một số dư luận viên thay vì nhìn thấy cơ hội hòa giải lại sa vào việc bới móc quá khứ, dựng chuyện cá nhân, nhưng cần phải thấy rõ.
Thứ nhất, Hùng Cao là công dân Hoa Kỳ, phục vụ theo pháp luật Mỹ, trung thành với hiến pháp Mỹ. Khi kể lại ký ức gia đình tị nạn năm 1975, ông không chống phá ai mà đang nói lên một sự thật lịch sử của cá nhân mình. Đó là quyền tự do phát biểu được Hiến pháp bảo vệ và cũng là một phần lịch sử mà Việt Nam không nên né tránh.
Thứ hai, việc gán ghép cụm từ ba que cho một quan chức Mỹ gốc Việt vừa vô nghĩa vừa phản tác dụng. Nó không chỉ làm tổn hại đến hình ảnh Việt Nam trong con mắt quốc tế mà còn trực tiếp làm suy yếu mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Mỹ đang ngày càng quan trọng, nhất là trong bối cảnh địa chánh trị biển Đông ngày một phức tạp.
Thứ ba, nếu Hùng Cao và gia đình ông không rời khỏi Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 thì gần như chắc chắn ngày hôm nay ông sẽ không thể nào trở thành một sĩ quan cấp cao, càng không thể trở thành thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ. Bởi lẽ con cháu của quân nhân, công chức trí thức miền Nam Việt Nam Cộng hòa xem là con ngụy, vậy nên không được kết nạp đoàn đảng, không được thi đại học, bị xa lánh, xếp loại ý thức kém và cần được cải tạo tư tưởng. Nếu ở lại, Hùng Cao có thể chỉ là một người đàn ông sống bằng lao động chân tay như bao đứa trẻ miền Nam khác bị đẩy ra lề xã hội vì cái lý lịch ngụy quân ngụy quyền.
Thứ tư, xuyên tạc rằng ông cúi đầu hay sợ ánh nhìn của lãnh đạo Việt Nam là điều nhảm nhí, ngu ngục và phản tác dụng.
Nó là biểu hiện của tâm thế tự ti, pha lẫn hằn học, thiếu hiểu biết về phép tắc ngoại giao hiện tại. Một người từng chỉ huy đội đặc nhiệm gỡ mìn, từng dẫn đầu lực lượng quân sự, lính chiến tại Iraq, Afghanistan, Somali, từng được Tổng thống Hoa Kỳ đề cử và thượng viện phê chuẩn điều hành ngân sách 250 tỷ đô la sẽ không cúi đầu vì sợ ai cả.
Nếu có cúi đầu là vì phép lịch sử ngoại giao, điều mà chính các lãnh đạo Việt Nam cũng đã từng làm. Hãy nhớ lại, khi cựu thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bước tới bắt chuyện với Tổng thống Donald Trump đang ngồi khoanh tay, ông Phúc phải cúi đầu nghiêng người về phía trước, trước ống kính báo chí quốc tế. Đó có phải là cúi đầu vì sợ hãi không? Chắc chắn là không. Đó là ngoại giao và là cách ứng xử đúng mực của một nhà lãnh đạo trong chánh trường toàn cầu.
Vậy thì tại sao khi Hùng Cao với tư cách là một thứ trưởng hải quân Hoa Kỳ, đối tác chánh thức trong khuôn khổ quốc phòng song phương nghiêng đầu (trong một khung hình của máy quay) lại bị gán ghép bêu riếu? Phải chăng những người tung tin đó không muốn Việt Nam và Hoa Kỳ bình đẳng, không muốn có hình ảnh người Việt tị nạn ngồi ngang hàng với lãnh đạo quốc nội? Nếu vậy, những dư luận viên này không chỉ xúc phạm ông Hùng Cao mà đang chống lại chính sách ngoại giao của nhà nước Việt Nam, phá hoại chính mối quan hệ đang được vun đắp giữa hai quốc gia.
Một điều cuối cùng cần lưu ý, bên cạnh những lời xuyên tạc từ dư luận viên trong nước, một số người Việt hải ngoại vốn mang nhiều tổn thương sau năm 1975 cũng bày tỏ thái độ phản đối khi thấy ông Hùng Cao xuất hiện trong phái đoàn chính phủ Hoa Kỳ đến Việt Nam. Họ cho rằng việc các viên chức Mỹ gốc Việt về nước là một hành động hợp thức hóa cộng sản tiếp tay làm giàu cho chế độ. Một số người thậm chí chỉ trích chính phủ Hoa Kỳ là thiếu lập trường, giờ đi bắt tay với kẻ thù cũ.
Tuy nhiên, hợp tác Mỹ Việt ngày nay không xuất phát từ sự tin cậy hoàn toàn về ý thức hệ mà PHẢI LÀ từ sự đồng thuận về lợi ích chiến lược. Đặc biệt trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng sự ảnh hưởng ở biển Đông và toàn bộ Đông Nam Á.
Không có chuyện về làm giàu cho cộng sản mà là bảo vệ chuỗi lợi ích của Hoa Kỳ. Trong đó có cả cộng đồng người Việt tại Mỹ và các doanh nghiệp quốc phòng, các tổ chức khu vực và quyền tự do hàng hải của thế giới.
Những ai nghĩ rằng phải đoạn tuyệt với Việt Nam có lẽ đang mang tư duy độc tài, hoặc tư duy chiến tranh lạnh của thế kỷ trước chứ không hiểu rằng trong thế giới hôm nay quyền lực nằm ở vị thế ngoại giao và khả năng điều phối lực lượng thực tế. Nếu Hoa Kỳ thất thế trước Trung Quốc thì tương lai của người dân Hoa Kỳ cùng cộng đồng tị nạn cũng không mấy tốt đẹp.
Nhìn lại lịch sử:
Ngày 22 tháng 6 năm 1940, Pháp ký kết thỏa thuận ngừng bắn với Đức quốc xã dẫn đến sự thành lập chính phủ. Việc chuyển giao quyền kiểm soát nhiều lãnh thổ hải ngoại của Pháp bao gồm Đông Dương. Tuy nhiên, khả năng kiểm soát thuộc địa của Pháp đã giảm sút đáng kể. Sau nhiều cuộc đàm phán với đế quốc Nhật Bản, Pháp đồng ý để Nhật Bản thiết lập căn cứ quân sự tại Đông Dương và thành lập Đông Dương Phái Khiển Quân, đánh dấu sự hiện diện của quân Nhật tại Việt Nam.
Trước tháng năm 1945, lực lượng cộng sản trong hàng ngũ Việt Minh chưa tới 5000 người, trong khi phần lớn thành viên là từ các đảng phái quốc gia khác. Điều này khiến ảnh hưởng của cộng sản đối với tình hình chánh trị miền Nam không đáng kể so với các lực lượng như Cao Đài, Hòa Hảo và Quốc Dân đảng. Ngược lại, uy tín của Việt Minh ở miền Bắc rất cao, đặc biệt là vào giữa năm1945 khi nạn đói lên tới đỉnh điểm, Nhật và Pháp đã thu mua gạo ở miền Nam và cắm vận chuyển ra Bắc. Số lượng gạo từ miền Nam ra Bắc giảm mạnh từ hơn 126.000 tấn vào năm 1942, xuống chưa tới 7.000 tấn vào năm 1944.
Số người chết vì đói lên tới hơn 1,5 triệu, tương đương khoảng 17% dân số miền Bắc. Hơn 55.000 tắn gạo tôn động ở miền Nam phải bán gấp cho các xưởng rượu để tránh hư hỏng do thời tiết ẩm móc. Tuy nhiên, dă kháng chiến miền Nam vẫn lén lút tìm cách chuyển lương thực ra Bắc để cứu đói. Ở Quảng Ngãi, từ tháng năm 1945, đội du kích Ba tơ được Việt Minh giao nhiệm vụ đã chặn tất cả các đoàn tàu thuyền từ miền Nam ra Bắc cứu đói. Mục đích để gia tăng sự câm phẳn của người Bắc Kỳ đối với quân Nhật và kêu gọi phá kho thóc để giải quyết nạn đói, qua đó củng cố uy tín của Việt Minh.
Hơn 3 năm sau, khi Nhật Bản tấn công Trân Châu cảng, chánh phủ Hoa Kỳ đang tìm kiếm đồng minh để hoạt động trong lòng địch ở Đông Dương. Họ hy vọng việc huấn luyện người Việt Nam, chiến thuật du kích sẽ giúp chống lại quân Nhật và thu thập thông tin tình báo giá trị. Vì vậy, một nhóm tình báo chiến lược của OSS mang tên đội Con Nai đã nhảy dù xuống gần căn cứ Việt Minh tại miền Bắc.
Câu chuyện bắt đầu vào tháng 11 năm 1944, khi Trung Quý Rod Shaw phi công thuộc không đòan 14 bị buộc phải nhảy dù xuống vùng Cao Bằng sau khi phi cơ của anh bị trúng đạn. Tại đây, Shaw đã gặp Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Cuộc gặp cỡ này đã tạo nên một thương vụ lịch sử ảnh hưởng lớn đến vận mệnh của Việt Nam trong nhiều năm sau. Trong suốt 30 ngày lẩn trốn quân Pháp và Nhật, Việt Minh đã đưa Shaw đi từ căn cứ này đến căn cứ khác. Shaw cho biết vào thời điểm này Việt Minh rất kính trọng anh vì biết rằng anh không chỉ chiến đấu cho nước Mỹ mà còn vì tự do và dân chủ của thế giới và Đông Dương.
Sau khi đưa Shaw trở về căn cứ Mỹ ở Côn Minh, Hồ Chí Minh đã từ chối món quà của anh và chỉ yêu cầu được gặp tướng Claire Channel, chỉ huy đừng danh của công đoàn Cọp Bay. Tuy nhiên yêu cầu này nhanh chóng bị từ chối. Hành động giải cứu Trung Quý Shaw đã khiến người Mỹ tin rằng Việt Nam cũng chống Nhật và có thể đứng về phe đồng minh. Vào lúc 8:18 ngày 9 tháng năm 1945, tướng Suji Hashi Yusu chỉ huy đạo quân Thiên Hoàng 38 ở Sài Gòn đã ra lệnh cho 67.000 binh sĩ và các lực lượng giáo phái bản địa gọi là bộ đội Hải Hồ bắt đầu cuộc đạo chánh chống Pháp. Theo nhà sứ học David More, khoảng 2100 sĩ quan và quân dân Âu Châu bị giết hoặc mất tích trong cuộc đảo chánh và 15.000 binh sĩ Đông dường đang bị Nhật giam giữ, trong đó có 12.000 người Âu Châu.
Vào quý đầu năm 1945, OSS đã cử một đội chuyên gia đến Việt Bắc để hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng và huấn luyện lực lượng Việt Minh. Hồ Chí Minh đã cung cấp cho họ bản báo cáo hành quân và những lưu ý khi hành quân ở Đông Dương. Hy vọng rằng báo cáo này sẽ được gửi về Côn Minh để Việt Minh giành được thiện cảm và tăng cường viện trợ từ đồng minh (Trung cộng).
Đội Con Nai đã mang đến Việt Bắc vài khẩu carbin, một khẩu R và nhiều súng ngắn cùng đạn dược khiến Việt Minh vui mừng vì phần lớn họ sử dụng súng tự chế hoặc vũ khí lỗi thời như Reminton 1904.
Các máy điện đài kỹ thuật số mà OSS thả dù xuống cũng giúp Hồ Chí Minh thiết lập thêm nhiều trạm điện đài hiện đại tại Hà Giang, Lạng Sơn và Cao Bằng. Trong thời gian hợp tác, đa số các thành viên OSS đều coi ông Hồ Chí Minh như một người bạn thân thiết. Các binh sĩ Việt Minh lần đầu tiên được tiếp xúc với cà phê từ những người Mỹ vì trước đây nó chỉ là thức uống cao cấp của thực dân và giới trung lưu. Tổ chức này bao gồm cả người Mỹ da trắng, người Mỹ gốc Hoa và người Pháp.
Nhưng sự hiện diện của người Pháp đã khiến Việt Minh không hài lòng. Bên cạnh các thông tin tình báo và chỉ điểm, ông Hồ Chí Minh còn liên tục soạn thảo các bản báo cáo về tội ác của Pháp tại Đông Dương. Điều này làm tăng sự cách ly giữa ông và các thành viên khác của đội. Hồ Chí Minh đã cung cấp cho 1000 chiến sĩ du kích thiện chiến sẵn sàng hỗ trợ Hoa Kỳ trong các kế hoạch chống Nhật.
Tuy nhiên, chỉ huy OSS tại Việt Bắc Party đã lưỡng lự trước đề nghị này vì trong hai tuần đầu tháng sáu, đội Con Nai đã đạt nhiều tiến bộ với người Pháp và có thể sẽ quay lại hợp tác với họ.
Nhưng OSS một lần nữa đã chọn Việt Minh với sự hỗ trợ từ tình báo OSS trong việc xây dựng Vệ quốc đoàn, và sau này là quân đội nhân dân Việt Nam. Chánh phủ của ông Hồ Chí Minh đã sát cánh cùng Hoa Kỳ trong cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật. Bộ đội Việt Minh được huấn luyện sử dụng các loại vũ khí hiện đại trong khuôn khổ chiến dịch của OSS, tiền thân của CIA.
Vào tháng 6 năm 1945, khi đội Con Nai đến Tân trào, ông Hồ Chí Minh nghiêm túc đề nghị Hoa Kỳ biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ và yêu cầu loại bỏ người Pháp khỏi Đông Dương, đồng thời mở cửa tiếp đón 10 triệu người Mỹ. Thiếu tá Alison Thomas, chỉ huy đội Con Nai, đánh giá Hồ Chính Mi là một người cộng sản giáo điều, trước khi là người cộng sản, ông ấy là một người quốc gia yêu nước.
Do vậy, hầu hết các chuyên gia OSS đều báo cáo cấp trên rằng nên hợp tác với Hồ Chí Minh thay vì với người Pháp. Tuy nhiên, yêu cầu về vũ khí, quân phục và thiết bị quân sự của Việt Minh ngày càng cao khiến OSS lo ngại rằng mục đích chính của Hồ Chí Minh không phải là chống Nhật mà là lợi dụng OSS để xây dựng lực lượng vũ trang của riêng mình nhằm kiểm soát Bắc Kỳ.
Mối quan hệ hợp tác này không phải lúc nào cũng suông sẻ. Trung tá Peter Drugy, 28 tuổi, chỉ huy phái bộ ở Nam Kỳ, phản đối sự can thiệp võ lực của Anh và Pháp, nhưng bị thiếu tướng Ruxy ra lệnh trục xuất. Ngày 26 tháng ông bị Việt Minh bắn chết vì bị lầm là người Pháp khi đang trên đường ra phi trường chưa kịp rời khỏi Việt Nam.
Đơn vị võ trang của Việt mình cũng tấn công cơ quan và sát hại nhiều người Mỹ làm rạn nứt mối quan hệ tốt đẹp giữa Hoa Kỳ và Việt minh. Thiếu tá tình báo AG Medic Party, công tác ở Bắc Kỳ đã nhận xét rằng họ đã giết người bạn duy nhất của họ ở Nam Kỳ và chắc chắn người dân Hoa Kỳ sẽ không còn tin tưởng vào Việt Nam nữa. Party cho biết ông từng hy vọng rằng Việt Minh không phải là thủ phạm giết Drugy.
Từ năm 1945 đến cuối năm 1946, ông Hồ Chí Minh đã nhiều lần kêu gọi sự công nhận và hỗ trợ từ quốc tế Cộng sản nhưng bị Liên Xô từ chối vì muốn giữ mối quan hệ trung lập với quốc tế. Niềm hy vọng cuối cùng của ông là Hoa Kỳ quốc gia đã từng sát cánh cùng Việt Minh trong kháng chiến chống phát xích Nhật. Hồ Chí Minh đã gửi tám bức thư và điện đến tổng thống Harry Truman. Ba bức thư và điện đến ngoại trưởng James Burns nhằm thuyết phục rằng ông không phải là đặc phái viên của quốc tế cộng sản.
Nhiều bức điện trong số đó được gỡ qua máy điện đài của đội Con Nai do William Yaskii điều hành. Tuy nhiên, tất cả các bức thư đều không nhận được phản hồi từ tổng thống Truman và chánh phủ của Truman đã quyết định ủng hộ việc Pháp quay trở lại Đông Dương. Suốt từ thời gian hoạt động bí mật cho tới lúc thành lập chánh quyền, đồng minh ngoại quốc duy nhất bên cạnh Việt Minh chỉ có Hoa Kỳ.
Đây là lý do mà bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam dân chủ Cộng hòa được biên soạn dựa trên nền tảng của tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ và có sự góp ý chỉnh sửa của Achim Medis Py. Do mối quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ xấu dần sau sự bắt đầu của cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhiều chiến công và ghi chép hoạt động của đội Con Nai ở Việt Nam nhanh chóng rơi vào quên lãng.
Nhiều thành viên của XX khác từng hoạt động tại Việt Nam đã giải ngủ khỏi quân đội và lên tiếng phản đối sự can thiệp của Mỹ tại Đông Dương cũng như cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Những thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến chiến lược của Việt Minh mà còn làm gia tăng các yếu tố bất ổn trong khu vực, đặt nền móng cho những diễn biến chánh trị sau này ở Việt Nam.
![[Image: 577880808_122166706592675463_28950272088...e=69159FC2]](https://scontent-yyz1-1.xx.fbcdn.net/v/t39.30808-6/577880808_122166706592675463_289502720885566617_n.jpg?_nc_cat=101&ccb=1-7&_nc_sid=f727a1&_nc_ohc=7lSK0TLqQ90Q7kNvwHTXYwk&_nc_oc=AdnZsUea7V5mJ5rpnCL6gkYnBDcYd2kHRuHpFi_XGtBWodjgGOdVJmPwqidCienJwaU&_nc_zt=23&_nc_ht=scontent-yyz1-1.xx&_nc_gid=QyxfhJyDgUq5ag_l9gyOrg&oh=00_AfgeVF6RwO53eeMd3tD39ruQ0VOqPeM1CkfzRJUy9bMeuw&oe=69159FC2)
%%%%
TỬNG TỪNG TƯNG



