Tìm về bên Chúa
#16
[Image: High-Church-Anglicanism-Became-an-Accide...tanism.jpg]


“Chủ nghĩa Anh giáo của Giáo hội Cao cấp” đã bất ngờ lại trở thành một con đường tình cờ dẫn đến một Giáo Hội Tông Truyền Chân Chính và Thánh Thiện , và Chủ nghĩa Cực đoan*1 - “High Church Anglicanism” Became an Accidental Path to the One True Church and Ultramontanism

Viết bởi Fernando Furquim de Almeida
Ngày 9 tháng 9 năm 2022


Phong trào Oxford bắt đầu ngay sau khi Lãnh đạo Giáo dân Công giáo Daniel O’Connell buộc chính phủ Anh đàn áp một số giáo phận Anh giáo ở Ireland.
“Điểm chớp nhoáng” của Phong trào là bài giảng về “Sự bội đạo của quốc gia” do Mục sư Anh giáo*2 John Keble thuyết giảng vào ngày 14 tháng 7 năm 1833. Bài giảng của Mục sư Keble đã vang dội trong cộng đồng Tin lành.

[Image: 271d.png] Sự Phục hồi thiêng liêng

Vào thời điểm này, Giáo hội Anh giáo*2 đã trở thành một cơ quan chính phủ chủ yếu, phần lớn không quan tâm đến tôn giáo hoặc sự cứu rỗi. Thái độ bất cẩn này của các chức sắc cao trong Giáo hội đã làm tăng quyền lực thế tục. Đồng thời gây bất bình rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Sự bất an này khuấy động mong muốn ở những người có lương tâm hơn phản ứng chống lại sự cẩu thả của giáo sĩ.

Đại học Oxford, là một pháo đài của Đạo Tin lành Anh, bắt đầu dẫn đầu những người không hài lòng. Các nhà lãnh đạo của đại học Oxford đã làm việc để khôi phục lại các nghiên cứu về thần học, là những môn mà trong giáo trình học nơi các trường đại học Anh quốc đã hoàn toàn bỏ rơi! Các giáo sư trẻ hơn đã chia sẻ nguyện vọng của các sinh viên muốn đổi mới đời sống tôn giáo và tìm cách làm sống lại mối quan tâm đến thần học trong giới trí thức. Bài giảng của Keble đã thúc đẩy họ giữ vững lập trường.

[Image: 271d.png] Bất đồng về phương pháp

Vài ngày sau, vào ngày 25 tháng 7, một cuộc họp quan trọng đã diễn ra trong nhà của một mục sư có ảnh hưởng khác, Hugh James Rose. Mục sư Rose đã mời nhà thần học Anh giáo William Palmer của Đại học Worcester, Dublin, A. P. Perceval, con trai của một người ngang hàng với vương quốc và là tuyên úy cho hai vị vua cuối cùng (George IV và William IV), và R. H. Froude, người sáng giá nhất trong số các giáo sư trẻ của Oxford. 

Rose đề nghị nhóm viết một lá thư cho Tổng giám mục Canterbury. Cùng với những đảm bảo về lòng trung thành của họ với các nhà chức trách giáo hội, giáo sĩ sẽ mô tả những thay đổi mà họ cho là cần thiết để cải thiện đời sống tôn giáo của đất nước. Bức thư này dự định được ký bởi càng nhiều mục sư càng tốt, có lẽ buộc hệ thống cấp bậc phải xem xét lại các vị trí của mình.

 [Image: 271d.png] Luật vĩnh cửu và tự nhiên: Nền tảng của Đạo đức và Luật pháp

Tuy nhiên, William Palmer không tin rằng bức thư sẽ có hiệu lực. Anh ấy đề nghị thành lập một hiệp hội để đoàn kết tất cả các thánh thư giả (ecclesiastics) với “những ý tưởng hay”.

Giáo sư Froude phản đối cả hai đề xuất. Ông lập luận rằng không thể dung hòa “giáo hội thấp” 1 đạo Tin lành truyền thống với những lý tưởng đã làm sôi nổi các đồng nghiệp ở Oxford của ông.


Cuộc họp kết thúc mà không có kết quả thiết thực nào.

[Image: 271d.png]"Những Bài Báo cho Thời Đại/ Tracts for the Times"

Khi trở lại Đại học Oxford, Froude vô cùng nản lòng tìm thấy ở John Henry Newman, một cộng tác viên nhiệt tình. Newman, một giáo sư tại Đại học Oriel, cũng tin rằng các biện pháp mà Rose và Palmer đề xuất sẽ không hiệu quả, nhưng ông cũng quyết tâm để ý đến lời kêu gọi của Keble.

Newman bắt đầu xuất bản các tạp chí, lúc đầu là ẩn danh, với tiêu đề chung là “Các bài báo cho Thời đại”. Những cuốn sách nhỏ có ảnh hưởng này đã làm sáng tỏ những ý tưởng đang lưu hành ở Oxford. Những người tuyên truyền dạo chơi trên lưng ngựa của nước Anh, phân phát những cuốn sách nhỏ này cho tất cả những người viết chữ Anh giáo.

Thành công của sáng kiến đã mang lại những cộng tác viên mới. Keble, Edward Pusey, và nhiều người khác đã tham gia Phong trào. Cuối cùng, Newman trở thành người lãnh đạo chiến dịch sửa đổi thần học Anh giáo. Dần dần, các tập truyện mất đi tính cách tuyên truyền và trở thành những luận thuyết chân chính.

Môi trường ủng hộ vô số sự chuyển đổi từ Anh giáo sang Đức tin chân chính và thánh thiện, cũng như đã ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử tôn giáo của nước Anh trong thế kỷ 19 một phần là nhờ vào những tập sách nhỏ này.

(Đọc thêm: Những Lời Tiên Tri Của Đức Mẹ đều Trở Thành Sự Thật (Thành Công Tốt) Về Tìm Hiểu Tất Cả Về Thời Đại Của Chúng Ta.)

Newman là linh hồn của Phong trào Oxford và có ý định cống hiến toàn bộ cuộc đời mình cho nó. Anh ta khó có thể tưởng tượng rằng Phong trào sẽ thực sự tan rã trong vòng vài năm, vì nhiều thành viên của nó, bao gồm cả bản thân Newman, đã trở thành người Công giáo.

[Image: 271d.png]Sự Tìm tòi hướng tới Giáo hội Chân chính Thánh Thiện

Ngoài việc viết Tracts (các tập sách nhỏ nói trên), Newman bắt đầu một loạt các bài giảng tại Saint Mary’s Chapel. Vào thời điểm đó, nhà nguyện phần lớn bị bỏ hoang chỉ được sử dụng cho phó hiệu trưởng và các giáo sư tụ họp trong khi tổ chức các cuộc rước học thuật. Số người tham dự các buổi thuyết trình này ngày càng tăng và thính giả bị thu hút bởi danh tiếng của Newman cũng đến từ các trường đại học khác.

Một ngày nọ, William George Ward, một giáo viên huyên náo của trường Balliol College, được một người bạn đưa đến trường Saint Mary’s. Anh ấy có khả năng nhiệt tình cao và được trời phú cho sự chân thành đơn giản, cùng một giọng hát có thể hạ gục bất kỳ khán giả nào. Ward đã biến hội nghị thành một cuộc tranh luận và để nó thuyết phục. Anh ấy đã hoàn toàn cống hiến cho Phong trào và, sau Newman, là người quan trọng nhất trong số các thành viên của nó. Anh ấy thường trả lời bất cứ ai hỏi anh ấy là người như thế nào bằng câu nói này: "Tôi tin vào Newman!"("Credo ở Newmanum!").

Tuy nhiên, trong khi chân thành khẳng định sự gắn bó của mình, Ward đã không ngần ngại đưa ra phản đối Newman. Mạch lạc hơn Newman, các lập luận của Ward đã làm cho các bài giảng trở nên sinh động hơn bằng cách lôi cuốn khán giả bằng giọng nói cao vút, sự hài hước thông thường và niềm đam mê mà anh ấy tranh luận.

Thông thường, Newman không thể chịu đựng được logic không thể thay đổi của Ward, người mà những mặt trái của nó lặp đi lặp lại buộc Newman phải đi xa hơn những gì anh ta muốn. Newman đã đi xa đến mức yêu cầu người tế lễ không đặt những chiếc ghế nhà nguyện đối diện với diễn giả mà đặt sang một bên, giống như những quầy của một dàn hợp xướng, để anh ta không thể nhìn thấy Ward khi anh ta nói.

(Đọc thêm: Khoa học xác nhận: Các thiên thần đã đưa Nhà của Đức Mẹ Nazareth đến Loreto).
Tuy vậy, miễn là họ vẫn còn theo đạo Tin lành, họ đã làm việc cùng nhau, và sự hợp tác của họ đã thúc đẩy sự thành công không thể so sánh được của Phong trào Oxford.


[Image: 271d.png]Bất đồng về Chủ nghĩa Cực đoan

Càng về sau, sự khác biệt giữa hai người ngày càng rõ nét. Sau khi chuyển đổi sang True Faith, Newman và Ward thường tranh cãi về hai phe đối lập. Quan trọng nhất, Ward đã trở thành nhà vô địch của chủ nghĩa Ultramont, một niềm tin mà Newman, thật không may, đã không chia sẻ.
[Image: 1f4a5.png]Sự bất ngờ đột nhiên đáng nói nhất ở đây là:- ban đầu, được khởi xướng để xây dựng lại Nhà thờ Anh giáo,  nhưng Phong trào Oxford đã dẫn dắt nhiều thành viên có ảnh hưởng nhất đến với đạo Công giáo, Giáo Hội Tông Truyền Chân Chính và Thánh Thiện. Nhờ Phong trào này, tất cả đều có được nền tảng tốt hơn cho đức tin của mình.[Image: 1f4a5.png]

[Image: 271d.png]Ghi Chú quan trọng:

*1-Ultramontanism is a clerical political conception within the Catholic Church that places strong emphasis on the prerogatives and powers of the Pope. It contrasts with Gallicanism, the belief that popular civil authority—often represented by the monarch's or state's authority—over the Church is comparable to that of the Pope. Chủ nghĩa cực đoan là một quan niệm chính trị mang tính giáo sĩ trong Giáo hội Công giáo đặt trọng tâm vào các đặc quyền và quyền hạn của Giáo hoàng. Nó trái ngược với thuyết Gallic, niềm tin rằng quyền lực dân sự phổ biến - thường được đại diện bởi quyền lực của quân chủ hoặc nhà nước - đối với Giáo hội có thể so sánh với quyền lực của Giáo hoàng.
https://en.wikipedia.org/wiki/Ultramontanism

*2- Comment của Eleanor Uehlinger Danner:

Tôi biết điều này có lẽ không liên quan đến một số bạn, nhưng tôn giáo ở Anh quốc (Anh giáo) thật sự có nguồn gốc từ Công giáo cho đến khi Vua Henry muốn ly dị vợ và bị giáo hội từ chối. Và dĩ nhiên, cũng giống như tất cả các hoàng gia ở đó, ông ta đã nổi cơn thịnh nộ và liền thành lập nhà thờ hay đạo Anh giáo theo ý riêng của mình.

Nguồn: https://www.tfp.org/high-church-anglican...cUWxE0mhvU
Reply
#17
Heavy-black-heart4 Hello





223110697
Reply
#18
Tháng Mười Một
Tháng cầu nguyện cho các linh hồn 

Tulip4

[Image: 313424131_170808775620066_75055290632122...e=6366F22E]

THÁNG CẦU CHO CÁC LINH HỒN

Bước vào tháng các linh hồn
Nhớ người đã khuất, chẳng còn gần ta
Trước tiên: cha mẹ, ông bà
Tới đoàn thân thuộc kẻ xa, người gần
Đang trong luyện tội rất cần
Lời ta cầu nguyện tắt dần lửa hun
Nhớ rằng: quyền các linh hồn
Cầu cho kẻ sống vẫn còn như xưa
Hồng ân đổ xuống như mưa
Cầu thay nguyện giúp đủ vừa lòng nhau
Ơn thiêng nhận lãnh từ đâu?
Kho tàng Giáo Hội đủ mầu chức năng
Dâng lời cầu nguyện siêng năng
Hiệp cùng Thánh lễ cho chăm mỗi ngày
Sẻ chia, bác ái, tịnh chay
Chúa thương giải thoát hồn bay lên Trời.

Đạo Binh Đức Mẹ
November 2022.

Innocent
Reply
#19
[Image: R.bcec700af718a8ae1581505e04883640?rik=n...ImgRaw&r=0]

Tháng 11 Cầu Cho Các Linh Hồn


Hằng năm Hội Thánh Công giáo Hoàn vũ dâng ngày 1 tháng 11 dương lịch để kính mừng Các Thánh Nam Nữ trên trời và dành riêng trọn tháng 11 dương lịch, bắt đầu từ ngày mồng 2, để cầu nguyện cho Các Linh Hồn trong Luyện ngục.

Công Đồng Trentô dạy rằng các linh hồn ở Luyện ngục là thành phần của Hội Thánh cần nhờ đến lời cầu nguyện và hy sinh của chúng ta, những người còn sống. Giáo lý của Hội Thánh về Luyện ngục là điều có sức yên ủi lòng ta và tỏ bày lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Việc cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện ngục là một việc làm do tình thương thúc đẩy để bù đắp phần nào mối tình và bổn phận phải có đối với các kẻ đã qua đời mà có lẽ khi các ngài còn sống chúng ta đã không chu toàn.

Tháng 11: Cầu cho các đẳng linh hồn

Chứng Tích Về Luyện Ngục:
Những chứng tích về việc các Linh hồn ở Luyện ngục hiện về được Toà Thánh công nhận thì nhiều lắm. Xin đơn cử một ít chứng tích, trong nhiều chứng tích, đang được trưng bày tại Thánh đường Đức Mẹ Mân Côi, Nữ Vương Luyện Hình tại Rôma.

Chứng tích 1: Bạn bè hiện về với nhau
Chúa nhật ngày 5 tháng 3 năm 1871, bà Palmira Rastelli, chị ruột của linh mục Santelli, chánh xứ Thánh Anrê tại Rimini, qua đời ngày 20-11-1870 đã hiện về với bà bạn là Maria Zelanti cũng thuộc giáo xứ Thánh Anrê để xin cầu nguyện và xin nhắn với ông anh linh mục dâng lễ cho mình. Để cho người còn sống vững tin thì linh hồn hiện về đã in dấu 3 ngón tay của mình trên cuốn sách nguyện của bà Zelanti. Dấu lửa in 3 ngón tay trên trang sách đã không thiêu hủy tờ giấy và cũng không làm mất các hàng chữ trên trang giấy.

Chứng tích 2: Vợ hiện về với chồng
Bà Louise Sénéchal, qua đời ngày 7 tháng 5 năm 1878, đã hiện về với chồng là Louis Sénéchal xin cầu nguyện và xin dâng cho bà 5 thánh lễ. Bà đã in 5 ngón tay lửa của mình lên chiếc mũ trùm đầu của chồng bà như là một dấu hữu hình để chồng và các con tin.

Chứng tích 3: Nữ tu hiện về với chị em trong tu viện
Nữ tu Clara Schoelers, Dòng Bênêđitô ở Vinnemberg, Westphalie, qua đời năm 1637 đã hiện về với nữ tu Maria Herendorps ngày 30 tháng 10 năm 1696 (59 năm sau). Để làm bằng chứng, linh hồn hiện về đã in dấu cháy hai bàn tay của mình trên áo khoác làm việc của nữ tu Maria Herendorps và trên một tấm vải trắng.

Chứng tích 4: Mẹ hiện về với con trai
Bà Leleux, trong đêm 21-6-1789, đã hiện về với người con trai là Joseph Leleux ở Wodecp (Bỉ). Bà hiện về 11 đêm liên tiếp để nhắc nhở con bà phải xin lễ cho bà, đồng thời bảo con bà phải sửa mình lại vì anh ta đang sống bừa bãi, khô khan nguội lạnh. Bà cầm tay con và in dấu cháy cả bàn tay bà vào ống tay áo của con. Kết quả là anh đã trở lại sống thánh thiện, lập một hội đạo đức dành cho giáo dân; các hội viên trong hội này đã thi đua nên thánh. Anh đã qua đời cách thánh thiện ngày 19-4-1825.

Chứng tích 5: Mẹ chồng hiện về với con dâu
Nhạc mẫu của bà Magarita Demmerlé thuộc giáo xứ Ellinghen, giáo phận Metz, qua đời năm 1785, và 30 năm sau, năm 1815 đã hiện về với con dâu. Bà buồn bà nhìn con dâu như có ý xin điều gì. Bà Magarita Demmerlé lên tiếng hỏi thì được mẹ chồng cho biết là mình về để xin con dâu cầu nguyện cho, bằng cách đi hành hương lên Đền Đức Mẹ ở Mariental. Người con dâu đã làm y như lời mẹ chồng xin. Sau cuộc hành hương ấy bà mẹ chồng hiện về với con dâu một lần nữa và báo cho biết là mình đã đưoọc ra khỏi Luyện ngục mà lên Thiên đàng. Bà Magarita xin một bằng chứng thì bà mẹ chồng liền in cả bàn tay mình lên trang sách Gương Phước đang để mở trên bàn. Và từ đó bà không còn hiện về nữa.

Tháng này là dịp để chúng ta nhớ đến linh hồn những người thân yêu mà Chúa đã gởi đến trong cuộc đời như: ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt, bằng hữu… Ta cũng nhớ đến những linh hồn quên lãng không có ai nhớ đến để cầu nguyện cho.

Bà Thánh Monica khi còn sống đã căn dặn con mình là Thánh giám mục Augustinô rằng: “Con ơi, khi mẹ chết rồi, con có chôn cất mẹ ở đâu cũng được. Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ mà cầu nguyện cho mẹ mỗi ngày khi con bước lên bàn thờ tế lễ Chúa.” Bà Monica khi còn sống đã đạt tới sự thánh thiện trọn hảo mà còn lo lắng cho thân phận mình sau khi chết như vậy.

Nơi một nghĩa trang ở Rôma, bên nước Ý-đại-lợi, ta đọc thấy hàng chữ này bằng tiếng La-tinh: “Hodie Tibi, Cras Mihi” có nghĩa là “HÔM NAY BẠN, NGÀY MAI TÔI”… nhắc chúng ta nhớ đến Sự Chết. Sự Chết không tha cho một ai cả. Có nhớ đến sự chết, có suy gẫm về sự chết mới biết phải sống thế nào cho đẹp để được chết lành.

Hôm nay chúng ta cầu nguyện cho người, ngày mai người khác sẽ lại cầu nguyện cho ta: Một sự vay trả, trả vay rất hữu lý. Hôm nay ta cầu nguyện cho các Linh hồn trong Luyện ngục, ngày mai khi được về hưởng nhan thánh Chúa trên trời, các Linh hồn người lành sẽ đền đáp lại cho chúng ta bằng lời chuyển cầu thần thế của các ngài trước mặt Chúa.

Lm. Giuse Châu Xuân Báu, C.Ss.R
Reply
#20
 Chương trình nghị sự của Hạnh phúc

"..." Hãy luôn cầu nguyện và không bao giờ yếu đuối". Luc 18.1

Nụ cười: là danh thiếp của những người khỏe mạnh. Vui lòng chuyển nó xung quanh.

Đối thoại: là cây cầu nối hai bên. Tôi và bạn truyền nó rất nhiều.

Lòng tốt: là loài hoa hấp dẫn nhất trong khu vườn của một trái tim được nuôi dưỡng tốt. Trồng hoa.

Niềm vui: là hương nước hoa thỏa mãn, là thành quả của nhiệm vụ hoàn thành. Tát nó như thế này. Thế giới cần anh ấy.

Sự bình yên trong tâm hồn: là chiếc gối tốt nhất cho giấc ngủ Thanh tịnh. Sống bình yên với chính mình và Chúa

Đức tin vào Chúa Trời: là la bàn cho những con tàu lang thang, không chắc chắn, tìm kiếm những bến bờ của sự vĩnh hằng. Hãy sử dụng nó.

Hy vọng: là cơn gió tốt thổi buồm của chúng ta. Gọi anh ấy vào cuộc sống hàng ngày của bạn.

Tình yêu: là âm nhạc tuyệt vời nhất trên bảng điểm của cuộc đời. Nếu không có nó, bạn sẽ mãi mãi lạc lối.

[Image: th?id=OIP.iFXutBeo2V8BybVnbk3mzAHaLH&w=1...d=3.1&rm=2]
Reply
#21
CÂU CHUYỆN VỀ ƠN GỌI CỦA MỘT THANH NIÊN TRẺ NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TU DÒNG CHARTREUX Ở THỤY SĨ

“Con như chiếc bình bạch ngọc
đập vỡ vụn dưới chân Chúa”

[Image: 329234950_1586894408399864_8491547058200...e=63E68279]


[Image: 329249562_518652610257561_31532766015554...e=63E7C729]


Vào những ngày đầu tháng 5, 2022, tôi nhận được một cú điện thoại của một vị mà tôi không ngờ tới, Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, vì chưa bao giờ tôi liên hệ với ngài.
– Thưa Đức Cha, ngài gọi cho con có việc gì vậy ?
– Trước nhất, tôi được tin là cha mới được Cộng đoàn chọn để hướng dẫn Cộng đoàn, tôi chúc mừng cha. Và tôi có một việc nhờ cha và Dòng giúp.
– Đức Cha cho chúng con biết điều gì chúng con có thể giúp Đức Cha ?
– Có một Thầy tên Khang đi tu Dòng Chartreuse de La Valsainte, ở gần Dòng của cha. Mẹ của Thầy dự định sẽ sang Thụy Sĩ thăm Thầy vào tháng 9, tôi nhờ cha giúp đi đón ở phi trường, chở bà đến Dòng Chartreuse để bà thăm Thầy Khang, rồi sau đó xin cha trở lại Dòng đón bà về ở Dòng của cha, vì theo luật Dòng Chartreux họ chỉ cho bà ở nhà khách và thăm Thầy được hai ngày thôi.
– Thưa Đức Cha, chúng con sẽ giúp bà tận tình.
– Tôi xin phép cha, tôi cho bà số điện thoại của cha để bà liên lạc với cha nhé ?
– Vâng ạ.
…………..


Một thời gian sau đó, mẹ của Thầy Khang đã gọi nói chuyện với tôi. Bà đã kể cho tôi biết về ơn gọi của Thầy Khang như sau :

Sau khi vợ chồng chúng con thành hôn với nhau, chúng con có được một cô con gái đầu lòng. Hằng ngày con cầu xin với Chúa :
nếu đẹp ý Chúa, xin cho chúng con một cậu con trai, nếu Chúa thương ban, chúng con sẽ giáo dục cháu và hướng dẫn cháu sau này dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì.


Và Chúa đã thương nhậm lời chúng con cầu xin, chúng con đã sinh ra cháu Dương Nguyên Khang vào ngày 11.3.1996. Và ngày 13.4.1996 cháu đã được Rửa tội tại Vương cung thánh đường Đức Bà Saigon với tên thánh Augustinô.

Cháu Khang học giáo lý lúc 4 tuổi. Cứ đòi đi học chung với Chị,  các Sơ St Paul thấy thằng bé mập tròn, ngoan ngoãn nên cho vào lớp ngồi nghe. Đến 5 tuổi Sơ cho học lớp khai tâm trước 1 năm. Những lúc kiểm tra giáo lý, vì không biết chữ nên Sơ cho bé trả lời bằng miệng. Sách giáo lý mang về bắt mẹ đọc cho học thuộc từng câu. Đến khi vào lớp 1 biết đọc, biết viết thì làm bài luôn đạt điểm 10. Sang cấp 2 thì các bài kiểm giáo lý Sơ luôn cho 10+ hoặc 10++. Con vẫn giữ những bài viết này. Khang chỉ chờ dịp để được viết về Chúa với tất cả tâm tình, có khi dài hơn câu trả lời bắt buộc đến cả trang giấy.

Vì thấy cháu có lòng ham học giáo lý và hướng về Chúa như thế, con đã may cho cháu 4 chiếc áo lễ với 4 bốn màu khác nhau để cho cháu mặc, hầu giúp cháu yêu thích và ước muốn đi tu sau này.

Cháu Khang lúc nhỏ chiều nào cũng dâng lễ rồi xin mẹ, chị, bà ngoại hoặc có ai đang ở trong nhà đều phải dự lễ và rước lễ như thật. Mặc dù chưa biết chữ, nhưng đi lễ học thuộc cả kinh tiền tụng, vinh tụng ca… mở sách như thật, đọc vanh vách. Phúc âm và bài đọc thì phải nhờ người đọc. Thời gian này cháu đang học Mẫu giáo. Chiều dâng lễ, tối trước khi ngủ vẫn ôm bình sữa bú. Lúc chưa biết chữ, ngày nào cũng bắt mẹ đọc sách cho nghe. vừa nghe đọc, vừa bú bình đến 7 tuổi mới ngưng. Đến lúc 7 tuổi, cháu được giúp lễ ở Vương cung thánh đường Đức Bà Saigon, lúc đó cháu mới ngưng dâng lễ ở nhà.


Cháu giúp lễ khi chưa rước lễ lần đầu. Có lần khi giúp lễ cho Đức Hồng Y, vì ngài không biết đã trao Mình Thánh cho Khang và cháu vẫn rước. Về nhà rất vui sướng kể cho mẹ nghe, mặc dù đã được mẹ và các Cha dặn là chỉ giúp lễ, không được rước lễ. Khi các Cha phát hiện, vào các lần sau, đến lúc cho rước lễ, các anh trong phòng Thánh phải dắt em vào.

ĐC Giuse Vũ Duy Thống lúc Ngài đang làm GM phụ tá Saigon đã từng hỏi cháu Khang khi cháu 9 tuổi : «Cha thấy con sáng láng thông minh, vậy con có muốn đi tu không? Nếu sau này khi con muốn đi tu, thì đến gặp ĐC và ĐC sẽ giúp con». Và  ngài cũng đã hỏi con :  “Nếu Chúa chọn con của chị, chị có vui lòng dâng cho Chúa không?»  Nhưng Ngài đã qua đời khi Khang còn đang học ở Mỹ.

Từ Tiểu học cháu Khang được học trường song ngữ Pháp-Việt. Cháu là một học sinh chăm chỉ và ham học, cháu luôn đạt được điểm cao, từng đạt giải các kỳ thi Olympic. Học sinh giỏi cấp thành phố, cấp quốc gia, Thủ khoa kỳ thi tốt nghiệp trung học vào năm 2014 trường Lê Hồng Phong, Saigon.

Cháu Khang đã hoàn thành chương trình hệ Trung cấp 9 năm tại  Nhạc viện Saigon chuyên khoa Piano vào năm 2014. Cháu là người sáng lập nhóm nhạc GERMER mang âm nhạc cổ điển đến với người trẻ tại Saigon. Nhóm hiện nay vẫn đang họat động và trình diễn mỗi tháng 1 lần.

Từ Tháng 9.2015 đến tháng 5.2019 vinh dự nhận học bổng 4 năm du học tại Mỹ. Ngày 28.5 2019 cháu Khang tốt nghiệp Master (Thạc sĩ) ngành Trí tuệ nhân tạo, hạng Tối Ưu. Lúc đó cháu đã nói được 7, 8 ngoại ngữ. cháu muốn học thêm để lấy bằng Tiến sĩ ngành này, cháu cũng được một hãng lớn ở Mỹ mời làm việc với một mức lương trên 300.000 đô la Mỹ một năm. Nhưng cháu đã từ chối, vì lúc đó cháu đã khám phá ra trong tâm hồn tiếng Chúa gọi tận hiến cho Ngài.

Mỗi dịp hè, cháu Khang chỉ về VN khoảng 1 tháng. Phần còn lại của kỳ hè hoặc các kỳ nghỉ khác thì đều đi tĩnh tâm ở các nhà Dòng ở Mỹ, Châu Âu, Hàn Quốc hay ra Dòng Xitô Châu Sơn, Ninh Bình, để tĩnh tâm với Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt.
Hè năm 2018 cháu Khang sang Dòng Chartreux ở Pháp 1 tháng để tĩnh tâm và muốn xin ở lại tu tại đây, sau khi học xong. Nhưng vì nhà Dòng này đã có đông đan sĩ, nên cha Bề trên đã giới thiệu Khang sang Thụy sĩ. Cuối năm 2018 Khang sang Thụy Sĩ 1 tháng và được cha Bề trên, cha Giáo tập chấp nhận, nên các ngài tiến hành làm các thủ tục cho cháu Khang nhập Dòng Chartreuse de La Valsainte, tại Thụy Sĩ ngày 15. 8. 2019.  Được mặc áo Dòng ngày 25.3.2020  và Thầy chọn cho mình một tên thánh mới là Théophile (Thánh Théophile Antioches, Hy lạp. Théophile nghĩa là «người yêu mến các Thần». Tuyên khấn  lần đầu ngày 25.3.2022.
(Dòng Chartreux do thánh Bruno thành lập năm 1084, cũng được gọi là Ordo Cartusiensis. Có thể nói là Dòng khổ hạnh nhất trong Giáo hội hiện nay).

Tôi hỏi mẹ của Thầy Théophile Khang :
– Chị và những người thân trong gia đình phản ứng thế nào sau khi nghe Thầy Khang nói là chọn đi tu Dòng Chartreux?
– Thú thật, con ước muốn cháu dâng mình cho Chúa như con đã hứa với Chúa khi xin cho chúng con có được một người con trai, con mong muốn cháu đi tu Dòng hoạt động hơn, nên chúng con cũng cảm thấy sốc và hụt hửng.
– Con có hỏi Thầy Khang: Con có hạnh phúc trong ơn gọi của con?
– Thầy trả lời: Thưa Mẹ, con rất hạnh phúc với ơn gọi mà con đã chọn lựa, Mẹ và gia đình an lòng nhé.
Khi được biết Thầy Khang hạnh phúc trong ơn gọi của Thầy đã chọn, cả gia đình chúng con từ từ tập đón nhận Thánh Ý Chúa, và chúng con đang hòa nhập vào niềm hạnh phúc mà Thầy Khang đang sống để Ý Chúa được thực hiện.
……………………

Ngày 29.9.2022 mẹ và em trai của Thầy Khang đã đến phi trường Genève, Thụy Sĩ, tôi đã đón bà và cháu Nguyên về Dòng Chartreux. Cha Bề trên Dòng đã đón tiếp chúng tôi cách vui vẻ, thân thiện. Thầy Khang được phép ra nhà khách thăm mẹ và em trai, được phép ở lại nói chuyện một số giờ được quy định, nhưng không được phép ở lại Nhà khách dùng cơm với mẹ và em trai mà phải trở về phòng riêng và dùng cơm tại đó. Cha Bề trên cho phép Thầy Khang đưa tôi và cậu em trai đi vào trong nội vi để thăm viếng. Thầy đưa chúng tôi viếng thăm nhà Nguyện, phòng Hội chung, nhà Cơm cộng đoàn.  

Trong ngày, các đan sĩ Chartreux có giờ kinh Đêm, kinh Sáng, Thánh Lễ và kinh Chiều là chung với nhau, còn các giờ Kinh nhỏ khác, đọc sách thiêng liêng, làm việc, dùng cơm trong phòng riêng mỗi người, trừ lễ trọng thì dùng cơm chung. Ban tối các đan sĩ đi ngủ lúc 20g; Thức dậy lúc 23g30 và nguyện gẫm trong phòng riêng; 12g15 ra nhà Nguyện đọc chung kinh Đêm (Sách) và kinh Sáng, kéo dài khoảng 2 tiếng; sau đó đi ngủ lại; dậy lần 2 lúc 6g30; 8g Thánh Lễ….

Thăm viếng phòng riêng của Thầy Khang: ở phòng trệt để nhiều khúc củi, một số đã được Thầy bửa nhỏ để sưởi vào mùa đông. Phía sau căn phòng là một khu vườn rộng khoảng 20m2, có bờ tường xi-măng cao 4m bao quanh, không thể thấy được gì bên ngoài. Có khoảng gần 10 cây táo, lê được trồng sát bờ tường, ở giữa sân được trồng cỏ.

– Thầy nói với tôi: Khi con vào căn phòng này, con đã bỏ ra nhiều giờ để lật đất của khu vườn này, vì trước đó cỏ dại mọc nhiều, và con xin mua hạt cỏ để gieo lại, bây giờ thì con có được một mãnh vườn cỏ đẹp hơn.
– Tôi hỏi : Các cây táo và lê này đã được hái trái ?
– Thầy Khang trả lời : Con đã hái chúng và giao cho nhà bếp để dùng chung.

Sau đó Thầy đưa chúng tôi lên lầu trên, nửa phòng ngoài có máy tiện gỗ để Thầy có thể tiện một vài món đồ như chân đèn, cái bình, để giải trí sau những giờ cầu nguyện, suy gẫm. Kế bên là cái máy cắt giấy cũ, Thầy Khang đang đóng lại một vài cuốn sách cũ cho thư viện hay sách kinh. Ở giữa phòng có một lò sưởi củi, gần đó là một gian nhỏ có ghế quì và một số tượng ảnh Chúa, Mẹ treo phía trước ghế quì, đây là nơi Thầy đọc kinh hay cầu nguyện riêng. Thầy bảo: Mỗi lần con đi ra khỏi phòng trở về, con phải quì ở đây để xin lỗi Chúa.

Bên cạnh là giường ngủ với một tấm nệm cũ, có trải mền và ra trắng, cuối giường có treo chỉ một chiếc áo len để mặc thêm khi trời lạnh. Thầy đưa cho tôi xem một cái áo nhặm. Nó là hai miếng vải to khoảng 20cm2, trên mỗi miếng vải có đính lông ngựa, được nối với nhau bằng hai sợi dây, để đeo một miếng trước ngực và một miếng sau lưng, có một sợi dây vải trắng thắt chặt hai miếng vải có lông ngựa vào sát ngực và lưng. Thầy bảo: mục đích của áo nhặm là tạo ra sự ngứa ngáy, khó chịu, đó là một hình thức phạt xác. Mỗi người được phát 2 bộ áo nhặm để thay đổi khi giặt, và phải mặc áo nhặm suốt ngày đêm.

-Tôi hỏi: Nó có tạo ra sự ngứa ngáy đến phải gãi và thành ghẻ không ?
-Thầy trả lời: Vì có 2 bộ để thay đổi nên con chưa bị ghẻ.
– Vấn đề ăn uống thế nào ? Tôi hỏi.
– Ban sáng, chúng con không ăn gì, chỉ uống nước. Đến trưa, có một thầy mang thức ăn đến, bỏ vào lỗ cửa nhỏ, con chỉ được phép mở ra lấy thức ăn sau khi Thầy đó đã đóng cánh cửa nhỏ ở ngoài lại, vì chúng con không được phép nói chuyện với nhau. Thức ăn ban trưa thì đủ no, Dòng chúng con tuyệt đối không dùng thịt, chỉ ăn cá, trứng, pho mát, bánh mì, khoai tây, mì ống, mì sợi, rau, đậu, trái cây. Thầy mở cửa nhỏ và lấy ra cho tôi xem bữa ăn tối để trên một đĩa gồm có : 2 lát bánh mì đen dầy khoảng 1cm X 10cm2. Một chùm nho khoảng 8 trái, 2 cái bánh bít quy nhỏ, một thỏi sô cô la bằng 1 ngón tay.
– Ăn như vậy Thầy có đói không?
– Dạ, lúc đầu thì đói, nhưng riết thì dạ dày cũng quen. Mỗi thứ Sáu chúng con chỉ dùng bánh mì với nước lã thôi.  Trong Mùa Chay thì ăn uống khổ chế hơn nữa.
– Vấn đề quần áo thế nào ?
– Thưa cha, mỗi người chúng con nhận được 2 chiếc áo Dòng bằng len dầy: một cái mới và một cái rất cũ của những cha, thầy đã chết để lại và chúng con phải mặc chúng vì tinh thần nghèo khó. Chiếc áo Dòng cũ thì nó rách nhiều và phải vá rất nhiều mảnh, nhưng con lại thích mặc nó, vì nó rách và vải đã sờn thì mùa hè mặc nó mát hơn mặc áo còn mới, và Thầy cười dịu dàng.
– Tôi thấy trong phòng của Thầy chỉ có 2 cuốn sách?
– Dạ đúng, chúng con chỉ được giữ trong phòng một cuốn Kinh Thánh và một cuốn sách thiêng liêng, đọc xong thì trả lại thư viện và xin cuốn khác.
– Vấn đề liên lạc với gia đình thế nào:
– Chúng con không có điện thoại, không có internet, một năm chúng con được phép viết thư 4 lần cho gia đình mà thôi, được phép nhận thư từ của bạn bè, nhưng không được phép trả lời.
– Tôi hỏi Thầy: Thầy có thể chia sẻ tại sao Thầy lại chọn ơn gọi khổ chế này, Chúa có tỏ ra một dấu hiệu nào rõ rệt với Thầy?
– Thầy từ tốn trả lời: Con đã yêu Chúa từ nhỏ. Con không nhận được một ơn lạ nào từ Chúa để quyết định chọn ơn gọi này cả.

Đối với tôi, câu trả lời của Thầy Khang tuy ngắn gọn, nhưng quá đủ để hiểu một tâm hồn đã có lòng yêu mến Chúa ngay khi còn nhỏ, tình yêu đó khi đã trưởng thành, chín muồi thì muốn hiến dâng thật trọn vẹn cho Đấng mà mình đã yêu mến trong nhiều năm dài. Từ bỏ tất cả: sự thông minh, thành công rực rỡ trong việc học vấn, một tương lai hứa hẹn thành đạt, giàu có, vinh quang đang đón chờ với tuổi đời mới chỉ 23 khi Thầy thi đậu tối ưu bằng Master và chuẩn bị dọn Tiến sĩ, nhưng Thầy đã chọn Chúa, Đấng cao cả, trọn hảo trên tất cả mọi sự của trần thế này.


Thầy Khang đã gởi cho tôi một tấm thiệp để cám ơn tôi đã đến phi trường đón mẹ và em Thầy về và sẽ lo sau những ngày thăm Thầy, Thầy nói lên ước muốn từ bỏ một cách sâu xa nhất:

«Chúa chỉ đòi hỏi con cái Ngài từ bỏ một thứ mà thôi: từ bỏ chính mình. Người ngoài chiêm ngưỡng Dòng Chartreux như là nơi ở của các thánh. Nhưng suy cho cùng, các hy sinh dù có lớn đến đâu, dù đau đớn đến đâu, có lẽ cũng chỉ là điều kiện, phương tiện để giúp kẻ tu hành từ bỏ chính mình. Có lẽ 4 bức tường cao của Dòng Chartreux không phải là biểu tượng của sự thánh thiện, nhưng là tiếng rên siết của muôn loài đang sống dưới ách tội lỗi, rên siết vì từ bỏ chính mình khó quá, lớn quá, lớn hơn cả các hy sinh của một đời khổ tu. Đường dài vô tận, mà ách tội lỗi đè nặng, xin cha cầu nguyện cho con. Xin Chúa thương nâng đỡ cha. Đi bộ vất vả, chỉ chờ ngày Chúa thương cất khỏi bóng đêm để đưa chúng ta vào vương quốc ánh sáng của Thánh Tử. Trong khi chờ đợi: từ bỏ mình, vác Thánh Giá hằng ngày theo Chúa Giêsu».

Sự từ bỏ quảng đại của Thầy trẻ Théophile Dương Nguyên Khang muốn nói gì với chúng ta, với các bạn trẻ, với con người hôm nay đang quá chú trọng đến thành công, danh vọng, tiền tài, vật chất: điều gì là quan trọng nhất? Thiên Chúa hay vinh quang trần thế này?

Thầy Khang viết thư cho mẹ và tóm tắt cuộc đời dâng hiến của mình một cách sâu sắc :
“Con như chiếc bình bạch ngọc đập vỡ vụn dưới chân Chúa”.

Tác giả: Đan sĩ, Đan viện Đức Mẹ Fatima, Thụy Sĩ.


**********************************************

Thầy là gương sáng tuyệt vời
Nguyện xin ân phúc sáng ngời Chúa ban
Kiên trung tận hiến trọn đời
Chiếc bình bạch ngọc vỡ đôi vì Ngài!

Smiling-face-with-halo4 Heavy-black-heart4 Smiling-face-with-halo4
[-] The following 1 user Likes duke's post:
  • 72Nu
Reply
#22
Đã bước vào mùa chay năm nay từ thứ Tư Lễ Tro, nhưng con vẫn quay cuồng trong cuộc sống quá bận rộn với việc làm, sinh hoạt đời thường, mà bỏ quên chăm sóc tâm linh.

Lạy Chúa, xin dạy con biết xé lòng, đừng xé áo.

🙏💖🙏

[Image: 334951995_875216513780161_32642982989560...e=6433C453]

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 6,1-6.16-18
(1) Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ban thưởng. (2) Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (3) Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, (4) để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (5) Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: Chúng đã được phần thưởng rồi. (6) Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (16) Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: Chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (17) Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, (18) để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.

2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su đòi môn đệ phải làm các việc đạo đức như bố thí, cầu nguyện và ăn chay theo tinh thần mới của Người:
Điều quan trọng là phải làm các việc này trong sự khiêm tốn: Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để được khen có lòng bác ái; Tránh cầu nguyện ở chỗ đông người để được đánh giá là có lòng đạo đức; Tránh ăn chay với vẻ mặt thiểu não để được ca tụng có tinh thần hy sinh hãm mình.

3. CHÚ THÍCH:
– C 2-4: + Bố thí: Thời Đức Giê-su, bố thí là việc công chính bậc nhất (x. Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới thái độ phô trương bề ngoài, nhằm để được người khác ca tụng. Đừng có khua chiêng đánh trống: Rất có thể những người Pha-ri-sêu thời bấy giờ dùng chiêng trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để khuyến cáo môn đệ phải khiêm tốn khi làm các việc đạo đức. Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm khoe khoang. Do đó, họ sẽ không được công phúc thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa sau này. + Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm” : Là một kiểu nói có nghĩa là cần phải giữ kín, không cho người khác biết việc tốt mình đang làm.

– C 5-6: + Cầu nguyện: Chính Đức Giê-su đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo Người thì lời cầu nguyện phải có những đặc tính sau: Phải khiêm tốn trước Thiên Chúa và người đời (x. Lc 18,10-14; Mt 6,5-6); Phải chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x. Mt 6,7); Phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa (x. Mt 6,8 ; 7,7-11) và phải kiên trì nài xin (x. Lc 11,5-8; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được nhận lời khi cầu xin với lòng tin mạnh (x. Mt 21,22), cầu xin nhân danh Đức Giê-su (x. Mt 18,19-20), và cầu xin những ơn thực sự ích lợi cho phần rỗi đời đời (x. Mt 7,11). Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giê-su không đả kích việc cầu nguyện công khai và cộng đồng (x. Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ trích ý đồ của người cầu nguyện là muốn phô trương công đức để được người đời ca tụng. Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giê-su gợi lại cách thức của ngôn sứ Ê-li-a cầu nguyện khi làm phép lạ (x. 2V 4,33).

– C 16-18: + Ăn chay: Đã từ rất lâu, dân Ít-ra-en có tục ăn chay mỗi khi có tang chế (x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2Sm 12,16). Ăn chay theo luật Mô-sê là nhịn ăn uống vào ban ngày. Trong thời gian ăn chay, người ta không được tắm rửa, phải để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo bằng vải thô đặc biệt. Thời Đức Giê-su, dân Do thái chỉ buộc phải ăn chay trong ngày lễ Xá tội (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), và trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá hoặc trong những lúc gặp thiên tai. Riêng các người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay thêm mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12). Còn anh, khi ăn chay…: Đức Giê-su muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự khiêm tốn: thay vì rắc tro lên đầu, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn…như người Biệt phái thường làm, thì họ cứ rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm như mọi ngày khác, để cho người ta không biết mình đang ăn chay.

4. CÂU HỎI:
1) Hãy cho biết ba việc đạo đức người Do Thái đạo đức quen làm là những việc gì?
2) Theo Đức Giê-su: cầu nguyện đúng đắn phải có những đặc tính nào
? Muốn đạt được hiệu quả thì lời cầu nguyện phải có những điều kiện nào?
3) Luật Mô-sê dạy dân Do thái ăn chay như thế nào
?
4) Thời Đức Giê-su, dân Do thái buộc ăn chay những ngày nào
? Và người Pha-ri-sêu thì ăn chay những ngày nào?
5) Đức Giê-su dạy môn đệ phải ăn chay cách nào để làm đẹp lòng Thiên Chúa?

II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,4).

* CÂU CHUYỆN:
1) ĂN CHAY LÀ QUẢNG ĐẠI BỎ TIỀN GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO:
Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang trong nhà thờ để kiếm cái gì ăn cho đỡ đói. Bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn như nó. Thế là hai con chuột liền làm quen với nhau và hỏi thăm chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong ngôi nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ!”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn và nói: “Vậy thì bồ hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị người ta quấy rầy!” Chuột thứ nhất ngạc nhiên hỏi: “Có một chỗ ở như thế thật ư? Vậy bạn hãy cho tớ biết là chỗ nào vậy? “. Chuột thứ hai liền đáp: “Đó là trong thùng quyên góp giúp người nghèo. Nó nằm ngay tại cuối nhà thờ này đấy!”

2) ĂN CHAY LÀ HÀNH ĐỘNG BÁC ÁI BIẾT NGHĨ ĐẾN THA NHÂN:
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và khát nước, nhưng theo luật ăn chay nghiêm ngặt nên không ai dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai của mình ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi để tỏ lòng cám ơn thầy. Thầy ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì mình đã không hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà lại có đến hai ngôi sao sáng cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương người khác của thầy, Chúa đã cho thêm một ngôi sao nữa.  

3) ĂN CHAY LÀ THÀNH TÂM SÁM HỐI VÀ GIÚP TỘI NHÂN HOÁN CẢI:
Thời ngôn sứ Gio-na, Đức Chúa truyền cho ông hãy đi loan báo cho dân thành Ni-ni-vê đang sống bê tha tội lỗi về các tai ương mà Ngài sắp giáng xuống trên cả thành nếu họ không cấp thời sám hối. Lúc đầu Gio-na chạy trốn Đức Chúa nên con thuyền ông đi trốn Chúa đã gặp bão lớn. Khi ông bị các người trên thuyền quăng xuống biển thì cơn bão mới yên. Sau đó một con cá lớn đã đớp lấy ông nuốt vào bụng và ba ngày sau nó nhả ông ra nằm trên bãi biển. Tỉnh dậy ông biết mình đang nằm trên bãi cát thuộc địa giới thành Ni-ni-vê. Ông đã tuân phục ý Chúa và bắt đầu sứ mạng rao giảng kêu gọi dân thành Ni-ni-vê ăn năn sám hối. Nghe ông rao giảng và chứng kiến phép lạ ông ở trong bụng cá ba đêm ngày, thì từ vua đến dân đều ăn năn sám hối: “Vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô và ngồi trên tro” (Gn 3, 6). Nhờ đó thành Ni-ni-vê đã được Đức Chúa xá tội và không giáng phạt.

4) ĂN CHAY LÀ TÍCH CỰC GÓP PHẦN XÂY DỰNG HOÀ BÌNH:
Ngày 22/01/2008, O-mar O-sa-ma Bin La-den, người con trai thứ tư của ông trùm khủng bố O-sa-ma Bin La-den đã nhắn tin yêu cầu cha hãy chấm dứt bạo động mà ông là người xướng xuất. Loại bạo động của Al-Qaeda là thực hiện hàng loạt vụ khủng bố trên khắp thế giới. Các vụ khủng bố này đã giết chết rất nhiều thường dân vô tội, bao gồm cả trận tấn công nổi tiếng ngày 11-9-2001 bằng việc cướp phi cơ và buộc phi công lái đâm vào toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại Hoa Kỳ.

O-mar nói rõ: “Bom là không tốt để sử dụng với bất cứ ai. Cha hãy thay đổi cách hành động”. Ðó chính là thông điệp mà con trai của ông trùm khủng bố O-sa-ma Bin La-den muốn gửi đến cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này tiếp tục nhuốm máu người dân vô tội. Anh muốn cha anh hãy cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá làm người.

* THẢO LUẬN: Trong kinh “cải tội bảy mối có bảy đức”, bạn thấy mình thường hay sai phạm mối tội đầu nào nhất? Bạn sẽ làm gì để chừa bỏ thói xấu ấy trong Mùa Chay năm nay?

* SUY NIỆM:
Hội thánh cử hành nghi thức làm phép và xức tro để khai mạc Mùa Chay Thánh. Trong nghi lễ xức tro, Hội thánh nhắc nhở mọi tín hữu: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro. Một mai người sẽ trở về bụi tro”. Khi lãnh tro lên đầu là chúng ta nhận mình chỉ là tro bụi như tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã cầu nguyện với Đức Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27), đồng thời chúng ta cũng bày tỏ lòng sám hối và tin vào Tin Mừng của Đức Giê-su như lời Người dạy: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14).

1) BA VIỆC NÊN LÀM MÙA CHAY LÀ BỐ THÍ, CẦU NGUYỆN VÀ ĂN CHAY:

a) Bố thí kín đáo:
– Các việc đạo đức cần phải đi đôi với lòng mến Chúa yêu người mới có giá trị trước mặt Thiên Chúa như lời thánh Phao-lô: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).
– Bố thí là chia sẻ cơm bánh vật chất cho những người nghèo đói. Nhưng cần tránh phô trương, mà làm cách kín đáo: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”.

b) Cầu nguyện âm thầm:
– Cầu nguyện là dấu hiệu của đức tin. Bao lâu người ta còn cầu nguyện thì còn chứng tỏ họ đang có đức tin. Khi thôi không cầu nguyện nữa cho thấy đức tin của họ đã chết như lời thánh Gia-cô-bê dạy: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17).
– Lời cầu nguyện cần mang đặc tính khiêm tốnchân thànhtin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa và với sự kiên trì. Lời cầu nguyện chỉ được Chúa chấp nhận nếu cầu xin kèm theo đức tin mạnh, cầu xin nhân danh Đức Giê-su và cầu xin các ơn lành hồn xác thực sự mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời (x. Mt 7,11).

c) Ăn chay hãm mình:
– Ngay từ thời các vua, dân Ít-ra-en đã có thói quen ăn chay mỗi khi có tang chế (x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá hoặc trong những lúc gặp thiên tai. Đến thời Chúa Giê-su, các người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12).

– Về cách thức ăn chay: Luật Mô-sê quy định ăn chay là tự nguyện nhịn ăn uống vào ban ngày. Trong thời gian ăn chay, người ta không được tắm rửa, phải để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo đặc biệt bằng vải thô. Luật buộc ăn chay trong ngày lễ Xá tội (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9). Đức Giê-su dạy môn đệ phải ăn chay trong sự khiêm hạ: thay vì rắc tro lên đầu, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn…như người Biệt phái thường làm, thì hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm như các ngày khác, để người ngoài không biết mình đang hãm mình đền tội. Chỉ cần Thiên Chúa thấu suốt và sẽ ban ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.

2) CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?
a) Tránh ăn chay hình thức vụ luật và phô trương:
– Có những người ăn chay vụ luật hoặc vì sợ bị Chúa phạt: Những người này ăn chay để khỏi mắc tội. Do đó nếu trong ngày chay lỡ quên ăn vặt, ăn không đúng giờ… thì đâm ra lo lắng áy náy. Họ tính toán: Ngày mai ăn chay thì hôm nay sẽ ăn uống no say như thói tục “Thứ Ba Béo” của một số dân các nước Âu châu.

– Cũng có người trong ngày giữ chay tuy không ăn thịt, nhưng lại ăn đồ hải sản, tôm hùm, cá hồi… còn mắc tiền hơn thịt. Họ tuy giữ luật ăn chay nhưng thiếu tinh thần chay là hãm mình đền tội, nên việc ăn chay của họ không đẹp lòng Thiên Chúa.

b) Hãy thực thi công bình bác ái:
– Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Đức Chúa: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em?
– Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. Đức Chúa sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi, giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được no lòng; xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới đẫm, như mạch suối không cạn nước bao giờ” (Is 58,6-11).

3) MỘT SỐ VIỆC LÀM THIẾT THỰC:
a) Trong ngày Thứ Tư Tro, hãy đến nhà thờ để NHẬN TRO TRÊN ĐẦU. Trong nghi thức xức tro, Hội Thánh nhắn nhủ: “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi một mai người sẽ trở về bụi tro”; Hoặc: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”.
Nhận tro trên đầu như vậy là để bày tỏ lòng sám hối và quyết tâm cải tà quy chánhHãm dẹp các đam mê bất chính, các thói hư tật xấu, loại bỏ những hành vi ám muội làm mất lòng Chúa và phiền lòng anh em.

b) Luật Hội Thánh quy định việc ăn chay mỗi năm còn hai ngày là Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Không phải Hội Thánh coi thường việc ăn chay, nhưng muốn các tín hữu chú trọng nhiều hơn đến TINH THẦN CHAY TỊNH như sau:
Nhịn ăn một chén cơm không bằng nhịn nói một lời xúc phạm người khác.
Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn một cử chỉ khinh thường anh em.
Nhịn ăn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, sẵn sàng làm hòa với nhau.
Kiềm chế cơn đói không bằng kiềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện chơi games trên máy tính...
Kiềm chế cơn khát không bằng kiềm chế các dục vọng, loại bỏ thói tham lam và tính tự ái kiêu ngạo, tính thích gây hấn với người khác.

c) Ngôn Sứ Giô-en kêu gọi dân Do thái: “HÃY XÉ LÒNG CHỨ ĐỪNG XÉ ÁO”. Người Do Thái có tục lệ xé áo để biểu lộ lòng thống hối khi ăn chay. Người tín hữu hôm nay cần ý thức:
– Xé áo bề ngoài không bằng xé lòng khỏi thói tham lam, ăn ở bất công.
Xé lòng ra khỏi sự lười biếng, khô khan, nguội lạnh.
Xé lòng khỏi những dính bén danh lợi thú trần gian.
Xé lòng khỏi thói gian dối, đạo đức giả như người Biệt Phái.
Chỉ khi thực sự xé lòng như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa; Mới đến gần Chúa, sống thân mật với Chúa và hưởng được tình thương bao dung của Chúa.

d) Ngoài ra, chúng ta hãy biến việc ăn chay thành HÀNH ĐỘNG BÁC ÁI CỤ THỂ. Mỗi ngày trong Mùa Chay, hãy bớt chi tiêu để gửi tiền giúp những nơi nghèo khổ, vùng bị thiên tai lũ lụtvùng bị cách ly do dịch cúm Covid-19đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa… Nhờ thế, việc ăn chay của ta sẽ không chỉ dừng lại ở hình thức bề ngoài, nhưng là những hy sinh hãm mình và những việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân.

NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su, cùng với toàn thể Hội thánh, chúng con đã bước vào Mùa Chay. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thời kỳ thuận tiện để duyệt xét cuộc đời chúng con, hầu bù đắp những thiếu sót, sửa chữa những lệch lạc nơi con người chúng con. Xin Chúa hãy chiếu ánh sáng của Chúa trên chúng con, để chúng con quyết tâm đổi mới nên môn đệ đích thực của Chúa. AMEN.
Reply
#23
Ca ngợi thiên Chúa và gầy dựng lòng tin trong tín ngưỡng rất là quí giá! Nhưng xin đừng trừu tượng hóa làm cho tín ngưỡng bị siêu lệch. Tín ngưỡng bằng lòng tin từ trí khôn thì tốt hơn là nghe, hiểu biết qua sự kiện
Reply
#24
KÍNH NHỚ VỊ MỤC TỬ CAN TRƯỜNG: ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHI-LIP-PHÊ NGUYỄN KIM ĐIỀN

[Image: 335447124_732984874974839_56323128569163...e=641390A8]


Cách đây đúng 34 năm, vào khoảng 13 giờ trưa, ngày 08/06/1988, tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Đức Tổng Giám mục Phi-líp-phê Nguyễn Kim Điền đột ngột qua đời để lại nhiều “nghi vấn về một vụ đầu độc” cho đến tận hôm nay.

ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Đức Tổng Giám mục Phi-líp-phê Nguyễn Kim Điền sinh ngày 13/3/1921 tại Gia Định, là con thứ tư trong một gia đình có 7 người con.
Ngài được thụ phong linh mục ngày 21/09/1947. Năm 1955, ngài gia nhập Dòng tiểu Đệ Chúa Giêsu và qua Châu Phi sống với các tu sĩ của Dòng tại sa mạc Sahara.

Năm 1957, ngài trở về Việt Nam, dấn thân cho những con người nghèo khổ tại các vùng ngoại ô Sài Gòn, tại Lâm Đồng, Cần Thơ.
Ngày 28/12/1960, ngài được bổ nhiệm làm Giám mục Chính tòa Cần Thơ. Ngày 30/9/1964, ngài được đặt làm Giám quản Tổng Giáo phận Huế thay Đức Tổng Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục và được Tòa thánh đặt làm Tổng Giám mục Tổng giáo phận Huế 4 năm sau đó (11/3/1968).

VỊ GIÁM MỤC NGHÈO

Trước khi trở thành Giám mục, là một tu sĩ của Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu, noi gương thầy mình, Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền luôn sống gần gũi với người nghèo. Ngài không chỉ đã đến Châu Phi nơi sa mạc Sahara để chia sẻ cuộc sống huynh đệ với các anh em Tiểu đệ, mà còn đến để được sống giữa dân nghèo Phi Châu.

Khi trở về Việt Nam, để tiếp tục lý tưởng được sống nghèo với người nghèo, ngài đã chọn nghề đạp xích lô, vừa để mưu sinh, nhưng cũng là để được gần gũi, chia sẻ với những thành phần cùng đinh trong xã hội.

Sau khi trở thành Giám mục, ngài tiếp tục những dự án lo cho dân nghèo, sống nghèo…Nhưng, rồi thời cuộc và chính sách bách hại tôn giáo của chế độ đã không chỉ bắt ngài sống nghèo mà còn tước đoạt của ngài cả những giấc mơ về một xã hội mới công bằng, huynh đệ.

DÁM CHẾT VÌ TIN MỪNG

Ngày 26/3/1975, Huế bị cộng sản cưỡng chiếm. Trong tư cách của người đứng đầu Tổng Giáo phận Huế, vốn bản chất khiêm tốn, hiền hòa và khả ái, Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền đã bày tỏ thiện chí và một thái độ chân thành hợp tác với chế độ mới. Không những thế, ngài còn vui mừng và tha thiết kêu gọi mọi thành phần dân Chúa Tổng giáo phận dẹp bỏ mọi thành kiến, nghi kỵ để cộng tác với chính quyền cách mạng cùng nhau xây dựng lại quê hương giầu mạnh (x. Thư Chung ngày 01/04/1975).

Tuy nhiên, chưa đầy hai năm sau, chứng kiến các cơ sở của Giáo hội lần lượt bị chiếm đoạt, mượn tạm cách bất hợp pháp, các linh mục bị ngăn cản làm mục vụ, chủng viện bị giải thể…đặc biệt, sau khi chứng kiến các vi phạm về quyền tự do tôn giáo cách hệ thống không chỉ đối với Công giáo mà cả đối với các tôn giáo bạn, ngược hẳn với những gì nhà cầm quyền đã bảo đảm trước đây, Đức Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền đã mạnh mẽ lên tiếng cách công khai ngay tại Ủy ban Nhân dân Bình Trị Thiên, ngày 15/4/1977, về quyền tự do tôn giáo, về những vi phạm của nhà cầm quyền, về những đối xử bất công của nhà cầm quyền đối với các tôn giáo. Những phản đối của ngài sau đó còn được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng dân Chúa.

Kể từ đây, mỗi khi có dịp gặp mặt chính quyền, và nếu cần, bằng các văn bản, ngài mạnh mẽ lên tiếng tố cáo những sai phạm trong quản lý nhà nước về tôn giáo, đồng thời, bày tỏ quan điểm của ngài đối với tệ trạng tự do tôn giáo. Riêng đối với Ủy ban Đoàn kết, bằng văn thư và bằng những lời huấn dụ nghiêm khắc, ngài đã công khai cấm các linh mục thuộc quyền tham gia ủy ban này.

Tất cả các hành động này của vị chủ chăn Tổng Giáo phận Huế đã trở thành một thách thức nghiêm trọng đối với đảng và nhà nước cộng sản lúc bấy giờ. Ngày 05/04/1984, ngài nhận được giấy mời “làm việc” của Sở Công an Bình Trị Thiên. Và những buổi làm việc như vậy kéo dài suốt 120 ngày và chỉ tạm kết thúc vào ngày 15/10 năm ấy.

BẢN DI CHÚC THIÊNG LIÊNG

Hai ngày sau khi “tạm thời không bị mời đi làm việc”, ngày 17/10/1984, Đức Tổng Philipphê Nguyễn Kim Điền đã viết một Thư chung gửi đến cộng đoàn dân Chúa Tổng Giáo phận , trước là để cảm ơn mọi người đã cầu nguyện cho ngài được vững tâm trong sứ mạng làm chứng, sau là tường trình lại cho cộng đồng dân Chúa nội dung của 120 ngày bị mời làm việc tại Sở Công an Bình Trị Thiên.

Dĩ nhiên, việc ngài bạch hóa những gì Sở Công an Bình Trị Thiên đã “làm việc” làm cho chế độ không hài lòng và tìm mọi cách gây khó khăn cho ngài. Họ dùng đủ mọi ngón nghề của cái gọi là “nghiệp vụ” để cô lập ngài. Thấy trước viễn cảnh có thể bị tù đầy, bị giết chết bất cứ lúc nào, ngày 8/11/1985, vị chủ chăn Tổng Giáo phận Huế đã viết Bản Di chúc thiêng liêng gói trọn tấm lòng của một vị mục tử nhân lành luôn trung thành với Thiên Chúa và chuẩn bị cho ngày phải chịu bắt bớ vì chính đạo. Trong bản Di chúc, ngài kêu gọi các linh mục dưới quyền hãy can đảm chu toàn bổn phận chủ chăn, luôn can đảm và trung thành với Giáo hội trong mọi cảnh huống khó khăn, nguy hiểm trước mặt:

“Tôi cám đội ơn Chúa đã thương chọn tôi làm con Chúa, linh mục và giám mục trong Hội thánh của Người, cho dù tôi bất xứng.
Tôi không muốn có ước muốn riêng nào về sự chết và cuộc tẩn niệm hay chôn cất xác tôi. Sao cũng được, tùy thánh ý Chúa và sự liệu định của anh em linh mục giáo phận, vì tôi chẳng đáng chi cả.

Tôi không có gì để nhắn nhủ anh em linh mục Huế cách đặc biệt, trừ ra xin phép được khuyên các ngài hãy can đảm tỏ ra trung thành với Hội thánh trong mọi hoàn cảnh, sống đoàn kết trong linh mục đoàn và sống trọn vẹn bổn phận chủ chăn nhân hiền.

Tôi cám ơn linh mục trong giáo phận đã nhẫn nại chịu đựng tôi và tận tâm cộng tác với tôi. Những ai mà tôi vô tình hay vì bổn phận đã làm mất lòng thì xin tha lỗi cho tôi. Phần tôi, tôi không buồn phiền một ai cả. Xin mọi người cầu nguyện cho tôi.
Về tiền bạc, tôi không mắc nợ ai. Nếu như ai có thấy đang thiếu tôi vật gì, thì tôi vui lòng tha hết cho.
Các vật dụng, sách vở và tiền mặt tôi đang có thì tôi trối lại hết cho Tòa Giám mục Huế.

Một lần nữa, tôi cám đội ơn Chúa và xin tạm biệt mọi người, hẹn nhau trên nhà Cha”

Huế, ngày 08/11/1985
Philiphe Nguyễn Kim Điền
ký tên và đóng dấu.


LÊN ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA

Những ngày cuối tháng Năm năm 1988, ngài đau nặng và được đưa vào điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn.
Ngài đột ngột qua đời vào khoảng 1 giờ trưa, ngày 08/06/1988. Ngài ra đi giữa lúc cả hệ thống chính trị Việt Nam lên đồng tấn công Giáo hội Công giáo về vụ phong thánh các thánh Tử đạo Việt Nam.

Có những nguồn dư luận cho rằng, Đức Tổng Giám mục Phi-líp-phê Nguyễn Kim Điền đã bị đầu độc chết!

Hôm nay, tưởng nhớ ngài, xin thắp nén hương lòng. Tạ ơn Chúa đã ban ngài cho Giáo hội Việt Nam. Chắc chắn, những hy sinh của ngài đã không vô ích. Trái lại, Giáo hội Việt Nam hôm nay phải mang ơn ngài: vị mục tử can trường đã một mình dám đương đầu với những khó khăn để bảo vệ sự thật và công lý.

[Image: R.70a32911fbcd11fcfb56a996582b40f2?rik=B...ImgRaw&r=0]
Reply