Người về qua cõi phù vân ... Nghiêng vai trút gánh phong trần bỏ đi...

HUYỀN-SỬ-THI + 50 NĂM NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN
#1
[Image: 13785506_NjAyLTg1NS0yZjFmODkxNzY4.jpg]

HUYỀN-SỬ-THI [1]
LỜI DẪN NHẬP


Trên hành trình khám phá sự thật của cuộc chiến xóa sổ thế giới bóng tối, chúng ta đã phơi bày rất nhiều về bí ẩn, quyền lực và sức mạnh các tổ chức tội phạm của thế giới ma quỷ . Hôm nay mời các bạn rẽ bước vào một con đường hoàn toàn khác lạ đầy ánh sáng, không kém những kỳ bí và thú vị, để biết rằng tại sao thế giới bóng tối lại bị bật gốc rễ từ rất lâu. Tôi muốn nói về lực lượng “Ánh sáng” trên thế giới, đó là tập hợp của các lực lượng và những tổ chức bí mật đã chiến đấu không ngưng nghĩ để chống lại thế giới bóng tối dã man kinh khiếp như chúng ta đã biết. Đó là lực lượng Q+Trump, White Hat, các Hiệp hội Rồng trắng WDS (White Dragon Society), Hội Ngộ Đạo (Gnostic Illuminatti), Illuminati Masonic, hay nhóm GWB (Great White Brotherhood), v.v… Ở đây chúng ta chỉ giới thiệu những phác thảo chung chung về một vài biến cố liên quan, để có một cái nhìn về toàn bộ lực lượng Ánh sáng, trước khi đi vào chi tiết mỗi một tổ chức trong từng bài viết kế tiếp. Với các bài viết về bí mật của DS Cabalist + Satanist tôi đã đặt tên là MẬT-SỬ-LUẬN, nên với các bài viết về bí mật vô cùng huyền bí của phe ta, tôi xin đặt một cái tên khác HUYỀN-SỬ-THI, để ca ngợi sự hy sinh quá lớn của những thành viên trong các tổ chức phe Ánh sáng giống như một huyền sử hay một thi sử, không biết các bạn nghĩ sao?

Để không nhầm lẫn với các tổ chức Illuminati khiến cho chúng ta nghĩ rằng đó là Hội Tam Điểm hay một tổ chức nào đó của Satan giáo, chúng ta phải hiểu ý nghĩa của từ “Illuminati”, có nghĩa là một số hay nhóm người sở hữu một khả năng đặc biệt nào đó, đôi lúc được gọi là “sở hữu giác ngộ” về một kiến thức huyền bí nào đó, nên từ “Illuminati” hay được gắn cho tên gọi của một số hội kín trên thế giới, và thường mang ý nghĩa là “khai sáng”, được dùng đặt tên cho một số tổ chức kín của cả phe ta và phe của thế giới bóng tối. Lần đầu tiên được đề cập đến là hội Bavarian Illuminati ở Đức được thành lập vào 1/5/1776.
Chúng ta đã nhiều lần tự hỏi: lực lượng của thế giới ngầm quá đông, quá mạnh, quá giỏi như vậy, làm sao có thể lật đổ chúng được? Từ đây, chúng ta có thể bắt đầu câu chuyện…
Bây giờ chúng ta thử đặt một vài câu hỏi:

- Bạn đã biết, bọn chúng đã giết bao nhiêu gia tộc, hoàng tộc để cướp tất cả tài sản vàng bạc châu báu, và đưa người của bọn chúng lên thay thế. Vậy những người còn sống sót trong các tộc đó phải làm gì?
- Bạn đã biết, hàng năm có trên 8 triệu trẻ em trên thế giới bị bọn chúng bắt cóc và lạm dụng. Vậy những bố mẹ của trẻ em đó khi biết sự thật, sẽ làm gì?
- Bạn đã biết, thế giới đã trải qua bao nhiêu cuộc chiến, biết bao mất mát quá lớn đã xảy với vô số gia đình. Vậy nếu có một số người may mắn còn sống trong những gia đình đó và biết được sự thật chính bọn ma quỷ đó gây ra cuộc chiến để làm giàu trên xương máu, vậy họ phải làm gì?  
=> câu trả lời đơn giản nhất là gia nhập Liên minh để xóa sổ cái thế giới bóng tối. Đó là lý do lực lượng Liên minh trên trái đất lớn mạnh hơn chúng ta tưởng tượng rất nhiều, và đã hình thành từ rất lâu để đấu tranh không ngưng nghĩ cho tận đến ngày hôm nay.


Dưới một góc nhìn khác, để trả lời câu hỏi: tại sao thế giới bóng tối đã bị xóa sổ như tôi thường nhắc tới trước đây, xin điểm sơ qua một vài biến cố đã và đang xảy ra để hiểu được một phần nào đó, nhưng xin bạn phải có một chút bao dung, bởi những bí mật được tiết lộ cho chúng ta quá ít và khó hiểu, đôi lúc được xem chỉ là những phỏng đoán, nên tôi chỉ có thể chia sẻ trong giới hạn và khả năng của mình.
Bạn có biết lực lượng Liên minh đã hình thành từ rất lâu ban đầu chỉ với 17 quốc gia và bây giờ hiện có 140 quốc gia, đã bắt đầu hoạt động và tấn công các đường hầm và DUMB từ năm 1980 không? và cuộc chiến này còn dữ dội tàn khốc hơn kể từ khi Trump nhậm chức TT.

Trong khi đó lực lượng Q được thành lập năm 1960 bởi TT Kennedy. Sau khi ông bị ám sát, khoảng 200 tướng lĩnh và đô đốc Hoa kỳ trung thành với Hiến pháp của nền Cộng hòa đã liên kết Q với Liên minh để cùng đưa ra kế hoạch lật đổ DS Cabal. Vào năm 2016, một kế hoạch táo bạo với hành động quân sự cần thiết được hình thành để chặt đầu rắn (ý nói ở đây là 13 gia tộc) càng sớm càng tốt, ngay cả trước lễ nhậm chức của Trump, đó là một cuộc tấn công tổng lực trong bóng tối vào các nhà thờ và thánh đường lớn trên thế giới, nơi diễn ra các Lễ hiến tế của Satan giáo vào tối ngày 24/12/2016. Một chiến thắng lớn khác trong cuộc chiến bí mật đã xảy ra vào ngày 15/4/2019 tức trước Lễ Phục sinh tại Hy lạp, khi phe Liên minh sử dụng tàu chống trọng lực của USS TR3B tấn công phá hủy cơ sở DEW và LW (Direct Energy Weapon and Lazer Weapon) của DS được ngụy trang bí mật trong các ngôi đền.

Bên cạnh đó lực lượng Mũ trắng (White Hat) ban đầu là một tổ chức được thành lập từ nhóm một tình báo quân sự ở Mỹ, xuất xứ từ căn cứ Keio ở miền Đông, hoạt động hoàn toàn tuyệt mật trong bóng tối, Những năm về sau, chiến binh bí mật từ các nước trên thế giới gia nhập thêm khiến cho lực lượng Mũ trắng càng ngày càng mạnh hơn rất nhiều, với nhiệm vụ chính là hạ sát những tên đầu sỏ hay các ông chủ trong thế giới ngầm mỗi khi có cơ hội  => bây giờ chắc các bạn đã hiểu tại sao bọn chúng lại phải đào mấy đường hầm để sống dưới đó rồi chứ? Hiện tại Liên minh Mũ Trắng bao gồm 17 quốc gia: Úc, Pháp, Hungary, Đức, Ba Lan, Romania, Tây Ban Nha, Hà Lan, Na Uy, Nga, Phần Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Croatia, Canada, Bắc Triều Tiên và Mỹ, với Donald Trump là Tư lệnh Tối cao của Liên mịnh

Có một tiết lộ nói rằng Michael Jackson, Công nương Diana Spencer và Melania Romanov là thành viên của Mũ trắng, tuy nhiên thật giả khó kiểm chứng. Nhưng chúng ta phải tin điều này mới có thể hiểu được lộ trình trong kế hoạch của cuộc chiến, cũng như những biến cố đã và đang xảy ra, đó là Putin, Xi, Modi,… đều thuộc hàng ngũ lãnh đạo của Mũ trắng, ngoài ra còn có Kim, Duterte, … điều này tôi khẳng định chắc chắn 100% những nhân vật chúng ta thấy hiện tại thuộc phe Liên minh, chỉ có điều không rõ là Putin, Xi, Kim có phải là nhân bản hay không thì không rõ? Có nhiều nguồn tin cho biết tất cả đều là nhân bản do White Hat đưa lên, tuy nhiên theo tra tìm của tôi thì biết được khả năng Putin là cao nhất vì theo hai nguồn tin đã có, một từ Mũ trắng và một từ WDS, còn Kim thì chỉ có một nguồn tin từ Mũ trắng, trong khi đó Xi chưa tìm được nguồn tin nào!

Liên quan đến Hiệp hội Rồng trắng WDS, 4 năm trước Trump đã gặp gỡ để lên kế hoạch mua lại một số lượng lớn Vàng được bảo vệ bởi WDS để thiết lập lại nền kinh tế thế giới và làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại! Có tin cho rằng Trump đã gia nhập qua một buổi lễ bí mật tại một thành phố bị cấm ở TQ và là một thành viên quan trọng của WDS.

Trong khi đó Trump đã đạt đến cấp độ 32/33 của tổ chức Illuminati Masonic, đây chính là Hội những anh em Hiệp sĩ với đa số là những người đứng đầu các cơ quan Quân sự và An ninh ở các nước trên thế giới, một tổ chức hoạt động bí mật chống lại DS Cabal . Chính họ là người đã tiếp cận Trump, thuyết phục một triệu phú đã nghỉ hưu tự đặt mình vào công việc căng thẳng nhất hành tinh, tự đặt bản thân và gia đình vào vòng nguy hiểm sinh tử, để phục vụ cho đất nước ông ta yêu quý với tư cách là Tổng thống Hoa kỳ.

Bạn có biết nước nào nhiều Vàng nhất thế giới không? Đó chính là Phillipine với 640.000 tấn vàng. Đó là lý do tại sao Phillipine là quốc gia cuối cùng trong chuyến công du của TT Trump trước đây. Thật ra số vàng đó đã được chuyển ra khỏi Philippines trước Thế chiến 2 để ngăn chặn nó rơi vào tay phe Trục, bởi lực lượng Mũ trắng của Vatican Gnostic Illuminati, trước khi được trả lại và được bảo vệ bởi WDS, để ngăn chặn các Đặc vụ Dòng Tên Satanic Illuminati âm mưu cướp đoạt.

Một tin tức đáng sợ nhất … chúng ta phải cảm ơn những thành viên khoa học của GWB (Great White Brotherhood) khi họ chế tạo thành công thiết bị bằng cách sử dụng Uranium 238 Gun Barrel và hóa giải được phương pháp nổ Plutonium của các nhà khoa học DS Cabal, nếu không có lẽ đồng hồ của Trái đất đã được tính lại từ đầu nếu không ngăn cản được cuộc chiến tranh nguyên tử khủng khiếp tưởng chừng như đã xảy ra.
Trên đây là một vài biến cố liên quan đến những tổ chức chống lại thế giới bóng tối, tôi muốn giới thiệu để các bạn hiểu rằng tại sao DS Cabal đã bị bật gốc rễ, tại sao Satan đã hóa thành cát bụi, và tại sao tôi luôn khẳng định chúng ta đã thắng cuộc chiến này. Bây giờ chỉ là quá trình thức tỉnh và dọn dẹp.

À, không biết bạn đã thức tỉnh chưa, và dọn dẹp được bao nhiêu rồi?

By HP.
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
[-] The following 1 user Likes duke's post:
  • TanThu
Reply
#2
[Image: 244446082_147798617567861_17762270569795...e=6181C769]

HUYỀN-SỬ-THI [2]
BÍ MẬT DONALD J. TRUMP!



Thật không hề dễ dàng để bắt đầu một chuyện tình, và khi nó đã lỡ bắt đầu chúng ta lại gặp rất nhiều khó khăn ngoài ý muốn, làm sao để nói những lời tỏ tình? Trong đó, khó khăn lớn nhất có lẽ là lời tỏ tình đầu tiên, bởi chuyện tình dường như thành bại ở điểm này, cái điểm quái dị mà không ai trong chúng ta muốn gặp, tuy rằng sẽ phải vượt qua để bước tiếp. Nếu đã có được lời tỏ tình muốn nói, để thổ lộ lại là một câu chuyện nan giải khác, khó khăn hơn rất nhiều, khó khăn đến nỗi có lần Bùi Giáng đã từng “tuyệt vọng” và than thở như các bạn đã biết:

“Anh định nói suốt trăm lần le lói
Rồi bỗng nhiên anh mím miệng vò đầu“


Chuyện tình “Huyền-Sử-Thi” của tôi cũng vậy! một chuyện tình đã chớm nụ từ rất lâu và bắt đầu hé nở từ tuần trước để bây giờ ngại ngùng bước vào giai đoạn tỏ tình, nhưng để viết lời tỏ tình đầu tiên, tôi đã phải đắn đo suy nghĩ rất nhiều, suy nghĩ đến ê ẩm cả người để có thể có một quyết định quan trọng, cuối cùng tôi quyết định chọn Trump, một nhân vật lịch sử kỳ bí nhất trong cuộc chiến lần này, cho lời tỏ tình đầu tiên của mình, không biết bạn nghĩ sao?

Nói đúng ra, khi viết về Trump có quá nhiều điều muốn chia sẻ. Di sản của ông là một bài viết. Con người và cá tính của ông là một bài viết. Những góc khuất của đời ông cũng là một bài viết. Những chuyện tình của ông sẽ là một bài viết khác, v.v… nhưng hôm nay tôi xin chia sẻ với các bạn một góc nhìn khác qua một lăng kính cổ xưa tạm gọi là huyền bí và kỳ lạ liên quan đến con người và cuộc đời ông. Nó có chút ly kỳ có thể khiến cho bạn mê mẩn, nhưng nó cũng có thể huyền bí đến mức khiến cho bạn khó tin và nghi ngờ về sự thật biểu lộ nó. Nhưng thôi, mặc kệ! vòng vo tam quốc kể lể như thế nào là chuyện của tôi, còn phong cách thưởng thức nó như thế nào là chuyện của các bạn, phần ai nấy lo!

Xin các bạn cố gắng bình tĩnh, lời tỏ tình đầu tiên của tôi đang… bắt đầu thổ lộ!

Để hiểu được lời tỏ tình đầu tiên của tôi, bạn phải biết chút ít về vị Tướng nổi tiếng Geogre S. Patton và chuyện tình của ông ấy, tại sao?... hạ hồi sẽ phân giải!

Để hiểu rõ hơn nữa lời tỏ tình đầu tiên của tôi, bạn phải có không ít đam mê giống như bạn đã từng say mê đọc truyện trinh thám hay kiếm hiệp vậy! tại sao? Bởi có quá nhiều điều ly kỳ đến khó tin liên quan đến cuộc chiến này. Trước đây tôi đã chia sẻ với các bạn J.F Kennedy Jr. không phải đã chết mà thực sự còn sống, điều này bây giờ tôi đã biết chắn chắc 99% đến mức có thể khẳng định, tôi còn biết ông ta bây giờ ở đâu và đang làm gì. Nhưng chuyện ly kỳ không chỉ dừng lại ở đó, bạn có biết em trai ông ta không? Cũng không thực sự đã chết như tin đồn trước đây mà vẫn còn sống, vừa mới tái xuất khiến giang hồ dậy sóng, người đó tên là Patrick Bouvier Kennedy. Nhưng điều này có liên quan gì đến lời tỏ tình đầu tiên của tôi cơ chứ? Tất nhiên phải có tôi mới ê a ở đây, đó là những gì P.B. Kennedy vừa mới tiết lộ, một tiết lộ giống như một bí mật “động trời”:

- Trump là con trai của Tướng Patton với một thiếu nữ bí mật thường được gọi là “con ong nhỏ”
- Ngày sinh của Trump như chúng ta đã biết 14/6/1946 không phải là ngày sinh thật sự của ông ta.
- Tính ra J.F. Kennedy Jr. và D.J. Trump là anh em họ hàng với nhau.
- Lần theo gia phả, TT Abraham Lincoln chính là ông cố của Trump!
- Nếu đi xa hơn nữa theo phả hệ, dòng dõi thực sự của Trump chính là Hoàng gia Druze, như vậy có nghĩa là có nguồn gốc từ dòng dõi Chúa Jesus!


Không biết chừng đó tiết lộ, đủ để gây sốc các bạn chưa? Nếu đủ, tôi sẽ làm dịu lòng các bạn bằng con đường khác … Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu về Tướng Geogre S. Patton, người được tiết lộ chính là cha ruột của Donald J. Trump.


GEORGE S. PATTON
Đại tướng bốn sao George Smith Patton (11/11/1885-21/12/1945) là một trong những vị tướng vĩ đại nhất lịch sử Hoa kỳ. Có một chuyện vô cùng kỳ lạ là ông thường nhớ về kiếp trước của mình, và đây là lời kể lại từ một sĩ quan cao cấp của quân đội Hoa kỳ: vào một ngày, tướng Patton đến thăm một địa danh lịch sử tại Ý. Ðó là vùng đất nằm cạnh sông Métaure, nơi mà xưa kia xảy ra trận chiến ác liệt nổi tiếng trong lịch sử giữa những đoàn quân dũng mãnh của đế chế Carthage và đế chế La Mã trong quá khứ hơn 1800 năm, ông ta không đồng ý với viên Đại tá đi cùng, một chuyên gia nghiên cứu các trận đánh trong cuộc chiến La mã. Patton khẳng định chính xác vị trí đóng quân của đoàn kỵ binh của Tướng Hasdrubul của Carthage, và ông quả quyết rằng ông đã có mặt tại đó trước đây. Đôi khi trong lúc nghĩ ngơi trên chiến trường, ông hay kể lại những địa danh và chiến trường cổ đại trong quá khứ xa xăm mà ông đã từng tham dự, và điều kỳ lạ là những sự kiện và di tích đó chỉ có thể có được khi tra tìm lại từ những pho sử liệu cổ xưa quý hiếm chỉ có trong một số thư viện.

Trong sự nghiệp của mình tại West Point (1904-1909), Patton đã xuất sắc trong các môn thể thao bóng đá, chạy, đấu kiếm, điền kinh và bắn súng. Patton còn là một kỵ sĩ cừ khôi, ông ấy đã lớn lên với những con ngựa, và trở thành một tay chơi polo nổi tiếng. Patton là một vị tướng can đảm và đại tài của Hoa kỳ trong WWII. Trong vòng 10 tháng, thiết giáp và bộ binh của ông rầm rộ qua 6 nước: Pháp, Bỉ, Luxembourg, Đức, Tiệp Khắc và Áo, bắt sống 750, 000; giết chết hoặc vô hiệu hóa 500.000 kẻ thù. "Chúng ta sẽ tấn công và tấn công cho đến khi chúng ta kiệt sức, và sau đó chúng ta sẽ tấn công lại", Patton nói với quân đội của mình trước cuộc đổ bộ đầu tiên vào Bắc Phi, đó chính là lý do ông giành hết chiến thắng này đến chiến thắng khác, dọc theo con đường dài từ Casablanca đến thủ đô của nước Đức.

Tướng Patton quá nổi tiếng chính vì tính cách đặc biệt và phong thái bộc trực của Patton vượt trội hơn rất nhiều bởi sự nhạy bén trong quân sự, lòng trung thành và những thành công vang dội mang tính lịch sử của ông trong thời chiến. Bộ phim "General Patton" đã giành được bảy giải Oscar và Patton được tạo hình như một anh hùng dân tộc. Có rất nhiều tài liệu và sách viết về ông, các bạn có thể tham khảo thêm trên mạng. Ở đây, trong giới hạn của bài viết chúng ta chỉ có thể nêu những điểm chính để biết về ông trước khi làm một phép so sánh giữa ông và Trump.

PATTON VÀ TRUMP
Chính vì Trump quá giống với tướng Patton, từ tướng mạo cho đến tính cách. Nhìn tướng mạo giống nhau đến mức kỳ lạ, các bạn có thể xem hình hai ông trong phần comment. So sánh những bức hình hai ông, đôi lúc khiến nhiều người giật mình bởi không hiểu tại sao tướng mạo họ lại giống nhau đến khó hiểu như vậy. Chính vì quá giống nhau, đến mức khi nhìn Trump rất nhiều người ủng hộ ông ta liên tưởng đến tướng Patton, thậm chí một số trong họ nghĩ rằng “Trump chính là Patton tái sinh”. Về tính cách cả hai đều có cá tính đặc biệt, dám nghĩ dám nói dám làm, không cần giữ mồm giữ miệng, vì thế họ luôn phải đón nhận rất nhiều lời gièm pha, sự phản đối từ dư luận. Họ đều là những người táo bạo, dũng mãnh, thẳng thắn, luôn làm việc rất nhanh chóng và  hiệu quả, và còn có chung một phong cách lãnh đạo rất cứng rắn. Vào những thời khắc then chốt, họ luôn có sự tin tưởng sắt đá có thể thay đổi cục diện, xoay chuyển càn khôn, khiến cho cho đối phương khiếp sợ, và nhiều người xung quanh nhìn nhận bằng sự khâm phục.


Sau đây là vài so sánh … để thấy sự giống nhau rất nhiều ở cá tính, con người và cuộc sống của Patton và Trump


1- Xuất thân từ gia đình giàu và được đào tạo trong trường Quân sự
-George Smith Patton xuất thân từ một gia đình quân nhân giàu có tại California. Sau khi lớn lên, ông theo học ở Học viện quân sự Virginia, tiếp tục học tại Học viện quân sự Hoa Kỳ.
-Donald Trump xuất thân từ một gia đình thành công trong lĩnh vực kinh doanh, bố mẹ ông đã xây dựng cho họ một đế chế bất động sản tại Newyork. Trump học tại Học viện quân sự New York.


2- Yêu thích thể thao
-George Smith Patton từng đại diện cho quân đội tham dự Thế vận hội mùa hè ở Stockholm năm 1912, thi đấu 5 môn hiện đại kết hợp (Pentathlon), và giành tổng thành tích là xếp thứ 5 chung cuộc. Trong đó, đấu kiếm xếp thứ 4, cưỡi ngựa vượt chướng ngại vật xếp thứ 6, bơi lội xếp thứ 7, bắn súng xếp thứ 21, nội dung chạy việt giã 4.000 m xếp thứ 3.
-Donald Trump thích bóng chày và bóng bầu dục. Năm 1962 ông là cầu thủ trong đội tuyển thi đấu bóng bầu dục của trường; năm 1963 ông là thành viên trong một đội tuyển bóng đá, hơn nữa từ năm 1962 -1964 ông còn là thành viên của đội tuyển bóng bầu dục, năm 1964 ông còn làm đội trưởng của đội bóng bầu dục của Học viện quân sự


3- Ngưỡng mộ cái đẹp và ưa thích thể hiện sự nổi bật
-Patton rất coi trọng trang phục và dung mạo của mình, bất kể đến nơi nào, ông đều mặc đồng phục được cắt may hoàn hảo. Ông luôn đội mũ sắt được lau sáng bóng, đi đôi bốt cao và mặc quần ống trên rộng dưới bó.
-Trump thường mặc veston kiểu dáng cổ điển sang trọng của giới thượng lưu, phối với sơ mi trắng và cà vạt đa dạng nhiều màu khác nhau. Lâu đài của Trump rất tráng lệ, rực rỡ, và tòa nhà Trump Tower của ông cũng rất sang trọng, hoa mỹ, được dát vàng và đá cẩm thạch.


4- Can đảm và có tài hùng biện
-Patton tin rằng sự can đảm là quan trọng nhất. Ông ghét những kẻ đào ngũ và hèn nhát. Những bài diễn văn của Patton bao giờ cũng truyền cảm, khích lệ lòng người.
- Trump luôn thích sự thách thức, trong tự điển của ông không bao giờ có chữ “thất bại”. Trump cũng là một nhà hùng biện. Những bài diễn văn của ông bao giờ cũng đầy đam mê và hoài bão, thể hiện bản lãnh của một con người chí lớn.


5- Luôn bị giới truyền thông MSM công kích vì tính thẳng thắn và không khoan nhượng
-Những bài diễn văn của Patton ở các nơi đã bị các phóng viên truyền thông cố ý bóp méo và phóng đại rồi tuyên truyền, bôi nhọ bởi cá tính bộc trực và thẳng thắn của ông
- Trong khi hầu như tất cả các hãng truyền thông ở Mỹ đều công kích Trump, bởi ông không ngần ngại lên án bọn chúng truyền tin giả và bóp méo sự thật


6-Vì Chúa dấn thân
-Patton vô cùng tin vào số mệnh, công khai ký ức luân hồi chuyển thế của mình. Một lần trước đêm hành quân gấp, ngoài trời tuyết vẫn phủ dày. Lão tướng máu mặt gan lì phong vân một cõi lại khiêm tốn quỳ gối xuống đường, một mình hướng về Thượng đế cầu nguyện, và ngày hôm sau kỳ tích đã xảy ra, trời quang đãng, tuyết đã ngừng rơi, và thời tiết đẹp kéo dài 6 ngày liên tiếp. Do đó, quân đoàn 3 tiến về phía Bắc một cách thuận lợi, giải cứu được Sư đoàn dù 101. “Lời cầu nguyện của George Smith Patton” trở thành thần tích được lưu truyền khắp nơi trên thế giới.


-Trump là một tín đồ của Thiên Chúa. Ông luôn giữ gìn giá trị truyền thống, không hút thuốc không uống rượu, ngày nào cũng làm việc trên 12 tiếng đồng hồ. Donald Trump còn đưa một câu châm ngôn của mẹ mình trên trang bìa cuốn sách “Làm giàu như thế nào” đã được xuất bản, với câu nói: “Tin tưởng Thiên Chúa, trung thực với chính mình” (Trust in God and be true to yourself).


Có lẽ giữa Trump và Patton luôn tồn tại một điều gì đó vô cùng kỳ diệu. Hiện tại, vị tướng Patton huyền thoại đã ra đi, nhưng Trump còn lại và đang chiến đấu để bảo vệ các giá trị truyền thống, làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại, và bảo vệ các giá trị thiêng liêng cho các dân tộc trên thế giới.

BÍ MẬT ĐƯỢC TIẾT LỘ

- Như vậy Trump là kết quả mối tình lãng mạn của Đại tướng Patton với thiếu nữ bí mật thường được gọi là “con ong nhỏ”, thiếu nữ này chính là Jean Gordon, cháu gái của người vợ Beatrice Patton, cô ta tự tử sau khi Patton mất. => đó là lý do tại sao Trump luôn bày tỏ lòng tôn trọng vô cùng sâu sắc đối với Tướng Patton.


- Như vậy theo tiết lộ ngày sinh của Trump thật ra là ngày 7/12/1945, chứ không phải ngày 14/6/1946 như chúng ta đã biết, đây chỉ là ngày cậu bé Trump được giao cho bố mẹ nuôi Mary Anne MacLeod và Frederick “Fred” Trump.


- Như vậy ông của Trump là Tad Lincold, con trai của cố TT Abraham Lincoln. Như vậy TT Lincoln chính là ông cố của Trump. Từ đây ta biết được Joseph Jr và JFK có cùng máu mủ với Trump => dòng dõi thực sự của Trump là Druze hoàng gia, nên có nguồn gốc từ Chúa Jesus. Điều này đã được xác nhận bởi Vua mới của Anh Joseph Gregory Hallet, ông ta nói rằng “Trump là hậu duệ của Ngài Walter Raleigh, cháu của Anne Boleyn, nên anh ấy chính là người thừa kế hợp pháp ngai vàng của nước Anh, và huyết thống được cho là bắt nguồn từ Chúa Giêsu Kitô”. Nếu bạn có thời gian, thử xem nguồn sau đây liên quan đến tuyên bố của Joseph Gregory Hallett https://online.fliphtml5.com/qydua/fnyz/...4M3WYQ#p=2

LỜI KẾT
Như vậy những tiết lộ trên như một lời nhắc nhở, Donald Trump không phải chỉ là một doanh nhân tỷ phú như chúng ta đã biết, không phải chỉ là một chính trị gia như chúng ta lầm tưởng, mà ông chính là một sĩ quan quân sự cấp cao. Mọi thứ chúng ta thấy về ông chỉ là một mặt sáng, mặt khuất là một người thâm nhập cộng đồng kinh doanh, Hollywood và chính trường, trở thành tổng thống Mỹ. Đó là một phần trong kế hoạch! Đó chính là một lộ trình vi diệu để thâm nhập pháp lý và chiến đấu trực tiếp ở cấp độ cao nhất để xóa sổ DS Cabal.

Trump là một con người đặc biệt ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta. Tôi còn nhớ, chính trị gia nổi tiếng Otto Von Bismarck có một câu nói nổi tiếng “Chính trị là nghệ thuật của những điều khả thi”, nhưng “Trump vận hành chính trị ở một cấp độ cao hơn, trong một khuôn khổ của những điều bất khả thi”, đó chính là lời nói của nhà sử gia nổi tiếng Doug Wead trong buổi phỏng vấn trong chương trình :American Thought Leaders: của tờ Epoch Times.

Thật sự chúng ta không thể hiểu được Trump, bởi chúng ta biết chưa đủ về ông ta, nói chính xác là chúng ta biết quá ít về ông ta. Mỗi khi xem lại những video của Trump và những người lính, tôi vẫn luôn xúc động . Bạn khó có thể hiểu được tại sao Trump lại luôn yêu quý và tự hào về những người lính? Bạn không có thể hiểu được Trump yêu trẻ con đến dường nào? yêu người dân đến mức nào? Bạn biết không, nếu không nghĩ đến sự sống chết của trẻ em và người dân, thì tụi ma quỷ của thế giới bóng tối đã bị phơi xác những năm về trước trong thời gian ông còn làm TT, chứ không đợi đến bây giờ…
Còn rất nhiều câu chuyện rất hay, đầy lòng trắc ẩn và cũng không kém phần ý vị bên lề những góc khuất của cuộc sống Donald Trump, nhưng xin hẹn lại các bạn vào một ngày đẹp trời nào đó!

H.P
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
[-] The following 1 user Likes duke's post:
  • TanThu
Reply
#3
Chào duke  Hello

Cũng có hứng thú về Trump nhỉ  Thumbs-up4 Bài hay 10_point
Reply
#4
(2021-10-10, 03:59 AM)Riêng Một Góc Trời Wrote: Chào duke  Hello

Cũng có hứng thú về Trump nhỉ  Thumbs-up4 Bài hay 10_point

Thanks-sign-smiley-emoticon RMGT.
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
Reply
#5
TƯỞNG NIỆM 50 NĂM THÁNG TƯ ĐEN


[Image: 489338129_1058569159457838_2464334868775...e=6801560B]

[Image: 490477226_1059359442712143_6461051963163...e=68067417]

Ngay từ 8/1946, Việt Minh miền bắc đã quyết định đổi tên SG thành TP Hồ Chí Minh. Vậy mà chính quyền SG suốt 30 năm sau đó lại không hề có ý định đổi tên Hà Nội thành TP Ngô Đình Diệm hay TP Nguyễn Văn Thiệu, kỳ ha?

[Image: 481233703_960569026185447_25851520405881...e=6801711A]

NHỮNG BỨC ẢNH, HÔM NAY KHI XEM VẪN LÀM NGẬM NGÙI, RƠI NƯỚC MẮT ...  Crying-face4 

[Image: 490284520_1059368582711229_3091327715587...e=68068754]

[Image: 490023835_1059368579377896_6840025080046...e=68067C8A]

[Image: 488316719_1059368966044524_5290564674931...e=680672AB]

[Image: 490381347_1059369066044514_7805251549953...e=6806A5BE]

[Image: 489952986_1059369069377847_8663519104726...e=68069D3C]
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
[-] The following 1 user Likes duke's post:
  • LoveStory08
Reply
#6
TẠI SAO GỌI NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY THÙ OÁN ? SAI HAY ĐÚNG ?

[Image: 491840299_3984841585087169_7195611280554...e=680D2F31]


Cứ khi mỗi năm gần đến ngày 30/4, có nhiều người hỏi Tôi tại sao chúng ta cứ nuôi hận thù hoài trong lòng và còn tham dự ngày TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30/4 làm chi ?
Nhân dịp gần đến ngày TƯỞNG NIỆM 50 NĂM QUỐC HẬN 30/4 Tôi xin bày tỏ nỗi lòng:

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu biến cố lớn trong lịch sử Việt Nam: nền văn minh của Miền Nam và thễ chế Tự Do, Dân Chủ Việt Nam Cộng Hòa bị hủy diệt bởi Việt Cộng, mở ra giai đoạn đau thương và lưu vong cho hàng triệu người dân miền Nam Việt Nam.
“Quốc hận” – Không phải để nuôi hận thù, mà để không quên sự thật.
Cụm từ “Quốc Hận” không mang ý nghĩa của sự trả thù hay căm giận cá nhân, nhưng đó là sự mô tả nỗi đau tập thể của một Quốc gia khi:
- Một xã hội có tự do, dân chủ bị xóa sổ bởi Cộng Sản.
- Hàng (trăm ngàn) triệu người bị đưa vào trại cải tạo không xét xử. Đó là địa ngục trần gian với lao động khổ sai và tra tấn tinh thần. Thống kê cho biết 850 ngàn người tù đã chết vì đói khát, bệnh tật không thuốc men.
- Tài sản bị tịch thu, con người bị kỳ thị vì “lý lịch” vì ở kẻ thua cuộc.
- Và hàng triệu người đã phải liều mình vượt biển để tìm tự do, hàng mấy trăm ngàn người bỏ xác ngoài biển cả.
- Hiện tại, sau nửa thế kỷ guồng máy Cộng Sản/Việt Cộng còn đàn áp, cai trị khắc nghiệt dân tộc (Việt ở) Việt Nam.

TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN là ngày tưởng niệm Quốc tang (nasjonal sørgedag - National Day of Mourning) – Là nhiệm vụ và bổn phận của người Việt lưu vong
- Người Do Thái không quên Holocaust - Đức Quốc xã diệt chủng người Do Thái.
- Người Campuchia tưởng niệm nạn nhân diệt chủng Pol Pot.
- Người Nhật bị hai trái bom nguyên tử hủy hoại đất nước cho dù hiện Nhật Bản là đồng minh của Mỹ.
Trong tinh thần đó có phải chính "LIÊN ĐOÀN CHO CÁC NẠN NHÂN BOM NGUYÊN TỬ" - NIHON HIDANKYO (The Japan Confederation of A- and H-Bomb Sufferers Organizations) của Nhật được trao giải Nobel Hòa Bình ở tại Na Uy năm vừa qua 2024 hay không?
- Theo lịch sử cận đại cho chúng ta biết đất nước Ukraina có nhiều ngày Quốc Hận (9/1, 24/1, 20/2, 24/2 và 26/11) bởi Cộng Sản Liên Xô và Đế quốc Nga tạo ra.
- Các nước Đông Âu khác có nhiều ngày Quốc Hận cũng bởi Cộng Sản Liên Xô tạo ra.
- Dân tộc Sami ở Bắc Na Uy có ngày Quốc tang 6/2 là ngày tưởng niệm cho những nạn nhân bởi hành vi lạm dụng và bất công mà người Sami phải chịu đựng, bởi chính sách Na Uy hóa xưa kia.
- Và chính người Na Uy có ngày Quốc tang là ngày 22 tháng Bảy
- v.v ...

Vậy thì tại sao người Việt tị nạn Cộng Sản không có quyền có ngày QUỐC HẬN 30/4 ?
Người Việt tị nạn Cộng Sản có bổn phận và trách nhiệm tưởng nhớ những người đã chết vì lý tưởng tự do, và GHI NHỚ MỘT CHƯƠNG ĐEN TỐI TRONG LỊCH SỬ ĐỂ TỘI ÁC KHÔNG BAO GIỜ LẶP LẠI.

Tôi xin lặp lại TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30/4 không phải là thù oán, mà là:
- Bày tỏ lòng tri ân với những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh bảo vệ miền Nam.
- Nhắc nhở thế hệ sau hiểu lý do cha ông họ phải bỏ quê hương ra đi.
- Gìn giữ căn cước của một dân tộc đã từng chọn tự do hơn làm nô lệ.

Có nhiều người thắc mắc với Tôi tại sao ngày Quốc Hận không phải là ngày tha thứ ?
Tôi xin trả rằng có thể Tôi tha thứ nhưng Tôi không bao giờ quên lãng ngày TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30/4.
Tha thứ là một hành trình cần thiết để cho tâm hồn lắng đọng, nhưng nếu có THA THỨ KHÔNG ĐỒNG NGHĨA VỚI QUÊN LÃNG.
Tôi không bao giờ quên lãng sự thật, theo chiều gió bóp méo lịch sử hay xóa bỏ ký ức tập thể của Việt Cộng vì đó là một sự xúc phạm đối với những người đã nằm xuống và chịu khổ nạn.
- Tại sao chúng ta phải tha thứ hay quên lãng khi chế độ Việt Cộng ĐANG còn áp bức dân tộc Việt ở Việt Nam ?
- Tại sao chúng ta phải tha thứ hay quên lãng khi Việt Cộng cách đây không lâu không cứu dân, bỏ đói dân, không cho dân tiêm thuốc ngừa dịch mà bộ trưởng công an (lúc bấy giờ) TÔ LÂM còn dùng tiền xương máu của dân đi ăn BÒ DÁT VÀNG trong dịch Covid Vũ Hán ?
- Tại sao chúng ta phải tha thứ hay quên lãng khi Việt Cộng ĐÃ và ĐANG bán đất cho Tàu Cộng, ký kết Việt Nam làm thuộc địa của Tàu Cộng?
- Tại sao chúng ta phải tha thứ hay quên lãng khi Việt Cộng ĐANG còn đàn áp tôn giáo, bắt bỏ tù hoặc giết bỏ những người đưa lên tiếng kêu gào dân quyền, nhân quyền?
- Tại sao chúng ta phải tha thứ hay quên lãng khi Việt Cộng tham nhũng, cướp bóc tài sản, vét tiền của dân trong nước đem ra nước ngoài ?
- Tại sao chúng ta phải tha thứ hay quên lãng khi Việt Cộng ĐANG chọn đất nước Việt Nam làm trung chuyển hàng hóa của Tàu Cộng làm lũng đoạn kinh tế Việt Nam và thế giới ?
- Tại sao chúng ta phải tha thứ hay quên lãng khi Việt Cộng khởi động hàng năm ăn mừng "NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM 30/4" trên sự đau khổ của dân mất nước nhà tan, và ăn mừng "TỰ DO" khi toàn dân trong nước chưa có tự do?

Vì vậy Tôi xin nhấn mạnh người Việt hải ngoại có ngày TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30/4 để:
- Không để lịch sử bị viết lại bởi bên thắng cuộc Việt Cộng.
- Không để con cháu quên rằng tự do, dân chủ, nhân quyền không bao giờ là điều hiển nhiên.
- Không chấp nhận sự im lặng như một hình thức đồng lõa với Việt Cộng ĐÃ VÀ ĐANG còn đàn áp dân và bán nước.

- Việt Sơn -
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
[-] The following 1 user Likes duke's post:
  • TanThu
Reply
#7
50 năm nhìn lại_Câu chuyện của một sĩ quan QLVNCH



‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
[-] The following 1 user Likes duke's post:
  • TanThu
Reply
#8
Tưởng niệm 50 năm ngày 30.4 trên Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway.

[video=youtube]http://https://youtu.be/IR4J6H2pOQk?si=Xa8D_N3BE0nTlj4j[/video] 



https://youtu.be/IR4J6H2pOQk?si=Xa8D_N3BE0nTlj4j

Tulip4 Tulip4 Tulip4
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
Reply
#9
GIỚI THIỆU SÁCH HAY

Lẽ ra mình nên viết dòng “status” này vào hôm qua, ngày 30 tháng 4. Nhưng như mọi năm, đến ngày này lòng lại trĩu nặng, buồn và trống trải, nên không muốn viết gì cả. Vào những ngày như thế, mình lại nhớ đến ba má mình và những hy sinh vô bờ bến của họ.

Thay vì chia sẻ cảm xúc, hôm nay mình muốn đặc biệt giới thiệu một quyển sách mang tựa đề “Khát Vọng Chưa Thành”, do Nhà Xuất Bản Nhân Văn tại Hoa Kỳ phát hành. Tác phẩm do nhà báo Đinh Quang Anh Thái chấp bút, ghi lại lời kể của ông Hoàng Đức Nhã về một giai đoạn lịch sử quan trọng của Việt Nam Cộng Hòa. Cuốn sách tiết lộ nhiều chi tiết chưa từng được công bố trước đây. Cũng xin giới thiệu thêm, ông Hoàng Đức Nhã là cựu Tổng Trưởng Dân Vận và Chiêu Hồi, đồng thời là một trong những cộng sự thân tín của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

Trong quá trình thực hiện sách, anh Thái có nhờ mình chụp vài tấm hình ông Hoàng Đức Nhã và Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng để làm tư liệu. Mặc dù minh chỉ chụp hình để giải trí, nhưng mình vẫn cảm thấy vinh dự khi được chụp hình cho một nhân vật lịch sử như ông Nhã.
Dưới đây là nhận xét của Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, cựu Giáo sư Huân Công và Quan hệ quốc tế tại Đại học George Mason, Virginia, về ông Hoàng Đức Nhã và hoàn cảnh ra đời của cuốn sách.

From: Binh L. Vo FB.
==========================

[Image: 493611159_10165426818654202_754486420706...e=681941E3]

CUỐI CÙNG NGƯỜI CẦN NÓI ĐÃ LÊN TIẾNG

Với cuốn sách Hoàng Đức Nhã: Khát Vọng Chưa Thành, người cần nói đã lên tiếng.

Hoàng Đức Nhã là cựu bí thư kiêm tham vụ báo chí của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và là cựu Tổng trưởng Dân Vận – Chiêu Hồi của Việt Nam Cộng Hòa.  Ký giả Fox Butterfield của báo The New York Times gọi anh là “người có nhiều uy quyền nhất nước, chỉ sau ông tổng thống.”
Ngoài tình gia đình, anh còn là cộng sự viên thân tín, đắc lực, và trung thành nhất của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, và do đó có đủ tư cách hơn người để nói về hoàn cảnh và cách suy nghĩ của người lãnh đạo Đệ Nhị Cộng Hòa trong những lúc dầu sôi lửa bỏng của chế độ.  Trong cuốn sách này, anh Nhã, lần đầu tiên, đã tiết lộ, giải thích, và làm sáng tỏ một số sự kiện quan trọng liên quan đến chính tình Việt Nam thời Đệ Nhị Cộng Hòa.

Cuốn sách này do sáng kiến của Đinh Quang Anh Thái, nhưng nó bắt nguồn từ rất lâu, từ cuốn sách No Peace, No Honor: Kissinger and Betrayal in Vietnam (2001) của Larry Berman, giáo sư Chính trị học, trường Đại Học California.  Khi nghiên cứu tìm tài liệu để viết sách, Larry nhờ tôi giúp anh liên lạc với “Tổng thống Thiệu hay người phụ tá thân tín của ông là Hoàng Đức Nhã.”  Sau khi hỏi ý kiến anh Nhã, tôi cho Larry số điện thoại sở làm của Nhã để Larry liên lạc và phỏng vấn.

Khoảng năm 2001, sau khi sách được phát hành, trong một bữa ăn giữa ba người – Larry, Nhã, và tôi – ở Dancing Crabs trên Washington D.C., tôi khen Larry tương đối công bằng hơn với Việt Nam Cộng Hòa và đã cố tìm hiểu quan điểm của giới chức Việt Nam Cộng Hòa, chứ không như Stanley Karnow đã dựa rất nhiều trên tài liệu và quan điểm của Hà Nội, rồi mặc nhiên coi đó như đại diện cho quan điểm của “phía Việt Nam”.  Nhã đột nhiên đề nghị “tại sao Hùng không dịch cuốn sách của Larry?” Lúc ấy, tôi đang là giáo sư Quan Hệ Quốc Tế và Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Dương của trường đại học George Mason nên không thích dịch và cũng không có thời giờ để dịch sách của người khác.
Tôi đồng ý dịch với điều kiện là anh Nhã sẽ liên lạc với cựu Tổng thống Thiệu để viết đầy đủ về quan điểm và tình huống của Việt Nam Cộng Hòa, vì chính mắt tôi đã chứng kiến sự thân tình giữa hai anh em Thiệu-Nhã, ngay cả sau 1975.  Lời hứa ấy, bây giờ 23 năm sau, mới được thực hiện, một phần.

Larry là người đầu tiên được Nhã cung cấp dữ kiện để đưa ra quan điểm công bằng hơn đối với vai trò của Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến. Hai mươi năm sau, Nhã tiếp tục vai trò ấy với George J. Veith, thường được gọi là Jay Veith, tác giả cuốn Drawn Swords in A Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams (2021). Khác với đa số các tác giả khác, Jay thuộc thế hệ lớn lên sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt.  Anh viết về chiến tranh Việt Nam, về những thất bại và thành công của Việt Nam Cộng Hòa với tư cách một học giả trẻ không bị ràng buộc bởi tiên kiến, thời thượng, tình cảm cá nhân, hay “gánh nặng của quá khứ”.  Và Nhã đã giúp nhiều cho Jay hoàn tất tác phẩm của mình.

Đó là hai trường hợp mà Nhã là người đóng góp tài liệu và kinh nghiệm cá nhân. Với cuốn Hoàng Đức Nhã: Khát Vọng Chưa Thành của Đinh Quang Anh Thái, Nhã nói chuyện trực tiếp, thân mật, thành thật, không cường điệu, với độc giả về kinh nghiệm bản thân, về thân thế mình, về đóng góp chính trị, và về những thăng trầm trong cuộc sống.

Với cuốn sách này, Nhã có dịp bạch hóa một số tin giật gân, mà đến nay có người vẫn muốn coi là sự thật, về những vận động chính trị trong những ngày hấp hối của Việt Nam Cộng Hòa.

Ở Việt Nam trước kia, Nhã là một người trẻ đầy quyền lực. Có rất nhiều huyền thoại và tin đồn thêu dệt về nhân vật này. Cuốn sách này cho thấy một Hoàng Đức Nhã hoàn toàn khác.

Lột bỏ bề ngoài quyền lực, Nhã là một người trung thành với chế độ, thành thật với chính mình, tận tụy với vợ con, và chân tình với bạn bè.  Xuất thân từ một gia cảnh khiêm tốn, nhờ bản tính thông minh, khả năng thích ứng, và ý chí phấn đấu, Nhã đã nắm được thời cơ để trở nên một người thành công trong nhiều lãnh vực, không những ở trong nước mà còn ở ngoài nước sau khi Sài Gòn thất thủ.

Nhã là một bằng chứng hùng hồn, một phản biện hữu hiệu chống lại định kiến sai lầm của phe phản chiến và những người viết sử ở Mỹ “vơ đũa cả nắm”, coi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chỉ gồm những thành phần tham nhũng, thối nát, và bất lực.
-------------------
Nguyễn Mạnh Hùng
Giáo sư Huân Công về Quan hệ Quốc tế
trường Đại học George Mason

=============================
Sách hiện được bán tại Tự Lực Bookstore: https://www.tulucmall.com/BookStore/Home/Index
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
Reply
#10
50 Năm Viễn Xứ | Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng - Những Phút Giây Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa

[video=youtube]http://https://youtu.be/oiadSxMt0ts?si=VUFuZ8gx_ne7Dn0c[/video]

https://youtu.be/oiadSxMt0ts?si=j0cDAa5U_--uJzIc
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
Reply
#11
Dưới đây là hồi ký về nhiều thảm cảnh và cuộc vượt biên hải hùng của một bác sĩ quân y miền Nam được kể lại bởi anh Nguyễn đạt Thịnh. Câu chuyện hơi dài, nhưng đó là sự thật , rất thật, của những người phải trốn chạy khỏi Việt nam 50 năm về trước .

Đọc để khóc và cũng để trả lời tại sao 50 năm người ta vẫn không quên.

--------------------------------------------------------------------------

"Đôi Mắt Phượng"

-------Nguyễn Đạt Thịnh.

[Image: 495370173_122139440228675463_73046302630...e=68195006]

Tôi là một quân y sĩ ra trường năm 1974; đơn vị đầu tiên, cũng là đơn vị cuối cùng của tôi, là một tiểu đoàn Nhẩy Dù. (Xin bạn đọc cho phép tôi được bất chấp văn phạm, viết hoa hai chữ “Nhẩy Dù”, vì đó là những chữ tôi thương yêu nhất.).

Tôi lập gia đình năm 22 tuổi, ngày còn là một sinh viên quân y. Mẹ tôi bảo “chờ ra trường, có việc làm, có lương nuôi vợ, rồi hẵng cưới vợ.” Tôi biết mẹ tôi có lý, nhưng tình yêu cũng không vô lý. Tình yêu thúc giục tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp; thằng Quỳnh, thằng Khương, thằng Ðịnh, những đứa bạn cùng lớp bảo tôi, “Phượng đẹp ngây ngất.”

Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin một năm đính hôn để học hết trung học. Tôi chờ; một năm dài được chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng tôi gặp nhau.

Không phải là một nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng; tôi chỉ biết là Phượng rất đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ; chỉ cần gặp Phượng một lần là không người đàn ông nào quên được nàng.

Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi; sức hút của Phượng là sức hút ngầm do duyên dáng, do tình ý, chuyển đi từ đôi mắt. Ðôi mắt thật là tình. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ; tôi không thích hai chữ này vì nó làm mất đẹp cặp mắt trữ tình của Phượng.
Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy; sau hôn nhân tôi khổ sở, bực bội cũng vì đôi mắt ấy. Không một người đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng lần đầu, không có cảm tưởng đã yêu nàng và tình yêu của họ không bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô tình với họ. Tôi mất một số bè bạn cũng vì Phượng. Chỉ một vài lần gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi đã mọc sừng.
Dĩ nhiên vợ tôi không thể có tình ý với tất cả mọi người, nhưng cái khổ là đôi mắt đắm đuối của Phượng không nhìn mọi người một cách thản nhiên như người ta nhìn những vật vô tri quanh mình.

Giờ này, vợ tôi không còn trên cõi đời trần tục nữa tôi mới thấm thiá hiểu được một việc rất giản dị, rất tầm thường là không tạo ra đôi mắt của chính mình, Phượng không có trách nhiệm gì về những đổ vỡ đôi mắt gây ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó _ông Thợ Tạo_ mới đúng là người tôi phải oán trách.

Ði đôi với cặp mắt tình tứ là một đồng tiền rưỡi (một ở bên má trái, và một nửaở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng manh. Cái đồng tiền rưỡiấy _dù chỉ có đồng rưỡi_ có ma lực giết người. Xin hiểu hai chữ “giết người”theo nghĩa trắng của nó. Chỉ riêng tôi biết cũng đã có 2 người chết đuối trong cái vũng thịt sâu không đầy nửa ly này.

Một trong 2 người xấu số là bạn thân của tôi. Nó tự bắn vỡ toang đầu ngay trên bậc cửa nhà tôi. Lá thơ tuyệt mạng trong túi nó chỉ có mấy chữ “hình dung emđang nằm trong tay một người đàn ông khác, anh không còn can đảm sống nữa.” Tôi cũng không bao giờ đủ can đảm để tìm hiểu xem vợ tôi có nằm trong vòng tay nó không. Hai giòng chữ nó viết không cho phép tôi hiểu khác được.

Tôi chạy trốn trước mọi ngờ vực; tôi quan niệm đã không tránh được bão cát thì thà vùi đầu xuống cát để không còn biết tới giông bão bên ngoài nữa. Tôi hèn nhát? Có thể; nhưng tôi làm gì hơn được? Không chỉ yêu thương vợ, tôi vẫn còn say mê vợ tôi sau 3 năm chăn gối.
Mẹ tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đã cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu quan điểm những người thân của tôi; tôi hiểu cả định mệnh của tôi, của vợ tôi, và của cả những người say mê vợ tôi nữa.

Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Ðiều đó cần được giải thích rõ hơn;đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng đáng trách, nhưng trong đa số những đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương. Phượng sợ và tránh né tất cả mọi gặp gỡ.Những buổi liên hoan của đơn vị tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi, luôn luôn Phượng cáo bệnh hay tìm cớ bận con để không tham dự.

Cũng như tôi, Phượng sợ hậu quả của những cuộc giao tiếp, sợ cái bản chất đa cảm,đa tình của chính mình. Không phải là một người đàn bà trắc nết, vợ tôi thật sựchỉ là nạn nhân của bản ngã.

Sở dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, lả để người đọc hình dung được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được cộng sản đánh bóng bằng hai chữ “cải tạo.”

Cũng như mọi sĩ quan cấp úy khác, tôi bị cộng sản lừa bằng cách chơi chữ. Trênđài phát thanh, chúng kêu gọi binh sĩ trình diện và đem theo 3 ngày ăn. Sau 3 ngày học tập, thành phần binh sĩ được ra về yên ổn. Tiếp theo đó, chúng kêu gọi các sĩ quan cấp úy trình diện với 10 ngày tiền ăn. Chúng tôi tin tưởng, hoặc ít ra chúng tôi cũng mong mỏi là thời gian cải tạo chỉ kéo dài 10 ngày. Ðó là cái lầm của tôi, cái ảo tưởng đưa đến chỗ tự diệt của mọi cán bộ chỉ huy.

Cộng sản hiểu rằng mặc dù nhất thời thất trận, lực lượng quân sự của miền Nam vẫn còn là một đe dọa nghiêm trọng đối với nền thống trị mà lúc ấy chúng mới rắp tâm đem đặt lên lưng người dân Nam Việt. Một triệu quân nhân bị đặt vào hoàn cảnh thất thế vì những lừa đảo, phản phúc chính trị, những dốt nát chiến lược đã bịnhững mũi dùi tấn công của 15 sư đoàn Bắc Việt xé thành từng mảng nhỏ. Muốn ngăn ngừa sự kết hợp lại của những mảng quân lực, cộng sản chủ trương đánh vỡ đầu rắn: chúng phải tiêu diệt bằng mọi giá hệ thống cán bộ chỉ huy của QLVNCH. Trong 3 ngày học tập, chúng đối xử hết sức nhã nhặn lễ độ với anh em hạ sĩ quan, binh sĩ. Không một hình thức hành hạ giam cầm, không một lời nói nặng, một đe dọa.

Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền với chúng tôi cái tin tưởng học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Ðiều đó làm đa số sĩ quan cấp úy chúng tôi yên lòng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với bạn bè cũng đủ qua khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi.

Dĩ nhiên là chúng tôi đã lầm; chỉ ngay sau khi cái bẫy xập xuống đầu chúng tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận thù.”

Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn của một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt. Anh ta oang oang bảo chúng tôi, “Các anh quên hết địa vị xã hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm nay, vợ con các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm; và vài tháng sau vợ các anh chỉ còn nước đi làm đĩ để sống.”

Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng câng, đểu cáng, “Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi ư? Ðừng lo, cứ ăn hết 10 ngày đó đi đã; sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”

Trước mỗi cửa phòng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên khẩu hiệu“không có gì quý bằng độc lập, tự do.” Cán bộ Việt Cộng còn phụ giải “người đi trên sa mạc thấy không có gì quý bằng nước uống. Các anh sẽ thấy đối với các anh thì không có gì quý bằng tự do.”

Ðề cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm biếm, vừa độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm thía hiểu tự do là quý. Sau này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rõ không phải chỉ một mình tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.

Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi; tôi bị giam 2 tháng hơn thì một buổi chiều nghe loa gọi lên văn phòng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến những vụ thủtiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những thành phần cộng sản gọi là ngoan cố.

Bản chất hiền lành, tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lý thuyết rẻ tiền, lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là một khinh tội. Tôi lo lắng chờ đợi một hình thức trừng phạt vì trọng tội trí thức.

Lên đến văn phòng, tôi được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt, đưa vào phòng chính ủy. Và tôi đã chết đứng khi thấy Phượng trong đó.
Ðêm đó tôi không chợp mắt. Tôi hình dung những chuyện đã xẩy ra giữa vợ tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi văn phòng hắn. Tôi không tin đã có gì quá đáng trong phòng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến một chỗ nào đó.

Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa; những âm thanh giảng huấn chan chát của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không một mảy may khác những tiếng cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái lý do đã khiến “nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm nuôi của gia đình.

Cặp mắt nẩy lửa vì giận, tôi nhìn Phượng. Vợ tôi đã đến cái nước đi làm đĩ nhưbọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt vẫn tình tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài trên đôi má nhung mịn màng làm lòng tôi se thắt. Tôi thèm bước tới, ôm Phượng vào vòng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ nhiên ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường làm đó.
Vợ tôi nghẹn ngào, “Bé Mai nhớ anh lắm.”

Bé Mai! Ðứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng khựng như trời trồng trước cái hình ảnh nhỏ bé, thương yêu mà vợ tôi vừa gợi ra.

Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được một lời nào với Phượng cả. Cổ họng tôi nghẹn cứng; rồi bên tai tôi văng vẳng thật xa có tiếng nói của tên chính ủy:“Thôi, xách đồ ăn về phòng đi, Tuần sau lại được thăm nuôi nữa.”

Ðêm đó tôi không chợp mắt. Tôi hình dung những chuyện đã xẩy ra giữa vợ tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi văn phòng hắn. Tôi không tin đã có gì quá đáng trong phòng làm việc. Nhưng sauđó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến một chỗ nào đó.

Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần đem theo một món ăn mà trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu mà có cảm tưởng như mình đang ăn rơm khô, không mùi, không vị. Mỗi lần thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những chuyện bâng quơ. Cả hai đứa chúng tôi đều không dám đả động tới điểm ngờ vực đau xót của tôi.

Có lần Phượng nói với tôi bằng cái giọng thiết tha nhưng nghiêm trọng, “Em chỉ xin mình tuyệt đối tin tưởng là em yêu mình. Suốt đời em, em chỉ yêu có một mình mình. Mặc dù những gì đã xẩy ra hay sẽ xẩy ra thì tình em yêu mình vẫn mãi mãi là sự thật duy nhất.”

Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng buồn đã xẩy ra; quên không được, tôi cố gắng bào chữa cho Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ,cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong lòng người chồng.

Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng thì một hôm Phượng bảo tôi, “Tuần sau em về Long Xuyên với má; sống ở thành phố không có sinh kế gì hết.”

Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa lìa Saigon. Ít nhất về ruộng sống với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn hàng ngày, cái lo to lớn của người thị dân sau ngày bị giải phóng.

“Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh,” tôi bảo vợ. “Nhưng cái nhìn ngờ vực, khó chịu của 2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh trước việc anh được uuđãi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung những đầy ải với họ.”

Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn định trở thành dài hơn vì thiếu sự chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản ứng, bảo đi thì đi, bảo học thì học, bảo lao động thì lao động. Những bạn nào đã sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn đồng ý với tôi là cộng sản đã thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác. Không vui, không buồn, không hy vọng, thất vọng, không mong chờ bất cứ một điều gì nữa. Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy được điều động bằng những tiếng còi, những khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả chúng tôi tìm được cái khôn ngoan của loài vật: không làm một cử động thừa, không nói một câu thừa để không phí phạm bất cứ một phấn thật nhỏ nào cái sinh lực le lói còn trong xác người.

Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận được giấy phóng thích. Cầm tờ giấy chấm dứt cuộc sống tù ngục của mình trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập. Nói dửng dưng cũng vẫn chưa đúng; tôi không ý thức được những thay đổi tờ giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột bắp của bữa ăn trưa đói khổ tôi nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi. Trái bắp có trong tay vẫn quý hơn hai chữ “tự do” mới viết trên giấy.

Một cán bộ bảo tôi, “Chiều nay anh khỏi lao động; về sửa soạn nóp, chén trả lại nhà kho.”

Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn phòng giam hôi hám nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với cái hỏa ngục lao động sản xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.

Bốn giờ chiều Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu từ trong thế giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của mình với xe honda, với áo dài. Tôi đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác lạ sau chưa đầy 2 năm mất nước.

Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy; suốt một năm trời tôi phải sống trong chế độ “quản chế của nhân dân”; tôi xin giải thích những chữvăn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân” có nghĩa là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi người. Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét là tôi chưa giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại đi tù nữa.

Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa con nít. Tôi vâng dạ,tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà hàng xòm gọi tôi đến coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và không có cách nào hay hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt, “Anh đi học tập ra mà con như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách nào khác nữa sao?”

Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn gì hết để ruột không hư. Bà ta cáu kỉnh nạt,“Lang băm tư bản.”

Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời tôi hồi hộp lo sợ: cái chết của đứa trẻ vì thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi trở lại trại cải tạo như không.

Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ý thức như bà hàng xóm mà tôi vừa kểtương đối rất ít; đa số dân Saigon sống trong một tình đoàn kết ngấm ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ qua câu nói chí tình, “Bác sĩ phảiăn thêm mới sống nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng không đến nỗi nào.” Bà vợ của một công chức còn đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách cho cái áo.

Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng thì nàng cũng là nguyên nhân của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra mặt, không còn e dè gì tôi nữa cả. Vợ tôi không chỉtống tình cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi nữa, mà xuống đến tận chân thang của xã hội: mỗi ngày vài lần những anh phu xích lô đến gọi Phượng đi khách. Những lầnđầu tiên Phượng còn ngượng với tôi, nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em về.”

Phần tôi, tôi vẫn phải tình nguyện xung phong trong mọi công tác nặng nhọc của phường như hốt rác, quét đường, trồng cây, thông cống, … . Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù cải tạo. Ðôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà còn tự do hơn chế độ nhân dân quản chế.

Thêm một lần nữa, tôi tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng đã hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền Nam. Suốt một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc gì cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn bám vào đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân tạo ra. Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng mình khiếp sợ.

Tôi xin độc giả ngưng đọc một phút để hình dung cái nhục nhã của tôi, của tất cảgiới trí thức miền Nam. Tôi không đủ can đảm để nói bất cứ câu gì với vợ tôi vềviệc làm của nàng; cả hai chúng tôi cúi đầu chịu phép trước guồng máy xã hội mới.

Nếu một ngày tù dài bằng một ngàn năm sống tự do thì 365 ngày bị trói tay, thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân dân, và nhìn vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả hệ thống vũ trụ.

Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra một tình trạng ngượng ngập khó tả, Ít khi tôi dám nhìn thẳng vào mắt Phượng, và gần như không bao giờ tôi dám nói với nàng chuyện gì khác hơn là những câu đối thoại tầm thường quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.

Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được một bí mật: vợ tôi không hề về Long Xuyên với mẹ như nàng đã nói với tôi. Phượng đã làm gì, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về quê sống với mẹ? Cả đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng. Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào nữa đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả lời tôi.

Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo một anh xích lô “đi khách” về, Phượng kéo tôi vào phòng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho cái giường nệm đã đi vào chợ trời từ hai năm trước, Phương mở gói thịt quay ra rồi bảo tôi, “Mình ăn với em.”

Từ sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nhìn thấy miếng thịt quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn uống ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế.

Những đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi; ăn uống xong, vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một bộ đồng phục thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy nàng bảo tôi, “8 giờ sáng mai, mình mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Ðằng.”

“Ðón tầu? Ðể đi đâu?”

Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, “Em đã đóng đủ 10 cây cho họ rồi.”

Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.

“Vàng đâu mà em có đến 10 cây?” Câu hỏi buột miệng không nuốt trở vào được nữa, tôi chỉ còn biết nhìn vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh mắt. Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt thăm thẳm tình tứ trên khuôn mặt vẫn còn đẹp dù đã gầy đi và dạn dầy phong trần.

Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào, “Em không biết mình có tin hay không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu mình.”

Tôi ôm Phượng vào lòng; giữa một xã hội thù hận, cái bóng mát yêu thương nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng đoán hiểu mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương đem thể xác ra cho thiên hạ dầy vò để góp nhặt từngđồng hầu mua tự do cho tôi.

Cổ nghẹn lại, tôi không nói được một tiếng nào cả; tôi vừa sung sướng trước những bằng chứng hiển nhiên của một mối tình to lớn, bền chắc, vừa xấu hổ nhận những hy sinh nhục nhã của vợ.

Phượng bảo tôi, “Em chỉ đủ tiền đóng cho mình; nhưng em với con vẫn đi theo mình.” Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là tầu thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa Cần Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa đội lốt thanh niên xung phong xuống tầu tại bến Bạch Ðằng. Ðàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống ngã ba Ðồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người đi lậu, không đóng vàng.

“Người ta đi lậu nhiều lắm,” Phượng bảo tôi. “Em cũng trà trộn vào đám người đó; không lẽ người ta xô mình xuống sông. Sợ gì?”

Tôi sợ. Rùng mình tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống sông”, nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết được cái khó không tiền và đành theo mọi xếp đặt của Phượng.

Ðêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng gần sáng nàng hỏi tôi, “Mình đã đủ tin vào tình em yêu mình để tha thứ hết mọi việc cho em chưa?”

“Anh tin. Anh yêu mình.”

“Em còn một tội nữa, chưa thú nhận được với mình.”

Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, còn chưa đủ nữa hay sao.
Vợ tôi thở dài, “Lúc đó em còn khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải nói dối mình là em về Long Xuyên với má. Thật ra em không muốn mình buồn.”

Dù vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.

“Em có con?” tôi hỏi.

Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc, “Mình tha cho em.”

Ðứa con chỉ là hậu quả đương nhiên của những việc làm mà tôi đã nhìn vợ tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để làm. Bây giờ tôi lại hiểu mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng hơn là trách nàng.

“Ngày mai em muốn cho con cùng đi?”

“Nếu mình đồng ý.”

Dĩ nhiên tôi đồng ý; đồng ý đưa những người thân nhất đời mình vào chuyến đi địa ngục, vào vòng tay tử thần.

Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi chở Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy tháng trước Phượng đã dùng để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ, nhưng tôi vẫn đi sớm để hàng xóm đừngđể ý đến bộ đồng phục của tôi. Hơn nữa, Phượng còn ghé Phú Nhuận, nơi nàng gởi nuôi thằng Vình, đứa trẻ ra đời trong thời gian tôi ở tù.

Mọi việc xuôi lọt, và tương đối dễ dàng: 7 giờ sáng tôi đến điểm hẹn; nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi đã có mặt; nhìn thái độ ngỡ ngàng, dè dặt của họ,tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo thanh niên xung phong, chúng tôi không xung phong làm gì hết.

Phượng bảo tôi, “Mình chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đò máy.”

Nhìn vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nhì trên thanh ngang xe, ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột. Nửa tiếng đồng hồ sau tôi xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng đưa con lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngã ba sông Ðồng Chanh; bốn chiếc đuôi tôm xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay còn bồng thằng Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu không nhữngđã công khai mà còn ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la lối, đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu.

Hàng chục khách thương hồ và ít nhất là 4 người tài công đuôi tôm đã chứng kiến và chắc chắn cũng đã biết mục đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.

Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương thương yêu chỉcòn là một vệt dài dậm hơn mầu biển. Ðến lúc này các “giới chức” trên tàu mới hò hét chửi mắng những người vượt thoát lậu. Họ bảo chỉ dự trù lương thực và nước uống cho những người có ghi tên và có góp vàng. Những người khác sẽ không có khẩu phần.

Phần ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4; bao tử trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong lòng tôi; đầu vợ chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn, vừa làm mái nhà cho trẻ con.

Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nhìn thấy, chắc mọi người phải gọi là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho tôi được đem sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc gì để nuôi vợ, nuôi con.

Tôi bảo Phượng, “Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ em và con còn phải thiếu thốn khốn khổ nữa.”
“Em thương mình,” Phượng thủ thỉ bên tai tôi. “Không bao giờ em còn làm mình buồn nữa.”

Qua đến ngày thứ 3, vì đói quá, khi đi lãnh cơm tôi thò tay vào nồi, vừa bốc thêm một nắm cơm vừa nói, “Cho tôi xin thêm chút cơm.”
Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm, thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức mạnh của quả đấm trời giáng.

“ÐM quân ăn cướp. Ðã đi lậu mà còn đòi ăn nữa hả.”

Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng vì cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm được một nắm về mái lều to bằng manh áo, tôi sung sướng nhìn Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nhì. Tôi an ủi vợ, “Mình đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải đến Thái Lan hay Mã Lai.”

Héo hắt cười, Phượng nhìn tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên lòng, nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.

Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam, điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không có cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng được vị trí của Thái Lan và Mã Lai so với Việt Nam. Tôi góp ý với những người điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam. Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt ngang, “Anh biết gì mà nói.”

Ðến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi vì đói, vì mệt và say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống. Tôi van xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể ngả lưng trong thế nằm co quắp. Hai đứa bé không còn khóc được nữa; tiếng khóc của chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.

Tôi mò xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ là mỗi bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không còn sức để nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất hàm hỏi tôi, “Trước kia anh làm nghề gì?”

Dĩ nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải là việc đem ra khoe được, tôi đành khai, “Thưa ông, tôi làm bác sĩ.”
“Biết chích không?”
“Dạ biết.”

Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần thiết cho bà, nhưng thiếu thầy Hai chích. Ðường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được đưa vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có được chén nước cơm, mà trong cà mèn còn thêm được một miếng thịt.

Ðược dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Chiều hôm đó tôi lại có thêm một thân chủ: gia đình một người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco, khiến bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn.

Cà mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc con. Hai đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không đến nỗi bị lả đi như hôm trước nữa.

Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức; nhờ insuline làm tan đường, bà đã ngồi dậy được, tỉnh táo hơn. Uy tín lang băm của tôi gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng vì sau 5 ngày ngồi bó rọ phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức, nhiều người sốt, cảm, và ho.

Nỗi khổ tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu; đem kinh nghiệm 14 tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.

Nhờ hành nghề bác sĩ, khẩu phần của gia đình tôi trở nên sung túc hơn rất nhiều. Mỗi gia đình vượt biển đều có thủ theo một vài thứ thực phẩm khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.

Ðến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đã bình phục và hai đứa trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ tìm cái áo khác ra căng lều. Lần này tôi có ý cột kỹtay áo vào thành tầu.

Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến chuyển lớnđang xẩy ra. Giật mình tôi thức dậy trong tiếng reo hò của mọi người.
“Tới rồi. Thấy đất rồi.”
“Cảm ơn trời phật. Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.”

Giọng quát của một giới chức, “Ngồi cả xuống; chạy tới, chạy lui, mất thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.”
Mọi người ngoan ngoãn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không ngớt. Người ta bàn tán, “Chắc là Mã Lai.”
“Có lẽ như vậy, vì nó là hòn đảo, chứ Thái Lan thì đã thấy lục địa.
“Không chừng Nam Dương.”
“Rất có thể là Úc.”

Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng đang được chuyền sang tâm hôn tôi mà không cần một lời nói. Mọi người mừng vì chuyến hải hành 8 ngày đã đến đích. Cuộc hành trình của riêng tôi và Phượng đã kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn ác mộng bất tận cho cả 2 chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến đi này. Nỗi mừng của chúng tôi, vì vậy mà to lớn hơn tất cả.Chúng tôi mừng đến không nói được nên lời, không hò reo được như mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên nhìn hòn đảo mà tàu đang tiến vào nữa. Niềm vui của tôi đã quá đầy từ ngày bước chân xuống tàu rời bỏ quê hương địa ngục, trên những bằng chứng xác nhận tình yêu tuyệt vời của Phượng đối với tôi. Không một người bạn đồng thuyền nào thỏa mãn bằng tôi.

Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện, “Hình như hòn đảo nhỏ quá.”
“Vâng,” tôi lơ đãng đáp.
“Không chắc đã có người trên đảo.”
“Vâng.”

Mũi tàu vẫn hướng vào hòn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm mọi người thấy rõ kích thước nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương nhấp nhô hòn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng. Hơn nữa, nó cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước với 140 người trong lòng tàu.

Ða số góp ý kiến nên ngừng lại đảo.
“Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.”
“Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dãn gân; ngồi bó gối mãi, mỏi quá.”
“Có thể tìm nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp tục đi nữa.”

Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một vòng quanh đảođể quan sát trước. Và đó là quyết định cuối cùng của họ với tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần: mới chạy được nửa vòng đảo, tàu chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ.
Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh tuột tay mẹ,rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi phóng nhanh đến bên Phượng, trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ vừa kịp nắm tay đứa bé chưađầy năm, theo nó ngụp vào một đợt sóng lớn. Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi trở thành người đầu tiên đặt chân lên hòn đảo san hô thê lương, sau này biến thành nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.

Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi nhìn thấy mà yên lòng. Cách bờ khoảng 15 thước, mọi người nhốn nháo; tiếng kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy vào bờ.

Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng bằng, mặc dù vẫn còn hơi nghiêng, nhưng người trên tàu không đến nỗi phải bám cứng vào thành tàuđể khỏi rơi xuống biển nữa.

Nhờ người coi chừng thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu bồng bé Mai, và xách gói hành lý khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt Phượng lên đảo. Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi; họ lìa bỏ con tàu mà không cần biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày trước rời bỏ quê hương Việt Nam.

Ðó là sai lầm của chúng tôi. Hòn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không dung nạp chúng tôi. Tìm được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng đã khó chứ chưa nói đến việc ngả lưng.

Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay tìm kiếm, tôi chọn được một hốc đá tương đối rộng rãi để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai trò trở thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.

“Ðau đít quá ba ơi,” bé Mai nhăn nhó nói.

Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng, “Em coi chừng con, anh đi quanh tìm xem có con ốc, con sò nào không.”
Tôi ngỡ mình là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục người khác cũng đã lom khom trong các hốc đá tìm kiếm như tôi. Cái may của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng một chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.

Phượng reo mừng, “đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.”

Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Ðồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng, hoặc ít ra thì đó cũng không phải là nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho 140 người đói khát.

Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi cũng tìm được một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách tìm thực phẩm, nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con thứ nhì để dành.
“Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy,” Phượng vừa chôn vỏ tôm xuống cát vừa bảo tôi.

Mới 6 giờ chiều, mặt trời còn cao mà gió biển nghe đã lạnh; tôi lo lắng bảo Phượng,“Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con. Cả em nữa.”
Gói hành lý được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3 quần. Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi mặc thêm cái sơ mi nửa ra ngoài bộ đồng phục chưa thay từ ngày đi.

Gia đình ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh nhưng bị đuổi trở lên. Một số thanh niên tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa.

Ðêm hôm đó một người đàn bà chết, có lẽ vì quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu mượn được một cây xà beng và một cái búa để đục đá chôn người xấu số. Ðó là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn. Lý do thứ nhất khiến chúng tôi không chôn người chết nữa là vì đục đá làm mồ là một công trình quá khó mà lại không hiệu quả. Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đã xông lên nồng nặc. Lý do thứ nhì chua chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục kí thịt của người chết trong lúc tất cả đều đói.

Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc thì nhìn thấy xác cô, khuy áo bị cởi banh ra, chỗ đôi nhũ hoa chỉ còn thịt lầy nhầy và mấy rẻo xương lồng ngực. Một tiếng đồng hồ sau, tôi trở lại, cô đã bị lột truồng, bắp vế, bắp chuối bị xẻo mất.
Tôi rùng mình. Suốt 2 năm chinh chiến tôi cũng đã chứng kiến nhiều cái chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả thật chưa một xác chết nào làm tôi khiếp đảm hơn.

Thượng Ðế ơi, người đã sinh ra con người như sinh vật khôn linh hơn mọi sinh vật khác, sao người lại còn bày ra những thử thách trớ trêu đó để làm gì? Ðể chứng minh là con người cũng không hơn gì loài cầm, loài thú ư?

Tôi trở về hốc đá với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm; nhìn tôi, Phượng bảo,“Mình đuối lắm rồi, để em đi kiếm thực phẩm thay mình.”
“Em không đi đâu hết,” tôi gạt phăng.

Vợ tôi nhìn tôi lo sợ; có thể Phượng thấy phản ứng của tôi không bình thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với nàng, ngay cả những lần nàng theo bác phu xích lôđi khách. Quanh chúng tôi, người ta phát điên, người ta đánh nhau chỉ vì những chuyện không đâu. Tình trạng tuyệt vọng, kinh hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng. Có thể Phượng nghĩ tôi cũng đang có những triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ,“Anh không muốn em đi đâu hết. Quanh chúng ta đang có trên 100 người mất tự chủ.Em phải ở cạnh anh.”

Thật ra tôi chỉ muốn tránh cho Phượng khỏi nhìn thấy xác người thiếu nữ không vú, không đùi. Kéo đầu Phượng gục vào vai, tôi vỗ về, “Rồi mọi chuyện sẽ khá hơn; thế nào chẳng có một thương thuyền đi qua đây.”

Tôi nói để mà nói, nhưng tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy quan tâm đến những điều tôi nói.

Chúng tôi đã đói khát gần 1 tuần lễ; quanh bờ biển không còn một cái vỏ hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên vừa đập vỡ con hào để lấy ruột, thì chỉ vài phút sauđã có người đến đập lần thứ nhì, hy vọng vớt vát một chút gì còn xót lại.

Ðến tuần thứ nhì không ai còn dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa. Gần như tất cả mọi người đều đã ăn thịt đồng loại. Tệ hơn là họ không chờ nạn nhân chết hẳn mới xẻ thịt. Ðể thịt và ruột gan không lạnh tanh, họ xẻ thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải. Xương và đầu người chết bị ném xuống biển, cám dỗ hàng bầy cá mập.

Nhìn những con cá hung hãn chồm vào đến tận bờ để chia phần thịt người, tôi bàn với ông hàng xóm phương pháp bẫy cá mập. Chúng tôi đào một vũng cạn, rồi lấy đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng vào bờ, bên trong sâu hơn bên ngoài bờ biển.

Mượn cái đầu của một bà lão vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi chờ cá mập; thời gian chờ đợi không lâu hơn 20 phút: theo đà sóng một con cá mập nhỏ, khoảng trên dưới 40 kí, trườn vào bẫy.

Sóng rút ra, cá mập mắc cạn và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà beng của chúng tôi. Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài chục người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ thịt chưa xong, con cá mập thứ nhì đã lại trườn vào bẫy trước tiếng reo hò mừng vui của hơn 100 con người đói khổ.

Thịt cá mập béo ngậy và tanh rình, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh được ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của tôi trở thành nguồn cung cấp thực phẩm khá dồi dào cho những nạn nhân mắc cạn.

Cái khổ của chúng tôi là trên đảo san hô không còn một thứ gì có thể sử dụng thay củi nữa cả; một vài người liều lĩnh xách búa ra định bửa tầu lấy gỗ, nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của nhóm thanh niên khỏe mạnh, ăn uống đầyđủ, lại có võ khí, đang chiếm giữ con tàu, cũng đủ làm những người liều nhất trở thành khôn ngoan, lui nhanh vào bờ.

Cầm miếng cá sống, vừa xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi, “Mình có còn tin được câu người ta thường nói ‘trời xanh có mắt’ nữa không?”
Tôi thở dài. Nếu quả trời có mắt thì cặp mắt đó đã nhắm lại từ 4 năm nay rồi. Bé Mai chỉ còn là một cái xác nhỏ xíu, gầy ốm, thoi thóp níu vào cuộc sống. Thằng Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả, đôi mắt gần như không bao giờ hé mở.

Tôi nhai miếng cá trong miệng đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho con. Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu mạng sống của đứa con gái chúng tôi thương yêu, nâng niu, đang tàn lụi dần và sẽ tắt hẳn, khi gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng, cướp đi những sinh lực cuối cùng.

Bé Mai bỏ đi tối hôm đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu dần, yếu dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của đứa con yêu thương vẫn mềm mại nhờ chút hơi ấm của tình phụ tử ủ ấp.

Tôi lặng đi ngồi ôm xác con trong gió biển cắt da; khoảng một tiếng đồng hồ sau Phượng hỏi tôi, “Con có khá hơn không mình?”
Tôi hiểu nghĩa câu hỏi này: Phượng muốn biết bé Mai đã chết chưa, nhưng chữ “chết”ghê rợn không phát ra được trên đôi môi người mẹ. Tôi lặng thinh để vợ tôi ngỡlà tôi đã thiếp đi trong mòn mỏi. Nhưng rồi tôi thiếp đi thật; sức chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn. Giữa những hoàn cảnh phi lý nhất, thể chất vẫn giữnguyên những đòi hỏi bình thường của nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo Thái Bình Dương, tôi ngủ ngon lành.

Tôi bị mặt trời nhiệt đới đánh thức; mở mắt dạy trong ánh nắng chói lòa, tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không còn nằm trong tay tôi nữa. Phượng cũng không thấyđâu cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau lớn hơn tiếng trước, những tiếng cuối cùng trở thành tiếng gào kinh hoảng.
Những người chung quanh nhìn tôi; cặp mắt họ không thiện cảm, nhưng cũng không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt vô can mất hết khả năng xúc động. Cái khổ đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy. Phần riêng của họ cũng đã quá lớn, họ không thể chia xẻ thêm với ai chút gì nữa cả.
Tay ẵm thằng Vinh, tôi phóng nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo, vừa gọi Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một phiến đá, vẻ mặt sầu khổ. Ôm chầm lấy vợ, tôi hỏi, “Em đi tìm con?”

Vợ tôi không nói được một tiếng nào cả.
“Họ đã xẻ thịt bé Mai?” Phượng gật đầu rồi gục vào vai tôi thút thít khóc; tôi lặng đi, tê tái.

Nguyên ngày hôm đó vợ chồng chúng tôi không nói thêm với nhau một câu nào nữa. Trước những đổ vỡ thương đau toàn diện, chúng tôi không còn khả năng khóc, than.

Sáng hôm sau, sau một vòng đi tìm thực phẩm thất bại như từ nhiều ngày nay, tôi trở về hốc đá và tình cờ khám phá ra nguyên nhân giúp bé Vinh còn tương đối mạnh khỏe: Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc nhiên vì từ trước đến giờ Phượng không hề làm việc đó. Cả bé Mai cũng bú sữa bò từ khi mới lọt lòng.

Phượng bối rối nhìn tôi, trong lúc tôi nhìn bé Vinh: môi đứa bé đỏ lòm. Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt còn mới trên đầu vú. Tôi tìm thấy nhiều vết cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người mẹ khốn khổ. Thở dài, tôi cúi đầu. Phượngđang trút tàn lực sang để nuôi một mầm sống. Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn sẽ làm tôi trở thành góa bụa sớm hơn.

Dĩ nhiên tôi không ngăn cản, cũng không phiền trách gì Phượng. Ðiều độc nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong việc tìm kiếm thực phẩm để nuôi Phượng và bé Vinh, nhưng số người đói khát thì đông mà số thực phẩm lại giới hạn nên gần như chúng tôi không còn tìm ra bất cứ một thứ gì, dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng.

Bốn ngày sau ngày bắt gặp Phượng cho con bú bằng máu, tôi tìm được một con của khá lớn. Phượng ăn gượng gạo rồi lại nằm ngay. Vợ tôi đuối đến mức tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng cho nàng.

Suốt tuần sau, tôi chỉ tìm được vài con ốc. Nhìn những triệu chứng sắp chết của vợ, tôi nghe đứt ruột. Tôi không dám đi kiếm thực phẩm xa nữa, sợ người ta đến ăn thịt Phượng.

Hai ngày sau, đang nửa mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng súng; tiếp theo là tiếng reo hò. Bàng hoàng choàng dậy, tôi nhìn theo hướng nhìn của mọi người và thấy một chiếc tàu đang từ từ tiến lại.

Tim tôi ngừng đập; cuối cùng trời vẫn còn có mắt, chúng tôi sắp được cứu sống, và tôi vẫn còn Phượng, còn người vợ mà trong hoạn nạn tôi thấy tình yêu trởthành to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại được mê mệt, được khổ sở với cặp mắt đa tình của Phượng.

Trong tiếng reo hò của những người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ thỉ bảo vợ,“Hôm trước em hỏi anh có còn tin là ‘trời xanh có mắt nữa không’; bây giờ anh trả lời em là anh tin. Anh tin cuối cùng rồi ông trời vẫn có mắt.”

Nhưng tôi đã lầm. Ðối với những kẻ bất hạnh, vô phước như tôi, ông trời (nếu có ổng) đã vĩnh viễn nhắm mắt, quay mặt đi.

Con tầu tôi đang nhìn theo là một ngư thuyền của Ðài Loan. Họ neo xa bờ chừng 2 cây số, rồi cho ghe nhỏ vào chở người đại diện của chúng tôi ra thương lượng. Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là một cuộc trả giá.

Người đại diện trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đòi một số vàng lớn mới chịu cứu chúng tôi. Số người có vàng đề nghị chia số người Trung Hoa đòi hỏi trên đầu người; những kẻ trắng tay như tôi ngồi lặng thinh, dự thính.

Chiều hôm ấy người đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền Trung Hoa với một phản đề nghị. Cuộc trả giá kéo dài cho đến tối, và ông ta ngủ lại trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3 người Tầu, và bắt đầu cuộc ghi danh, góp vàng.

Những người có vàng để góp lần lượt được xuống ghe máy để ra tàu trước cặp mắt thèm thuồng của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa những người góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung Hoa chở vào cho chúng tôi một thùng cá và bảo, “Các anh ăn uống tạm tối nay. Sáng mai chúng tôi sẽ vào chở tất cả ra tàu.”

Thì ra họ chỉ muốn làm khó dễ để lột một số vàng của những người có tài sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng tôi được chở ra tàu; một thủy thủ Trung Hoa giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống ghe.

Yếu đuối, tôi ngã mấy lần, Phượng mở mắt nhìn tôi, cặp mắt tình tứ, đắm đuối ngày xưa, giờ này đã mất thần.

Xuống tầu, tôi xin một ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không còn nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể nàng đã mất hết hydrate; giải pháp độc nhất còn lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm gì có thứ đó trên một ngư thuyền.

Phượng lịm dần và hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm đó. Xác nàng bị chuồi xuống biển theo hình thức thủy táng.

TÔI DỨT CÂU CHUYỆN vào lúc 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 2004, rồi bảo thằng Vinh, “Ba hứa ngày con học xong, ba sẽ kể lại câu chuyện về mẹ con cho con nghe; ba đã thực hiện lời ba hứa.”

Nó bước đến trước ghế tôi ngồi, quỳ xuống, gục đầu lên đùi tôi, “Ba đau khổ nhiều quá,” lời nó nghẹn lại. “Con thương ba.”
Tôi vuốt tóc nó, “ba thương con.”

“Con muốn vinh danh mẹ,” thằng Vinh bảo tôi. Năm đó nó 26, vừa ra trường thuốc Austin, và đang tập sự tại nhà thương Memorial Hertman, Houston, nơi tôi làm việc.

“Bằng cách nào?” tôi hỏi nó.
“Con muốn về Việt Nam để cùng bác sĩ Nguyễn Ðan Quế tranh đấu giải thể chế độ cộng sản dã man đã giết mẹ con, giết chị Mai, và làm ba buồn khổ suốt cuộc đời.”

“Môi trường tranh đấu tại hải ngoại thuận lợi hơn môi trường quốc nội,” tôi bảo Vinh. “ Tiếng nói của con sẽ lớn hơn, vì có một đối tượng rộng hơn, quyền hạn hơn.”

Nó nghe lời tôi, và giờ này bác sĩ Trần Phượng Vinh, con của bác sĩ Trần Quang trở lại trường đại học; môn học mới của nó là điện ảnh.
Họa sĩ Thương Thương, hôn thê của nó đã vẽ xong từ năm ngoái bức tranh quảng cáo cuồn phim đầu tay ÐÔI MẮT PHƯỢNG của tài tử kiêm đạo diễn Phượng Vinh.

Nó đóng vai trung úy quân y của Sư Ðoàn Nhẩy Dù, trung úy Trần Quang.
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
Reply
#12
ĐÊM THẮP NẾN & LỄ TƯỞNG NIỆM 50 NĂM - QUỐC HẬN 30 THÁNG TƯ 1975



‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
Reply