Tiếng Huế, một ngoại ngữ
#1
Wink 
Hello

CUỐN SỔ NỢ CỦA NGƯỜI MẸ KẾ

[Image: 230964882_117614057273059_20075634060700...e=612BA200]


Mẹ bỏ nhà đi khi cô còn bé, cô sống với cha đến năm 5 tuổi thì cô có mẹ kế. Cha con cô sống ở nhà mẹ kế, mọi chi tiêu đều nhờ vào tiền của bà.

Mẹ kế có một người con trai lớn hơn cô ba tuổi, không ức hiếp cô nhưng rất ít nói, thỉnh thoảng lại dùng ánh mắt lạnh lùng nhìn cô. Bà có một cửa hàng bán trái cây, bà đối xử với cha con cô cũng rất tốt.

Kể từ ngày mẹ đẻ bỏ cô mà đi, cô sống khép kín, ít nói, không thân thiện với mẹ kế. Bà đóng học phí cho cô, giặt quần áo cho cô. So với những đứa trẻ khác, cô không quá hạnh phúc nhưng cũng không đến nỗi khổ sở.

Cuộc sống cứ thế trôi qua cho đến năm cô lên 10 tuổi, công trường nơi cha cô làm việc bị sập do quá cũ, công nhân làm việc ở đó bị vùi trong đống cát, trong đó có cha cô.

Lúc cô chạy đến bệnh viện, cô thấy người ta đã phủ tấm vải trắng lên người, mẹ kế đang khóc lóc vật vã bên cạnh. Cô đứng chết lặng trước phòng bệnh, cậu con trai của mẹ kế đẩy cô vào: “Nhanh lại nhìn cha lần cuối đi!”. Nói rồi, cô chạy nhào đến, khóc thét một tiếng rồi ngất lịm trên người cha cô.

Ngày tiễn đưa cha, cô như người mất hồn bên di ảnh của cha, những người xung quanh xì xào, đứa bé thật tội nghiệp, kiểu gì chẳng bị mẹ kế đuổi ra khỏi nhà. Tối đó, cô mơ thấy mình quần áo rách rưới, ăn xin ở ngoài đường. Cô bừng tỉnh và cảm thấy sợ hãi vô cùng.

Sáng sớm, mẹ kế vẫn như thường ngày, thức dậy nấu cơm, gọi cô dậy ăn sáng rồi đi học như chưa có chuyện gì xảy ra vậy. Đầu cô đau như búa bổ, cô thấp giọng van nài: “Hôm nay con có thể nghỉ một hôm không ạ? Con nhớ cha!”.

Bà lạnh lùng nói: “Không được! Không đi học thì cha cô có sống lại được không? Nếu có sống ông ấy cũng không đồng ý chuyện này đâu”.

Cô vác ba lô đi học trong nước mắt. Trước khi ra khỏi nhà, mẹ kế đứng đằng sau la lớn: “Đặng Phương Anh, cô nhớ cho tôi, bắt đầu từ hôm nay, tôi không muốn nhìn thấy cô khóc, nghe rõ chưa?”.

Cũng bắt đầu từ hôm đó, mẹ kế dường như không bao giờ cười với cô, thái độ của bà khác hẳn so với khi cha cô còn sống. Cô bắt đầu nghĩ đến lời dân làng nói và thấy nó đúng thật. Cô tự nhủ mình nhất định phải lớn nhanh và rời khỏi ngôi nhà này.

Năm học lớp bảy, lần đầu tiên có kinh, cô sợ hãi. Mẹ kế cô biết chuyện liền vứt cho miếng băng vệ sinh, cô loay hoay không biết thế nào, bà cũng không giúp mà nghiêng mắt nhìn cô: “Đặng Phương Anh, chuyện gì cũng phải dựa dẫm vào người khác mới làm được à ?”.

Cô uất ức nhưng không biết nói với ai, cô nhủ mình phải học cách tự lập, không được nhờ cậy vào ai nữa.

Cô bắt đầu học cách giặt giũ, nấu nướng, dọn dẹp nhà cửa, khâu áo. Cũng từ đó, mẹ kế không giặt đồ cho cô nữa.

Mặc dù mẹ kế không phải là người học giỏi, con trai bà cũng không có thành tích học tập tốt, tốt nghiệp xong chuyển sang học trung cấp nhưng bà yêu cầu cô phải xếp nhất lớp, nếu không thì sẽ bị phạt.

Mặc dù năng lực học tập của cô không đến nỗi nhưng để giành được vị trí nhất lớp là điều quá khó khăn. Cô hận, hận người mẹ kế độc ác, đối xử hà khắc với cô, chắc bà ta đang tìm trăm phương nghìn kế để đuổi cô ra khỏi nhà, nhưng cô không thể ra đi lúc này được bởi cô không muốn làm một kẻ ăn mày.

Và rồi, cô lao đầu vào học, học ngày học đêm, có nhiều lúc buồn ngủ quá cô gục xuống bàn, một lát sau lại tỉnh dậy đi rửa mặt và học tiếp. Thực ra cô rất chán ghét việc học nhưng cô không có sự lựa chọn nào khác. Kết quả thi cuối năm, cô vượt lên bao nhiêu bạn trong lớp và giành được vị trí thứ ba. Giáo viên chủ nhiệm cùng các bạn trong lớp đều ngạc nhiên bởi không ai ngờ cô lại giành được vị trí như vậy. Ấy thế nhưng cô không có chút niềm vui của kẻ chiến thắng, bởi trong cô lúc này là nỗi lo phải đối mặt với mẹ kế.

Tan học, cô sợ phải về nhà, cô vừa bước đến cửa, mẹ kế đã chỉ thẳng vào góc tường và mắng: “Đúng là đồ phế vật, mau quỳ xuống cho tôi!”. Thì ra, trước lúc cô về, mẹ cô đã đến hỏi bạn bè. Cô quỳ vào góc tường, không khóc một tiếng. Hai từ “phế vật” luôn ám ảnh trong đầu cô, nó thôi thúc cô quyết tâm phải đậu Đại học, để xem bà ta có dám mắng nhiếc cô thế nữa không.

Chuyện mua bán của mẹ kế không được thuận lợi như trước. Ngày nào về cô cũng nhìn thấy bà ngồi đếm những tờ tiền, mà tiền thì ngày càng ít đi. Cô cầu mong ông trời đừng để cho mẹ kế không kiếm ra tiền, vì như thế cô sẽ không được đi học nữa.

Lần đó, cô bạn gần nhà sang tìm cô, mẹ kế mở cửa, cô bé kia vội nói: “Bạn Phương Anh có ở nhà không ạ? Bạn ấy mượn sách tham khảo của cháu, sắp thi tốt nghiệp rồi, cháu đang cần gấp ạ!”.

Sách tham khảo không hề rẻ chút nào, một bộ hai quyển dày cộm, giá của một quyển phải mất hơn năm chục nghìn, vì thế nhiều lần muốn xin tiền nhưng cô không dám mở miệng.

Hôm sau, bà bỗng đưa cho cô tờ một trăm nghìn, vứt vào người cô như kiểu bố thí: “Cầm tiền mà đi mua sách! Tôi không cho không đâu, tôi ghi hẳn vào sổ nợ đấy!”.

Cô thi đậu vào trường điểm cấp ba, những tưởng rằng mẹ kế sẽ bớt đay nghiến cô nhưng khi bà cầm tờ giấy báo trúng tuyển căm cụi tính tiền học phí, lâu lâu lại lẩm bẩm trong miệng: “Đúng là con quỷ đòi nợ! Nếu không vì sau này cô sẽ trả nợ cho tôi thì còn lâu tôi mới nuôi cô ăn học!”. Cô nói với mẹ ở trong ký túc cho đỡ tiền, bà dí tay vào trán cô nói với giọng đay nghiến: “Ở trong trường không tốn tiền à?”.

Ba năm sau, khi cầm tờ giấy trúng tuyển đỏ rực trong tay, cô khóc. Kể từ khi cha mất, đây là lần đầu tiên cô khóc, cô khóc trong sự sung sướng. Ngày lên trường đăng kí nhập học, mẹ kế gói bánh cho cô ăn, bà không nói gì, cũng không tiễn cô. Còn cô thì vui mừng vì đã thoát được cái ngôi nhà này, giờ cô không cần tiền mẹ kế gửi nữa bởi cô đã có thể tự kiếm tiền thêm từ việc dạy kèm, nghỉ hè cô không về nhà và dần dần hình ảnh mẹ kế bị phai nhòa trong đầu cô.

Năm thứ ba, trước giờ giao thừa, cô nhận được điện thoại của cậu con trai bà. Anh ta chỉ nói muốn cô về nhà một chuyến rồi cúp máy. Cô không muốn quay lại ngôi nhà đó, nơi đó có gì để cô luyến tiếc đâu. Nhưng rồi, cô cũng về xem sao.

Về đến nhà, cô chỉ nhìn thấy người con trai ngồi ở ghế, cô cũng không muốn hỏi bởi vốn dĩ cô không quan tâm. Nhìn thấy cô bước vào, anh trai đứng dậy và đưa cho cô một quyển sổ cũ. Đó là sổ nợ của mẹ kế.

Cô cười nhạt, cầm quyển sổ trên tay, cô nhìn anh ta với vẻ mặt khinh bỉ:

“Sao, bây giờ muốn đòi nợ tôi à?”

Bỗng từ trong sổ rơi ra một quyển sổ tiết kiệm, đó là số tiền sang sạp trái cây mà mẹ kế để lại cho cô, còn ngôi nhà thì mẹ để lại cho anh trai. Mẹ đã qua đời…

Đó không phải sổ nợ mà là quyển nhật ký của mẹ kế. Tay cô run run lật từng trang nhật ký, cô ngồi thụp xuống và nước mắt vỡ òa.

Mẹ kế viết: “Ông à, ông yên tâm, tôi không đi bước nữa đâu. Tôi nhất định sẽ nuôi Phương Anh ăn học nên người, nó sẽ làm ông mở mày mở mặt. Ông đừng trách tôi tàn nhẫn với con nhé. Phương Anh không giống với những đứa trẻ khác, nó không có cha mẹ bên cạnh, vì thế nó phải học cách kiên cường, tự lập, nhịn nhục, chịu khổ. Nó thi không giành được hạng nhất, tôi phạt nó quỳ là quỳ với ông, bởi người nó có lỗi nhiều nhất chính là ông.

Tôi xuất thân từ nông thôn, không được học hành nhiều, tôi không biết liệu mình dạy con như vậy có đúng không nhưng giờ con bé đậu Đại học rồi, đã đến lúc nó tự lo cho bản thân mình được rồi. Tôi mừng cho nó, đã đến lúc tôi đi gặp ông, tôi mệt lắm rồi, tôi muốn được nghỉ ngơi!.

Phương Anh à, hãy cho mẹ được xưng hô mẹ với con. Mấy năm nay, con không về thăm mẹ, mẹ rất buồn. Chắc là con rất ghét mẹ đúng không, mẹ biết điều đó. Hãy cố gắng học tập thật tốt, tự chăm lo cho bản thân mình nhé! Tuy không phải con ruột nhưng mẹ muốn nói rằng

“Mẹ yêu con!”.

“Sưu tầm
Reply
#2
[Image: 228476715_117615380606260_86171137858337...e=612DD932]

CÓ MỘT SÀI GÒN RẤT RIÊNG

“Hồi 54, cả trăm ngàn dân di cư mang theo đủ loại kiểu sống bó trong luỹ tre làng đem nhét hết vô mảnh đất nhỏ xíu này, cũng gây xáo trộn cho người ta chứ.

Phong tục, tập quán, ở đất người ta mà cứ như là ở đất mình. Nhưng người Sài Gòn chỉ hiếu kỳ một chút, khó chịu một chút, rồi cũng xuề xoà đón nhận”.

Lúc đầu tụi bạn ghẹo tôi là “thằng Bắc kỳ rau muống”. Con nít đổi giọng nhanh mà, trong nhà giọng Bắc, ra ngoài giọng Nam. Thế là huề hết.
Rủ nhau đi oánh lộn phe nhóm là chuyện thường. Khỏi cần biết đúng sai, mày đánh bạn tao, thì tao đánh lại, oánh lộn tưng bừng. Vài ngày sau lại rủ nhau đi xem xinê cọp. Dễ giận dễ quên.

Hè, tụi bạn về quê, Bến Lức, Vĩnh Long, Kiến Hoà… Cũng chia tay hứa hẹn, tình cảm ra rít: “Tao về quê sẽ mang lên cho mày ổi xá lỵ, xoài tượng…”. Tôi ngóng cổ chờ bạn, chờ quà. Thực ra, tôi thèm có quê để về.
Tết đến, thầy cô, bạn bè về quê, nhiều người Sài Gòn xôn xao về quê. Tôi ở lại Sài Gòn mà thấy mình vẫn không phải dân Sài Gòn. Vậy ai là dân Sài Gòn chính hiệu đây? Chẳng lẽ phải tính từ thời mấy ông Pétrus Ký hay Paulus Của?

Sài Gòn trẻ măng, mới chừng hơn 300 tuổi tính từ thời Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền ở đây.

Sài Gòn khi cắt ra khi nhập vào, to nhỏ tuỳ lúc. To nhất khi nó là huyện Tân Bình, kéo dài đến tận Biên Hoà. Nhỏ nhất là vào thời Pháp mang tên Sài Gòn. Ngay trước 1975, Sài Gòn rộng chừng 70km2, có 11 quận, từ số 1 – 11.

Hồi đó Phú Nhuận, Tân Bình, Thủ Đức… còn được xem là nhà quê (tỉnh Gia Định). Bây giờ Sài Gòn rộng tới 2.000km2.

Sài Gòn đắc địa, có cảng nối biển, là đầu mối giao thương quốc tế, tiếp cận văn minh Tây phương sớm.

Dân Sài Gòn không có địa giới rõ rệt. Nói tới họ có vẻ như là nói tới phong cách của dân miền Nam. Họ là những lưu dân khai phá, hành trang không có bờ rào luỹ tre nên tính tình phóng khoáng, trọng nghĩa khinh tài, nói năng bộc trực… Ai thành đại gia thì cứ là đại gia, ai bán hàng rong thì cứ bán.
Sài Gòn không tự hào mình là người thanh lịch, không khách sáo, không mời lơi. Họ lấy bụng đãi nhau.

Sài Gòn có mua bán chém chặt? Có, đúng hơn là nói thách. Cứ vô chợ Bến Thành xem mấy bà bán mỹ phẩm, hột xoàn hét giá mát trời ông Địa. Không cứ khách tỉnh, dân Sài Gòn lơ mơ cũng mua hớ như thường.

Ít nơi nào nhiều hội ái hữu, hội tương tế, hội đồng hương như Sài Gòn. Có máu lưu dân trong người, dân Sài Gòn thông cảm đón nhận hết, không ganh tị, không thắc mắc, không kỳ thị.

Người ta kỳ thị Sài Gòn, chứ Sài Gòn chẳng kỳ thị ai.

Nhiều gia đình người Bắc người Trung ngại dâu ngại rể Sài Gòn, chứ dân Sài Gòn chấp hết, miễn sao ăn ở biết phải quấy là được.

Dân Sài Gòn làm giàu bằng năng lực hơn là quyền lực. Người ta nói “dân chơi Sài Gòn”. Trời đất! Sài Gòn mà “tay chơi” cái nỗi gì. Tay chơi dành cho những đại gia giàu lên đột xuất từ đâu đó đến.

Sài Gòn a dua thì có, nhưng a dua biết chọn lọc. Coi vậy chứ dân Sài Gòn đâu đó còn chút máu “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả”.

Cứ xem dân Sài Gòn làm công tác xã hội thì biết, cứu trợ lũ lụt thấy người ta lạnh quá, cởi áo len đang mặc tặng luôn. Họ làm vì cái bụng nó thế, chứ không phải vì PR, đánh bóng bộ mặt.

Biết bao văn nghệ sĩ miền Bắc, miền Trung vào đất này “quậy” tưng, tạo ra cái gọi là văn học miền Nam hậu 54 coi cũng được quá chứ? Nhạc sĩ Lam Phương, quê Rạch Giá, mười tuổi đã lưu lạc lên Sài Gòn kiếm sống. Năm 17 tuổi nổi danh với bản Kiếp nghèo và khá giả từ đó.

Tiếp cận văn minh phương Tây sớm, nên dân Sài Gòn có thói quen ngã mũ chào khi gặp đám ma, xe hơi không ép xe máy, xe máy không ép người đi bộ, chạy xe lỡ va quẹt nhau, giơ tay chào ngỏ ý xin lỗi là huề. Những thói quen này giờ đây đang mất dần, nhưng dân Sài Gòn không đổ thừa cho dân nhập cư. Họ cố gắng duy trì (dù hơi tuyệt vọng) để người mới đến bắt chước.

Chợ hoa là một chút văn hoá của Sài Gòn, có cả nửa thế kỷ nay rồi, có dân nhập cư nào “yêu” hoa mà ra đó cướp giựt hoa đâu.

Sài Gòn nhỏ tuổi nhiều tên, nhưng dù thế nào Sài Gòn vẫn là Sài Gòn. Nhiều người thành danh từ mảnh đất này.
Sài Gòn nhớ không hết, nhưng mấy ai nhớ đến chút tình của Sài Gòn? May ra những người xa Sài Gòn còn chút gì nhức nhối.

Tôi có người bạn Bắc kỳ chín nút, xa Việt Nam cũng gần 40 năm. Tên này một đi không trở lại, vừa rồi phone về nói chuyện lăn tăn, rồi chợt hỏi:
- “Sài Gòn còn mưa không?”
- “Đang mưa”.
Đầu phone bên kia thở dài: “Tao nhớ Sài Gòn chết… mẹ!”

Sài Gòn nay buồn mai quên, nhưng cũng có nỗi buồn chẳng dễ gì quên.
Mới đây đi trong con hẻm lầy lội ở Khánh Hội, chợt nghe bài Kiếp nghèo vọng ra từ quán cóc ven đường. Tôi ghé vào gọi ly càphê. Giọng Thanh Thuý sao da diết quá: “Thương cho kiếp sống tha hương, thân gầy gò gởi theo gió sương…”

Chủ quán, ngoài 60 cầm chồng báo cũ thẩy nhẹ lên bàn “Thầy Hai đọc báo!” Hai tiếng “thầy Hai” nghe quen quen…
Tự nhiên tôi thấy Sài Gòn như máu chảy từ tâm, Sài Gòn bao dung. Tôi chợt hiểu ra, mình đã là người Sài Gòn từ thuở bào thai rồi, cần gì xin nhập tịch.”

Ca khúc thật đẹp mà buồn, quá khứ huy hoàng xa lắm rồi. 
Reply
#3
[Image: 224787038_119275593766419_49368281171309...e=613073CB]

TẦM QUAN TRỌNG CỦA TIỀN

1.Tiền,không mua được quan hệ??? Nhưng tất cả các mối quan hệ đều cần đến tiền

2.Tiền, không mua được hạnh phúc, nhưng chẳng có hạnh phúc nào mà không cần đến tiền

3.Tiền không quan trọng ??? nhưng tất cả những thứ quan trọng đều cần đến tiền

4.Tiền,không mua được thời gian,nhưng tiết kiệm được thời gian. Đứa đi xe đạp, cố gắng thế nào đi nữa, cũng không nhanh bằng thằng ngồi phi cơ.

5.Không có hạnh phúc nào duy trì được mãi nếu không có tiền.

6.Tiền không mua được sức khỏe,nhưng mua được tất cả phương pháp chữa bệnh tốt nhất

7.Tiền không giải quyết được vấn đề, nhưng có thể gói gọn vấn đề 1 cách ngắn nhất có thể

8.Nhà lá hay nhà lầu, quan trọng vui vẻ sống với nhau. Nhưng mà phong ba bão tố,sớm chớp mưa giăng, nhà lá luôn là kẻ bị gánh chịu

9.Có tiền chưa chắc hạnh phúc??? Nhưng cũng không ai nói không tiền sẽ hạnh phúc. Có tiền thì sẽ đảm bảo được cuộc sống khốn khó, hạnh phúc.Không tiền thì vừa khốn khó vừa không đảm bảo được hạnh phúc

10.Tiền, cũng không có vai trò gì quan trọng. Chỉ là, có tiền có quyền lựa chọn cuộc sống.

11.Tiền không mua được tình yêu, nhưng muốn có tình yêu thì phải có tiền. Không ai trên đời dũng cảm để bên nhau mà không có tiền. Hôn nhân đổ vỡ cũng chủ yếu xuất phát từ ”TIỀN".

12.Tiền, không mua được đam mê nhưng không ai làm việc vì đam mê mà không cần tiền.

13.Tiền, không phải tất cả nhưng tất cả đều cần đến tiền. Tiền không phải tất cả nhưng không có tiền thì vất vả, thế thôi. 
Reply
#4
Tụi tôi yêu không phải vì tiền!

Becuoi
Reply
#5
(2021-08-03, 11:15 AM)Saolấplánh Wrote: Tụi tôi yêu không phải vì tiền!

Becuoi

Ờ, sao tới giờ vẫn ế vậy zai? Hay zai lại ...cong ?  Suytu Msn-cheeky-smile-smiley-emoticon Happy-smiley-emoticon
Reply
#6
[Image: 234942391_122962330064412_21745704873861...e=613DDE08]

TRÍ THỨC.

1.
Trí thức không phải là những người có bằng cấp cao.
Trí thức là người có kiến thức rộng và, đặc biệt, có khả năng tư duy độc lập để có thể phân tích các vấn đề từ những góc độ mới.

2.
Giới trí thức chỉ được dân chúng thực sự kính trọng nếu họ dám lên tiếng trước những sai trái của chính phủ cũng như những bất công, thối nát và oan khuất trong xã hội.
Có thể nói phản biện là một trong những trách nhiệm đầu tiên của giới trí thức.
Chỉ khi chu toàn trách nhiệm ấy, người ta mới thực sự là trí thức, đúng với danh nghĩa trí thức, những kẻ được xem là thành phần tinh hoa của dân tộc.

3.
Muốn làm trí thức, người ta phải luôn luôn là trí thức:
Bất cứ khi nào người ta phát ngôn, dưới hình thức nói hay viết, mà để cho bản năng hoặc thiên kiến lấn át lý trí hoặc để cho loại lý trí công cụ thắng loại lý trí phê phán, người ta không còn trí thức nữa.
Để làm trí thức, khó; nhưng để bảo vệ tính chất trí thức của mình, còn khó hơn, nhất là với một người cầm bút, hầu như lúc nào cũng phải phát ngôn, dưới hình thức này hoặc hình thức khác.

4.
Việt Nam coi trọng bằng cấp nhưng lại không coi trọng trí thức.
Lực lượng trí thức vốn đã ít, ở trong thế không được coi trọng, lại càng cô đơn.
Tiếng nói phản biện của họ phần lớn bị mất hút vào hư không.


Nguyễn Hưng Quốc.
Reply
#7
(2021-08-13, 09:05 PM)duke Wrote: [Image: 234942391_122962330064412_21745704873861...e=613DDE08]

TRÍ THỨC.

1.
Trí thức không phải là những người có bằng cấp cao.
Trí thức là người có kiến thức rộng và, đặc biệt, có khả năng tư duy độc lập để có thể phân tích các vấn đề từ những góc độ mới.


2.
Giới trí thức chỉ được dân chúng thực sự kính trọng nếu họ dám lên tiếng trước những sai trái của chính phủ cũng như những bất công, thối nát và oan khuất trong xã hội.

Có thể nói phản biện là một trong những trách nhiệm đầu tiên của giới trí thức.

Chỉ khi chu toàn trách nhiệm ấy, người ta mới thực sự là trí thức, đúng với danh nghĩa trí thức, những kẻ được xem là thành phần tinh hoa của dân tộc.


3.
Muốn làm trí thức, người ta phải luôn luôn là trí thức:

Bất cứ khi nào người ta phát ngôn, dưới hình thức nói hay viết, mà để cho bản năng hoặc thiên kiến lấn át lý trí hoặc để cho loại lý trí công cụ thắng loại lý trí phê phán, người ta không còn trí thức nữa.

Để làm trí thức, khó; nhưng để bảo vệ tính chất trí thức của mình, còn khó hơn, nhất là với một người cầm bút, hầu như lúc nào cũng phải phát ngôn, dưới hình thức này hoặc hình thức khác.

4.
Việt Nam coi trọng bằng cấp nhưng lại không coi trọng trí thức.
Lực lượng trí thức vốn đã ít, ở trong thế không được coi trọng, lại càng cô đơn.
Tiếng nói phản biện của họ phần lớn bị mất hút vào hư không.


Nguyễn Hưng Quốc.

Với những ý nghĩa bold đậm trên theo bài viết của Nguyễn Hưng Quốc, xin mời cả nhà đọc và suy gẫm bài sau  Please

Theo duke, bài này rất quan trọng cho quan điểm sống ngày hôm nay của chúng ta, và thế hệ con em của chúng ta. Trước làn sóng ồ ạt của những trào lưu mới đang lan tràn vào văn hoá xã hội toàn cầu, mới nghe tên có vẻ tốt, nhưng thực sự là không tốt khi Laszlo đã hy sinh thời gian, công sức, vắt óc suy nghĩ để viết bài phân tích rạch ròi những khía cạnh độc hại của những trào lưu, văn hoá mới mẻ này, khi chúng chạy theo chủ nghĩa tự do quá trớn mà loại bỏ Luân Thưởng Đạo Lý của tiền nhân.

Virus Woke (vi trùng văn hóa "thức tỉnh" woke) là mối đe dọa toàn cầu


Hãy nâng cao nhận thức với Laszlo

Ngày 9 tháng 6 năm 2021

Virus Woke/ vi trùng văn hóa "thức tỉnh" woke là mối đe dọa lớn nhất đối với nền văn minh ngày nay, nó có khả năng quét sạch tự do ở khắp mọi nơi. Trong Woke Culture: Its Origins and Agendas, người ta đã mô tả cách mà văn hóa "thức tỉnh" woke, ẩn núp sau màn khói công bằng xã hội, tấn công và hủy bỏ bất kỳ ai đặt câu hỏi về chương trình nghị sự của họ. Mục tiêu của họ là loại bỏ những tiếng nói đối lập và buộc mọi người phải đồng ý với họ, để đạt được sự phù hợp về ý thức hệ.

Các mục tiêu của nền văn hóa "thức tỉnh" / woke là: xóa bỏ gia đình hạt nhân và Cơ đốc giáo, xóa bỏ hiến pháp và Chủ nghĩa tư bản của chúng ta, biến trẻ em thành người chuyển giới và xóa bỏ phân biệt giới tính (nam-nữ). Họ muốn chia rẽ người Mỹ, và các quốc gia khác bằng cách biến tất cả mọi người thành nạn nhân và những kẻ áp bức, họ muốn giảm ngân sách cho cơ quan thực thi pháp luật (cảnh sát), đòi hủy bỏ luật xử tử tội phạm, cũng như đòi hỏi thả những tên tội phạm bạo lực ra khỏi tù, trong khi từ chối truy tố tội phạm, cho phép nhập cư công khai (* âm mưu kiếm phiếu bầu cho đảng DC từ những người nhập cư, là âm mưu sâu hiểm của thế lực ngầm Deep State, cực tả, bọn này ủng hộ cho Trật Tự Mới Một Thế Giới hay New World Order) và không giới hạn, hủy bỏ tài sản cá nhân và tất cả những gì một cá nhân sở hữu, thay đổi, che dấu, hay viết lại sử không đúng với sự thật, hủy sách, phim và cổ súy cho sự suy đồi đạo đức.

Đó là một danh sách dài các chương trình nghị sự cấp tiến tự do quá trớn, mà khi đọc, chúng ta ngỡ rằng như thể những chương trình này đã được nằm mơ thấy (không tưởng, không có thật) bởi một số người mất trí hoặc bị bệnh tâm thần. Nhưng nghiêm trọng chết người, Văn hóa Woke đã thấm vào mọi khía cạnh của xã hội: chính trị, học thuật, truyền thông, giải trí và kinh doanh lớn.

Trên phạm vi chính trị, Wokeness tương ứng với Cực tả, hay “Những người cấp tiến” / modernist/ tự do quá trớn. VÀO NHỮNG NĂM 1960, mọi con mắt đều đổ dồn vào đảng Cộng sản ở Hoa Kỳ. CÁC CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ/ ÂM MƯU CỦA HỌ ĐÃ BỊ BẠI LỘ, DO ĐÓ HỌ ĐÃ đổi tên thành Những người cấp tiến/ MODERNIST, để đánh lừa công chúng. Phe Cực tả chiếm thiểu số trong Quốc hội, nhưng họ có ảnh hưởng đối với Tổng thống Biden và các chính sách của chính quyền đã phản ánh các chương trình nghị sự “tiến bộ” kể từ khi ông nhậm chức. Hầu hết các chính trị gia ở hai bên lối đi đều quá tự mãn và không đẩy lùi phe Cấp tiến.

Bắt đầu từ những năm 90, chương trình giảng dạy tại các trường đại học đã thay đổi và bị chính trị hóa. Phương pháp giảng dạy bắt đầu dựa trên các vấn đề liên quan đến chủng tộc, giai cấp và giới tính. Học sinh được dạy rằng Hoa Kỳ là một quốc gia phân biệt chủng tộc, mù quáng. Đây là Chính trị Bản sắc và nó dựa trên hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác đội lốt công bằng xã hội, nhưng mục đích thực sự của nó là chia rẽ và phân cực người Mỹ. Các cơ sở giáo dục, từng là pháo đài của tự do ngôn luận, đã bóp nghẹt tự do ngôn luận, cực đoan hóa sinh viên và nhồi sọ họ thành nạn nhân của chủ nghĩa Mác – tâm lý kẻ áp bức.

BIG TECH/ MAINSTREAM MEDIA- Những người kiểm soát luồng thông tin có ảnh hưởng to lớn đến dư luận. Tiềm năng mà các phương tiện truyền thông có được để kiểm soát tâm trí của mọi người, đã được phát hiện cách đây một thế kỷ và đã được hoàn thiện kể từ đó. Gần như tất cả các phương tiện truyền thông Chính thống và các công ty truyền thông xã hội Công nghệ lớn đều là những người quảng bá văn hóa Woke. Facebook, Twitter, Youtube và Google tuyên bố ủng hộ quyền tự do ngôn luận, NHƯNG CHÍNH HỌ LẠI XÓA BỎ nội dung, hủy nền tảng của người dùng và coi bất kỳ điều gì không phù hợp với chương trình nghị sự đã "thức tỉnh"/ woke của họ là “thông tin sai lệch” BẰNG CÁCH XỬ DỤNG "FACT-CHECK" ĐỂ BỊT MIỆNG NHỮNG TIẾNG NÓI (VỚI SỰ THẬT) KHÔNG PHÙ HỢP VỚI CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ/ ÂM MƯU CỦA WOKE CULTURE & CANCEL CULTURE (văn hóa hủy bỏ).

“Trong tương lai, bạn sẽ không sở hữu bất cứ thứ gì và bạn sẽ hạnh phúc” là khẩu hiệu mà chúng tôi thấy trên các phương tiện truyền thông. Không có thông tin chi tiết nào được đưa ra bởi những người nổi tiếng là triệu phú, hoặc các vận động viên ngôi sao, minh tinh điện ảnh đã phát đi thông điệp như thế, hoặc liệu họ có sẵn sàng từ bỏ dinh thự ở Hollywood Hills của mình để làm gương hay là không? (những kẻ đạo đức giả, xảo trá đáng khinh!).

Khi mọi người không sở hữu bất cứ thứ gì, thì mọi người đều phải phụ thuộc vào chính phủ về mọi thứ và họ không còn kiểm soát được cuộc sống của mình, thì Thế Lực Ngầm Deep State/ Hội kín Tam Điểm Illuminati thờ quỷ Satan sẽ hoàn thành công cuộc thành lập chế độ Trật Tự Mới cho Thế Giới & Một Tôn Giáo Toàn Cầu / New World Order, One World Religion Order, chủ nghĩa xã hội toàn cầu/ globalism. Đây là lý do tại sao chủ nghĩa cộng sản không cho phép sở hữu tư nhân và đó là lý do đằng sau chiến dịch woke này. Nhưng vì cưỡng đoạt tài sản cá nhân sẽ gặp phải sự phản kháng, vì vậy họ đang tẩy não những người đồng ý với điều đó.

Kể từ khi phong trào cảnh sát bị cắt ngân sách bắt đầu vào mùa hè năm 2020, tội phạm đã gia tăng đáng kể ở mọi thành phố lớn của Hoa Kỳ. Các vụ xả súng tăng 79% ở Chicago, các vụ giết người đồng tính tăng 93% ở Minneapolis và con số khổng lồ 800% ở Portland. Mỗi tuần lại có một báo cáo khác về một đứa trẻ da đen bị bắn. Việc thực thi pháp luật bị hủy hoại gây tổn hại cho những người sống trong nội thành nhất, những người mà Văn hóa Woke tuyên bố quan tâm.

Đồng thời, các công tố viên “tiến bộ/ modernist” quan tâm đến tội phạm hơn là nạn nhân và từ chối truy tố những tội nhẹ, như ăn cắp trong cửa hàng. Biện lý quận Los Angeles, tên George Gascon, người đã đi theo văn hóa "thức tỉnh, woke" và đã được bầu lên làm biện lý gần đây, đã công bố kế hoạch phóng thích sớm 75.000 tù nhân đã phạm tội bạo lực!

Tại khu vực Vịnh San Francisco, 11 địa điểm của Wallgreen đã đóng cửa vì những kẻ trộm cắp tự do ra vào cửa hàng của họ. Văn hóa Woke muốn vô luật pháp và vô chính phủ, bởi vì để “tái tạo xã hội” theo hình ảnh của chính họ, nghĩa là tạo ra một nhà nước xã hội chủ nghĩa / cộng sản, trước tiên cần phải phá hủy hệ thống hiện có.

Đây cũng là lý do thực sự khiến các tượng đài bị phá bỏ, các chế độ toàn trị luôn viết lại lịch sử. Một khi mọi người quên đi lịch sử của mình, họ không còn hệ quy chiếu và có xu hướng chấp nhận những gì áp đặt lên họ hơn.

Biên giới mở và nhập cư không giới hạn là một ưu tiên cao khác cho những người Cấp tiến đã đi theo và ủng hộ văn hóa "thức tỉnh" woke &&& Điều này được trình bày trước công chúng, như một hành động nhân đạo, mang lại cho những người thoát khỏi bạo lực, bị đàn áp có một ngôi nhà mới là Hoa Kỳ. Công chúng được tuyên truyền cho biết rằng các bức tường do Trump dựng lên tại biên giới Mỹ & Mexico là phân biệt chủng tộc, và do đó mọi người đều có quyền tự do tha hồ di dân lậu vào Hoa Kỳ.

Hai phần ba phụ nữ di cư trình báo bị tấn công tình dục trên đường đi, cả phụ nữ và trẻ em đều có nguy cơ bị lạm dụng và cưỡng hiếp. Trẻ em, mới 4 tuổi, bị những kẻ buôn lậu thả xuống đất Mỹ và bị bỏ mặc ở đó, cho những kẻ xấu xa lạm dụng đủ cách.

Không có gì “từ bi” về một chính sách biên giới mở. Lý do thực sự tại sao những người tự do quá trớn, cấp tiến thức tỉnh woke muốn xóa bỏ biên giới? Đó chính là vì mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa Mác là tạo ra một nhà nước xã hội chủ nghĩa toàn cầu. Để thực hiện được điều đó, trước hết phải xóa bỏ chủ quyền quốc gia. (pedos/ những kẻ biến thái, mê ấu dâm thường ở những nơi cao cũng cần một nguồn cung cấp trẻ vị thành niên ổn định).

Đức quốc xã có một bộ phận đặc biệt, được gọi là "áo nâu". Những tên côn đồ này được giao nhiệm vụ thực thi hệ tư tưởng của Đức Quốc xã, chúng phá rối các cuộc họp của các bên đối lập, bắt nạt và đe dọa người Đức phải hợp tác. Ngày nay ở Hoa Kỳ, Văn hóa Hủy bỏ giống với những chiếc áo sơ mi nâu, nó là người thực thi hệ tư tưởng Woke. Những người dám nghĩ khác sẽ bị hủy bỏ và cuộc sống của họ bị hủy hoại.

Ngay cả những nhân vật hoạt hình vô hại, như Hoàng tử hôn Bạch Tuyết, cũng bị văn hóa Woke coi là xúc phạm. Và hãy nhìn xem, họ của cô ấy là White! Thật không may, điều đó không đa dạng! Điều kỳ lạ hơn nữa là các chương trình, chẳng hạn như “WAP” của Cardi B, mài âm vật trên truyền hình quốc gia là một trò giải trí gia đình được chấp nhận vào giờ vàng.

Những điều phi lý, như thế này có thể được giải thích, khi bức màn được kéo lại và màu sắc thực sự của Văn hóa Woke được tiết lộ.

Theo TIME FOR TRUTH
Reply
#8
KẺ NỘI THÙ


(Kẻ thù bên trong với âm mưu tẩy não dân chúng qua những tà thuyết, lạc thuyết khoác chiếc áo hoa mỹ bên ngoài là:

- tự do = liberalism- cấp tiến = modernism
- hòa đồng = inclusion
- BLM = black life matter
- antifa
- anti-police
- woke culture = văn hóa "thức tỉnh"
- tranh đấu cho công bằng xã hội = fighting for social justice
- đe dọa dân chúng toàn thế giới với chủ thuyết (ảo tưởng) biến đổi khí hậu toàn cầu & nhằm mục đích thu hoạch những mối lợi nhuận khổng lồ khi ban hành những luật lệ, thúc ép chính phủ các quốc gia tăng thuế cho những hàng hóa, sản xuất, tiêu dùng nào liên quan tới bảo vệ môi trường, hiệu ứng nhà kính, tầng ozone v...v... )

[Image: maxresdefault.jpg]

Phần 1. Sự xâm nhập của chủ nghĩa Mác vào nước Mỹ

Hãy cùng nâng cao nhận thức với Laszlo 28 Tháng Chín, 2020

“Một quốc gia có thể tồn tại trước những kẻ ngu ngốc và thậm chí là những kẻ đầy tham vọng, nhưng nó không thể tồn tại với sự phản bội từ bên trong… vì kẻ phản bội tự do di chuyển giữa những người bên trong cánh cổng”…” Anh ta làm thối rữa linh hồn của một quốc gia, anh ta làm việc bí mật và không ai biết đến trong đêm để phá hoại những trụ cột của một thành phố.” – Cicero

Từ lâu, người ta đã dự đoán rằng nếu Hoa Kỳ sụp đổ, thì đó sẽ là do bị hủy diệt từ bên trong. Một kẻ thù xâm lược trên đất Mỹ sẽ phải đối mặt với “khẩu súng đằng sau từng ngọn cỏ”, như một đô đốc Nhật Bản từng nhận xét trong Thế chiến thứ hai.

Hình thức chiến tranh cao nhất là hình thức chiến đấu trong đó kẻ thù bị chinh phục mà không cần nổ súng. Chiến tranh bằng sự tiêu hao, thâm nhập vào quốc gia đối địch, sau đó làm suy yếu và làm mất tinh thần quốc gia đó bằng các xung đột kỹ thuật bên trong quốc gia đó có thể dẫn đến sự tự hủy diệt của quốc gia đó.

Đó là một thế kỷ trước, khi kế hoạch được thực hiện để phá hủy tự do và độc lập của Hoa Kỳ.

Năm 1919, tại khách sạn Majestic, Paris trong một căn phòng đầy khói thuốc, các chủ ngân hàng và nhà công nghiệp có ảnh hưởng nhất từ Hoa Kỳ và Anh đã gặp nhau để vạch ra các kế hoạch cho tương lai của Hoa Kỳ.

Kết quả của cuộc họp là việc thành lập Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR), một tổ chức mờ ám, cho đến ngày nay, điều hành chính sách của Hoa Kỳ.

Công cụ cho nỗ lực này của phía Mỹ là một người Texas, tên là Edward Mandel House. Ông là cố vấn của Tổng thống Woodrow Wilson, được gọi là "bản ngã thay đổi" của Wilson. Ông không giữ chức vụ nào trong chính quyền, nhưng có ảnh hưởng đến chính sách đối nội và đối ngoại hơn bất kỳ ai.(xem hình Edward Mandel House:  https://th.bing.com/th/id/R.262ad03cb696...ImgRaw&r=0  )

House bao quanh mình với các thành viên nổi bật của Hiệp hội xã hội chủ nghĩa Fabian. Anh ấy từng tuyên bố rằng anh ấy đang làm việc cho “Chủ nghĩa xã hội, như giấc mơ của Karl Marx ..”. Năm 1912, ông viết một cuốn sách có tựa đề Philip Dru: Administrator. Trong đó, ông vạch ra cách nước Mỹ sẽ bị chinh phục bằng cách kiểm soát cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa.

Trọng tâm của kế hoạch là việc thực hiện thuế thu nhập và ngân hàng trung ương, cũng như âm mưu gian lận các cuộc bầu cử sơ bộ, để chỉ các chính trị gia được bầu vào chức vụ, những người có quan điểm phù hợp với quan điểm của họ. Cuốn sách được viết dưới dạng hư cấu, nhưng những ý tưởng thể hiện trong đó đã trở thành luật trong những năm tiếp theo.

Hệ thống Dự trữ Liên bang được thành lập và luật thuế thu nhập được thông qua vào năm 1913, đánh dấu sự khởi đầu của những gì về cơ bản là chiếm đoạt nền Cộng hòa Hoa Kỳ.

Một khi Hoa Kỳ trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa, quyền lực và ảnh hưởng của nó sẽ được tận dụng để truyền bá chủ nghĩa xã hội ra toàn thế giới, với mục tiêu cuối cùng là tạo ra một chính phủ toàn trị duy nhất trên thế giới = GLOBALIST, NEW WORLD ORDER GOVERMENT.

Chủ nghĩa Marx dựa trên các tác phẩm của Karl Marx, một triết gia và nhà cách mạng thế kỷ 19, sinh ra ở Đức. Marx giữ quan điểm rằng xã hội loài người phát triển thông qua xung đột giai cấp. Ông đã viết trong Tuyên ngôn Cộng sản của mình: “Tất cả lịch sử là lịch sử đấu tranh giai cấp”.

Trong một hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, điều này thể hiện như một cuộc xung đột giữa giai cấp thống trị (buorgeoisie) và giai cấp công nhân (vô sản). Ông dự đoán rằng những căng thẳng phát sinh từ cuộc đấu tranh giai cấp này chắc chắn sẽ dẫn đến một cuộc cách mạng, một sự lật đổ cưỡng bức các điều kiện xã hội hiện có và tạo ra một xã hội cộng sản mới, không có giai cấp.

Các chế độ độc tài cộng sản phỏng theo hệ tư tưởng Mác-xít trong thế kỷ 20 – Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Khối Đông Âu cũ, Cuba, Bắc Triều Tiên – đã trở thành những chế độ đàn áp nhất. Ước tính có khoảng 100 triệu người chết do bị hành quyết, nạn đói hoặc trại lao động và 1 tỷ người bị bắt làm nô lệ - và vẫn còn nhiều người - ở các quốc gia độc tài đó.

Nhưng ở thế giới phương Tây, tiên đoán của Marx đã không thành hiện thực, “giai cấp vô sản” không vùng lên. Ngược lại, chủ nghĩa tư bản thị trường tự do liên tục cải thiện các điều kiện của giai cấp công nhân.

Những người theo Marx đã thất vọng, rằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà họ hy vọng đã không thành hiện thực ở Tây Âu và ở Mỹ. Một số người trong số họ, có tên là Gramsci, Lukacs, Marcuse và Horkheimer đã đưa ra một chiến lược mới.

Thay vì một cuộc cách mạng kinh tế châm ngòi cho một cuộc cách mạng văn hóa, như Marx đã khẳng định, thì sự biến đổi văn hóa có thể là ngòi nổ cho sự thay đổi xã hội. Một cuộc “diễu hành qua các thể chế”, như Gramsci gọi nó, là một cuộc tấn công trên diện rộng vào văn hóa phương Tây, thông qua các phương tiện truyền thông, ngành công nghiệp điện ảnh, xuất bản và các trường đại học, do đó có thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác văn hóa”.

Max Horkheimer, Theodor Adorno và Herbert Marcuse trong số những người khác đại diện cho Trường Frankfurt, nằm ở Frankfurt, Đức. Được thành lập vào năm 1923, tổ chức này chuyên nghiên cứu chủ nghĩa Mác, với mục tiêu dịch chủ nghĩa Mác từ các thuật ngữ kinh tế sang văn hóa.

Sau năm 1933, Đức quốc xã buộc trường phải đóng cửa, khiến họ chuyển đến Đại học Columbia, New York, trung tâm của phong trào xã hội chủ nghĩa ở Hoa Kỳ và Đại học Princeton, nơi nghiên cứu của họ tiếp tục với sự trợ giúp của quỹ Rockefeller.

Cách giải thích của Trường phái Frankfurt về triết học Mác được gọi là Lý thuyết phê phán. Một số &&& các vấn đề chính mà Lý thuyết phê bình giải quyết là phê phán xã hội tư bản, giải phóng xã hội cũng như phát hiện các bệnh lý của xã hội, do đó là lý thuyết “phê phán”.

Điều đó nghe có vẻ hợp lý và được cân nhắc kỹ lưỡng, nhưng đó là một mô tả bọc đường gây hiểu lầm về những gì nó thực sự làm. Lý thuyết phê phán là chủ nghĩa văn hóa Mác trá hình.

Giống như Marx đã chia mọi người theo các giai cấp, với tư cách là nạn nhân và kẻ áp bức họ, mục tiêu của Lý thuyết Phê phán là tạo ra nạn nhân từ các nhóm thiểu số chủng tộc, người nhập cư, người đồng tính, phụ nữ và khiến nhóm này chống lại nhóm khác để đạt được quyền lực chính trị.

Đằng sau ngọn cờ của Lý thuyết phê phán, chủ nghĩa Mác văn hóa được giảng dạy trong giáo dục đại học, đôi khi dưới nhãn hiệu “khoa học xã hội” hoặc “nghiên cứu văn hóa”. Có toàn bộ khoa tại các trường đại học, dành riêng cho nó.

Lý thuyết phê phán là một hệ tư tưởng không mạch lạc, phi logic, nhưng những người theo chủ nghĩa Mác về văn hóa đã học cách đánh lừa các sinh viên của nó và sử dụng các vấn đề chính đáng, để lôi kéo quần chúng hợp tác.

Chủ nghĩa Mác văn hóa là nguồn gốc của chính trị bản sắc và sự đúng đắn về chính trị đã chia rẽ Hoa Kỳ. Đó là lý do tại sao rất nhiều thanh niên Mỹ ghét đất nước của họ và tại sao rất nhiều người ủng hộ chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ngày nay.

Chủ nghĩa văn hóa Mác cũng được ngụy trang là “chủ nghĩa tự do”, hay “chủ nghĩa cấp tiến, nó là thứ đứng đằng sau các cuộc tấn công vào gia đình hạt nhân là hôn nhân giữa 1 nam và 1 nữ, tôn giáo, hiến pháp, hình mẫu nam giới và đạo đức tình dục.

Những truyền thống và chuẩn mực xã hội này cung cấp sự gắn kết, cần thiết cho một xã hội hoạt động. Mục tiêu của Chủ nghĩa Mác văn hóa là lật đổ các trụ cột của văn hóa phương Tây và phá bỏ các nền dân chủ tự do.

Xem xét cách người Mỹ bị chia rẽ theo chủng tộc, giới tính, giai cấp, tôn giáo và chính trị, những xung đột và bất hòa đang tồn tại, thì “cuộc hành quân xuyên qua các thể chế” của phương Tây đã phần lớn thành công.

Bây giờ là “hai phút đến nửa đêm”, chỉ còn rất ít thời gian, nhưng vẫn có thể đảo ngược tiến trình, bằng cách phơi bày và loại bỏ căn bệnh ung thư này cho xã hội.

Theo TIME FOR TRUTH.
Reply
#9
Kẻ thù bên trong:

Phần 2. CHỦ NGHĨA VĂN HÓA MAX LẬT TUNG NƯỚC MỸ

Hãy cùng nâng cao nhận thức với Laszlo

6 Tháng Mười, 2020

4 Phút to read.

Trong Phần 1. “Sự xâm nhập của chủ nghĩa Mác vào nước Mỹ“, người ta đã mô tả cách Chủ nghĩa văn hóa Mác đã ảnh hưởng đến văn hóa Mỹ và biến đổi xã hội, bằng cách xâm nhập và nắm quyền kiểm soát giới học thuật và các tổ chức khác ở Hoa Kỳ.

Có hai lĩnh vực hoạt động, trong đó các chiến lược lật đổ, lừa bịp được thực hiện. Một là tấn công các nề nếp truyền thống, chẳng hạn như gia đình, tôn giáo, các quyền tự do theo hiến pháp và cả tình dục lành mạnh. Việc lật đổ các chuẩn mực xã hội này nhằm mục đích làm suy yếu và làm mất tinh thần xã hội.

Hơn nữa, họ dùng một chiến thuật khác - đã được sử dụng từ đầu thời gian để kiểm soát mọi người: đó là gây chia rẽ trước, rồi dùng các lạc thuyết, tà thuyết để quyến rũ mà chinh phục. Chia rẽ dân chúng thành các phe phái tranh cãi cũng làm suy yếu và bôi nhọ một quốc gia. Việc truyền bá tư tưởng trong trường học và tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đã khiến người Mỹ bị phân cực theo nhiều cách vô cùng sâu sắc.

Chủ nghĩa văn hóa Mác được ngụy trang ở Hoa Kỳ, dưới dạng chủ nghĩa tự do (quá trớn) hoặc chủ nghĩa tiến bộ = cấp tiến. Tự do và tiến bộ là những khái niệm tích cực, vì vậy điều này phải tốt cho chúng ta, phải không? Hãy xem những gì đằng sau một số "tiến bộ" này.

Tổ chức Black Lives Matter (và Cấp tiến), tìm cách “phá vỡ gia đình hạt nhân do phương Tây quy định, rồi lu loa chụp mũ, bôi nhọ, đổ hô lên, cho rằng đó là một “phát minh của chủ nghĩa tư bản”. Nhưng các đơn vị gia đình không phải do văn hóa phương Tây “phát minh ra”, chúng Đàtồn tại trên khắp thế giới, rất lâu trước cuộc cách mạng công nghiệp dẫn đến chủ nghĩa tư bản.

Ngày nay, bảy trong số mười đứa trẻ da đen lớn lên trong một gia đình có bố hoặc mẹ đơn thân. 85% thanh niên trong tù lớn lên trong những ngôi nhà không có cha. Họ có khả năng bỏ học và phạm tội cao gấp 5 lần, khả năng sống trong nghèo đói cao gấp 4 lần và khả năng tự tử cao gấp 2 lần.

Gia đình hạt nhân giữa sự kết hợp của 1 nam và 1 nữ là xương sống của một xã hội lành mạnh, đứng đầu là hai cha mẹ yêu thương nhau, rồi sinh sản ra con cái, tiếp nối dòng dõi, giống nòi - đó là môi trường an toàn và ổn định nhất để nuôi dạy con cái. Đó không phải là sự giải thể, mà là sự phục hồi của các gia đình đã cứu mạng sống của người da đen và tất cả những người khác.

Còn có một người nữa, cũng muốn xóa bỏ gia đình, người đó tên là Karl Marx. Hệ tư tưởng cộng sản của ông kêu gọi nuôi dạy trẻ em trong xã, xa cha mẹ chúng, nơi chúng có thể bị nhồi sọ. Những người sáng lập BLM đã công khai thừa nhận mình là những nhà hoạt động theo chủ nghĩa Mác.

CŨNG VÀO ĐẦU NĂM 2021, QUỐC HỘI Hoa Kỳ đã đưa ra luật cấm các từ: cha, mẹ, con trai, con gái trong ngôn ngữ quốc hội. Thật VÔ CÙNG kỳ lạ, nhưng đây cũng là một cuộc tấn công vào gia đình hạt nhân.

Các quyền tự do tôn giáo cũng đã bị tấn công bởi những người cấp tiến và tự do. Đã có lệnh cấm trưng bày cảnh Chúa giáng sinh và Mười điều răn trên tài sản công cộng, do hậu quả của các vụ kiện, cấm các công ty nói “Giáng sinh vui vẻ”= Merry Christmas, và thay vào đó nói “Chúc mừng ngày lễ” = Happy Holidays.

Đã có bạo lực chống lại các tổ chức tôn giáo, phản đối tài trợ của họ, loại bỏ việc cầu nguyện và bày tỏ tôn giáo trong trường học và cấm các hoạt động tôn giáo trong quân đội. Các phương tiện truyền thông chính thống đã thường xuyên chế nhạo và gạt ra ngoài lề những người theo đạo Cơ đốc vì những niềm tin mà hầu hết người Mỹ tin tưởng và thực hành.

Mác coi thường tôn giáo, ông cho rằng giai cấp thống trị duy trì quyền lực bằng cách gieo cho giai cấp vô sản niềm hy vọng hão huyền: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim và là linh hồn của một quốc gia không có linh hồn. Nó là thuốc phiện của nhân dân.”

Các thực hành tôn giáo có xu hướng mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, chúng thúc đẩy hạnh phúc của cá nhân, gia đình và xã hội. Những người Mỹ theo tôn giáo tham gia nhiều hơn vào cộng đồng của họ và nói chung là hạnh phúc hơn. Vậy tại sao bọn này lại có thái độ thù địch chống lại tôn giáo như vậy?

Đó là bởi vì một nhà nước toàn trị đòi hỏi sự cống hiến hoàn toàn cho hệ tư tưởng của nó. Trong quá trình xây dựng một xã hội Cộng sản, những người theo chủ nghĩa Mác phải chống lại tôn giáo, bởi vì nó cản đường họ. Đó là lý do tại sao Liên Xô coi việc loại bỏ tôn giáo là mục tiêu ý thức hệ của mình.

Chế độ cộng sản tịch thu tài sản của giáo hội, nhạo báng tôn giáo, sách nhiễu tín đồ và tuyên truyền chủ nghĩa vô thần trong trường học. Những từ ngữ (âm thanh) này bạn nghe có rất là quen thuộc với tai của mình không?

Hiến pháp của chúng tôi cũng nằm trong tầm ngắm của những người cấp tiến. Họ cho rằng nó đã lỗi thời, không phù hợp và không phù hợp với nhu cầu hiện đại. Tu chính án thứ 13 cấm chế độ nô lệ, tu chính án thứ 14 trao quyền công dân cho người da đen, tu chính án thứ 15 cho họ quyền bầu cử, tu chính án thứ 19 cho phụ nữ quyền bầu cử (tất cả đều được đảng Cộng hòa thông qua).

Quyền tự do ngôn luận, hội họp, tôn giáo, quyền sở hữu tài sản, quyền riêng tư. Phần nào của điều này có thể đã lỗi thời và “tiến bộ” nào sẽ dẫn đến việc bãi bỏ hiến pháp?

Tự do ngôn luận đã bị tấn công trong khuôn viên trường đại học và trên mạng xã hội (do Big Tech = Google, Facebook, Twitter... điều khiển) những người có quan điểm khác bị bắt nạt chỉ vì có quan điểm khác. Văn hóa hủy bỏ kết án mọi người trước tòa án công luận và hủy hoại cuộc sống của họ, bất chấp mọi thủ tục tố tụng.

Mục tiêu của Chủ nghĩa văn hóa theo kiểu Mác là áp đặt toàn quyền kiểm soát cuộc sống của người dân, bằng cách biến Hoa Kỳ thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa / cộng sản.  Hiến pháp của chúng ta bị tấn công, bởi vì nó là một trở ngại cho những điều kể trên &&& KHI HIẾN PHÁP HOA KỲ (ÁP DỤNG CHO TOÀN THẾ GIỚI) ĐÃ ĐƯỢC TẠO RA ĐỂ BẢO VỆ MỖI NGƯỜI CÔNG DÂN CHÚNG TA THOÁT KHỎI SỰ CHÈN ÉP, BẠO NGƯỢC CỦA MỘT CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI, TOÀN TRỊ CHUYÊN CHẾ, ÁP ĐẶT, NHỒI SỌ TUYÊN TRUYỀN ĐẦY GIAN TRÁ LÁO KHOÉT, VÀ KHÔNG HỀ CÓ TỰ DO THỰC SỰ NHƯ VẬY!

Câu chuyện “Toxic Masculinity” được những người cấp tiến nghĩ ra để gây chiến với nam giới. Dán nhãn nam tính là độc hại là một cách đổ lỗi cho đàn ông chỉ đơn giản là đàn ông. Đó là một cách “làm bệnh hoạn” cho nam tính, TRONG MƯU ĐỒ ỦNG HỘ ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI, LOẠN TÍNH, DÂM ĐÃNG DÂM DẬT MỌI NƠI KHI ĐÀN ÔNG LÀM TÌNH VỚI ĐÀN ÔNG, SAY MÊ NHỮNG ĐỨA TRẺ TRAI/ HOẶC TRẺ GÁI = ẤU DÂM = pedos/ pedophilia !!!)

Nó nhằm mục đích làm đàn ông xấu hổ và nữ tính hóa họ. Người đàn ông mạnh mẽ là một hình mẫu, vì vậy những người đàn ông yếu đuối sẽ làm suy yếu đơn vị gia đình. Những người đàn ông nữ tính hóa với mức testosterone thấp cũng ít có khả năng “xông cổng lâu đài” và bắt đầu một cuộc cách mạng ĐỂ LẬT ĐỔ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI CHUYÊN CHẾ CỦA LŨ ÁC MA THẾ LỰC NGẦM THỜ QUỶ SATAN = GLOBALIST, NEW WORLD ORDER, ONE WOLRD RELIGION ORDER.)

Đồng thời, tư tưởng chuyển giới được thúc đẩy trong trường học. Một thuật ngữ không có thật, được gọi là tính linh hoạt của giới tính, đã được phát minh ra để tạo ra sự nhầm lẫn về giới tính ở trẻ em. Giáo dục giới tính không phù hợp với lứa tuổi, chẳng hạn như thủ dâm, quan hệ tình dục qua đường hậu môn và đồng tính luyến ái được đưa vào chương trình giảng dạy (TRONG ÂM MƯU LÀM CHO GIỚI TRẺ CHẤP NHẬN NHỮNG TÊN ẤU DÂM BIẾN THÁI, BIẾN TRẺ NAM THÀNH ĐỒ CHƠI TÌNH DỤC = TOYBOY CHO BỌN BIẾN THÁI NÀY!!!)

[Image: 330178038_502503465420243_89174233242846...e=63EE8D98]

Các phương tiện truyền thông, giải trí và học thuật đang góp phần thúc đẩy các chương trình nghị sự này đối với xã hội. Ngoài ra còn có một chiến dịch bình thường hóa ấu dâm và biến nó thành một xu hướng tình dục. Chương trình Netflix gây tranh cãi, “Cuties” là một ví dụ về tình dục hóa các cô gái trẻ, đó là một phần của nỗ lực này!

Một trong những môn đồ của Marx, George Lukacs là người đứng đầu bộ giáo dục ở Hungary vào những năm 1920.
Tên biến thái bệnh hoạn này đã nảy ra ý tưởng giới thiệu các chương trình cấp tiến, bao gồm việc phát tài liệu đồ họa cho trẻ em. Giáo dục giới tính bắt buộc của anh ta được thiết kế để làm suy yếu đạo đức Kitô giáo.

Sự hủy hoại các giá trị truyền thống và xói mòn đạo đức tình dục dẫn đến sự suy đồi về văn hóa và sự tan vỡ của một xã hội. Đưa Hoa Kỳ xuống vực sâu xã hội và phá hủy văn hóa phương Tây là điều mà những người theo chủ nghĩa của văn hóa Mác, hiện đang hoạt động đằng sau ngọn cờ “chủ nghĩa tự do hiện đại”, hay chủ nghĩa cấp tiến, đã lên kế hoạch từ lâu.

Theo TIME FOR TRUTH.
Reply
#10
KẺ NỘI THÙ

Phần 3. Bộ phận theo chủ nghĩa Mác của Mỹ

[Image: 330573891_535472508676940_54237603744445...e=63F0B198]

(Kẻ thù bên trong với âm mưu tẩy não dân chúng qua những tà thuyết, lạc thuyết khoác chiếc áo hoa mỹ bên ngoài là:
- tự do = liberalism
- cấp tiến = modernism
- hòa đồng = inclusion
- BLM = black life matter
- antifa
- anti-police
- woke culture = văn hóa "thức tỉnh"
- tranh đấu cho công bằng xã hội = fighting for social justice
- đe dọa dân chúng toàn thế giới với chủ thuyết (ảo tưởng) biến đổi khí hậu toàn cầu & nhằm mục đích thu hoạch những mối lợi nhuận khổng lồ khi ban hành những luật lệ, thúc ép chính phủ các quốc gia tăng thuế cho những hàng hóa, sản xuất, tiêu dùng nào liên quan tới bảo vệ môi trường, hiệu ứng nhà kính, tầng ozone v...v... )

*******
Phần 3. Bộ phận theo chủ nghĩa Mác của Mỹ

Hãy cùng nâng cao nhận thức với Laszlo 15 Tháng Mười, 2020

4 Phút đọc

Mục tiêu của Chủ nghĩa văn hóa Mác, xâm nhập vào Mỹ trong Thế kỷ 20, là lật đổ nền dân chủ phương Tây từ bên trong mà không cần nổ súng. Sử dụng sự lén lút và lừa dối thay vì vũ lực, chiến lược này nhằm biến đổi ý thức của xã hội bằng cách kiểm soát luồng thông tin, phương tiện truyền thông, giáo dục, giải trí và xuất bản.

Tấn công và bào mòn dần các trụ cột của xã hội, gia đình, tôn giáo, hiến pháp và đạo đức tình dục là những mục tiêu chính. Điều này được thực hiện bởi các chế độ cộng sản tàn bạo, đã thực hiện hệ tư tưởng Mác-xít trong Thế kỷ trước.

Ở các nền dân chủ phương Tây, những chương trình nghị sự nham hiểm này không thể được công bố một cách công khai, chúng giả dạng thành các phong trào đòi công bằng xã hội hoặc giải phóng khỏi những kẻ áp bức tưởng tượng. Sự đồng ý của công chúng được tạo ra thông qua tuyên truyền, phát sóng suốt ngày đêm về những bất công được nhận thức và các bệnh lý khác của xã hội.

Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác phân chia xã hội theo các giai cấp, giai cấp thống trị áp bức chống lại giai cấp công nhân bị áp bức. Những người theo Marx đã áp dụng lý thuyết phân cực này cho nền văn hóa phương Tây đa dạng và chia rẽ người Mỹ theo nhiều cách, theo chủng tộc, giới tính, khuynh hướng tình dục, tôn giáo, dân tộc, kinh tế và chính trị.

“Chia để trị”, hay “chia để nắm quyền điều khiển, cai trị” là một chiến lược giành quyền lực, bằng cách chia dân chúng thành các nhóm nhỏ hơn, những nhóm này có ít quyền lực hơn và có thể cùng nhau chống lại một quy tắc hoặc một chương trình nghị sự áp đặt lên họ.

Cụm từ tiếng Latinh “Divide et impera” cũng lâu đời như chính trị và chiến tranh. Chia rẽ kẻ thù của bạn, để bạn có thể trị vì, được cho là của Julius Caesar, hoàng đế La Mã. Ông ta đã áp dụng nó thành công để chinh phục Gaul vượt trội về quân sự hai mươi hai thế kỷ trước.

Niccolo Machiavelli, cố vấn vào thế kỷ 15 của Lorenzo Medici, nhà cai trị của Florence, đã xác định một ứng dụng tương tự cho chiến lược quân sự trong cuốn sách của ông, “Nghệ thuật chiến tranh”: “Một thuyền trưởng nên nỗ lực bằng mọi nghệ thuật để phân chia lực lượng của kẻ thù”.

Ứng dụng xã hội học của chia để trị là để giành quyền kiểm soát tầng lớp thấp hơn, bằng cách xúi giục đấu đá nội bộ giữa họ. Ví dụ điển hình nhất về nó, là một ví dụ xảy ra ở Hoa Kỳ, đã xác định đặc điểm của thế giới mới trong thời gian sắp tới. Năm 1667 là năm mà nước Mỹ bị chia cắt theo chủng tộc.

Khi người châu Phi đến châu Mỹ vào năm 1619, không có người da trắng nào ở đó, "da trắng" là một danh mục không tồn tại. Những người nhập cư châu Âu được gọi đơn giản là "Kitô hữu". Những nô lệ châu Phi và những người hầu được ký hợp đồng ở châu Âu ở chung một khu, họ làm việc và sống trong những điều kiện giống nhau.

Nói cách khác, có giai cấp công nhân nghèo và giai cấp thống trị thuộc địa. Giới cầm quyền của Virginia là những chủ đồn điền giàu có, thương gia giàu có, thương nhân và thống đốc của họ.

Năm 1676, một cuộc nổi dậy, được gọi là Cuộc nổi dậy Bacon, do một chủ đồn điền giàu có, Nathaniel Bacon lãnh đạo, đã diễn ra. Cuộc nổi dậy phát triển vì các chính sách của người Mỹ bản địa, thuế cao và tranh chấp sử dụng đất đai. Sau vài tháng chiến đấu với những người trung thành với thống đốc, một đội hải quân do vương quốc Anh phái đi đã đánh bại cuộc nổi dậy, nhưng không phải trước khi quân nổi dậy thiêu rụi Jamestown, thủ đô thuộc địa.

Những người nô lệ châu Phi và những người hầu được ký hợp đồng ở châu Âu đã sát cánh chiến đấu trong cuộc nổi dậy. Sự đoàn kết của giai cấp công nhân là mối đe dọa đối với giai cấp thống trị của Virginia. Để ngăn chặn liên minh giữa người nghèo và một cuộc nổi dậy khác diễn ra, vào năm 1703, họ đã ban hành Bộ luật Nô lệ Virginia.

Những luật mới này đã mang lại cho người da trắng nghèo một số đặc quyền, mặc dù điều này không cải thiện được điều kiện sống của họ, nhưng họ bắt đầu thấy mình khác với những nô lệ châu Phi. Giới cầm quyền đã phát minh ra "sự trong trắng", để cắt đứt mối quan hệ lợi ích chung giữa nô lệ châu Phi và người châu Âu thuộc tầng lớp thấp hơn, đồng thời chia rẽ giai cấp công nhân.

Khi người da trắng và người da đen bị chia rẽ, những người cai trị Thuộc địa không dừng lại ở đó. Tiếp theo, họ bắt đầu chia rẽ người Anh và những người nhập cư châu Âu khác, bắt đầu với người Ireland. Tuyên truyền chống Ailen miêu tả họ là "những kẻ vũ phu và động vật thiếu suy nghĩ". Sau đó, họ lợi dụng tôn giáo để chia rẽ người Đức và người Scotland. Điều này rất thành công, họ cũng làm như vậy với người châu Phi, cách ly nô lệ khỏi những người hầu có giao kèo và người da đen tự do.

Đây là cách giới cầm quyền luôn giữ quyền kiểm soát đối với giai cấp công nhân. Chia dân số thành các nhóm nhỏ hơn và đấu với nhau, để mọi người coi nhau như kẻ thù và họ không chú ý đến những người múa rối (ĐA SỐ BỌN NÀY THUỘC GIỚI THƯỢNG LƯU, TINH HOA THẾ GIỚI = ELITES là những thành viên hội kín Tam Điểm thờ quỷ Satan, thuốc Thế Lực Ngầm ác ma Cabal, mới thật sự nắm quyền lực đen trong bí mật, sau hậu trường chính trị).

Trong thời hiện đại, tình cảm của công chúng bị ảnh hưởng thông qua các phương tiện truyền thông dòng chính Main Stream Media/ MSM (Big Tech) là những tay sai của quyền lực đen = thế lực ngầm. Các bản tin thời sự được thiết kế để đánh vào cảm xúc của người xem và khiến họ đứng về phía nào trong mọi vấn đề. Chính trị bản sắc thúc đẩy mọi người chọn một bản sắc nhóm và coi mình là riêng biệt và khác biệt với những người khác.

Học viện là một cách hiệu quả để giới thượng lưu tẩy não và truyền bá tâm trí trẻ. “Lý thuyết phê phán”= Critical Theory , &&& được dạy, truyền bá, giáo dục trong các trường đại học, là sự giải thích hệ tư tưởng Mác-xít, được tạo ra bởi những người theo Karl Marx.

Lý thuyết phê phán = Critical Theory (and its spinoffs, Critical Race Theory, or Intersectionality) (và các phần phụ của nó, Lý thuyết chủng tộc phê phán, hay Tính giao thoa), được trình bày, như những phương pháp luận để đạt được công bằng xã hội. Nhưng chúng lại làm được điều ngược lại, bởi vì chúng được thiết kế để “đặt vấn đề” cho các động lực xã hội. Họ giữ quan điểm rằng xã hội vốn đã phân biệt chủng tộc và bất công.

Mục tiêu của việc tuyên truyền này bởi các phương tiện truyền thông và giáo dục, là tìm kiếm vô tận các nạn nhân trong mọi kẽ hở của xã hội và lôi kéo những người ở mỗi bên tham gia vào cuộc chiến theo kiểu chủ nghĩa Mác. Họ nói với những người được cho là nạn nhân rằng họ bị một nhóm khác áp bức và gạt ra ngoài lề xã hội. Người da đen bị áp bức bởi người da trắng phân biệt chủng tộc, phụ nữ bị đàn ông phân biệt giới tính, người đồng tính bị kỳ thị đồng tính, người nhập cư bị kỳ thị bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc, v.v.

Kết quả của những bất bình là nguyên nhân của xung đột, bất hòa, hận thù và thù hận mà chúng ta đang thấy. Tất nhiên, những tuyên bố đó đều có giá trị, có những trường hợp phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, kỳ thị đồng tính và bài ngoại. Nhưng buộc tội, hoặc làm xấu mặt cả một nhóm vì những hành động mà một số cá nhân nhất định phạm phải, thì không có ý nghĩa gì.

Trong xã hội Mỹ, những xung đột này là kết quả của kỹ thuật xã hội, chiến lược chia để trị. Khi bức màn được kéo lại, người ta mới thấy rằng, nạn nhân ở cả hai phía và kẻ áp bức thực sự mới chính là giới cầm quyền (Thế Lực Đen). “Chủ nghĩa giai cấp” được ngụy trang dưới dạng phân biệt chủng tộc, bài ngoại và những bất công khác.

Đối với những người cai trị Thuộc địa, tất cả chỉ nhằm duy trì hiện trạng, tiền bạc và lợi nhuận. Ở thời điểm hiện tại, mục tiêu của sự phân cực xã hội là làm suy yếu nước Mỹ, dẫn đến suy đồi đạo đức. Sự hủy diệt của nước Mỹ là cần thiết để thành lập một nhà nước độc tài, mà những kẻ chạy theo và ủng hộ chủ nghĩa văn hóa Mác đã bắt đầu xây dựng, đặt âm mưu tính từ khoảng một thế kỷ trước.
Reply
#11
130 năm dự đoán khí hậu ĐỀU BỊ thất bại !

[Image: 330927631_1151647802184484_1513966371568...e=63F0D927]


Hãy cùng nâng cao nhận thức với Laszlo

Ngày 4 tháng 1 năm 2023

5 phút to read

Bật tivi của bạn lên và cho dù bạn sẽ xem các bản tin thời sự, chương trình trò chuyện, “hài kịch” đêm khuya hay chương trình du lịch, rất có thể bạn sẽ nghe thấy đề cập đến biến đổi khí hậu / sự nóng lên toàn cầu. Đó là, bởi vì tình hình hành tinh đang nghiêm trọng, chúng ta được cho biết rằng biến đổi khí hậu rất tồi tệ, nó là một mối đe dọa hiện hữu.

Điều mà công chúng không biết là các nhà khoa học khí hậu và giới truyền thông đã đưa ra những dự đoán về khí hậu ngày tận thế trong hơn một thế kỷ. Đây là một chiến thuật dọa nạt đơn giản, được thiết kế để khiến công chúng luôn trong trạng thái sợ hãi. Trong tất cả các cuộc khủng hoảng và trò lừa bịp được tạo ra, gây ra cho nhân loại, ngày tận thế khí hậu là lâu dài nhất.

Các lập luận thông thường về sự nóng lên toàn cầu, được sử dụng để củng cố câu chuyện phổ biến – “97% các nhà khoa học đồng ý..”, “CO2 là khí nhà kính”, v.v. – sẽ được thảo luận trong các bài đăng khác, bài viết này trình bày tổng quan lịch sử về sự nóng lên dự đoán khí hậu, thuận tiện bỏ qua từ diễn ngôn công cộng.

Từ cuối thế kỷ 19 đến những năm 1920, mối đe dọa đối với sự tồn tại của con người được cho là sự lạnh đi toàn cầu, kỷ băng hà tiếp theo.
  • “Các nhà địa chất nghĩ rằng thế giới có thể bị đóng băng trở lại.” – Thời báo New York, ngày 24 tháng 2 năm 1894
  • “Kỷ băng hà thứ năm đang đến gần. Loài người sẽ phải chiến đấu để tồn tại trước cái lạnh.” – Thời báo Los Angeles, ngày 7 tháng 10 năm 1912

  • “Giáo sư. Schmidt cảnh báo chúng ta về một kỷ băng hà đang xâm lấn.” – Thời báo New York, ngày 7 tháng 10 năm 1912

  • “Giáo sư. Gregory của Đại học Yale cảnh báo rằng băng ở Bắc Cực sẽ quét sạch Canada, Bắc Mỹ sẽ biến mất ở phía nam, Ngũ Đại Hồ và một phần rộng lớn của châu Âu và châu Á sẽ bị xóa sổ.” – Chicago Tribune, ngày 9 tháng 8 năm 1923

  • “Những khám phá về sự di chuyển về phía nam của các sông băng trong những năm gần đây đã làm nảy sinh những phỏng đoán về khả năng xuất hiện của một kỷ băng hà mới.” – Tạp chí Time, ngày 10 tháng 9 năm 1923

  • Thay vì các sông băng quét sạch Bắc Mỹ, nhiệt độ bắt đầu tăng vào đầu những năm 1930, các phương tiện truyền thông bắt đầu gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự tàn phá sắp tới do sự nóng lên toàn cầu.

  • “Nước Mỹ trải qua đợt nắng nóng dài nhất kể từ năm 1776, đường nhiệt độ ghi nhận mức tăng trong 25 năm.” – Thời báo New York, ngày 27 tháng 3 năm 1933

  • “Những người cho rằng mùa đông khắc nghiệt hơn khi họ còn là những cậu bé hoàn toàn đúng… những người làm thời tiết chắc chắn rằng thế giới ít nhất là trong thời điểm hiện tại đang ấm dần lên.” – Tạp chí Time, ngày 2 tháng 1 năm 1939

  • “Mùa đông đang trở nên ôn hòa hơn, mùa hè khô hơn. Các sông băng đang rút đi, các sa mạc đang phát triển.” – US News and World Report, ngày 18 tháng 1 năm 1954

  • “Khí hậu vùng cực của Greenland đã điều hòa ổn định đến mức những cộng đồng thợ săn đã phát triển thành những làng chài.” – Thời báo New York, ngày 29 tháng 8 năm 1954

  • “Đại tá. Bernt Balchen, nhà thám hiểm vùng cực và phi công, đang lưu hành một bài báo giữa các chuyên gia về vùng cực, đề xuất rằng khối băng ở Bắc Cực đang mỏng đi và đại dương ở Bắc Cực có thể trở thành biển mở trong vòng một hoặc hai thập kỷ.” – Thời báo New York, ngày 20 tháng 2 năm 1969

  • Khí hậu một lần nữa không hợp tác với ngày tận thế, thay vì tan chảy, lớp băng ở Bắc Cực bắt đầu dày lên vào đầu những năm 1970. Các phương tiện truyền thông đã thay đổi giai điệu của họ cho phù hợp và đưa nỗi sợ hãi lên một cấp độ hoàn toàn mới.

  • “Cuộc chiến giành nhân loại đã kết thúc. Vào những năm 1970, thế giới sẽ trải qua nạn đói. (do biến đổi khí hậu) Hàng trăm triệu người sắp chết đói.” – Paul Ehrlich, Quả bom dân số, 1968

  • “Mùa đông lạnh hơn báo hiệu bình minh của kỷ băng hà mới.” – Bưu điện Washington, tháng Giêng, 1970

  • “Vào năm 2000, Vương quốc Anh sẽ chỉ là một nhóm nhỏ các hòn đảo nghèo khó, nơi sinh sống của khoảng 70 triệu người chết đói.” – Paul Ehrlich, (Giáo sư tại Đại học Stanford. ông là một trong những nhà báo động khí hậu giỏi nhất thời bấy giờ), 1971

  • “Khí hậu Trái đất đang thay đổi nhanh hơn cả những gì các chuyên gia mong đợi. Các sông băng đã bắt đầu tăng lên, các mùa sinh trưởng ở Anh và Scandinavia đang ngắn lại và Bắc Đại Tây Dương đang nguội đi nhanh như một đại dương có thể nguội đi.” – Christian Science Monitor, ngày 27 tháng 8 năm 1974

  • “Biến đổi khí hậu hiện nay sẽ dẫn đến cái chết hàng loạt do đói và có thể dẫn đến tình trạng hỗn loạn và bạo lực.” – Thời báo New York, ngày 29 tháng 12 năm 1974

  • “Thế giới làm mát. Có những dấu hiệu đáng ngại cho thấy các kiểu thời tiết trên trái đất đã bắt đầu thay đổi đáng kể và những thay đổi này báo hiệu sự sụt giảm nghiêm trọng trong sản xuất lương thực”. – Tạp chí Time, ngày 28 tháng 4 năm 1975

  • “Việc làm mát này đã giết chết hàng trăm nghìn người. Nếu nó tiếp tục và không có hành động mạnh mẽ nào được thực hiện, nó sẽ gây ra nạn đói trên thế giới, sự hỗn loạn trên thế giới và chiến tranh thế giới và tất cả những điều này có thể xảy ra trước năm 2000.” – Lowell Ponte, (được ca ngợi là phóng viên khoa học điều tra được đọc nhiều nhất trên thế giới), 1976

  • Vào cuối những năm 1980, lại là ngày của loài trăn, thay vì hạ nhiệt, nhiệt độ lại bắt đầu tăng lên. Các phương tiện truyền thông liên tục chuyển sang cảnh báo công chúng về ngày tận thế sắp tới do sự nóng lên toàn cầu.

  • “Vào năm 2008, đường cao tốc West Side (chạy dọc theo sông Hudson ở N.Y.) sẽ bị phá hủy vì sẽ bị chìm xuống dưới mặt nước.

  • &&& James Hansen (được gọi là ông nội của lý thuyết nóng lên toàn cầu), điều trần trước Quốc hội, tháng 6 năm 1988.

  • “Khoảng 10 triệu cư dân Bangladesh sẽ mất nhà cửa và phương tiện sinh sống do mực nước biển dâng cao, do sự nóng lên toàn cầu trong vài thập kỷ tới.” – Al Gore, Trái đất cân bằng, 1992

  • “Trong vòng vài năm nữa, tuyết rơi vào mùa đông sẽ là một sự kiện rất hiếm và thú vị. Trẻ con sẽ không biết tuyết là gì đâu.” – Tiến sĩ David Viner, nhà khoa học nghiên cứu, ngày 20 tháng 3 năm 2000

  • “Hàng tỷ người sẽ chết, Lovelock nói, người nói với chúng tôi, anh ấy thường không phải là kiểu người u ám. Nền văn minh của loài người sẽ bị biến thành một đống đổ nát, được điều hành bởi các lãnh chúa tàn bạo và phần còn lại của loài bị bệnh dịch hoành hành sẽ chạy trốn khỏi trái đất nứt nẻ và đổ nát để đến Bắc Cực, điểm ôn hòa cuối cùng, nơi một số cặp vợ chồng sinh sản sẽ sống sót. – The Daily Telegraph, ngày 6 tháng 2. 2006

  • Câu nói cuối cùng này đã giành được giải thưởng “dự đoán ngày tận thế lừng lẫy nhất”!

  • “Với tốc độ này, Bắc Băng Dương có thể gần như không còn băng vào cuối mùa hè, vào năm 2012.” – Jay Zwally, nhà khoa học khí hậu của NASA, ngày 12 tháng 12 năm 2007

  • “Đối với hồ sơ, tôi không nghĩ rằng bất kỳ băng biển nào sẽ tồn tại trong mùa hè này, một sự kiện chưa từng có trong lịch sử loài người là ngày hôm nay, chính thời điểm này đang diễn ra ở Bắc Băng Dương.” – Paul Beckwith, Câu lạc bộ Sierra, 2013

  • Tua nhanh đến năm 2020, các tảng băng đang giữ vững, giống như mức của năm 1980. Do đó, họ đã sửa đổi dự đoán của mình đến năm 2035:

  • “Băng biển mùa hè ở Bắc Cực có thể biến mất vào năm 2035.” – Địa lý Quốc gia, tháng 8 năm 2020
Trong 15 năm qua, nhiệt độ bề mặt trung bình toàn cầu hầu như không tăng, trong khi lượng tuyết rơi kỷ lục được ghi nhận trong mùa đông năm 2021/22 tại nhiều địa điểm ở Hoa Kỳ. Mùa đông năm 2022/23 cũng vậy, nó cũng trở nên lạnh nhất kể từ năm 1977. Đây có thể là sự khởi đầu của một thời kỳ làm mát khác?

VÀ THẾ ĐÓ, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐÃ KHÔNG TRỞ THÀNH "NGUỒN GỐC, NGUYÊN NHÂN CÓ KHẢ NĂNG GÂY RA CHẾT CHÓC và ĐAU KHỔ CHO NHÂN LOẠI" (theo lời của Nigel Calder, 1975). NHƯNG THAY VÀO ĐÓ, NÓ ĐÃ TRỞ THÀNH MỘT LẠC THUYẾT DỐI TRÁ, NHẰM MỤC ĐÍCH HÙ DỌA, TUYÊN TRUYỀN, RỈ TAI LÀM CHO CÔNG CHÚNG SỢ HÃI - LẠC THUYẾT GIAN DỐI NÀY được thực hiện bởi “những người đàn ông hạng nhất trong thế giới khoa học”, với sự đồng lõa của giới truyền thông Big Tech MSM.

Thật không may, khoa học đã trở thành phụ thuộc vào các chương trình nghị sự chính trị. Một số nhà khí hậu học có thể không đủ năng lực, nhưng nhiều người đã đồng ý lừa dối công chúng, để đổi lấy tiền bạc và danh tiếng.

***

XEM THÊM: Why Global Warming Is A Hoax = Tại sao sự nóng lên toàn cầu là một trò lừa bịp?
https://tinhhoa.net/tong-thong-trump-su-...a-bip.html


The Biggest Myth About Climate Change = Huyền thoại lớn nhất về biến đổi khí hậu



Reply
#12
Ai thích đọc thì mời vào đây Tủ sách Di sản văn chương miền Nam **

TRẦN HOÀI THƯ BLOG 

Please Heavy-black-heart4 Heavy-black-heart4
Reply
#13
48 năm đã trôi qua ...Ngày 30 tháng 4, 1975 ghi dấu ấn không phai mờ trong tâm tưởng của tôi, của bạn, của những người còn thương nhớ Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông.

Đọc lại bài sau mà ngậm ngùi, cảm thương, tức hận cái chiến dịch ngu dân, truy diệt văn hoá miền Nam của CS ...

Mad

OCTOBER 7, 2017 BY TRANHOAITHU

Đốt sách hay không đốt sách (cập nhật)
Trần Hoài Thư
Quote:V[i]à người ta đi tìm giấy. Già trẻ lớn bé đi tìm giấy lượm. Người ta vui vì lượm được giấy nhiều, ít ra cũng có chút ít tiền mua gạo, mua nước mắm cho gia đình. Có khi giữa những đống giấy kia, có kẻ đã vất nguyên cả bộ Lê Nin toàn tập,  bìa xé ra để phi tang. Chứa chúng trong nhà làm gì, để mà hận, mà tức. Giấy của chúng  bán giá cao vì thuộc lọai giấy trắng so với giấy thường vàng ố. Và cũng có khi, giấy lại được nâng niu như một báu vật, khi người thơ tìm lại được bài thơ cũ trong một nhà vệ sinh công cộng[/i]

 
Chúng ta được đọc nhiều bài viết về chiến dịch truy diệt  văn hóa miền Nam của CS sau tháng 4-75 mà Cộng Sản kết tội là “văn hóa nô dịch,đồi trụy phản động”. Một tấm hình tiêu biểu  để minh chứng cho chiến dịch này là cảnh một đoàn học sinh sinh viên  nam nữ thuộc Thành đoàn thanh niên Cọng sản T.P HCM với biểu ngữ : “chiến dịch bài trừ văn hóa đồi trụy phản động”, “Thế hệ trẻ VN nguyện Sống Chiến đấu Lao động Học tập theo gương Bác Hồ Vĩ Đại”.
[Image: dot-sach-1.jpg?resize=301%2C220&ssl=1]
Trên báo Saigon Giải phóng  phát hành ngày 25-5-1975 có đăng buổi ra quân mở màn cho chiến dịch này, như sau:
“Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô tonhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễn hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay…”.

…Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn 3 đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”.
(nhật báo Saigon Giải phóng ngày 25-5-1975)
Sau đó, đám thanh niên chia nhau từng tốp, xông vào những nhà mà chúng nghi ngờ, lục lạo rồi tịch thu sách vở. Hành động này được  nhà văn Nguyễn Hiến Lê kể như sau:
Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyển Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông thứ trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc
Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.
Năm 1975, Sở Thông tin Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành.
Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên Sở Thông tin Văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kỳ loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. (…)
(….) Lần đó sách ở Sài gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao.
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba hủy”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lý… Mọi người hoang mang, gặp nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi phải tiếp năm sáu bạn lại vấn kế.
Mấy bạn tôi luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng xem lại sách báo, thứ nào muốn giữ lại thì gói riêng, lập danh sách, chở lại gởi nhà một cán bộ cao cấp (sau đòi lại thì mất già nửa); còn lại đem bán kí lô cho “ve chai” một mớ, giữ lại một mớ cầu may, nhờ trời.
Một luật sư tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà, chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới mắt công an.
Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quí, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho Sở Thông tin Văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết.
Bà Đông Hồ quen ông Giám dốc thư viện thành phố, bán được một số sách cho thư viện, tặng thư viện một số khác với điều kiện được mượn đem về nhà mỗi khi cần dùng tới.
(Trích Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê – tập III)
 
Chuyện đốt sách cũng được ghi trong “Nhật Ký Saigòn 1975” của Walter Skrobanek (1):
Sáng nay (ngày 23-5-1975, THT ghi chú), người nước ngoài thêm một lần nữa không được phép đi vào trung tâm thành phố. Những người da trắng muốn làm điều đó bằng ô tô hay đi bộ đều bị đuổi trở ra mà không có một lời giải thích. Vào buổi chiều, Siriporn đi vào nội thành và hỏi mua phim Agfa. Ông chủ tiệm, một người tỵ nạn chống cộng sản từ miền Bắc, cay đắng trả lời rằng trữ bán những loại phim này không còn có ý nghĩa gì nữa. Sau giải phóng, không một ai còn có quyền tự do gởi những phim này ra nước ngoài để xử lý nữa. Siriporn cũng hỏi lý do ngăn cấm nội thành, đặc biệt là đường Tự Do, đối với người nước ngoài. Nhún vai. Vào buổi tối, có hai phiên bản được lan truyền đi trong trung tâm, tại sao lại ngăn cấm: đốt sách phản động hay là một cuộc gặp gỡ nhiều căng thẳng giữa đại diện của hai phái Công giáo.
… Hôm nay (ngày 27-5-1975, THT chú thích) , các sinh viên cách mạng đả phá tín ngưỡng cũng đã gõ cửa nhà Ariel, để thu thập văn học phản động và khiêu dâm. Chị của Ariel không cho họ vào nhà, mà chỉ giải thích rằng bà không biết đọc. Theo tường thuật của nhân viên chúng tôi thì các tác phẩm văn học Việt Trung như “Tam Quốc Chí” cũng thuộc vào hàng văn hóa đồi trụy như tạp chí tin tức Mỹ “Time”. Giá như các sinh viên đó biết rằng ví dụ như Kim Vân Kiều đang phục sinh lại ở Bắc Việt Nam và được diễn giải như là một phê bình văn học của phong trào chống phong kiến. Người ta nói rằng vào ngày 31 tháng Năm sẽ có một cuộc đốt sách lớn. (2)
(Chúng tôi không hiểu nghĩa của “phiên bản” là gì, Có lẽ là “tin đồn” chăng?)
Qua các bài vừa trích dẫn, chúng ta thấy việc đốt sách xãy ra vào tuần cuối của tháng 5 năm 1975. Lửa phần thư đã cháy khắp cả Saigon và Gia Định cùng với những nhóm thanh niên thành đòan, mạnh ai nấy vào tất cả nhà nào chúng thich, không cần biết sách lọai gì, cứ chất trên xe, mang về trụ sở  quận, hay phường, hay tụm năm tụm ba, châm lửa… Và lửa do sự sợ hãi lo âu của chính người giữ sách. Sách bây giờ được xem là tai vạ, là quốc cấm. Tại trung tâm giáo dục Alelexandre de Rhodes, sư huynh Andre Gelinas  kể rằng chính ông đã đốt một số lượnglớn  sách trong số 80 ngàn cuốn tại thư viện Đắc Lộ (3) Một luật sư tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà, chủ ý cho công an phường biết (4) Cảnh này người Saigon đã chứng kiến. Nhưng để nuốt lệ, để ngậm căm hờn, phẩn uất.  Phóng viên ở đâu ?. Nhiếp ảnh viên ở đâu ? Nick Ut ở đâu. Họ đã bỏ Continental Hotel mà thoát thân Để nhường lại ghế ngồi cho các phóng viên nhà báo Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức, Nga Sô, Cu Ba, Trung Cọng… Chỉ có vài phóng viên của tờ Mirror hay Le Monde là quyết định ở lại, nhưng phim không có, máy đánh tin, chuyển hình ra ngọai quốc cũng bị cấm ngặt… Ống kính không có vậy thì làm sao có một tấm hình để nói lên bằng chứng cho một lịch sử tội ác ở miền Nam xãy ra sau thời Nazi ?.
Hành  động của đám thành đòan  như hành động của đám vệ binh đỏ thời Trăm Hoa Đua Nở của Trung Cọng không hơn không kém. Thay vì vê binh dỏ, đám thanh niên thành đòan này được mang cái tên mới : “những chiến sĩ xung kích trong mặt trận văn hóa” !
Ngày 28-5-1975,  Ủy ban Quân quản, bộ trưởng Bộ Văn Hóa  và cả thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng lên tiếng khẳng định  chính quyền không chủ trương đốt sách. Riêng thủ tướng Kiệt thì nhìn nhận sư sai lầm trong việc đánh giá một tác phẩm để kết án : “Cả tôi và chính quyền đã phải mất khá lâu mới nhận ra những sai lầm ấy (theo Bên Thắng Cuộc của Huy Đức)
Trong khi đó, trên các tờ báo lớn như Time, Newsweek, Life, New York Times. Chẳng thấy một tin tức nào về VN, hay hình ảnh về VN, nói gì đến hình ảnh đốt sách.
Nói vậy mà không phải vậy.
 
Dù chánh phủ  luôn luôn khẳng định không chủ trương đốt sách, nhưng chiến dịch truy diệt vẫn tiếp diễn, ác liệt hơn là đàng khác. Lửa không còn cháy từ những đống sách nhưng người dân SG phải sống trong hỏa ngục lớn. Không cần đốt sách, vì “ dân tộc chúng ta là dân tộc văn minh” (“We are civilized people, and we do not burn books…”) (2 bis)  ,   nhưng cả một hệ thống truyền thanh và báo chí tiếp tục lên án văn hóa miền Nam không dứt. Mục đích là răn đe để dân SG khiếp sợ. Giữ một cuốn sách trong nhà là giữ một tai vạ. Một nhãn hiệu sách là một nhãn hiệu của bất trắc. Chữ nghĩa đó, tất cả đều mang mấm mống đồi trụy, phản động hay thiếu lập trường. Trên nhật báo Saigon Giải phóng  từ ngày 20-8-1975 đến ngày 25-8-1975, đăng 5 ký bài viết của Văn Khuyến : “Tố cáo tội ác diệt chủng về mặt văn hóa của Mỹ ngụy đối với nhân dân Sài Gòn – Gia Định”  tố khổ tận tình tất cả những nhà văn miền Nam, không cần biết, tác phẩm có mang tính chất đồi trụy hay phản động hay không. Dù viết cho tuổi thơ, hay thiếu nhi hay tuổi hoa tuổi ngọc  hay là những nhà văn quan niệm “bàn tay sạch” đi  nữa  cũng bị lôi ra mà kết tội. Lý do duy nhất là họ không có lập trường đứng về phía nhân dân:
… “Đối với một số trong tầng lớp trí thức thiếu quan điểm lập trường vững chắc, còn mơ hồ, quan niệm triết lý “Bàn tay sạch”, … Họ đã đẽ ra những tác phẩm văn học nghệ thuật mềm mại yếu đuối khóc gió than mây “hư hư ảo ảo” …đẻ ra từ những “tháp ngà” không mang một chút hơi thở nào của cuộc sống. Đó là thái độ bàng quan, lạnh lùng trước mọi biến  động chung quanh. Tuy nhiên dù biểu hiện nào, dù mức độ tác hại có khác nhau, thì mọi nếp sống cầu an đều nằm gọn trong quỹ đạo tha hóa của chính sách xâm lược Mỹ…”
(SGGP ngày 22-8-1975)
 
Tháng 10-75, trên nhật báo SGGP có đăng nhiều kỳ Bảng Kê Tên Cac Lọai sach phản động, dâm ô đầu độc của 56 tác giả bị cấm lưu hành:
56 tác giả ấy là: Kim Nhật, Xuân Vũ, Phan Nhật Nam, Nguyễn Mạnh Côn,  Hùng Nguyễn Nguyễn Ngọc Huy, Vũ Tiến Phúc, Vũ Tài Lục, Ngiêm Xuân Hồng,  Hoang Ngọc Liên, Hà Huyền Chi, Phan Nghị, Nguyên Vũ, Lê Xuyên, Võ Phiến, Nhã Ca, Văn Quang, Chu Tử, Mặc Đổ, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Trần Đức Lai, Dương Nghiễm Mậu ,  Hồ Hữu Tường, Lữ Quỳnh,  Trần Châu Hồ, Nguyễn Vỹ, Túy Hồng, Dương Hùng Cường, Nguyễn Đình Toàn, Dương Kiền, Hoàng Hải Thủy, Tạ Tỵ, Nguyễn Đình Thiều, Nguyễn thị Hoàng, Minh Đức Hoài Trinh, Lệ Hằng, Người Khăn Trắng, Người thứ Tám, Nghiêm Lê Quân, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Thế Viên, Song Hồ, Minh Viên, Nhất Tuấn, Hoàng Hương Trang, Lệ Khánh, Cao Tiêu, Lam Giang Vũ Tiến Đức, Phạm Minh Hồng, Hồng Liên Lê Xuân Giáo
Ngoài ra một danh sach dài kê các lọai sach tiểu thuyết dịch phẩm, kịch bản phản động dâm ô đầu độc bị cấm lưu hành. Có rất nhiều tác giả khôg thấy trong 56 tác giả bị cấm ghi trên..
Sau năm tháng, nhà nước mới công bố bảng danh sách đợt I !
Người dân Saigon mới biết sách nào bị cấm, sách nào không bị cấm,. Nhưng đã quá trê. Chỉ một tuần cũng đủ bắt Saigon mang cái áo tang liệm bằng giấy khổng lồ, sách vở đâu còn ở kệ ngăn để mà cấm hay không cấm. Nhưng nhờ bảng thông tư này, sách các tác giả bị cấm này mới được người dân, nhất là dân bắc tìm tòi và mua với giá rất mắc.
[Image: dot-sach-2.jpg?resize=525%2C334&ssl=1]
SGGP 26-10-1975. Chụp lại từ microfilm.
 
đốt sách hay nghiền sách ?
 
 Vậy thì  những núi sách bị tịch thu hay được giao nạp ,  chất đống trong các  trụ sở của cơ quan thông tin văn hóa hay Hội bài trừ văn hóa Mỹ ngụy, phải chịu số phận  ra sao nếu chúng không bị lên giàn hỏa ?
Có hai cách để hũy thay vì đốt. Cả hai cách đều có lợi vì đều có lợi nhuận:
Thứ nhất là bán ký cho các nhà máy sản xuất giấy
Thư hai là bán lại cho những người bán sách vĩa hẻ.
Trong một truyện ngắn nhan đề: “Trận đánh cuối cùng của một kẻ sĩ”,  nhà văn Nhật Tiến  đã kể về hai cách này.
Ông không đề cập gì đến vụ đốt sách như nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã đề cập.
“Ba Sinh nhấc lên tay một tác phẩm quen thuộc. Chàng chợt sững sờ khi nhìn thấy những dấu vết cũ. Chàng đổi nhanh qua những cuốn khác. Không còn nghi ngờ gì nữa, cả một tủ sách của chàng, tưởng đã tiêu tan ra thành bột giấy, nào ngờ vẫn còn nguyên vẹn ở đây. Ba Sinh mừng rỡ tưởng đến ngất xỉu đi, cái cảm giác choáng ngợp y hệt như một người vừa tìm lại được người thân sau bao tháng ngày được tin kẻ đó đã mất.”
(Nhật Tiến: Trận đánh cuối cùng của một kẻ sĩ, nguồn Internet)
Trong truyện ngắn trên, nhà văn Nhật Tiến tả nỗi đau đớn của nhân vật chính khi nghĩ đến cảnh chúng phải tan nghiền thành bột giấy.
Vâng, chính nghiền đã thay vào chữ đốt.
Không phải riêng một mình nhà văn Nhật Tiến viết, mà  trên báo Sài Gòn Giải phóng ngày 15-7-75 chạy cái tin to tướng ỏ trang đầu là nhà máy làm giấy Kissme đã sản xuầt 50 tấn giấy vệ sinh và thấm nước trong tháng 6-75.Nguyên liệu làm giấy gồm 60% giấy vụn lượm lặt trong thành phố và 40% là gòn lồ ô…
[Image: dot-sach-3.jpg?resize=525%2C250&ssl=1]
Báo SGGP 1-7-75, tư liệu của Thư Quán Bản Thảo
50 tấn giấy được sản xuất mà 60% nguyên liệu là giấy lượm, thì cả Saigon, Gia định, Biên Hòa với nhiều xưởng làm giấy, thì có biết bao nhiêu tấn giấy lượm ?
Cả một Saigon  tràn ngập giấy. Nếu người ta dùng giấy mã vàng bạc để rãi trong những đám ma hay cúng cô hồn, thì Saigon cũng được rãi  tràn ngập những tờ giấy-mã-chữ-nghĩa-miền-Nam, như để phủ trên một quan tài văn hóa miền Nam..
Và người ta đi tìm giấy. Già trẻ lớn bé đi tìm giấy lượm. Người ta vui vì lượm được giấy nhiều, ít ra cũng có chút ít tiền mua gạo, mua nước mắm cho gia đình. Có khi giữa những đống giấy kia, có kẻ đã vất nguyên cả bộ Lê Nin toàn tập,  bìa xé ra để phi tang. Chứa chúng trong nhà làm gì, để mà hận, mà tức. Giấy của chúng  bán giá cao vì thuộc lọai giấy trắng so với giấy thường vàng ố. Và cũng có khi, giấy lại được nâng niu như một báu vật, khi người thơ tìm lại được bài thơ cũ trong một nhà vệ sinh công cộng:
Sau năm 1975, mình vào Sàigòn đi kiếm tiền  ở khu nhà ga xe lửa cũ trên đường Lê Lai, mình vào nhà vệ sinh công cộng ở bên hông nhà ga và thật mũi lòng thấy một nửa trang báo Khởi Hành rách bẩn có thơ của mình… (5)
 
[Image: viemtinh-wc.jpg?resize=525%2C193&ssl=1]
 
Những thách đố đầu tiên
 
Người Saigon bắt đầu thách thức. Thay vì mang sách báo đi giao nạp, người Saigon mang chúng cúng cùng trời cùng đất, cùng cõi không cùng. Giữ ở nhà sợ bị kết tội tích trử sách báo phản động đồi trụy dâm ô tiếp tay với đế quốc thực dân mới, thôi thì mang bỏ chúng  ra ngoài bờ ngoài bụi, dưới gốc cây để thiên hạ lượm bán lấy tiền làm phước. Mặt khác mấy tay làm văn hóa thông tin ở phường hay quận, cũng âm thầm bán ra ngoài thị trường bán buôn sách cũ.. Không còn cảnh chở sách trên xe ba gác đến giao tại đại học Vạn Hạnh như trong câu truyện của nhà văn Nhật Tiến nữa.…
Những ngày đầu của tháng 6-1975, người dân Saigon bắt đầu thấy xuất hiện trên những vĩa hè phố Saigon những “vĩa sách lộ thiên” bán sách báo miền Nam. Người bán, người mua không còn sợ sệt hay lo lắng như những ngày trước nữa. Sách  bán rất rẽ. Và độc giả phần lớn là đám người từ miền Bắc vào hay học sinh. Theo báo SGGP phát hành trong thời gian này, phần lớn sách được lén tẩu tán từ các tiệm sách, trước đây giá từ 500 đồng đến 1000 đồng cho một cuốn, nay 100 đồng hai cuốn. Cũng vì giá quá rẽ, nên báo đảng ta lại thêm một lần báo động:
Hành động này gây nhiều tác hại nhứt là cho các em nhỏ học sinh, con em của nhân dân.
Trước đây, lọai sách nói trên bán với giá đắt từ 500 đồng đến 1000 đồng một quyển, nay thay vì tiêu hũy, bọn con buôn nói trên đang cho bán đổ bán tháo 100 đồng 2 quyển, vô hình trung phổ cập lọai sách nguy hiểm này gấp mấy lần vì trước đây các em nhỏ học sinh không có tiền mua sách này vì giá dắt nay các em tương đối để có 100 đồng để mua…
Càng lúc nhu cầu tìm sách miền Nam càng mạnh, “ vĩa sách lộ thiên” càng mọc lên nhiều. Giá sách càng tăng cao. Những đường lớn như Tự Do, Lê Lợi, thấy nhiều vĩa hè bị chóan ngợp bởi rừng sách cũ.
Tấm hình dưới đây được đăng trên báo SGGP, chúng tỏ về sự thách đố này, (Xin tha lỗi vì hình và chữ chú thích quá mờ. Đây là sản phẩm của đỉnh cao tri tuệ làm báo của CS, chứ không phải vì microfilm)
Dù vậy, chúng tôi cũng cố để viết lại những giòng phụ chú bên cạnh tấm hình:
Bán sách báo đồi trụy trong lúc này là sai quấy rồi, lại còn bày hết vĩa hè tới mặt đường (đại lộ Lê Lợi khúc Mini-Rex) là chuyện nên để hay bỏ gấp ? (SGGP ngày 19-8-1975)
[Image: dot-sach-4.jpg?resize=525%2C222&ssl=1]
Báo SGGP quên không nhắc đến những sạp báo ở gần khách sạn Continental vẫn còn hiện diện và vẫn còn bày bán các tạp chí mà nhà nước ta kết án là nọc độc văn hóa, đồi trụy, dâm ô.
Dưới đây là bản dịch từ một bản tin của hãng thông tán AP vào ngày 21 tháng 5-75:
Sài Gòn không thay đổi mấy.
Theo GHEO ESPER
SàiGòn AP –  Những điều mắt thấy tai nghe thật lạ lùng ở Sàigòn ngày hôm nay cho những ai đă biết Thủ Đô Của Miền Nam Việt Nam trước khi bị Cộng Sản xâm chiếm.
Những Chiến Đấu Cơ MIG của Nga đă từng không chiến với Chiến đấu cơ của Mỹ trên vòm trời Bắc Việt giờ đây bay theo đội ngũ để ăn mừng chiến thắng.Một chiếc máy bay Trực Thăng mầu xám xanh của Air America, hãng hàng không được tài trợ bởi cơ quan tình báo Mỹ CIA vẫn bay lượn trên không trung. Những chiếc máy bay đã bi bỏ lại bởi những người Mỹ di tản một cách vội vàng, giờ đây được sơn ngôi sao vàng và trở thành những máy bay của đội ngũ Không Quân Bắc Việt.
Tại Tân Sơn Nhất, căn cứ Không Quân được coi như Ngũ Giác Đài Miền Đông Á, Bộ Tổng Tham Mưu của US MACV ( Bộ Chỉ Huy Yểm Trợ cho Việt Nam MACV), và sau đó trở thành Cơ Quan Phụ Thuôc Quốc Phòng nay thành những đống tàn rụi. Người Mỹ đà phá hủy cơ quan này bằng Lựu Đạn, chất nổ TNT và dầu xăng khi họ vội vàng di tản để các tài liệu và máy móc không lọt vào tay Cộng Sản.
Hình Hồ Chí Minh đã được treo tại dinh Độc Lập, thay thế hình Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu người đã bỏ trốn tháng trước.
Maxim Night Club, Vũ Trường lớn nhất của Thành phố Sàigòn giờ đây là trụ sở cơ quan hành chính.
Nhưng có một vài điều vẫn không thay đổi.
Người Ấn (Chà Và) đổi tiền vẫn làm ăn thương mại trá hình dưới hình thức là tiệm sách.
Tiệm Tắm Hơi Fuji vẫn hoạt động 100% như thường. 
Khách Sạn Continental với hành lang nơi gái mãi dâm và ma cô mời mọc khách ngoại quốc trở lại hoạt động bình thường như xưa dù tệ đoan này đã bị chính phủ trước dẹp sạch.
Việt Cộng Và người Bắc Việt như muốn lờ đi tệ đoan về đêm này.
Báo Playboy, OUI và những Tạp Chí với hình ảnh những cô gái khiêu gợi khác vẫn được bày bán trên những sạp báo.
Thỉnh thoảng đôi khi người ta có thể bắt gặp những anh Bộ Đội Bắc Việt hay Việt Cộng lén coi những tạp chí khiêu dâm dấu trong những tờ báo của Đảng Nhà Nước.
(Trích từ microfilm nhật báo Courrier News ngày 21 tháng 5 – 1975)
 
Như vậy, đồi trụy sa đoạ dâm ô trụy lạc dưới con mắt của phe chiến thắng  chỉ nhắm vào văn hóa, chứ không phải nhắm vào những tệ đoan xã hội như  gái mãi dâm, nhà tắm hơi trá hình hay ma cô ma cạo như thời VNCH.
 
Đó là lý do tại sao, trên báo Saigon Giải Phóng của năm 1975 (tháng 5-75 đến 12-1975), chúng tôi  không thấy một tin nào về chuyện diệt trừ, bài trừ tệ đoan  xã hội như làm sạch hộp đêm, nhà nhảy, nhà tắm hơi, gái mãi dâm, mà chỉ là “vạch mặt” bọn phản động, ác ôn, côn đồ, nhân dân  tố cáo bọn ác ôn ngụy tay sai lẩn tránh không chịu trình diện, quân đội ta anh hùng, hay  “còn cái lai quần cũng đánh” ! :
[Image: img_0221-1.jpg?resize=240%2C320&ssl=1]
hay thỉnh thoảng đi một vài bài  viết cổ xúy cho chiến dịch bài trừ văn hóa phản động, đồi trụy như  bài thơ dưới đây:
Sách báo nọ, đừng mong ngóc dậy
Vì nhân dân, sẵn gậy cầm tay
Trừ căn, tuyệt nọc bọn nầy
Đánh cho tận gốc, đánh quay mòng mòng
(Cung Văn 24-10-76, Bài trừ tận gốc )
 ___
(1) Walter Skrobanek là giám đốc một tổ chức cứu trợ trẻ em ở Sài Gòn. Nhật ký này bắt đầu từ ngày 28 tháng Tư năm 1975, dừng lại ngày 9 tháng Mười Hai năm 1975. Cuối năm 1975, Skrobanek rời khỏi Việt Nam. Cuốn nhật ký được ông giữ cẩn thận, nhưng gần như bị bỏ quên, cho đến năm 2006, khi đã về hưu, ông mới có dịp lật lại. Cơn bạo bệnh và cái chết bất ngờ vào cuối hè 2006 đã khiến Skrobanek không thể hoàn thành việc biên soạn lại cuốn nhật ký của mình. Ông đã không thực hiện được dự định đối chiếu những quan điểm của ông sau này với những quan sát và cảm nhận của ông năm 1975 ở Sài Gòn. Trong sự dở dang của nó, nhật ký Skrobanek được ủy thác lại cho những người có trách nhiệm xuất bản, trong đó có Viện Goethe Việt Nam, như một tài liệu lịch sử, ghi chép lại một giai đoạn có tính bản lề của lịch sử Việt Nam.
(nguồn: Talawas)
(2) nguồn: Phan Ba ‘s Blog, Nhật ký sau giải phóng)
(2bis)
Trích từ  bài viết  của tác giả Claudia Krich trong tập san WIN volume 13 năm 1977, xuất bản tại New York.  Bà Krich có mặt ở Quảng Ngãi từ năm 1973 đến năm 1975 để điều hành một trung tâm xã hội. Sau 30-4-75, bà là một trong số ít người được phép ở lại VN (hai tháng).  Về Mỹ bà viết và phổ biến hồi ký “Last days in Vietnam”:
In the early weeks of the new government, some overzealus students started a compaign to “clean up” bad literature. They did a public burning. The government immediately responded by asking the students to stop, stating:”We are civilized people, and we do not burn books…”
(3) Andre Gelinas: “Life in the New VietNam” The New York Review of Books số phát hành  ngày 17-3-1977 :
Frère Gelimas đến VN vào tháng 12 năm 1948, và ông ở đấy 28 năm, kể cả 15 tháng sau khi quân đội Bắc Việt chiếm Saigon.
Sau đây là đọan liên quan đến vịệc đốt sách do chính tay ông tự châm lửa:
… What struck me during the fifteen months I lived in Saigon after the takeover was the continual hardening of the regime. When the Bo Doi [the Liberation Army soldiers] entered Saigon on April 30, 1975 the first reaction among the people was one of fear. And then slowly they began to go out again. There were few acts of violence and, it seemed, few executions. The great “campaign” for “purification of morals and culture” took the form of vast autos-da-fé. All the adornments of “bourgeois” culture were to be destroyed. In our Center we had some 80,000 volumes, a large number of which we had to burn. Lists were compiled of all those who had collaborated with the old regime and of all “intellectuals,” i.e., those who had passed their first bachot or had gone beyond it.
(4) Nguyễn Hiến Lê: Hồi ký III
(5) nguồn: Thư quán bản thảo số 63 – trích thư của nhà thơ Viêm Tịnh gởi tòa sọan.
Reply
#14
Nếu có một lần nào , một dịp nào , khi tình cờ gặp một ai đó là cựu chiến binh VNCH năm xưa , xin hãy tỏ chút tình tương thân tương ái và tương kính với người lính đã hy sinh tuổi thanh xuân trong thời non nước điêu linh .


Lam Sơn

NGƯỜI CỰU CHIẾN BINH GIÀ

[Image: 350985377_960692821932841_20877971260167...e=648460A5]

Rồi đêm dài cũng hết, liếc thấy đã gần 11 giờ 30, tôi thu dọn lại những việc riêng của mình để sửa soạn ra bãi đậu, đóng sổ và kiểm tiền cho mấy người sắp hết ca về nghỉ.Trời khuya vắng lặng, tất cả chuyến bay đến đều đã đáp xong. Trong bãi đậu, một hai nhóm khách nhận hành lý trễ đang rảo bước tìm về xe của họ với hành lý kéo lê rồn rột theo sau.

Áng chừng phải mất 10 phút cho đám khách nầy lấy xe và lái ra cổng trả tiền, tôi thong thả rảo bước vòng quanh mấy trạm xem lại cửa nẻo. Mây vần vũ, gió lạnh, thế nào đêm nay cũng mưa to và bên trong booth, tức là cái trạm của người thâu tiền, máy móc và các hộc tiền sẽ ướt sũng nếu cửa để hở, vì khu vực phi trường trống trải, gió lồng lộng, chỉ cần mở hé cửa chừng một ngón tay, nước mưa sẽ vung vãi đầy trên các máy móc tính tiền và hệ thống đó hôm sau ắt gặp đủ thứ trở ngại.

Sau khi tắt hết các đèn chiếu sáng lối ra, cảnh vật trở nên âm u, chỉ còn đèn trong booth hắt xuống thành vệt dài trên nền xi măng xám xịt. Tôi chợt giật nẩy người khi suýt đụng vào một đống đen thui đang ngồi bệt xuống thềm, dựa lưng vào thành sắt đằng sau cái booth, thở phì phò, " hắn" phải mệt nhọc lắm mới ngồi đại xuống thềm xi măng lạnh lẽo đang ướt đẫm sương đêm. Một người da đen, trong chiếc áo bông bù xù, không rõ đàn ông hay đàn bà, đội chiếc mũ vải có vành nhỏ chung quanh như của mấy người lính biệt kích năm xưa hay đội, trời tối quá không nhìn được rõ mặt, tôi e ngại bước lui lại, hỏi:
- Sao "you" lại ngồi ở đây? You có cần giúp gì không?
Hơi thở phì phò đáp lại:
- Tôi không tìm được xe của mình…
rồi ngưng một chút như để lấy hơi thêm, hắn cáu kỉnh:
- Cái phi trường chết tiệt của mấy ông rắc rối quá, làm người ta lẫn lộn lung tung!
- Không đâu…
Tôi nói và chỉ vào hàng xe đang tiến đến đến gần cổng trả tiền, tôi bảo hắn:
- You có thấy mấy người kia không, họ tìm ra xe mình rất dễ dàng.
Hắn nói gần như lẩm bẩm trong miệng:
- Tôi không giống như họ.
Dĩ nhiên rồi, tôi thầm nghĩ, và để chấm dứt đôi co, tôi hỏi ngay:
- Xe you đậu ở đây bao lâu rồi?
- 7 ngày.
- OK, nhưng you có chắc là đậu trong bãi nầy không, phi trường còn có nhiều bãi đậu khác nhau nữa đó.
Hắn im lặng, tỏ vẻ phân vân, tôi hỏi tiếp:
- Vé gởi xe của you màu gì?
- Chẳng biết nữa, nó ở trong xe. Cái xe thì màu xanh, dark blue, Chevy 2000.
Sợ hắn nổi giận tôi không dám nói là ở trong nầy, dark blue Chevy 2000 có cả trăm chiếc như thế.
- Thôi cho tôi bảng số xe, tôi sẽ tìm ra nó nằm ở đâu rồi chỉ đường cho you đến đó, OK?
- Bảng số xe ư?
- Vâng, chúng tôi kiểm kê xe hằng đêm, bằng bảng số. You có vẻ không nhớ số xe mình hả?
- No way..
Những ngày đầu mới vào làm ở đây, tôi rất ghét những người chỉ có bảng số xe của mình mà cũng không nhớ được, nhưng sau một thời gian, tôi mới hiểu ra là họ có thể có nhiều xe, và thay đổi xe luôn chứ không phải chỉ đi có một chiếc, và cũng không phải khi nào xe chạy hết nổi mới đổi chiếc khác như mình nên tôi mới hết thấy bực mình về chuyện đó, còn giờ đây, một người mà sức khỏe tàn tệ như thế nầy thì việc không nhớ được số xe mình cũng là điều dễ hiểu, không đáng phải thắc mắc lắm.

Nhìn đoàn xe ra cổng đã gần hết, tôi sắp phải làm việc nên bảo người da đen:
- Gọi phone về nhà you xem có ai nhớ được số xe không rồi cho tôi hay, tôi phải đóng sổ cho người cashier nầy ra về đã rồi quay lại với you sau nhé.
Hắn nhìn tôi lo lắng:
- Còn ai ở nhà nữa đâu, chỉ có vợ tôi mà cũng đang ở đây với tôi.
- Thế thì tôi chịu thua luôn, làm sao giúp you được.
Rồi nhìn hắn ái ngại, tôi nói thêm cầu may:
- Trước khi đi, you ráng tìm xem có cái thứ giấy gì có thể có số xe ở trong đó không, giấy đăng bộ xe của DMV, giấy mua bảo hiểm xe… cố gắng lên, đó là cách sau cùng để có thể giúp ông được đấy – bây giờ thì tôi biết hắn là đàn ông rồi.
Hắn lồm cồm đứng dậy, một người đàn ông đen, mặt mày thô kệch, râu bạc lún phún đầy 2 bên má, chắc cũng phải 6, 70 tuổi hoặc hơn nữa, bước chân nặng nề đến bên quầng sáng của ánh đèn, khó khăn lắm mới móc ra được cái ví dày cộm, rồi lần lượt lôi ra các thứ giấy tờ. Tôi vừa làm việc mình vừa liếc nhìn giùm cho hắn, thấy cái giấy in chữ xanh quen thuộc của DMV, tôi thở phào: Nó kìa. Nhưng không phải, đó chỉ là cái giấy chứng nhận người đàn ông là handicap thôi, một người thương tật, thảo nào đi đứng khập khiểng, chậm chạp. Hình như một bàn tay cũng không xử dụng được, chỉ để chận cái ví cho tay kia lục lọi giấy tờ mà thôi. Tôi ái ngại nói với bà cashier người Mễ cũng đang theo dõi câu chuyện:
- Nầy Rosa, thôi bà đếm tiền đi nhé, tôi phải giúp hắn một tay đây.
- OK, dĩ nhiên, trông "him" cũng đáng thương quá, nhưng bà níu tay tôi nói nhỏ: mà ông coi chừng trễ giờ của tôi nhé, gần 12 giờ rồi đấy.
- Không sao đâu Rosa, tôi quay lại với bà ngay.

Trong cái mớ giấy tờ hỗn độn của gã đàn ông da đen nầy, tôi thoáng thấy được một loại giấy làm tôi rất xúc động, mà nếu không nhìn thấy nó, chưa chắc tôi đã hết sức giúp đỡ ông lúc ấy, loại giấy đó là cái thẻ DAV Goldcard Membership. DAV là Disabled American Veterans, Cựu chiến binh tàn phế Mỹ. Không biết ông ta có phải là một cựu chiến binh hay không, nhưng đã đóng góp giúp đỡ cho hội CCB nầy, đóng góp khá lâu và có thể là khá nhiều nên mới có thẻ Goldcard như thế, chia sẻ tiền trợ cấp tàn phế của mình cho những người tàn phế khác, thật cảm động, ông già da đen nầy cao hơn những gì tôi đã đánh giá về ông, "đừng đánh giá một con người qua bề ngoài của họ", bài học nầy đã được dạy tự bao giờ mà cứ vấp phải hoài. Tôi thấy ngượng, không dám nhìn vào mặt ông trong lúc ông cứ nhìn tôi chờ đợi. Tôi nhẹ nhàng nói :
-Giữ chặt những thứ nầy ông nhé, không thì gió thổi bay mất.
Sau khi bà Rosa xong việc và rời khỏi booth, thấy ông già có vẻ tin cậy mình và thân thiện hơn, tôi hỏi:
- Vợ ông đang đợi ở đâu?
- Trước cửa thang máy tầng 3, tôi cứ ngỡ là mình đậu xe ở đó.
- Được rồi, ông có nghĩ là còn loại giấy tờ nào liên quan đến chiếc xe nữa không?
Ông già lục lọi thêm nữa rồi đưa ra một cái giấy…chỉ có số VIN.
Thấy ông tìm giấy tờ một cách quá khó khăn và chậm chạp, tôi hỏi:
- Tôi có thể tìm giúp ông được không?
- Why not?... please!.

Cầm lấy cái ví và mớ giấy tờ hỗn độn vào trong cho khỏi bị gió thổi bay, tôi cẩn thận xếp cất lại những giấy tờ không cần thiết, và do đó ngỡ ngàng thấy được thêm một phần trái tim bao la nữa của ông lão tàn tật, đó là một phong bì có in sẵn địa chỉ của PVA, và xuyên qua ánh đèn sáng trắng, tôi thấy đã có một tấm check nằm sẵn ở bên trong. Tấm check ký bao nhiêu tiền thì tôi không biết, nhưng PVA và cái logo có hình người ngồi xe lăn thì với tôi không lạ gì, đó là Paralyzed Veterans of America, Cựu chiến binh bại liệt Hoa Kỳ. Hoá ra ông già đen đúa xấu xí nầy đây là ân nhân của cả 2 hội Cựu chiến binh Mỹ. Tôi không biết rõ lắm những hoạt động của 2 hội nầy vì không bao giờ đọc hết những giấy tờ của họ gởi, nhưng tôi biết họ là những cựu chiến binh, phục vụ giúp đỡ lại cho những cựu chiến binh khác yếu đuối, tàn phế hơn mình, hay nói theo cách những người Việt mình hay nói, tàn nhưng không phế.

Chúng tôi đứng nhìn nhau, đầy thiện cảm. Tôi nhìn ông, và không giấu diếm sự ngưỡng mộ nhưng không dám nói ra vì mình coi lén giấy tờ riêng tư của người khác, còn ông thì nhìn tôi tin cậy, nghĩ là chắc tôi sẽ tìm ra được chiếc xe của ông, tuy vậy, cuối cùng vẫn không có một chi tiết gì hơn về chiếc xe của ông cả, tôi quyết định phải chở ông đi vòng quanh các bãi đậu để cho ông nhìn từng chiếc một, và như vậy tôi có thể về nhà trễ hơn thường ngày chừng nửa giờ.

Tôi bảo ông gọi cho bà vợ, dặn cứ chờ tại chỗ và hỏi bả xem có nhớ được gì thêm về việc đậu xe hay không rồi cho biết khi tôi trở lại, vì tôi phải vào văn phòng nộp hết báo cáo của cashier mới chấm dứt nhiệm vụ của mình hôm nay. Hơn 20 phút sau, quay lại với xe riêng của mình thì bà vợ của ông cũng đã đến đó, với mớ hành lý hỗn độn. Bà cũng là một người da đen, nhỏ con, nói năng nhỏ nhẹ dịu dàng thật khác hẳn với anh chồng .

Họ tự giới thiệu: Paul và Helena, trong lúc chúng tôi đã yên vị trên xe.
- Gọi tôi là Tony ông bà nhé.
- Okedo.
Paul bật ra tiếng OK mà những người lính hay dùng làm tôi nghe mà xúc động, tưởng như nghe bạn mình đang nói trên tần số vô tuyến như những ngày nào.
Họ có vẻ rất yên tâm, thoải mái hẳn ra, còn tôi rất vui được có dịp giúp đỡ nhưng người có tấm lòng tốt như họ.
Paul không phải là người vui chuyện kể lể ba hoa như những người da đen khác, ông nói ít giọng trầm trầm có lẽ tại tuổi già, tôi khơi chuyện của mình trước mà cũng có ý ngầm tìm hiểu thêm về Paul :
- Ở tuổi của ông chắc có nghe nói đến chiến tranh Việt Nam, quê hương của tôi đó Paul, tôi rời quê sang đây đã 15 năm .
Cả 2 người im lặng hồi lâu, rồi Paul cất giọng khàn khàn.
- Tôi đã ở đó… đơn vị tôi đóng đâu đó trên vùng cao nguyên, tên là An Khê.
- Thật thế ư, còn tôi thì ở Pleiku, không xa nơi đó là bao nhiêu, chắc ông cũng thường được yểm trợ từ phi trường Pleiku chứ.
- Vâng, dĩ nhiên…hầu như mỗi ngày, và rồi một lần… chuyện chết tiệt ấy xảy ra cho tôi, họ mang tôi về Mỹ, cưa cụt chân, và để tôi rời quân đội từ đó, năm 1967.
Sợ nhắc đến chuyện cũ làm ông không vui, tôi hỏi qua hướng khác :
- Năm 67, chắc ông còn trẻ lắm, lúc ấy đã có bồ chưa ?
- Vào ngày giải ngũ, tôi vừa đúng 20. Helena còn ở lại Việt Nam, nàng là một y tá, về Mỹ năm sau rồi lại phải sang Âu châu. Tôi trở lại trường Đại học, nhưng không học hành được gì, chỉ tối ngày biểu tình phản chiến, rồi nghiện ngập, chán chường, suýt tự tử. May sao đó là lúc Helena trở về…
Paul không biết diễn tả gì hơn nữa, chỉ chậm rãi gật gù, nói thêm nhè nhẹ :
- Nàng là một thiên thần, đối với tôi.
- Dĩ nhiên rồi, tôi thấy bà rất dịu dàng đối với ông…
và muốn nói thêm với Paul : Ông cũng là một thiên thần, tuy rằng đã gãy cánh, nhưng vẫn cứ là một thiên thần đối với những người bất hạnh khác. Nhưng tôi đã yên lặng. Paul chắc là loại người không thích những lời khen.

Chạy vòng chầm chậm qua các dãy xe, chúng tôi lại nói chuyện, Paul và Helena có vẻ thân mật, tin cậy hơn, họ kể thêm về cuộc sống gia đình, kể về tiểu bang Alabama, nơi ông và Helena lớn lên. Không văn hoa màu mè, Paul thành thực kể lại nỗi đau của những người lính trở về, nhất là những cựu chiến binh da đen như ông, những người nổi loạn bị cảnh sát đánh đập, dân tình cũng hất hủi, đến nỗi ông phải bỏ xe lăn tập đi nạng, rồi phải bỏ nạng đi bằng chân giả, cắn răng nuốt xuống nỗi đau vừa tâm hồn vừa thể xác để đi học, cố kiếm lấy mảnh bằng chỉ để làm giáo viên thôi, vì một bàn tay ông cứ tê liệt dần và rồi thì không còn cử động mấy ngón tay được nữa…
Tôi cố gắng trở lại cái điều mà tôi muốn hỏi :
- Là một cựu chiến binh, hẳn ông hiểu họ nhiều lắm nhỉ ?
- Đương nhiên rồi, tôi hiểu họ lắm ông Tony ạ, vì tôi đã từng là họ. Làm xong bổn phận của một người lính, cho dù có là một anh hùng đi chăng nữa, cụt chân trở về, cởi trả quân phục, họ như những con chim bị vặt trụi hết lông, không có ngay đến lớp áo để tự vệ, mà cũng không thể giấu mình hoài trong tổ được, phải chui ra ngoài để kiếm ăn nữa chứ…
…giọng ông vẫn trầm trầm như thương cảm cho những người cựu chiến binh nào đó, không hề có ẩn giấu một chút gì cay đắng cho chính số phận của mình …
- Tôi luôn luôn cố gắng làm một cái gì cho họ, nhưng có làm được gì nhiều đâu, lâu lâu mới giúp được một món quà nhỏ trong cái trợ cấp của mình, thế thôi.
- Thế là đã nhiều lắm đối với ông rồi, Paul ạ. Càng thiếu thốn sự chia sẻ của ông mới càng cao quí. Thế bây giờ ông có làm một công việc gì thêm nữa không - tôi nói nửa đùa nửa thật - chỗ chúng tôi đang còn cần nhiều cashier lắm đó.
Paul bình thản trả lời :
- Làm gì còn thì giờ nữa ông, mẹ của Helena cảm ơn Chúa bà vẫn còn sống, Helena thì dạy học cho lũ trẻ và làm việc ở nhà thờ, tôi phải ở nhà chăm sóc bà cụ một buổi, còn buổi chiều vào Bệnh viện quân đội giúp việc thiện nguyện. Chúng tôi sống tạm đủ, có cần tiền vào việc gì nữa đâu …
Tìm được chiếc xe của Paul không khó lắm, tôi phụ giúp 2 ông bà chuyển đồ đạc sang xe họ, khi tôi vừa đóng nắp thùng xe thì 2 người đã đứng sát sau lưng. Trong tay cầm sẵn mấy tờ giấy bạc, bà Helena trang trọng nói :
- Cảm ơn Tony, nếu không có ông giúp thì đêm nay chúng tôi không biết sẽ ra sao trong cái phi trường rộng lớn nầy, chúng tôi hết sức biết ơn sự giúp đỡ của ông mặc dù ông chưa bao giờ biết chúng tôi, Chúa sẽ phù hộ cho ông .
Hít một hơi dài trấn tĩnh, tôi giữ chặt trong tay mình những bàn tay đen đúa của họ, nói chậm rãi :
- Hai người đừng bận tâm, tôi chỉ làm công việc thường ngày của mình thôi. Vâng, tôi chưa hề gặp ông bà lần nào, nhưng ông Paul đây cũng đâu có biết một người Việt Nam nào mà ông vẫn sang chiến đấu cho quê hương chúng tôi, đổ máu trên đất nước chúng tôi, và cuối cùng đã bỏ lại những phần thân thể trên đất nước không phải là của ông mà là của chúng tôi, vì vậy tôi mới là người phải nói lên những lời cảm tạ và biết ơn quí bạn về việc đó…
Paul hẳn là không thích nghe người khác ca tụng mình, ông lắp bắp :
- Thôi…thôi Tony, đó chỉ là làm nhiệm vụ thôi, đã ở trong quân đội thì ông cũng biết rồi.
- Vâng, cứ cho là như vậy, còn bây giờ thì sao, khi ông vẫn tiếp tục giúp đỡ đồng đội, những cựu chiến binh thương tật khác. Còn có nhiều người như mình nữa, ông Paul ạ, nghĩa là những cựu chiến binh như chúng ta, nhưng họ có làm như ông đâu. Khi nhìn thấy tấm thẻ DAV và PVA của ông, tôi kính phục tấm lòng của ông lắm, mặc cho chuyện gì đã xảy ra, ông vẫn không quên các quân nhân, các đồng đội, ghét chiến tranh nhưng yêu mến chiến binh ông nhỉ. Ông bà rất xứng đáng được Chúa phù hộ và bảo vệ. Số tiền nầy nếu ông bà muốn cho tôi thì cho phép tôi đóng góp vào phần giúp đỡ của ông bà cho họ nhé.

Thôi đã quá khuya rồi, xin tạm biệt, chúc hai ông bà lên đường bình an.
Cả hai người đều xúc động, họ cầm tay tôi khàn khàn nói tiếng cảm ơn, trong cái ôm vai của những người không quen biết nhưng đã hiểu nhau, tôi thấy mắt Paul đẫm ướt, nhưng chỉ một bên thôi, còn con mắt bên kia vẫn trong sáng, vô hồn. Ô, hoá ra những gì mà Paul bỏ lại trên quê hương tôi năm nào, không phải chỉ có một bàn tay, một bàn chân mà còn có thêm một con mắt nữa.
Ông Paul ơi, cơ thể ông thương tổn như vậy mà tấm lòng thì bao la vô cùng. Xin chân thành cảm ơn ông.

Vĩnh Toàn 
Reply
#15
CẢM TỬ QUÂN BIỆT HẢI - NGƯỜI NHÁI TRONG QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ

 Lực lượng Biệt Hải:



Trong bài viết giới thiệu hoạt động của đơn vị Nghiên cứu và Quan sát (SOG) thuộc bộ chỉ huy Yểm trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), chúng tôi đã trình bày sơ lược về hoạt động của các toán biệt kích thuộc SOG vào khu vực duyên hải phía Bắc. Riêng với Lực lượng Biệt Hải thuộc sở Phòng vệ Duyên Hải, đây là một đơn đặc nhiệm gồm các chiến binh tình nguyện được tuyển chọn từ các đơn vị Lục quân, Hải quân và nhân viên dân sự. Sau khi sơ tuyển, quân nhân thuộc lực lượng được huấn luyện và tổ chức thành các toán đặc nhiệm SEAL (Sea, Air and Land) để xâm nhập vào miền Bắc bằng các cuộc đổ bộ bằng đường thủy. Ngoài các toán SEAL, sở Phòng Vệ Duyên Hải còn sử dụng các tốc đỉnh để tiến hành các công tác đặc nhiệm như: lùng kiếm và tấn công các tàu tuần tiễu CSBV từ hải phận tỉnh Thanh Hóa trở vào, chận bắt tàu thuyền CSBV xâm nhập vào miền Nam.



[Image: 352287583_639182957749170_44589142326983...e=6485F2E4]



Về tổ chức, lực lượng Biệt Hải được chia thành ba nhóm: Vega, Lucky, Romulus và tất cả sống trong các trại dọc theo bãi biển Mỹ Khê đến chùa Non Nước. Trại nọ các trại kia khoảng 1 km. Mỗi trại đều có các Biệt kích quân (Dân sự chiến đấu) lo việc canh gác, ẩm thực. Các chiến binh Biệt Hải chỉ việc ăn, tập, thi hành công tác.



Về nhiệm vụ, nhóm Vega được huấn luyện đổ bộ đột kích, phá cầu bằng chất nổ và bắt người từ Bắc về để khai thác tin tức tình báo. Nhóm này sử dụng Bazooca và 75 ly không giật.



Nhóm Romulus chuyên lặn bình hơi và đổ bộ bằng cách nhảy dù xuống biển, mang theo bình hơi và xuồng cao su.


Nhóm Lucky thi hành công tác phá hoại kinh tế, tuyên truyền, gây xáo trộn tinh thần trong hàng ngũ địch. Nhóm này thường bắt ngư phủ trong các hợp tác xã CSBV, đem về làng kiểu mẫu thành lập tại Cù Lao Chàm nuôi nấng, cho ăn uống sung sướng, sau đó họ được thả về lại Miền Bắc để tuyên truyền.

(TT huấn luyện người nhái - Cam Ranh 1970)

[Image: 352374100_962564331712364_45942472496207...e=64873759]


(Trong bài viết về đơn vị SOG, dựa theo tài liệu của đại tướng Westmoreland, VB đã ghi lại hoạt động của một bộ phận thuộc đơn vị này đã sử dụng thuyền máy để bắt các thường dân miền Bắc, đa số là ngư phủ, và đưa họ về một trại nhỏ ngoài khơi bờ biển ngang khu Phi Quân sự. Khi các ngư dân bị bắt về đây, họ bị đánh lạc hướng để tưởng mình với ở trên đất liền của miền Bắc. Những người tiếp xúc với họ là nhân viên tình báo cải trang giả dạng làm cán bộ CS để hỏi thăm tình hình tại địa phương họ ở và từ từ làm thay đổi lối suy nghĩ của họ. Họ bị giữ từ 6 đến 8 tuần nhưng được ăn uống ngon lành, được chăm sóc sức khỏe và hàm răng chu đáo. Ngày được trả tự do, họ được tặng mỗi người một máy thu thanh chỉ bắt được các đài của miền Nam và nhiều vật dụng, áo quần, kim chỉ, đồ chơi. Tất cả các thứ này dùng để tạo trong đầu người dân miền Bắc ấn tượng tốt đẹp về sự khoan hồng và độ lượng của chính phủ VNCH).

Trở lại với hoạt động của các toán Biệt hải, trước khi thực hiện một công tác nào thì nhân viên phải trải qua một cuộc huấn luyện và thực tập dựa theo địa hình, địa vật của những địa điểm mà các toán Biệt hải sẽ xâm nhập để thi hành công tác. Khi lực lượng Hải tuần chưa thành lập, CSBV bố trí các vị trí đóng quân dọc theo duyên hải kể từ phía Bắc vĩ tuyến 17. Về sau, các đơn vị CSBV đó bị các toán Biệt hải tấn công, nên CSBV đã dời quân vào nội địa.

* Một số chiến tích của các toán Biệt hải

Trong năm 1964, các cảm tử quân Biệt hải đã lập được nhiều chiến tích qua một số cuộc đột kích xâm nhập vào khu vực duyên hải miền Bắc có căn cứ quân sự của CSBV, trong đó có cuộc tấn kích diễn ra vào cuối tháng 7/1964: Dựa trên các không ảnh tình báo chụp các vị trí của quân CSBV ở phía Bắc vĩ tuyến 17, từ Đồng Hới đến Thanh Hóa, bộ chỉ huy Biệt hải đã khởi động một cuộc tấn kích với nỗ lực chính các toán Biệt hải. Đúng vào giờ G ngày N (31) tháng 7/1964, cảm tử quân Biệt kích với lối đánh tốc chiến đã quân tấn công các vị trí của CSBV đặt tại hòn đảo Mé và hòn đảo Ngự. Tại hòn đảo Mé, cảm tử quân Biệt hải đã tấn kích và phá hủy một đài radar của CQ, cùng thời gian này, tại hòn đảo Ngự, một toán Biệt hải khác đã tấn kích đài tiếp vận truyền tin của CQ, vị trí thứ hai này nằm gần Vinh- thị xã tỉnh lỵ tỉnh Nghệ An, cách Bến Hải hơn 185 km. Vào ngày N+3 (3 tháng 8/1964), một toán đặc nhiệm Biệt hải đã tấn kích bằng pháo vào đài radar chính của CQ tại mũi Vinh Sơn, phía Nam thị xã Vinh và trạm an ninh của CQ ở gần Rón thuộc vùng nói trên.

Để xâm nhập vào các mục tiêu nói trên, các cảm tử quân Biệt hải được hải vận ra thật xa ngoài biển trước khi dùng tàu nhỏ để bí mật đổ bộ quay vào đất liền. Trong cuộc hành quân, bộ chỉ huy Biệt hải đã mất nhiều tháng để soạn thảo kế hoạch. Các cảm tử quân được tập dượt kỹ càng dựa theo địa hình, địa vật được tạo dựng lại dựa theo không ảnh, và được hướng dẫn những cách đối phó trong các trường hợp nguy kịch, ngoài dự kiến của kế hoạch.




[Image: 352661047_263107876390815_34301188188930...e=648684C0]

(Phù hiệu người nhái)


*Lực lượng Hải Tuần/ Sở Phòng vệ Duyên hải:

Sở Phòng vệ Duyên Hải thuộc Nha Kỹ thuật đặt bản doanh tại Tiên Sa, Đà Nẵng, gồm lực lượng Hải Tuần và Lực lượng Biệt Hải. Lực lượng Hải Tuần thuộc Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, xử dụng thuyền máy, tàu PCF và PT. Riêng PT là loại tốc đỉnh có tốc độ khá nhanh (80 cs/giờ) cùng hỏa lực mạnh để hoạt động từ phía Bắc vĩ tuyến 17 trở ra. Từ khi khởi sự hoạt động đến thời kỳ phát triển mạnh, lực lượng Hải Tuần đã qua các giai đoạn sau đây:

Đầu năm 1964, theo kế hoạch của Liên quân Việt-Mỹ, Hải quân Hoa Kỳ hoạt động tại khu vực Thái Binh Dương đã biến cải hai hộ tống hạm dài hơn 55 mét để chuyển giao QL.VNCH. Thủy thủ đoàn của Hải quân VNCH được điều động để phục vụ trên hai tàu này. Theo kế hoạch hoạt động, cả hai chiến hạm đều đậu ở ngoài khơi Đà Nẵng để thực hiện các cuộc hải tuần kiểm soát con đường biển gần vĩ tuyến 17 và săn lùng các tàu đánh cá giải dạng đưa quân CSBV xâm nhập vào miền Nam. Sau một thời gian hoạt động, các chuyên viên Hải quân Hoa Kỳ và cố vấn Hải quân của SOG nhận thấy rằng vận tốc của hai hộ tống hạm chỉ ở mức 23 km/giờ được xem là chậm cho các cuộc tấn công săn lùng tàu của CSBV, do đó các cố vấn Hải quân của SOG đã biến cải 12 giang tốc đỉnh Swiff để sử dụng trong các cuộc hành quân bí mật. Với vận tốc 80km/1 giờ, các giang tốc đỉnh được võ trang với đại bác 40 ly, và các vũ khí nhẹ. SOG đã đưa thủy thủ đoàn giang tốc đỉnh và các biệt kích từ Long Thành đi huấn luyện xâm nhập bờ biển và oanh kích vùng cận duyên. Các toán này được huấn luyện tại một căn cứ bí mật ở phía Nam gần Sài Gòn.

Các giang tốc đỉnh đã tập dượt chạy ra ngoài khơi miền Nam Việt Mam xa bờ từ 100 đến 110 km để có thể tiến gần từ ngoài biển vào Bắc Việt vì con đường biển sát bờ rất đông thuyền bè qua lại khó lòng mà lọt và không bị theo dõi phát hiện .

[Image: 352418227_759026222577567_68584528115852...e=6486CDEB]

(Biệt hải - Người nhái )



Theo ghi nhận của đại tướng Westmoreland-tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại VN kiêm chỉ huy trưởng bộ Chỉ huy Yểm trợ Quân sự Hoa Kỳ (MACV) thì các đơn vị Hoa Kỳ ít tham gia vào các hoạt động bên trong miền Bắc ngoại trừ một số người nhái theo chân các toán tuần tiễu hay yểm trợ trên bờ để giải cứu phi công bị bắn rơi máy bay. Chỉ huy trưởng đơn vị đặc nhiệm Hoa Kỳ là đại tá Johnson lúc nào cũng có các toán tinh nhuệ ứng trực để đi giải cứu khi được gọi đến. Mỗi lần đi tiếp cứu như vậy, họ được chở bằng trực thăng ra ngoài hạm đội, từ đó trực thăng sẽ chở các cảm tử quân này vào bờ biển miền Bắc. Các cảm tử quân Biệt hải đã gan dạ một cách đáng phục thì các toán viên tiếp cứu này lại càng gan dạ gấp bộ để cứu nguy đồng đội ngay trong vùng địch. (Biên soạn dựa theo hồi ký của cựu đại tướng Westmoreland-nhà xuất bản Thế giới, tài liệu của LLĐB Việt Nam Cộng Hòa và LLĐB Hoa Kỳ, một số bài viết trong tạp chí KBC).


Vương Hồng Anh.
Reply