Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
Texas House Advances Hóa đơn tiền tệ kỹ thuật số được hỗ trợ bằng vàng
Texas đã thực hiện những bước đầu tiên để phê duyệt dự luật phát hành tiền kỹ thuật số được hỗ trợ 100% bằng vàng. Nếu được ban hành thành luật, dự luật đang được thảo luận bởi ủy ban Hạ viện Texas, sẽ tạo ra một hệ thống điện tử để người dùng giao dịch và thanh toán bằng loại tiền kỹ thuật số này, đồng thời cũng sẽ cho phép họ thực hiện các giao dịch mua lại vàng hoặc tiền xu, hỗ trợ cho nó.
Ủy ban Hạ viện Texas thông qua Dự luật tiền tệ kỹ thuật số được hỗ trợ bằng vàng
Một ủy ban của Hạ viện Texas đã thực hiện những bước đầu tiên trong cuộc thảo luận về dự luật tạo ra một loại tiền kỹ thuật số được hỗ trợ 100% bởi loại vàng. Dự luật, được xác định là HB4903, được Dân biểu Mark Dorazio giới thiệu vào ngày 10 tháng 3, đã nhận được sự ủng hộ của 42 nhà tài trợ và sẵn sàng được Ủy ban Các vấn đề Nhà nước của Hạ viện thông qua để được Hạ viện bỏ phiếu thông qua.
Dự luật quy định rằng cơ quan kiểm soát của nhà nước sẽ “thiết lập một loại tiền kỹ thuật số được hỗ trợ bởi vàng để mỗi đơn vị tiền kỹ thuật số được phát hành đại diện cho một loại tiền cụ thể.
một phần troy ounce vàng được ủy thác.” Theo cách tương tự, nhà nước sẽ phải thiết kế một hệ thống điện tử để cho phép công dân tự do giao dịch bằng loại tiền này để thực hiện thanh toán.
Quyền giám hộ và chuộc lại
Dự luật, ở trạng thái hiện tại, xác định rằng việc lưu giữ vàng hỗ trợ tiền kỹ thuật số sẽ được cung cấp bởi cơ quan kiểm soát của bang Texas hoặc có thể được giao cho bên thứ ba, bên này sẽ phải duy trì cùng một lượng vàng như việc phát hành tiền kỹ thuật số, khiến nó trở thành loại tiền kỹ thuật số được hỗ trợ 100%.
Việc quy đổi tiền tệ sẽ được xử lý bằng vàng hoặc bằng tiền, với cơ quan kiểm soát của nhà nước hoặc bên thứ ba đã ký hợp đồng quản lý các khoản quy đổi này. Theo ước tính, việc thực hiện dự luật này sẽ tiêu tốn của tiểu bang 25 triệu đô la cho một hệ thống hạn chế, với một hệ thống giao dịch chức năng hơn có giá lên tới 100 triệu đô la.
Tuy nhiên, dự luật đã nhận được sự ủng hộ từ cơ sở, bằng chứng là một tài liệu dài 78 trang được giới thiệu vào ngày 26 tháng 4, được ký bởi một số người dân Texas kêu gọi phê duyệt luật tiền tệ lành mạnh này.
Các tiểu bang khác cũng đang theo đuổi luật để thiết lập các lựa chọn thay thế cho đồng đô la Mỹ như một loại tiền tệ dự trữ và giao dịch. Vào ngày 11 tháng 4, Arkansas đã thông qua dự luật hợp pháp hóa vàng và bạc, cho phép công dân của mình sử dụng loại vàng này để thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ một cách hợp pháp mà không liên quan đến thuế, và 23 bang khác cũng tham gia vào luật tương tự.
Bạn nghĩ gì về dự luật tiền kỹ thuật số được hỗ trợ bằng vàng của Texas? Hãy cho chúng tôi biết trong phần bình luận bên dưới.
Theo: https://news.bitcoin.com/texas-house-adv...ency-bill/
The following 1 user Likes duke's post:1 user Likes duke's post
• TanThu
Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
Good morning VB
Mới đọc bài này hay quá, rinh về share với các bạn (xin giữ nguyên văn bài viết)
NẾU CÒN HÃNH DIỆN MÌNH LÀ NGƯỜI DÂN MIỀN NAM, XIN CHỚ DÙNG LOẠI CHỮ VÔ NGHĨA CỦA VIỆT CỘNG!
Việt cộng chửi cha tiếng Việt
1. Việt cộng viết: Tàu ngầm Kilo không nhận lính con gái
(đăng trên điện báo VTC News của Việt Cộng)
“Lính con gái” là cái chó gì? Chữ dùng đúng phải là nữ quân nhân.
2. Việt cộng viết: Chiến sĩ nhí
(đăng trên tờ điện báo VTC News ngày 17 tháng 6 -2015)
Chữ dùng đúng phải là Thiếu Sinh Quân. Dùng chữ “chiến sĩ nhí” là không nghiêm túc, là chửi cha chính thằng viết bài, chửi cha tiếng Việt, chửi cha độc giả, coi thường độc giả và chửi cha luôn các cậu bé đang được huấn luyện trong quân đội!
3. Việt cộng viết: Chuyên cơ
Chữ dùng đúng phải là phi cơ riêng.
4. Việt cộng viết: Cơ trưởng, cơ phó
(Chữ dùng đúng phải là phi công chính, phi công phụ.)
Theo Tự Điển Việt Nam của hai tác giả Lê Văn Ðức và Lê Ngọc Trụ thì: “Cơ” có nghĩa là: Cơ khí, máy móc.
Phi công chính là người phụ trách lái máy bay và chỉ huy luôn toàn bộ phi hành đoàn, gồm phi công phụ và các tiếp viên.
Phi công là nghề cao quý vì nghề nghiệp của họ đòi hỏi phải có thể lực tốt, phải có trình độ văn hóa giỏi và nhất là phải có đạo đức, vì họ nắm trong tay hàng trăm sinh mạng của hành khách. Nếu tai nạn xảy ra, toàn bộ người trên máy bay sẽ bị thiệt mạng, và còn có thể làm cho nhiều người dưới đất bị chết.
Do đó, phải dùng chữ “phi công chính” mới lột tả hết được những đặc tính nghề nghiệp của nghề phi công. Không thể tùy tiện sáng chế ra mấy chữ “cơ trưởng,” “cơ phó” để “hấp diêm” bôi nhọ tiếng Việt và chửi cha tiếng Việt!
Nghề phi công thì phải dùng đúng chữ của nó là “phi công”. Không thể tùy tiện biến nghề đó thành ra “máy trưởng” (thợ máy) Nếu cứ tình trạng tùy tiện này thì có lẽ trong tương lai sẽ xuất hiện thêm chữ mới như “nước trưởng” (chủ tịch nước !)
Trước đây, Việt Cộng thường dùng chữ “giặc lái” hoặc “tổ lái” để chỉ các phi công của Việt Nam Cộng Hòa và phi công Mỹ!
Thật là đáng buồn, người ta nói hiện nay, nước Việt Nam đang ở trong thời đại sâu bọ lên làm người là rất đúng. Những thằng ba đời thất học, là bần cố nông, thì bây giờ nó đang nắm trong tay những phương tiện truyền thông, cho nên bọn chúng tha hồ làm mưa làm gió, viết láo, viết bậy, chửi cha tiếng Việt, riết rồi đến mức, người Việt đọc tiếng Việt cũng không thể hiểu được gì nữa.
Ðây chính là một tội ác rất lớn của bọn Việt Gian Cộng Sản, đã dùng những thằng bần cố nông ba đời ngu dốt làm “tổng biên tập” các báo điện tử như TVC News, Kiến Thức, xâm lăng các cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại!
5. Việt cộng viết: Mặt bằng
– Chúng tôi đang tìm kiếm mặt bằng để xây dựng nhà máy
Chữ dùng đúng là miếng đất hoặc khu đất.
– Cần thêm mặt bằng để nới rộng phòng khách
Chữ dùng đúng là diện tích.
6. Việt cộng viết: Cán bộ giải phóng mặt bằng
– Ðây là sự lươn lẹo về từ ngữ, “cán bộ giải phóng mặt bằng” chính là bọn cán bộ Việt Cộng chuyên đi ăn cướp đất, cướp nhà của người dân. Quý vị vào YouTube sẽ thấy bọn “cán bộ giải phóng mặt bằng” ở huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An, đến nhà ông Nguyễn Trung Cang và bà Mai Thị Kim Hương để lập biên bản, “giải phóng mặt bằng” (ăn cướp đất)!
Có lẽ trên thế giới chỉ duy nhất ở Việt Nam có cái nghề hết sức quái đản này: “Cán bộ giải phóng mặt bằng”
7. Việt cộng viết: Thể hiện
Ví dụ: Bài hát “Ðón Xuân.” - Ca sĩ thể hiện: ABC
Dùng chữ “thể hiện” là không đúng. Trong trường hợp này phải dùng chữ “trình diễn” hay “trình bày.“
Thể hiện là một cái gì chưa rõ, chưa đủ sức thuyết phục, gây được lòng tin nơi người khác, do đó nó phải được thể hiện thành hành động.
Ví dụ:
– Những lời hứa hẹn giúp đỡ người nghèo đều đã được mọi người thể hiện bằng những hành động cụ thể.
– Các thanh niên đã thể hiện lòng ái quốc của mình bằng cách xung phong ra chiến trường.
8. Trước năm 1975, chúng ta thường dùng chữ “trình diễn” hay “trình bày.”
Ví dụ:
– Chúng tôi xin giới thiệu: Bài hát “Cánh Thiệp Đầu Xuân” của Lê Dinh, ca sĩ trình bày: Thanh Thúy!
Khi giới thiệu một bản nhạc, người quốc gia luôn luôn giới thiệu tên nhạc sĩ sáng tác và ca sĩ trình bày. Trong khi đó, bọn Việt Cộng chỉ giới thiệu tên ca sĩ, còn tên nhạc sĩ không bao giờ được giới thiệu, kể cả khi bọn chúng phát hành những video, CD hoặc băng cát xét.
9. Việt cộng viết: Ca từ
Chúng ta thường dùng chữ “nhạc và lời“.
Ví dụ: Giới thiệu bài hát “Chiều Lên Bản Thượng,” nhạc và lời của Lê Dinh.
Hai chữ “ca từ” hoàn toàn vô nghĩa, chỉ có bọn cán ngố Việt Cộng mới dùng!
10. Việt cộng viết: Kỹ sư dân sự
Ðây là chữ dùng sai và vô nghĩa. Những tên cán ngố Việt Cộng dịch từ chữ “Civil engineer.“
Trước năm 1975, chúng ta thường gọi là “kỹ sư công chánh.“
11. Việt cộng viết: Gậy tự sướng
(đăng trên báo điện tử VTC News của Việt Cộng)
– Công nhân sở điện lực Hà Nội dùng gậy tự sướng để ghi số điện tiêu thụ trong đồng hồ điện.
Gậy tự sướng là cái… chó gì? Ðại khái, đó là cây gậy có gắn camera, dùng để “đọc” và lưu lại trong bộ nhớ những con số trong đồng hồ điện. Ở Hà nội, những đồng hồ điện thường được gắn trên cao nơi cột điện. Trước khi có gậy tự sướng thì công nhân phải bắc thang, trèo lên và ghi chép bằng tay.
12. Việt cộng viết: Ðâm xe liên hoàn trên cao tốc TP. HCM – Trung Lương
(báo VTC News online, ngày 13-8-2015).
– Hai xe đâm nhau, hai tàu thủy đâm nhau
Nhận xét: Chữ dùng đúng phải là “tông,” “tung” hoặc “đụng” chớ không có đâm chém gì ở đây hết!
- Thế nào là liên hoàn? Liên hoàn là thành một vòng tròn.
Ví dụ: – Xe số một tông xe số hai, xe số hai tông xe số ba, rồi xe số ba lại tông xe số một …
Còn đụng xe trên xa lộ, nhiều xe nối đuôi nhau, tông nhau thì người ta nói là đụng xe giây chuyền.
13. Việt cộng viết: Cặp đôi
– Họ là cặp đôi hoàn hảo.
– Cặp đôi siêu mẫu X và Y vừa mới đi nghỉ mát tại Ý.
– Cặp đôi tình nhân ôm nhau vỡ òa hạnh phúc!
Nhận xét:
Ðã “cặp” rồi lại còn “đôi”. Sao mà ngu quá vậy, mấy thằng cán ngố?
Trong tiếng Việt, chữ “cặp” tượng trưng cho con số 2, chữ “đôi” cũng tượng trưng cho con số 2.
Ví dụ, chúng ta thường nói:
– Làm ơn đưa cho tôi đôi đũa (chớ không ai nói ngu là CẶP ÐÔI ÐŨA).
– Tôi vừa biếu ông ấy một cặp rượu (chớ không ai nói ngu là CẶP ÐÔI RƯỢU).
– Ðôi tình nhân rủ nhau đi nghỉ mát tại Ðà Lạt (không có ai ngu nói là CẶP ÐÔI tình nhân),
– Mấy tên cán ngố thường dùng mấy chữ “cặp đôi hoàn hảo” là dịch từ chữ “a perfect couple” trong tiếng Anh.
Tiếng Việt chúng ta có câu tương đương: Ðôi tình nhân thật xứng, hoặc xứng đôi vừa lứa.
Không có ai nói ngu là: CẶP ÐÔI HOÀN HẢO hết!
Ngay cả dân hai lúa nó cũng không nói như vậy!
14. Cũng như trường hợp cán ngố “tổng biên tập” dịch chữ “civil engineer” thành ra “kỹ sư dân sự ”
Cứ thấy chữ “civil” là máy móc dịch thành “dân sự ”. “Kỹ sư dân sự” là cái chó gì! Chẳng ai hiểu tụi bay muốn nói cái gì!
Cái đầu óc khỉ đột làm gì có một chút tế bào não nào trong đó mà học!
15. Việt cộng viết: Trại bò Ba Vì, sau khi khám sức khỏe một ngàn cá thể bò thì phát hiện ra mười cá thể bò bị bệnh!
– Trong thùng đồ hộp này có chứa hai mươi CÁ THỂ hộp cá mòi.
– Vườn cây ăn trái của tôi có hai mươi CÁ THỂ xoài, mười CÁ THỂ dừa, năm CÁ THỂ mít!
Nhận xét:
Tự nhiên lại làm cho ngôn ngữ thêm phức tạp, rắc rối bằng cách thêm hai chữ “cá thể” vào!
“Một ngàn CON bò” dễ hiểu hơn là “một ngàn CÁ THỂ bò”
“Hai mươi CÂY xoài” dễ hiểu hơn là “hai mươi CÁ THỂ xoài”
“Năm cây mít” chắc chắn phải dễ hiểu hơn là “năm CÁ THỂ mít”
“Hai mươi hộp cá mòi” là đủ nghĩa rồi, tại sao lại thêm hai chữ “CÁ THỂ” vào?
Ðúng là bọn ngu dốt , chuyên chửi cha tiếng Việt!
16. Việt cộng viết: Ðộng thái
– Trung Quốc đang triển khai ÐỘNG THÁI đưa dàn khoan 981 đến gần Ðà Nẵng.
Nhận xét:
“Ðộng thái” là cái chó gì hở ? Chữ này hoàn toàn không có trong tự điển!
Thiếu gì chữ dùng cho câu văn trên, ví dụ như: hoạt động, hành động, kế hoạch ..vv..
17. Việt cộng viết: Xuất viện, nhập viện
– Anh ta vừa mới xuất viện (ý nói ra khỏi bệnh viện)
– Ông ấy vừa mới nhập viện (ý nói vào bệnh viện)
Ở Việt Nam có rất nhiều “viện.”
Chẳng hạn như: viện Khổng Tử, viện Mác Lê, viện uốn tóc, viện bảo sanh, viện mồ côi, viện dưỡng lão, viện bảo vệ bà mẹ
và trẻ em...... Vậy “nhập viện” và “xuất viện” là viện nào hở?
Nếu muốn nói đi bệnh viện hoặc rời bệnh viện thì phải nói cho rõ ràng!
18. Việt cộng viết: hoành tráng
Nhận xét:
“hoành tráng” là chữ dùng rất ngu dốt, vô nghĩa, không hề có trong tự điển, mà do bọn cán ngố “tổng biên tập” chế ra!
Chữ này được bọn chúng dùng bừa bãi, bất cứ cái gì cũng có thể là “hoành tráng”!
Ví dụ như: Cô gái đó có cái mông đít thật là … hoành tráng!
19. Việt cộng viết: Ấn tượng – Thần tượng
Nhận xét:
Theo Việt Nam tự điển thì hai chữ này là danh từ. Nhưng Việt Cộng dùng các chữ “ấn tượng”, “thần tượng như một động từ.
Ví dụ như:
– Tôi rất “ấn tượng” với lối trình diễn của ca sĩ A.
– Tôi rất “thần tượng” ca sĩ A.
Ðây là cách dùng chữ bừa bãi và ngu dốt của bọn cán ngố Việt Cộng. Chủ nào tớ nấy.
20. Tên đại Việt gian Hồ chí Minh đã từng dùng chữ “tốt” như một trạng từ.
Ví dụ:
– Học tập tốt, lao động tốt, ca hát tốt, đánh đàn tốt, dạy học tốt ..vv..
21. Việt cộng viết: Bức xúc
– Tôi rất bức xúc khi thấy cảnh tượng công an đánh dân.
Nhận xét:
Chữ “bức xúc” do bọn cán ngố chế ra, không hề có trong tự điển, và nó được dùng như một động từ và dùng bừa bãi trong nhiều trường hợp. Trong tiếng Việt, khi muốn diễn tả tâm trạng không hài lòng, chúng ta có rất nhiều tĩnh từ, ví dụ như:
– Bất mãn, bất bình, bất nhẫn, buồn bực, khó chịu, bực bội, lo lắng, lo âu, bồn chồn, bứt rứt, khó chịu ...vv..
Tại sao lại dùng chữ “bức xúc” ngu dốt của giặc Cộng? Bộ tiếng Việt do ông cha chúng ta để lại nghèo lắm hay sao?
22. Việt cộng viết: Trải nghiệm
– Sau một tháng trải nghiệm du lịch ở Việt Nam, du khách quốc tế rất ấn tượng
Nhận xét:
Ðây cũng là chữ dùng ngu dốt của bọn cán ngố Việt Cộng.
Chữ này không hề có trong tự điển mà nó chui ra từ những bộ não của những con khỉ đột Việt Cộng.
Cả đời bọn khỉ cộng sống chui rúc trong rừng, chưa bao giờ được trông thấy quyển tự điển.
Bây giờ được đảng và nhà nước giao phó cho chức vụ “tổng biên tập” thì bọn chúng tha hồ múa may, quay cuồng, hiếp dâm và chửi cha tiếng Việt về mọi mặt!
23. Việt cộng viết: Cô ấy ăn mặc rất chỉnh chu.
(Ý nói ăn mặc đẹp. Ðăng trên báo VTC News)
Nhận xét:
Chữ này thối không chịu được. “Chỉnh chu” là cái chó gì?
Nghe như một tiếng đánh rắm của người đang bị no hơi, đầy bụng! Ðúng là chữ nghĩa của bọn cán ngố Việt Cộng, hiếp dâm và chửi cha tiếng Việt!
Tại sao không viết:
– Ăn mặc đẹp, ăn mặc hợp thời trang, ăn mặc lịch sự, thanh nhã, đúng mốt ..vv..
24. Việt cộng viết: Khả năng
– Ngày mai có Khả năng mưa (Trời có thể mưa).
– Có Khả năng Trung quốc sẽ đánh Việt Nam (có thể Trung quốc sẽ đánh Việt Nam).
Nhận xét:
Việt Nam Tự Điển định nghĩa “khả năng” là “tài sức,” “sức có thể cáng đáng.”
Khả năng là danh từ và thường được dùng cho con người.
Ví dụ: Ông ấy có tài lãnh đạo nhưng thiếu khả năng chuyên môn.
Bọn cán ngố Việt Cộng dùng chữ “khả năng” một cách bừa bãi, kể cả trời đất gì cũng “khả năng!”
25. Việt cộng viết: Sự can thiệp của dao kéo
(báo điện tử VTC News của Việt Cộng)
– Cô ấy sở hữu khuôn mặt đẹp. Khả năng là có sự can thiệp của dao kéo.
Nhận xét:
Chúng ta thường nói: “Cô ấy có khuôn mặt đẹp. Có thể là nhờ giải phẫu thẩm mỹ”.
Ðây là lối nói bình thường của những CON NGƯỜI. Chỉ có bọn cán ngố Việt Cộng SÚC VẬT mới dùng nhóm chữ “sự can thiệp của dao kéo”!
26. Việt cộng viết: Sở hữu
(báo điện tử VTC News của Việt Cộng)
– Hot girl ABC Sở hữu khuôn mặt ấn tượng, sở hữu thân hình chuẩn
– Cô ấy Sở hữu đôi mắt đẹp.
– Người mẫu Sở hữu đôi chân dài miên man.
– Ca sĩ Sở hữu chất giọng khàn.
– Ðại gia X Sở hữu biệt thự tiền tỷ.
Nhận xét:
Theo Việt Nam Tự Điển, chữ “sở hữu” là một danh từ.
Ngoài ra có những danh từ kép như: Sở hữu chủ, quyền sở hữu, sở hữu cá nhân, sở hữu cộng đồng, sở hữu tố quyền.
Ví dụ:
– Ai là sở hữu chủ của căn nhà này?
– Các nông dân được quyền canh tác nhưng không được cấp quyền sở hữu miếng ruộng.
Tuy nhiên, bọn cán ngố Việt Cộng đã dùng chữ ‘sở hữu’ như một động từ, giống như tên Hồ tặc “học tập tốt, lao động tốt”
Theo cách nói bình thường, chúng ta nói:
– Cô ấy CÓ khuôn mặt đẹp.
– Ðứa bé ấy CÓ đôi mắt đẹp
– Chàng trai ấy CÓ thân hình cường tráng
Chỉ có đám cán ngố Việt Cộng, thằng dốt ưa khoe chữ, mới hợm hĩnh dùng chữ “SỞ HỮU!”
Chúng ta hãy đọc những câu thơ sau đây của nhà thơ Hữu Loan trong bài thơ “Màu Tím Hoa Sim,” được Phạm Duy phổ nhạc:
– “… Nàng CÓ ba người anh, đi quân đội lâu rồi.
Nàng CÓ đôi người em, CÓ em chưa biết nói.
Tóc nàng hãy còn xanh…”
Quý vị hãy tưởng tượng, nếu viết theo kiểu của bọn cán ngố Việt Cộng thì:
“… Nàng SỞ HỮU ba người anh, đi quân đội lâu rồi.
Nàng SỞ HỮU đôi người em,
SỞ HỮU em chưa biết nói …”
Như vậy thì tiếng Việt còn ra thể thống gì nữa??!!
Nó đã biến thành ngôn ngữ của loài súc vật!
27. Việt cộng viết: Xử lý
– Ca sĩ đó Xử lý bản nhạc chưa được chuẩn!
– Xử lý thông tin, xử lý rác thải, xử lý tội phạm, xử lý số liệu, xử lý nước cống, xử lý đàn bò, xử lý những suy nghĩ tiêu cực.
Nhận xét:
Theo Việt Nam Tự Điển, “xử lý” là “cứ lý lẽ và luật lệ mà phân xử, không xét về mặt tình cảm và phạm tội”
Chúng ta chỉ dùng chữ ‘xử lý’ trong các vấn đề thuộc về luật pháp.
Trong khi đó, bọn cán ngố Việt Cộng thì dùng bừa bãi, bất cứ cái gì cũng “xử lý.”
Ví dụ như:
“Ca sĩ xử lý một bản nhạc”; rồi thì: “Xử lý nước cống,” “xử lý tư tưởng,” “xử lý rác,” “xử lý đàn gà,” “xử lý cái mả bố của chúng nó!!”. Bọn chúng nó đã quen giết người cho nên tâm địa của kẻ ác thường được thể hiện qua lời nói, ví dụ như: Xử lý, giải phóng, quản lý, dao kéo, đâm chém ..vv..
28. Việt cộng viết: Vô tư
– Các anh cứ ăn uống vô tư đi!
– Các cặp đôi cứ vô tư hôn nhau ngoài công viên.
Nhận xét:
Theo Việt Nam Tự Điển: “vô tư” là tĩnh từ, nghĩa: ”Có óc công bình, không thiên vị”.
Ví dụ: Tâm hồn vô tư của trẻ thơ.
Nhưng bọn cán ngố Việt Cộng dùng chữ “vô tư” như một trạng từ. Nghĩa của nó tựa như chữ “thoải mái“.
Do hợm hĩnh, ngu dốt, ưa khoe chữ nhưng thực ra bọn chúng chỉ khoe ra cái đuôi dốt của mình!
29. Việt cộng viết: Chất lượng
– Hàng hóa đảm bảo Chất lượng!
–Chất lượng giáo dục xã hội chủ nghĩa rất ưu việt!
– Chất lượng tư duy của trẻ em còn non nớt.
Nhận xét:
Viết đúng phải là: Hàng hóa bảo đảm PHẨM CHẤT (quality)
Nếu dịch sang tiếng Anh: Phẩm chất = Quality, Lượng = Quantity.
Hai chữ “chất lượng” là vô nghĩa.
Ví dụ quý vị mua một chiếc xe hơi. Công ty bán hàng có thể bảo đảm về “phẩm chất” chiếc xe chớ không ai có thể bảo đảm về “lượng”.
Các chữ “giáo dục” và “tư duy” là danh từ trừu tượng và là danh từ không đếm được (uncountable nouns).
Dùng chữ “CHẤT LƯỢNG giáo dục” là sai hoàn toàn.
30. Việt cộng viết: Tố chất, chất giọng, chất thơ, chất nhạc.
– Ðứa bé đó có tố chất thông minh (Viết đúng phải là: Tư chất thông minh).
– Ca sĩ đó có chất giọng khàn! (Viết đúng phải là: Ca sĩ đó có giọng khàn).
Chữ “chất” có nghĩa là “phẩm chất” (quality). Phải có giọng khàn như thế nào mới đạt “phẩm chất”?
- Việt cộng viết:
31. Nữ hoàng nội y Ngọc Trinh đi dự kiện“, kiện (báo VTC News)
Ði sự kiện là đi dự cái gì? Phải chăng là kiện cáo ở tòa án?
Những tên cán ngố Việt Cộng đã dịch nhóm chữ “attending facts” là “tham dự sự kiện“, rồi tự động rút ngắn thành “đi dự kiện”, làm cho độc giả hiểu lầm là có kiện tụng gì đó ở tòa án!
32. Việt cộng viết: Chọc khe
– Vận động viên X vừa thực hiện một cú CHỌC KHE tuyệt đẹp, vượt qua được hàng rào hậu vệ của đối phương.
Nhận xét:
Trước năm 1975, ký giả Huyền Vũ thường dùng nhóm chữ “đá lòn banh” để diễn tả thao tác đá lòn trái banh qua háng đối phương.
Ví dụ:
– Trung phong số 7 của đội X đã khéo léo đá lòn banh qua hậu vệ số 9 của đội Y.
Tên đại việt gian Hồ chí Minh đã “chọc khe” rất nhiều “cháu ngoan”. Ðây chính là “tài sản văn hóa” quý báu mà hắn đã để lại cho lũ hậu duệ, kể cả trong lãnh vực thể thao!
33. Việt cộng viết: Tâm tư
Ví dụ: Tên việt gian Phùng Quang Thanh, đại tướng của ngụy quân Việt gian Cộng Sản có biệt hiệu là “đồng chí TÂM TƯ”.
Lý do là hắn thường nói:
– Tôi nói ra điều này chắc các đồng chí rất TÂM TƯ, gia cảnh tôi rất nghèo, cả hai vợ chồng với hai đứa con chỉ sống trong một căn hộ có 60 mét vuông!
Từ đó tên Thanh heo nọc đã có biệt hiệu là “đồng chí TÂM TƯ” và nhiều tên bồi bút đã bắt chước cái lối nói ngu đần đó, viết bừa bãi trên nhiều bài báo! Một thằng lãnh đạo, ủy viên Bộ Chính Trị, cấp bậc là đại tướng, chức vụ là bộ trưởng mà nói ngu như vậy thì cả đất nước Việt Nam cũng sẽ bị ngu theo nó!
Kết Luận
Kể từ năm 1945 đến nay, sau 70 năm cai trị, đảng Việt gian Cộng Sản đã tàn phá rất khủng khiếp nền văn hóa của dân tộc Việt mà tổ tiên chúng ta đã khổ công gây dựng qua hàng ngàn năm. Không chỉ riêng phần tiếng Việt bị hủy hoại, mất gốc, quái thai mà các phong tục, tập quán, tín ngưỡng và nhiều lãnh vực khác cũng bị bọn chúng phá nát.
Cụ thể như bọn giặc đã đem tượng Quan Công vào đền thờ Ðức Thánh Trần, đem tượng đại việt gian Hồ Chí Minh vào các chùa, đặt ngang hàng với tượng Phật, đem tượng của nữ tướng cướp Nguyễn Thị Ðịnh vào đền thờ Hai Bà Trưng!
Hiện nay sự phá hoại và xâm lăng văn hóa của bọn giặc việt gian cộng sản đang được bọn Mỹ tích cực yểm trợ. Khoảng 90 phần trăm truyền thông ở hải ngoại đang nằm trong tay bọn giặc và bọn Mỹ.
Nhiều người đã thấy được sự nguy hiểm này nhưng họ sợ, không dám lên tiếng. Thôi thì cứ hùa theo số đông cho chắc ăn! Người ta sao mình vậy, người ta nói bậy thì mình cứ nói theo!
Ðấu tranh chống cộng tức là đi đòi những cái không bao giờ đòi được! (dân chủ và nhân quyền).
Hai tờ báo điện tử trên Internet, VTC News và Kiến Thức chính là hai ổ rắn độc, cực kỳ nguy hiểm, độc hại gấp trăm lần tờ báo Người Việt ở quận Cam. Bọn Mỹ và Việt gian Cộng sản đã thành lập hai tờ báo này.
Mục tiêu chính của hai tờ báo này là nhằm nhuộm đỏ toàn bộ cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Toàn bộ những ngôn ngữ ngu si, dốt nát, phản văn hóa đều xuất phát từ hai tờ báo này rồi lan truyền đi khắp trong nước và hải ngoại.
Tại sao chúng tôi dám nói hai tờ báo này là do Việt Cộng thành lập nhằm nhuộm đỏ cộng đồng người Việt tại hải ngoại?
Lý do: Nội dung các bài viết đều là viết cho các độc giả tại hải ngoại.
Ví dụ: có những mục làm thế nào để xúc tuyết mùa Ðông mà không bị tai nạn. Ở trong nước làm gì có tuyết mà xúc?
Các mục khác về đời sống như: lái xe, nấu ăn, thời trang, việc làm, bảo trì hệ thống máy sưởi trong nhà, trang trí nhà cửa là đều dành cho những người đang sống tại xứ lạnh. Ngoài ra, hai tờ báo này thường xuyên có những mục “Những hình ảnh tại miền Nam trước năm 1975” là nhắm vào những thành phần “Ngụy” VNCH, để họ nhớ về những kỷ niệm trong quá khứ, không thể nào quên được.
Càng nhớ thương quê hương đã mất thì những người “Ngụy” VNCH càng đâm ra “nghiện”, cứ vào hai tờ báo này của Việt Cộng mà đọc hoài, Chưa hết, hai tờ báo này thường đăng những ảnh “độc” về chiến tranh Việt Nam, và ghi chú rằng những ảnh này là do các cựu quân nhân Mỹ cung cấp. Những tấm ảnh này gợi cho những người “Ngụy” VNCH thấy được quá khứ oai hùng của mình và Ðồng Minh, để rồi từ đó họ có cảm tưởng rằng hai tờ báo này là báo của những “người quốc gia”.
Sự thật, đây chính là những ngón đòn “chiêu hồi,” một loại nước đường có pha thuốc độc. Những nạn nhân không bị chết ngay mà sẽ chết từ từ nhưng rất chắc chắn trong tương lai gần!
Tất cả những cái quái thai ngôn ngữ như “hoành tráng, bức xúc” là đều xuất phát từ hai tờ báo này, do những con khỉ đột bốn đời bần cố nông đang giữ vai trò “tổng biên tập”. Khoe khoang lố bịch về những cái “phồn vinh” của sự phồn vinh giả tạo.
Hai tờ điện báo VTC News và Kiến Thức thường xuyên đăng những hình ảnh rất “hoành tráng”, cực kỳ sang giàu của xã hội Việt Nam dưới ách cai trị của tập đoàn Việt gian Cộng sản. Những tòa nhà chọc trời, những lâu đài mọc lên như nấm.
Người dân ai cũng là “đại gia”, vàng và kim cương đeo đầy người và hút thuốc thì mồi thuốc lá bằng giấy bạc 100 đô! Ði chỗ nào cũng thấy hot girl, hoa hậu, hoa nam, hot boy, siêu người mẫu, mà chưa chắc gì chốn Bồng Lai hay vườn Ðịa Ðàng có thể sánh bằng. Nói chung, bản chất của bọn cán ngố Việt Cộng là ưa phét lác, nổ một tấc tới trời, trong thời chiến cũng như thời bình.
Trong thời chiến, bọn chúng đã từng nổ rằng đế quốc Mỹ chỉ là con hổ giấy, và rằng súng trường có thể bắn rớt máy bay “con ma” (F4)của Mỹ!
Những sự phét lác này nhằm tuyên truyền rằng: Dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Việt Nam hiện nay đã trở thành “cường quốc” kinh tế! Tuy nhiên, nếu quý vị theo dõi bảng xếp hạng “The Good Country Index” do Liên Hiệp Quốc thực hiện năm 2014, thì Việt Nam bị xếp hạng thứ 128 trên tổng số 163 nước.
Nói tóm lại, Việt Nam là nước NGHÈO TRÊN THẾ GIỚI!
Xen lẫn với các hình ảnh về người lính VNCH thì hai tờ báo VTC News và Kiến Thức thường đăng những hình về các “bộ đội cụ Hồ” đánh thắng Mỹ Ngụy và ca ngợi đảng Việt gian Cộng Sản. Ðây là hình thức hòa hợp hòa giải giống như tờ báo VietWeekly đã và đang làm.
Khuyết Danh.
Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
THÊ THẢM CUỘC SỐNG Của Nữ Thiếu Úy Cảnh Sát Lê Thị Xuân
Tối ngày 28.6.1975 tôi bị di chuyển cùng chung với chồng từ Trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng tại Sài Gòn đến Trại Suối máu được khoảng 1 tuần lại bị chuyển đến trại Thành Ông Năm, Hóc Môn do đoàn 500 cộng sản quản lý. Trại chia làm hai khu: Nữ Sĩ Quan (SQ) Quân đội, và Nữ SQ/ CSQG. Chúng tôi bị chia thành từng B và phải chen lấn lẫn nhau trong một diện tích chỉ đủ để nằm nghiêng .
Lúc nầy tôi mang thai cháu đầu lòng gần 7 tháng. Đây là thời gian thai nhi phát triển, nên thai phụ cần được nghĩ ngơi, thoãi mái, tránh bị những áp lực và thai phụ cần phải được thực phẫm dinh duỡng vừa tinh khiết vừa đầy đủ. Nhưng với tôi thì hoàn toàn trái ngược. Ngoài môi truờng sống quá thiếu vệ sinh, lại phải ngồi nghe học tập, thảo luận. đấu tố.
Thể chất mệt mõi, tâm trí lúc nào cũng lo sợ cho bản thân, cho gia đình, và cho chồng . Thai nhi càng lúc càng phát triển nên tôi thèm ăn lắm, nhưng bụng thì lúc nào cũng đói, dinh dưỡng chẳng có, áp lực càng lúc càng nặng và rồi hai chân tôi bị qụy, chỗ kín bị ra máu, không đuợc chữa trị hoặc thuốc men . Tôi đuối sức! Trước tình trạng sức khỏe tồi tệ và mạng sống của tôi bị đe dọa, ngày 12.8.75 Cộng sản (CS) thả tôi về với lý do :”tạm hoãn quản huấn vì sắp đẻ”(nguyên văn).
Về đến nhà thì ba mẹ và các em nhỏ của tôi đã bị lùa ra khỏi Sài gòn theo chương trình gọi là hồi hương lập nghiệp tại Sa-Đéc. Sức khỏe quá yếu, không đi được tôi đành ở lại căn nhà củ (bấy giờ thì gia đình thím tôi đang ở). Đến đầu tháng 9.75 đau chuyển bụng, tôi đến bảo sanh viện Từ Dũ . Sau khi sinh cháu bé, tôi mệt lắm, nhưng gắng gượng xem mặt cháu, biết cháu là gái, thấy khuôn mặt con hao hao giống bố, lòng mình dâng nỗi nhớ chồng và dào dạt thương con, tôi ôm con vào lòng và ngất đi vì bị băng huyết.
Tĩnh dậy tôi trở về tâm trạng củ, May mắn cho tôi là CS chưa kịp đưa người của chúng vào nên nhân viên và bác sĩ vẫn còn tấm lòng nhân ái và phong cách Miền Nam và nhờ đó tôi thoát khỏi luỡi hái tử thần. Vì lý lịch, nên tôi bị tống ra khỏi bịnh viện sau 4 ngày mặc dầu tôi còn yếu và cháu bé gầy guộc chỉ được 2kg. Tôi lại phải bé cháu tìm đường về Sa Đéc.
Khi chiếc tàu đò đậu trước cửa nhà, lòng tôi càng thêm não nề. Đây là khu hoang địa, xưa kia là khu oanh kích tự do và không có dân cư, vì thế vùng nầy có rất nhiều hố bom. Thấy gia đình lam lũ, tôi vô cùng xót sa, vì vậy tôi ráng sức phụ giúp gia đình và tôi lại thêm lần nữa ngã qụy. Đúng vào thời gian nầy, khi cháu được hơn một tháng thì mẹ con tôi bị bắt trở lại trại giam.
Sáng hôm ấy ,đang cho con bú, tôi nghe tiếng ghe máy và tiếng người, rồi tiếng chân dồn dập nhảy lên bờ. chạy phía nhà tôi. Sống trong vùng cộng sản kiễm soát tâm trạng tôi luôn luôn hồi hộp lo sợ..
Đang còn hoang mang thì tôi đã thấy họ bao quanh nhà tôi, những mũi súng chĩa thẳng vào mẹ con tôi. Tôi nghe đạn lên nòng và tiếng ra lịnh của tên chỉ huy: - Các đồng chí vào vị trí sẳn sàng tác chiến.
Sau đó tiếng quát ra lịnh: - Chị Lê Thị Xuân, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, không được chống đối, chấp hành lệnh quản chế, thì sẽ đuợc cách mạng khoan hồng !
Tiếp theo là hai tên có võ trang tiến sát vào giường mẹ con tôi. Tôi biết là tôi đã bị bắt. Tôi không sợ, nhưng tôi thương con quá, phần không muốn phải xa con, phần sợ con phải chịu cảnh lao tù. Tôi thật sự lúng túng vì cả nhà tôi đang làm ngoài ruộng. Tôi ngỏ ý chờ người nhà tôi về.. Nhưng chúng nhất định không cho. Bị thúc hối quá cấp bách; tôi chỉ viết vội là đã bị bắt lại cho gia đình biết, rồi gom nhanh ít tả lót, ít quần áo, vật dụng cho hai mẹ con và theo chúng xuống xuồng máy giữa hai hàng súng “ dàn chào bảo vệ”của chúng.
Sau nầy tôi biết tên hung tợn chỉ huy cuộc vây bắt hai mẹ con tôi tên là Hiếu. Tôi đã có lần gặp hắn tại sài gòn trong nhà người cùng quê với mẹ tôi. Người nầy là SQ Quân Lực VNCH che chở cho hắn trốn quân dịch, lúc ấy hắn làm phụ thợ hồ.Trước ngày tôi định cư tại Mỹ thì hắn là Phó chủ tịch Nông nghiệp huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng tháp và dĩ nhiên là rất hống hách, ngang tàng và giàu có.
Bọn chúng chở hai mẹ con tôi về trại giam Đám Lát thuộc huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng Tháp. Trại giam nằm trên gò đất, chung quanh có nhiều hàng rào giây kẽm gai bao bọc, chúng cẩn thận gài mìn và chất nổ đề phòng sự trốn trại của tù. Trại nầy giam đủ thứ thành phần từ SQ chế độ củ, tôn giáo, đảng phái chính trị… đến thường phạm. Vì có con nhỏ nên chúng cho mẹ con tôi ở riêng một góc xó nhà bếp. vách nhà làm bằng đất sình trộn với trấu, nên hôi hám và nhiều bụi dơ; gió mang theo hơi nóng làm rát da.
Tôi mượn nhà bếp hai tấm bao bố gạo làm chiếu và mền đắp cho con, còn mình thì nằm hẳn trên đất. Mỗi buổi chiều mẹ con tôi đuợc nữ quản giáo dẫn xuống một cái đìa nhỏ để tắm giặt. Vì cái đìa nhỏ nầy khi nuớc triều cường mới có chút ít nuớc từ sông cái tràn vào, do vậy mà những chất dơ bẩn không kịp thóat ra, vì thế nuớc có màu đen của dơ, màu váng của phèn; mùi hôi thối luôn luôn phản phất, đó cũng là mần mống bịnh hoạn.
Thức ăn không đủ nuôi cơ thể thì làm sao có sữa để nuôi con! Vì thế, các bạn tù đồng ý cho tôi mỗi ngày đuợc lưng chén nuớc cơm có lẫn dăm hạt gạo đang sôi để phụ cùng với giòng sữa hiếm hoi nuôi con. Phải sống trong hoàn cảnh tù đày dưới chế độ cộng sản mới hiểu thế nào là đói, mới hiểu giá trị miếng ăn và mới hiểu đó là sự hy sinh, là tấm lòng nhân ái mà Xã hội Quốc Gia đã giáo dục cho họ.Tôi biết ơn các bạn tù, cơn đói không lúc ngưng dày vò, trí óc chỉ ước mơ đến chưyện ăn, như mơ được một chén cơm lưng, thẻ đường, hột muối, giọt mỡ. Ôi miếng ăn sao “vĩ đại” đến thế!
Ngoài cái đói triền miên hành hạ, tôi lại phải đối phó với muỗi. Khi bóng đen tràn tới cũng là lúc từng đàn muỗi xuất hiện. Chiếc mùng củ lúc mang theo, bây giờ cũng rách mục như số phận làm người trong xã hội “thiên đường”cộng sản.
Tôi ngậm ngùi thương con, tôi lo cho sự an nguy của chồng, tôi lo cuộc sống lao đao vất vả của gia đình, thấy nhớ ba mẹ và các em thơ dại của tôi, tôi tội nghiệp cho bà mẹ chồng hiền lành và nỗi bất hạnh triền miên đè lên số phận bà. Dường như giọt lệ lúc nào cũng lưng lưng trong khóe mắt, thế nhưng miệng tôi thì lúc nào cũng phải nói những điều trái ngược. Tôi cảm thấy danh dự xúc phạm.
Do thiếu thốn vật chất, tinh thần hoang mang lo sợ cho tương lai mờ mịt tối tăm, và thương nhớ người thân – tôi mõi mòn và dần dần kiệt sức, con tôi thì còm cõi, yếu ốm và những bệnh do thiếu dinh dưỡng, do môi trường dơ bẩn cùng một lúc “hiệp đồng” tấn công trên cơ thể èo uột của tôi và của cháu. Lúc nầy thì con tôi tóc bết dính và lầy lụa mũ máu vì bị sài lở, toàn thân cháu nổi lên những mụn nhọt nhỏ li ti như muỗi đốt, móng tay như bị long và sứt rớt ra.
Tôi lo qúa, có lần tôi đành gạt nước mắt chịu nhục, hạ mình xin thuốc cho cháu; nhưng bọn người lòng thú ấy dững dưng, lạnh lùng và dường như trong ánh mắt chúng có đôi chút hả hê của lòng thù hận. Ôi đồng bào tôi đấy, ôi phẫm cách và lòng khoan hồng “cách mạng!”. Sự tàn nhẫn kinh khiếp ấy của giống “người” cộng sản làm ý chí tôi bỗng dưng phát triển mãnh liệt. Tôi hối hận về sự cầu cứu ấy và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ cầu xin chúng, tôi dấu nỗi uất hận, không để lộ niềm đau. Dù chưa biết phải làm gì, nhưng tôi thấy tinh thần của lý sinh tồn và lòng tự trọng trong tôi vững vàng lắm!
Sắp đến ngày 2 tháng 9, ngày “quốc khánh” của chúng, một phái đoàn không biết từ đâu và cấp nào đến thanh tra. Một người trong bọn họ thoáng dừng lại trước mẹ con tôi, chúng phải bịt mũi vì mùi hôi từ chúng tôi. Có lẻ nhờ thế mà hôm sau, ngày 30.8.76 mẹ con tôi được chúng thả ra về với ba năm quản chế.
Về đến nhà, toàn cả gia đình tôi sống héo hắc, cùng cực vất vả, thiếu thốn, tôi đã hiểu tại sao gần năm qua tôi không có thư từ tin tức gia đình và tôi lại khóc, lòng tự trọng thúc đẩy tôi lao hết sức mình cho gia đình, cho đứa con muôn ngàn yêu dấu. Cậu em trai kế tôi, có gia đình, còn ở Sài gòn cho tôi hay rằng người mẹ chồng hiền lành của tôi đã chết! Tôi thương và mừng cho bà đã thóat được cái thiên đường man rợ của lũ “vượn người cộng sản”Tôi nguyện cầu cho bà sớm đuợc về cõi Phật như lòng bà hằng mong ước. Tôi xót sa cho chồng và mẹ chồng trong cuộc chia tay vĩnh viễn không được gặp nhau, không đuợc có mảnh khăn trắng ghi nhớ công ơn của mẹ hiền, không được cầm tay đứa con trai út mà bà nuôi nhiều kỳ vọng. Bỗng dưng tôi thở dài ngao ngán cho kiếp nhân sinh trong chế độ cộng sản.
Gần sáu năm sau kể từ ngày tôi đuợc thả ra lần thứ hai thì chồng tôi mới đuợc thả về. Giây phút đầu tiên gặp lại nhau, tôi quá đỗi bất ngờ và cũng quá xúc động. Toàn thân tôi điếng lặng. Tôi không nhúc nhích, cử động gì được, nhưng giọt lệ cứ trào ra, lăn dài xuống đôi gò má thanh xuân nhưng đã sớm tàn phai vì thống thiết đau buồn, thương nhớ.
Nhìn cảnh nhà sa sút nghèo khổ và cũng vì có lần quá cơ cực tôi có ý định cùng với chồng con quyên sinh, nên ngay hôm sau ngày sum vầy chồng tôi bắt tay ngay vào cuộc sinh tồn. Dù cường quyền địa phuơng ngăn cản, luôn tìm cách tạo bất an, gây phiền nhiễu, khó khăn, anh vẫn quyết chí phấn đấu từ làm thuê, vác mướn, bán dạo… gia đình tôi lần hồi bước dần ra cảnh bần hàn. Nhưng tai họa lại ập đến! Bởi lao nhọc, thiếu thốn và di hại trong lao tù, chồng tôi ngã bịnh nặng.
Bác sĩ cho biết một lá phổi anh bị khô nước, màng phổi bị dày dính nên kéo và làm trái tim bị lệch và thòng xuống, có dấu hiệu bị sạn thận, xơ gan. Bao nhiêu tiền bạc do công lao và tiện tặn dành dụm được đành phải bỏ hết ra để giành mạng sống của anh. Khi đồng bạc cuối cùng ra đi thì may thay, tôi gặp đuợc người chị cả của chồng tôi, hai chị em thất lạc từ thửơ anh chưa chào đời. Nhờ chị, chúng tôi thoát nạn. Cũng kể từ đó, đời sống tinh thần và vật chất của chúng tôi được an ủi, khuyến khích và nâng đở. Chị trở thành người mẹ thứ hai của chồng tôi.
Bây giờ nhớ lại và kinh rợn chuỗi ngày sống dưới ách bạn tàn khắc nghiệt cộng sản , lòng bùi ngùi thương cảm cho những người còn trong nanh vuốt man rợ cộng sản. Xin thành kính nghiêng mình trước những bậc anh hùng đã ngã xuống vì muốn cứu nỗi bất hạnh của quê huơng, xin được khóc những giòng lệ cho những oan khuất tội tình của đồng bào tôi bị bàn tay máu của cộng sản áp bức khống chế.
Xin cúi đầu tưởng niệm hằng triệu chiến sĩ Quốc Gia, Con yêu của Tổ Quốc Việt Nam đã không tiếc máu xương vì sự an tòan và phát triển cho quê hương. Xin tưởng niệm 58 ngàn con yêu của Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ vĩnh viễn nằm xuống trong cuộc chiến đấu cho công lý và tự do trên quê huơng tôi.
Xin cám ơn lòng hào hiệp của nhân dân và chính phủ Hoa kỳ đã cứu vớt và đưa chúng từ nơi tối tăm bi thãm, nơi tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đến vùng đất hứa, nơi tuyệt đối tôn trọng nhân phẫm con người.
Xin cám ơn những ân nhân, vì tình nhân ái, vì nghĩa Đồng Bào mà điển hình là bà Khúc Minh Thơ và hội Gia Đình Cựu Tù nhân Chính Trị đã không bỏ rơi chúng tôi, đã không quản ngại gian khó tốn kém cả tiền của lẫn thời gian và sức lực, đã ra sức đánh động cho Thế giới và nhất là Hoa kỳ biết nỗi thống hận ngút ngàn mà cộng sản trả thù bằng cách làm khô máu lên cuộc đời những chiến sĩ Quốc gia từng một thời dũng lược, nay đành thúc thủ.
Học theo Quý vị, chúng tôi nhất định không bỏ quên những người đang cần đến chúng tôi,. Chúng tôi giữ gìn đạo lý và văn hóa Việt, chúng tôi nuôi dưỡng giáo dục các thế hệ tiếp nối về lòng nhân bản để trở thành công dân hữu dụng cho xã hội và cho sự tồn vong của Dân tộc. Thiết nghĩ dó là lời cảm ơn chân thành và thiết thực nhất.
Việt Nam là Dân tộc biết mang ơn và biết cách đền ơn . Đó là lời cuối cùng của giòng tâm sự hôm nay của chúng tôi.
Little Sài Gòn, ngày Truyền thống CSQG/VNCH
Cựu Thiêu-Úy CSQG LÊ THỊ XUÂN
The following 1 user Likes duke's post:1 user Likes duke's post
• TanThu
Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
CÔ GÁI BÁN DON
(Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích)
Đến định cư tại miền Bắc California Hoa Kỳ hơn nửa năm, bỗng một hôm, tôi nhận được cú điện thoại của Thung từ Texas gọi qua.
Thung là bạn học, cũng là chiến hữu của tôi ngày xưa. Hắn đề nghị gởi vé máy bay mời tôi qua Houston chơi. Nhân tiện thăm viếng khu vực dễ làm ăn và giá nhà cửa cũng dễ thở hơn nhiều so với San Jose. Tôi đồng ý. Một tuần lễ sau, một vé máy bay và một cái check 300 Mỹ kim trong bì thư gởi đến. Đây là một món quà khá hậu hỉ ở đất lạ quê người. Ba ngày sau, tôi lên máy bay của hãng Continental Airlines đi Texas. Bay suốt bốn tiếng đồng hồ, chiếc Boeing mới hạ cánh xuống phi trường Houston. Thung đón tôi tại lối ra của khu hành khách. Lần gặp nhau cuối cùng ở quê nhà vào năm 1973, tại Đại Học CTCT Đà Lạt. Ngày ấy, trông hắn rắn rỏi, khuôn mặt sạm nắng mà hôm nay, sau mười sáu năm định cư tại Mỹ, hắn hoàn toàn lột xác. Nước da trắng hồng đỏ au, cái bụng căng tròn, dáng người bệ vệ trông “rất ông chủ”. Mà chủ thực. Thung làm chủ cái chợ bán đồ biển. Vợ và con quản lý còn Thung lo chạy vòng ngoài.
Ngày hôm sau Thung đưa tôi đến thăm cơ sở làm ăn của gia đình. Nào phòng mạch nha sĩ của đứa con trai đầu lòng, phòng dịch vụ về bảo hiểm của đứa con gái. Sau đó Thung mời tôi đi ăn trưa.
Nhà hàng có tên Cổ Lũy Restaurant tọa lạc tại khu sầm uất nhất của người Việt và Hoa tại thành phố Houston. Vào giờ xế trưa, nhà hàng vắng khách nên chúng tôi chọn chiếc bàn đặt gần quầy thu tiền. Người bồi bàn trao cho chúng tôi bản thực đơn. Cái tên Cổ Lũy nghe quen thân quá. Tôi nghĩ, có lẽ chủ nhà hàng là người Quảng Ngãi. Bởi Cổ Lũy là tên một cửa biển từ hai dòng sông Trà Khúc và Sông Vệ nhập vào. Nơi đây thuyền bè tấp nập ra vào bến tàu Phú Thọ. Trong tờ thực đơn có món “Hến xúc bánh tráng”. Nhìn thấy hến mình lại nhớ đến món don. Chẳng cần xem tiếp tờ thực đơn, tôi gọi ngay một tô don. Cô bồi bàn giọng miền Nam nhìn tôi ngạc nhiên hỏi:
- Don là món gì vậy, nghe lạ quá hỡ ông? Thực đơn nhà hàng này không có món đó.
- Cái món “Hến xúc bánh tráng” trong thực đơn có ghi, tại sao lại không có món don ?
Tôi vừa cự nự (kiểu Quảng Ngãi hay co) vừa chỉ cho cô chạy bàn cái món ruột hến, rồi tiếp:
- Nếu không có don thì cho tôi cái món số 15 này.
Cô gái bồi bàn đi vào bếp. Ngay sau đó, một phụ nữ đứng tuổi ăn mặc sang trọng từ quầy thu tiền đi thẳng đến bàn chúng tôi. Bà có mái tóc ngắn làm nổi bật khuôn mặt trái soan đầy đặn với làn da trắng mịn. Thung khều chân tôi nói nhỏ : “Bà chủ”
- Chào hai anh. Người đàn bà nở nụ cười thân thiện.
- Chào bà chủ, Thung đáp lễ.
- Vị nào thích món don ? bà chủ tươi cười hỏi.
- Thưa bà, tôi ạ.
- Xin lỗi, anh người quê Quảng Ngãi ?
- Tại sao bà biết ?
- Tôi chỉ đoán thôi, bởi vì chỉ có dân sống tại Quảng Ngãi mới thấy thích thú món don. Thế bà cũng là người Quảng Ngãi, đúng không?
- Anh nghĩ sao mà đoán ra thế?
- Chỉ nhìn cái tên hiệu Cổ Lũy của nhà hàng là biết ngay.
- Nầy ông anh, trước kia ở Quảng Ngãi, anh sống ở huyện nào vậy?
- Tôi ở thị xã, trên đường Quang Trung.
Người đàn bà nhìn tôi một chặp lâu rồi quay vào bên trong nhà hàng. Lát sau, món ăn được bưng ra. Một tô bún chả cá cho Thung và một dĩa ruột hến xúc bánh tráng cho tôi. Lâu lắm rồi tôi mới nghe lại mùi hến. Hến ở quê nhà ruột nhỏ, dai và thơm. Còn hến đóng hộp nhập cảng con lớn, mềm lại mất hết mùi vị. Ngày xưa, mỗi lần đi Huế, tôi nhất định phải ăn cho được một lần cơm hến. Đi đâu xa trở về Quảng Ngãi, tôi không thể nào quên ăn một bữa don cho đã cơn ghiền.
Cô bồi bàn bưng hai ly nước cam vắt đến bàn chúng tôi nói của bà chủ mời, có kèm theo một tấm danh thiếp trao cho tôi. Mặt sau danh thiếp là chữ viết của bà chủ nhà hàng mời riêng tôi đến nhà vào chiều Thứ Bảy. Đặc biệt, bà khoản đãi món don do bà nấu. Phần dưới là số phone và địa chỉ nhà riêng. Trên đường về, tôi hỏi Thung:
- Cậu nghĩ sao cái trường hợp lạ lùng này ?
- Ở quê người, nhớ cố hương, gặp người Việt đã mừng rồi huống chi lại là đồng hương Quảng Ngãi. Bà ấy mời cậu đến nhà có lẽ để hỏi thăm tin tức bà con ở quê nhà. Cứ nhìn dáng dấp bà ấy với cái cơ ngơi nầy là cậu hiểu ngay bà ta là dân trụ ở đây khá lâu. Biết đâu cơ may đem đến cho cậu công ăn việc làm ở thành phố này. Bạn tôi suy luận như thế. Riêng tôi, vì lạ đất lạ người nên có phần bồn chồn, áy náy.
* * *
Hương vị của món hến xúc bánh tráng làm tôi nhớ đến kỷ niệm ngày mới lớn nơi quê nhà. Tôi từ trên quê xuống tỉnh học, ở trọ nhà người chị thứ Tư trên đường Quang Trung Thị xã Quảng Ngãi. Anh chị dành cho tôi căn phòng trên căn gác lửng. Có ban-công nhô ra làm mái hiên cho tầng dưới. Thông thường mỗi sáng, tôi thức dậy học bài rất sớm. Đường phố vẫn còn sương mù vướng mắc đó đây. Hàng cây bên đường trĩu nặng những hạt sương khuya, dấu kín bóng đêm trong vòm lá sum sê. Khi chân trời vừa rựng đỏ khuất sau hàng tre hướng Đông, là tiếng rao hàng ăn buổi sáng bắt đầu râm ran trước đường nhựa. Nào xôi, bánh bột lọc, cháo gà, bánh canh, bánh mì... đủ các loại hàng ăn vặt, và cũng đủ các loại âm thanh. Tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng hơi khàn, giọng Huế, giọng Bắc, giọng Nam... Duy có tiếng rao: “Ai ăn don ho..o..o.. ông” là khiến tôi để ý. Tiếng “ho..o..o..ông” sau cùng kéo dài không đủ hơi chứng tỏ người rao hàng không phải giọng của người đứng tuổi. Tiếng rao nghe lánh lót như chim non mới tập hót, âm điệu ngây thơ rời rạc. Tôi ngồi học mà vẫn để ý đến tiếng rao bán don vang lên trước nhà. Tiếng rao như bị sương lạnh buổi sáng sớm làm đông lại không thoát ra được, nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi hút mất ngoài xa.
Một hôm, tôi đang đứng tập mấy động tác hít thở trên ban-công, chợt tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông” quen thuộc vang lên phía dưới đường. Tôi vạch bức mành nhìn xuống thấy một người con gái mặc chiếc áo bà ba trắng thân hình mỏng mảnh với gánh don trên vai.
“Ê don”, tôi gọi cô nàng đứng lại rồi vộï vàng xuống thang gác.
Gánh don đã được đặt trước hiên nhà, nàng đứng đó chờ tôi mở cửa.
- Anh ăn don? Nàng hỏi khi tôi nhẹ nhàng lách mình qua cánh cửa sắt. Là một cô bé ước chừng mười mười bốn, mười lăm. Mái tóc vừa chấm vai che một bên khuôn mặt trái soan còn măng tơ. Tôi nhìn vào ngực cô bé, đôi nhũ hoa hồng hồng như hai núm quả cau nhú bên trong làn vải mỏng không áo lót, khiến cô bé cúi mặt thẹn thùng. Bạn học của tôi, những cô nữ sinh cùng cỡ tuổi đã bắt đầu chưng diện se sua, áo ngoài áo trong, phần trên phần dưới đủ cả, không khác chi người lớn. Còn cô bé, với chiếc quần đen, áo bà ba trắng mộc mạc nổi bật nét đẹp của người con gái chân quê.
- Anh ăn don?
Cô bé nhắc lại lần nữa, tôi sực tỉnh trả lời :
- Không ăn don, kêu cô lại làm gì?
Cô bé chợt hiểu nở miệng cười chữa thẹn khoe hàm răng trắng đều như những hạt bắp nếp. Nụ cười hồn nhiên khiến người đối diện cũng thấy lòng dạt dào, xao xuyến. Cô bé hai tay thoăn thoắt múc don. Mùi don thơm nồng pha chút hương biển từ ui don bay lên ngào ngạt. Cô bé trao cho tôi tô don còn bốc hơi cùng với chiếc bánh tráng nướng và hai trái ớt xiêm tươi xanh. Ăn don đâu cần phải bàn ghế. Tôi đặt bát don xuống nền xi măng, bẻ bánh tráng bỏ vào tô giằm luôn hai trái ớt. Nước don ngọt và béo. Cái ngọt độc đáo không phải vị ngọt của thịt, cá mà vị ngọt rất đậm đà hương vị quê hương. Lại thêm vị nồng cay của ớt, mùi thơm của bánh tráng nướng nó quyện vào lưỡi, ngấm vào chân răng, kích thích tận cùng tế bào vị giác. Nước don nuốt tới đâu ấm tới đó. Trời lạnh mà ta ăn don vào buổi sáng thì mới thưởng thức được hết cái thú ăn don ở quê nhà. Miếng don cuối cùng để lại trong miệng, trong cổ của ta vị ngọt ngọt, cay cay, nồng nồng, béo béo quyến rũ lạ kỳ. Nó khiến người ăn don không muốn dừng ở tô thứ nhất.
Tôi ăn ngon lành. Miệng hít hà vì ớt cay. Cái lưỡi tê tê mùi cay nồng của loại ớt xiêm vô cùng hấp dẫn làm cho nước mắt nước mũi tuôn ra. Nhìn cách ăn rất thật tình của tôi, cô bé cứ che miệng cười. Một tô, hai tô rồi ba tô. Cô bé trợn trừng đôi mắt, đôi mắt bồ câu đen lay láy. Cô kêu lên :
- Coi chừng bể bụng đó, anh Hai !
Ô, lần đầu tiên tôi được một người con gái gọi bằng anh. Anh Hai. Mười sáu tuổi, học lớp đệ Tứ rồi đấy nhé. Thế mà cha mẹ, anh chị cứ gọi tôi là Út Đẹt. Mẹ tôi thường nhắc chuyện hồi tôi còn nhỏ. Đã bốn, năm tuổi rồi mà vẫn còn bú và ăn cháo. Các bà chị tôi chế nhạo hoài mỗi lần tôi ôm vú mẹ. Chị Hai tôi hay trách mẹ tôi nhiều nhất :
- Mẹ ơi, mẹ cưng chiều nó quá làm sao nó thành người lớn. Mẹ tôi cười, nhỏ nhẹ bảo :
- Các chị lớn cả rồi còn em nó út ít mà”. Chị tôi bực mình bảo:
- Chừng đó tuổi mà chưa chịu dứt sữa. Chẳng lẽ đến khi đi học, mẹ phải mang vú đến trường cho Út sao?
Chị Hai nói xong bỏ đi. Mẹ vò đầu tôi, tóc còn ướt nhẹp mồ hôi, âu yếm :
- Giàu út ăn, khó út chịu, Mẹ có sữa con nhờ.
Cái hòn đá bàn dưới bến sông, nơi để giặt áo quần là chỗ ngủ của tôi trong những buổi trưa hè. Nền nhà lót gạch trước bàn thờ là giường ngủ của tôi trong những đêm nóng bức. Các chị tôi thường hay đùa cợt:
- Thằng Út cứ ăn chay nằm đất kiểu nầy, lớn lên nó trở thành thầy chùa là cái chắc.
Tôi là đứa con thứ bảy trong gia đình. Những tá điền, người làm cho cha mẹ tôi đều gọi tôi là cậu Bảy Út. Thế mà bác Tám Đang ở xóm dưới dám đặt cho tôi biệt danh “Bảy Thưa” chỉ vì mấy cái răng cửa của tôi mọc hơi sưa một chút. Cái thân hình của tôi hồi đó mỏng như thân con nhái bén. Da dẻ sần sùi khô khốc bởi suốt ngày cứ để lưng trần chạy ngoài nắng. Mỗi lần bạn bè rủ tôi đá banh trên ruộng lúa mới cắt, chúng nó cứ la oang oang cái tên “Bảy Thưa” nghe chẳng đẹp tý nào ấy:
- Ê, Bảy Thưa đưa banh qua cho tao. Nào, Bảy Thưa banh đây sút vào...
Tức lắm, tôi bèn ra một điều kiện:
- Nếu bọn bay còn gọi cái tên “Bảy Thưa” nữa là tao bỏ chơi. Nhóm thằng Thới xóm Thọ Đông đang chiêu dụ tao đó. Liệu hồn!...
- Nầy cô bé, sao không múc tiếp một tô nữa?
- Anh à, em chưa hề thấy người nào ăn đến ba tô don mà còn kêu thêm nữa, ăn no quá mất ngon, thôi để ngày mai nghe anh,
Tiếng “nghe anh” của cô bé sao mà êm đềm quá, ngọt ngào quá. Bỗng nhiên tim tôi đập rộn ràng. Tôi muốn hỏi tên cô bé nhưng cứ ngại ngùng, đành phải móc tiền ra trả. Cô bé đi rồi, tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông” đã văng vẳng ngoài xa mà tôi vẫn còn đứng nhìn theo thẫn thờ. Sáng hôm sau, cô bé cất tiếng rao hàng rồi đặt gánh don trước hiên nhà chờ đợi. Tôi lại vội vàng mở cửa :
- Nầy, đằng ấy tên gì vậy ?
- Em tên Thuyền
Cô bé trả rồi dạn dĩ nhìn tôi hỏi:
-Thế còn tên anh ?”
- Hạo. Hạo, cái tên lạ quá !
Cô bé nhắc lại tên tôi rồi cười bẽn lẽn. Đôi tay Thuyền múc don lẹ làng, vén khéo không hề rơi rớt. Tôi để ý lần này, cô bé đem theo một cái tô cỡ lớn hơn, khác hẳn với những cái tô khác chồng trên miệng ui. Cô tự ý bẻ bánh tráng cho vào tô trước khi đổ don vào. Vừa làm cô bé vừa giải thích :
- Làm thế nầy don còn giữ được độ nóng, và hương don không bị loãng.
Cô bé trao tô don cho tôi, vô tình tôi đặt bàn tay chạm phải tay nàng. Bé cúi mặt thẹn thùng khiến hai tai nàng rựng đỏ, Thuyền bảo :
- Mỗi sáng anh ăn hai tô nầy là đủ rồi.
Từ đó, sáng nào tôi cũng ăn don của cô bé Thuyền. Thỉnh thoảng chị tôi mua ốc don tươi về nấu. Thông thường chị thêm vào nồi don cả thịt bằm, tóp mỡ, nhưng tôi ăn một cách lơ đãng chẳng thấy hấp dẫn tý nào. Chị tôi chế giễu :
- Thằng Út nó đâu có mê don, chỉ mê con nhỏ bán don.
Có lần tôi cố tình giữ bàn tay Thuyền bên dưới tô don, cô bé cứ để nguyên nhìn tôi với ánh mắt long lanh tình tứ.
Chặp lâu sau, nàng rút tay về hối thúc:
- Người ta thấy kìa, ăn đi kẻo nguội.
Thế là suốt mùa don, cô bé Thuyền ít có buổi sáng nào vắng mặt. Ăn hoài tôi đâm ghiền. Ngày nào Thuyền không đến là suốt ngày đó tôi thấy trống vắng lạ thường. Tôi nhớ hương vị của don, tôi nhớ khuôn mặt của Thuyền. Suốt ba tháng hè tôi không về quê lấy cớ học bài thi. Có lẽ nhờ ăn don mà thân thể tôi đẫy đà. Da dẻ tôi thêm hồng hào trắng mịn. Bà chị tôi phát giác sự “thay da đổi thịt” của thằng em út. Chị chế nhạo: “Nghèo nghèo, nợ nợ kiếm cô vợ bán don. Mai sau có chết cũng còn cặp ui”.
Năm đó tôi đậu bằng Trung Hoc Đệ Nhất Cấp, cha mẹ tôi cho tôi theo người anh họ vào Sài Gòn tiếp tục học. Tôi từ biệt Quảng Ngãi mà nghe lòng mình buồn tê tái. Tôi ra đi lúc trời chớm Thu, những cơn mưa đầu mùa đã làm cho nước sông dâng cao. Tôi còn nhớ lời Thuyền dặn: “Khi nào nước sông dâng cao thì don không còn nữa. Chừng ấy em sẽ không còn dịp gặp anh, chỉ còn biết hẹn anh vào mùa don tới đầu tháng Hai âm lịch”.
Biết như thế nhưng sáng nào tôi cũng trông tiếng rao của Thuyền. Tôi mong gặp nàng để nói lời từ biệt. Giờ phút chót ngồi trên xe đò mà tôi vẫn dõi mắt đợi chờ, hy vọng Thuyền xuất hiện. Khi xe chuyển bánh, mẹ và chị tôi mắt rưng rưng lệ nắm tay tôi từ giã. Tôi không cầm được xúc động đã òa khóc. Lần đầu tiên tôi xa mẹ xa chị, xa gia đình cách gần ngàn cây số. Tôi cảm thấy nỗi cô đơn như đè nặng lên lồng ngực mình. Tôi thương mẹ, thương chị. Nhưng tình của tôi đối với Thuyền vừa nồng nàn vừa xót xa. Tôi xót thương vì cuộc sống của nàng quá lam lũ. Tuổi vừa lên ba, cha Thuyền đã tử nạn theo tàu đánh cá ngoài khơi khi bị cơn bão bất ngờ ập tới. Mồ côi cha, mẹ ở vậy nuôi Thuyền ăn học hết bậc Tiểu học. Mới chừng ấy tuổi mà phải từ giã ghế nhà trường, lăn lộn vào trường đời. Mẹ nấu don, Thuyền gánh bán dạo hàng ngày đi về trên mười cây số.
* * *
Những đêm đầu tiên ở Sài Gòn, tôi nhớ day dứt nụ cười rạng rỡ của Thuyền. Nhớ đôi bàn tay nhỏ nhắn của nàng run run trong bàn tay tôi. Nhớ đến hương vị thơm lừng của tô don với chất béo của ruột don trộn mùi cay nồng của ớt, mùi bánh tráng nướng, mùi hành lá tươi. Nó tổng hợp thành hương vị không có món ăn nào so sánh được. Don Quảng Ngãi chiếm lĩnh cương vị độc tôn đối với người dân Quảng Ngãi bởi nó là món ăn quê hương. Và đối với riêng tôi có pha cả mùi hương con gái của Thuyền.
Xa nơi chôn nhau cắt rún lần đầu, tôi nhớ nhất là những chuyến đi chơi với bạn bè trên núi Thiên Ấn. Sau một hồi leo giốc mệt bở hơi tai, khát nước khô cả cổ chỉ cần uống mấy ngụm nước giếng của nhà chùa là cơn mệt cùng mồ hôi tan đi hết. Có người bảo đó là nước của Tiên Phật độ trì. Một truyền thuyết kể rằng có một vị sư đến đào giếng này suốt cả năm trời, khi giếng có nước thì vị sư ấy biến mất. Ngôi chùa Thiên Ấn tọa lạc trên đỉnh núi có mặt bằng vuông vức, cao hơn mặt nước biển trên trăm mét, nhưng nước giếng trong và ngọt cung cấp cho chùa không bao giờ cạn. Quả là điều rất hiếm. Đây là “Đệ nhất thắng cảnh” của quê nhà có tên là “Thiên Ấn Niêm Hà” do quan Tuần Vũ Nguyễn Cư Trinh đặt tên trong mười hai bài thơ Đường Luật. Mỗi bài ca ngợi một thắng cảnh của tỉnh Quảng Ngãi. Đứng trên đỉnh núi nhìn bao quát ta thấy dòng sông Trà Khúc óng ánh bạc uốn mình theo những lũy tre xanh đến tận cùng cửa Cổ Lũy trước khi nhập vào biển Đông. Nơi đây ta có thể thưởng ngoạn thêm “Đệ nhị Thắng cảnh” của quê hương, đó là “Cổ Lũy Cô Thôn” nằm im lìm nơi cửa biển, nước bủa mênh mông. Nhìn chệch qua bên trái là mũi Ba-Tâng-Gâng phơi mình với sóng bão đại dương. Để hồn trải rộng đến cuối chân trời, ta có cảm tưởng như người được thoát tục về nơi tiên cảnh. Kẻ nào có tham vọng, mang ý đồ đen tối mà đối diện với cảnh sắc nầy, trong thoáng chốc cũng tạm thời quên đi.
Vào những ngày sắp nghỉ Hè, tôi nhận được thư của chị tôi : “...Đầu mùa don năm nầy, con bé bán don trở lại. Sáng nào nó cũng đặt gánh don trước cửa nhà chị. Lâu lâu nó rao lên “Ai ăn don hông” rồi đứng đó đợi chờ. Người ta không biết nó đợi chờ ai, nhưng chị, thì chị đoán biết. Thời gian kéo dài cả tháng trời, chị thấy tội nghiệp nên thỉnh thoảng kêu don của nó cho cả nhà ăn buổi sáng. Đôi mắt nó thật buồn, cứ lén nhìn sâu vào trong nhà mà không dám hỏi. Một hôm, cầm lòng không được, chị cho nó biết là em vào Sài Gòn học đã gần một năm. Sau đó chị không còn thấy con bé bán don trên con đường nầy nữa...”
Đêm đó tôi nằm mơ nghe thấy tiếng rao: “Ai ăn don ho..o..ông” như tiếng chim cuốc lẻ đôi khắc khoải gào khan suốt mùa Hè thương nhớ rồi cuối cùng chết khô theo con trống, chung tình. Thuyền ơi, hãy tha thứ cho tôi. Những rạo rực tình yêu đầu đời đã làm cho con tim em phải se thắt vì phân ly.
Rồi thời gian trôi qua, ba năm miệt mài đèn sách đã giúp tôi quên hình ảnh cô gái bán don ngày nào. Sau khi lấy xong bằng Tú Tài toàn phần, tôi về thăm Quảng Ngãi. Vào buổị sáng, tôi dậy sớm cùng chị tôi chuẩn bị về quê thăm cha mẹ. Đang xếp áo quần vào va-li chợt tôi nghe tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông”. Tôi vội vàng chạy ra ban-công gọi :
- Ê ! Cô bán don.
Tôi nhanh chân xuống thang gác mở cửa. Cô bán don đứng đợi dưới mái hiên nhà. Thoáng nhìn, tôi tưởng một thiếu phụ nào khác không phải Thuyền. Nhưng không, làm sao tôi nhầm lẫn được. Âm thanh tiếng rao của Thuyền như mọc rễ trong ký ức của tôi. Cũng thân hình mảnh khảnh đó nhưng cao hơn và già dặn hơn. Chính là Thuyền của ba năm về trước.Tôi hỏi:
Thuyền phải không? Nàng nhìn tôi đăm đăm, rồi những giọt nước mắt lăn tròn trên má. Tôi thấy loáng thoáng trên ngực áo nàng vết ố của những giọt sữa đã khô. Đứng sát vào Thuyền, tôi đặt tay lên vai nàng bảo:
- Em để gánh xuống đây, múc don cho anh ăn nhé.
- Không. Don em đã cuối mùa, gặp luồng nước bạc (nước lụt), em không bán cho anh đâu.
Nói xong, nàng đưa tay áo quệt nước mắt, trở gánh quay lại con đường cũ. Tôi đứng nhìn theo nàng mà nghe hồn trĩu nặng. Tôi cố lắng nghe tiếng rao “ai ăn don ho..o..ông” lần cuối cùng của Thuyền lẫn lộn với tiếng rao hàng khác nhưng tuyệt nhiên im lặng, chỉ còn sót lại hương don thoảng bay trong gió.
* * *
Chiều Thứ Bảy, Thung bỏ tôi trước căn nhà số 28... trên đường White Forge thành phố Sugarland. Căn nhà lầu ở khu mới xây khá đồ sộ. Vách tường áp gạch màu nâu đỏ trông thật mát mắt. Tôi đứng tần ngần một hồi lâu mới bấm chuông. Người phụ nữ ở quán Cổ Lũy hôm trước mở cửa, gục đầu chào rồi mời tôi vào khu phòng khách trang hoàng lộng lẫy. Bộ sô-pha da màu vàng nhạt choán cả một góc phòng. Chiếc TV cỡ lớn cùng dàn karaoke với hệ thống âm thanh chiếm trọn góc phòng đối diện. Bà chủ rót trà :
- Mời anh dùng nước, nàng trao tôi tách nước rồi tự giới thiệu:
- Tôi tên là Mary, chồng tôi là người Mỹ đưa tôi sang đây từ năm 1972. Xa quê mình lâu quá, nay gặp người đồng hương tôi mừng lắm. Và đặc biệt là dân ở Quảng Ngãi mà lại thích ăn don như anh.
- Bà ở huyện nào ? tôi tò mò hỏi :
- Huyện Tư Nghĩa xã Tư Nguyên.
Bà Mary nhìn tôi định hỏi tiếp điều gì, nhưng bà lại đổi thế ngồi, xoay người sang hướng khác bưng bình trà rót thêm nước vào tách cho tôi. Bà nói :
- Thôi, để lát sau mình nói chuyện tiếp, giờ mời anh dùng món ăn quê nhà kẻo nguội mất.
Tôi theo nàng đến phòng ăn. Mùi don từ trên bếp bốc hơi thơm lừng. Bà chủ nhà bưng hai tô don hơi lên nghi ngút đặt trên bàn có cả bánh tráng nướng, đĩa ớt xiêm và lá hành xắt nhỏ.
Bà tươi cười bảo :
- Đây là don chính hiệu từ Quảng Ngãi đấy nhé. Người ở ngoài tỉnh cứ hiểu lầm don là hến. Thực ra don và hến là hai loại ốc khác nhau. Ốc don dài, vỏ mỏng, ruột don có tua màu hồng thoạt trông như cái đuôi. Nước don ngọt và ít nồng hơn hến vì don chỉ sống nơi vùng sông nước lợ gần cửa biển. Tôi bưng tô don ăn ngon lành, ăn thật tình. Ớt cay, don nóng, tôi hít hà, nước mắt nước mũi chảy ra. Bà chủ nhà đưa tissues cho tôi với ánh mắt đầy xúc động. Một tô rồi hai tô, bà ngồi nhìn tôi ăn và khuyến khích thêm tô nữa nhưng tôi vỗ bụng lắc đầu từ chối. Nàng bảo :
- Anh sợ vỡ bụng đấy à?
Câu nói của bà chủ khiến tôi sực nhớ đến Thuyền, cô gái bán don thời tôi còn trung học ở Quảng Ngãi. Cô bé đã từ chối bán cho tôi tô thứ tư với câu : “Coi chừng bể bụng”. Tôi ngước nhìn bà Mary, tâm sự:
- Ăn don hôm nay khiến tôi nhớ đến kỷ niệm thời niên thiếu ở quê nhà. Tôi là khách ăn thường xuyên của cô gái bán don tên Thuyền. Tôi thương nàng và tội nghiệp hoàn cảnh cô ấy. Mới mười mấy tuổi đầu đã phải bỏ học thay Mẹ đi bán don dạo. Buổi sáng nào Thuyền cũng gánh don đến trước nhà tôi trọ học và chăm sóc tô don cho tôi như người chị lo cho em. Sau nầy tôi vào Sài Gòn học đã quên bẵng cô bé bán don. Ba năm sau trở về Quảng Ngãi, tôi tình cờ gặp lại nàng cũng với gánh don trên vai, nhưng cô bé đã trở thành thiếu phụ. Thuyền đã từ chối không bán don cho tôi còn bảo...
Vừa nói đến đây, chợt bà Mary cướp lời tôi, lên tiếng :
- Em không bán cho anh đâu, don em cuối mùa lại gặp luồng nước bạc!
Bà chủ nhà đã nói lên nguyên văn câu nói của Thuyền ngày xưa, ẩn chứa sự trách móc giận hờn, khiến tôi giật mình sửng sốt. Tôi nhìn vào mắt bà Mary, hình như long lanh ánh nước. Tôi kêu lên:
- Thuyền phải không?
Thuyền ngày xưa không trả lời câu hỏi của tôi chỉ đưa tay áo lau dòng lệ. Mary bây giờ với giọng ngậm ngùi:
- Vâng, em là Thuyền của 37 năm về trước. Em đã nhận ra anh ngay khi anh cho biết chỗ ở trước kia là đường Quang Trung. Đó là con đường dạt dào hạnh phúc trên mỗi bước đi của em hồi đó, mà cũng là con đường mang đầy xót xa thương nhớ ngày anh rời xa. Thuyền đứng dậy đến ôm vai tôi :
- Cảm ơn anh đã cho em một tình cảm trân quý, dù là đối với một cô gái bán don nghèo hèn. Suốt quảng đời đen tối về sau này, tình anh là ngọn đèn thắp sáng cho em trong những đêm mịt mù sương tuyết. Hạo ơi - cái tên nghe lạ quá - ngày đó em đã nói với anh như thế. Nhưng sau nầy mỗi khi gặp những đau khổ chất chồng, chính cái tên Hạo trở nên thân thương sưởi ấm lòng em.
Tôi nắm lấy tay nàng, nói như một triết gia:
- Đời như một dòng sông, chuyển đổi không ngừng. Xưa kia Thuyền là cô gái bán don, ngày nay Mary là chủ một nhà hàng lớn nhất nhì ở đây. Chúc mừng em. Chúc mừng người đồng hương Quảng Ngãi đã nắm bắt được cơ hội vươn lên trên xứ người.
Sau buổi hàn huyên, Thuyền đưa tôi ra tận xe khi bạn tôi đến đón. Lên xe rồi, tôi thấy nàng còn quyến luyến nhìn theo, đưa mấy đầu ngón tay áp vào môi hôn. Tôi hít một hơi thật sâu vào lồng ngực, chợt nghe hương don còn nồng trong hơi thở.
Món don home-made
The following 1 user Likes duke's post:1 user Likes duke's post
• TanThu
Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
Nhớ lại thời học sanh, cũng vẫn mê đọc truyện kiếm hiệp. Những lúc rảnh chút là lén ông già đi ra hiệu sách đầu đường mướn về đọc, có khi đang say mê đọc tới hồi gay cấn, bị ông cụ giằng lấy cuốn truyện xé tan nát và la "Học không lo học, lo đọc truyện hử ...!" làm mình phải đền cuốn truyện đã mướn cho hiệu sách ...Ôi kiếm hiệp Kim Dung
CON ĐƯỜNG ĐƯA TRUYỆN KIM DUNG ĐẾN VỚI VIỆT NAM
“Chuyện tình” Kim Dung và Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn: trước 1975 và sau 1975
TRƯỚC 1975
Những năm trước 1975, Sài Gòn có rất nhiều tờ báo tư nhân. Ở vào giai đoạn đỉnh điểm Sài Gòn có tới 36 nhật báo. Ba mươi sáu tờ báo ấy, không chỉ hấp dẫn độc giả bằng những thông tin nóng, từ chiến sự đến chính trị, mà còn chính bởi những tiểu thuyết nhiều kỳ, đăng hàng ngày trên các nhật báo, trong đó đáng kể nhất phải là những tiểu thuyết kiếm hiệp theo những chuyến bay từ Hongkong đến Tân Sơn Nhất và được dịch ngay sang tiếng Việt,.
Truyện Kim Dung bắt đầu tạo cơn sốt tại Việt Nam từ đầu thập niên 1960, với ấn phẩm Cô gái Đồ Long (tên gốc là Ỷ thiên Đồ long ký) của dịch giả Tiền Phong Từ Khánh Phụng, đăng trên báo Đồng Nai. Trước đó, một số bản dịch của truyện Kim Dung như Bích Huyết kiếm, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp... đã đăng trên các báo Đồng Nai, Dân Việt...
Truyện chưởng Kim Dung lôi cuốn nhiều tầng lớp độc giả, gần như khuynh loát thị trường chữ nghĩa, báo chí trong những năm 1965-1973 (năm 1973 khi Lộc Đỉnh ký đến Việt Nam tất cả báo đều đăng), hầu như ai cũng đọc chưởng, không chỉ có những người trong đại chúng bình dân, học sinh, thợ thuyền và tiểu công tư chức mà ngay cả những tay đại trí thức, những người đã từng du học bên Âu, Mỹ trở về, từng đỗ những mảnh bằng cao nhất về luật học hay khoa học cũng say mê võ hiệp tiểu thuyết như điếu đổ" (Hiếu Chân, Bàn về tiểu thuyết võ hiệp, báo Tin văn, năm 1967).
Độc giả Sài Gòn nói riêng, bạn đọc miền Nam nói chung yêu truyện Kim Dung, nhất là qua bản dịch của Hàn Giang Nhạn vốn rất hợp với truyện chưởng. Người Sài Gòn xưa mê Kim Dung đến nỗi lời ăn tiếng nói, cách đặt tên quán xá, tên người (Hoàng Dung, Vi Tiểu Bảo, Quách Tĩnh, Đoàn Dự), khẩu khí sinh hoạt đời thường.... đều phảng phất phong vị các tác phẩm của ông. "Ngay cả 'những nhà tu hành cũng thích chưởng (...) những ông bự và những ông đại sứ cho người về nước khuân hàng... thùng tài liệu Kim Dung để đem đi đọc ở xứ người. Các bà cũng thích chưởng. Giáo sư thảo luận với học sinh vì chưởng. Trẻ em đánh nhau ngoài đường cũng dùng chưởng..." (theo Nguyễn Viết Khánh, Tiểu thuyết Tàu trên báo chí Việt, Báo chí tập san xuân 1968).
Trên văn đàn, tên tuổi Kim Dung lan truyền và tạo làn sóng hâm mộ. Các thi nhân, văn sĩ đương thời như Bùi Giáng, Bửu Ý... bắt tay viết các bài bình, khảo về truyện Kim Dung, trong số đó có tác giả Đỗ Long Vân với cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung. Nhiều tác giả thời đó lấy tên của nhân vật chính trong truyện ông làm bút danh như Tiêu Phong, Hư Trúc...
SAU 1975
Sau năm 1975, truyện kiếm hiệp Kim Dung được coi là loại văn hóa phẩm đồi trụy và bị phê phán, đả kích dữ dội. ví dụ như các bài viết : Phan Đắc Lập, Truyện chưởng Kim Dung-Một công cụ nô dịch văn hóa và tư tưởng của chủ nghĩa thực dân mới Mỹ, Tạp chí Văn học số 4.1977; Trần Trọng Đăng Đàn, Văn hóa văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam 1954-1975, NXB Thông tin-NXB Long An 1990….Đa số các bài báo kiểu này đều thiếu tri thức khoa học ( văn học), thiếu hiểu biết về tình hình chung về văn học võ hiệp hoặc nhận định bị ảnh hưởng và chi phối bởi thời cuộc.Lúc này bên Trung Quốc đại lục cũng có tình hình tương tự. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều cấm in sách Kim Dung.
Năm 1985 Trung Quốc bỏ lệnh cấm in sách Kim Dung. Năm 1986, Việt Nam tiến hành đường lối đổi mới trong đó có đổi mới trên lĩnh vực văn hóa.Các bài báo phê bình chỉ trích Kim Dung hầu như không còn nữa.Tuy nhiên lệnh cấm in sách Kim Dung vẫn chưa được gỡ bỏ.
Năm 1991- 1992, nhà xuất bản Quảng Ngãi – nhà xuất bản “huyền thoại” trong lòng fans hâm mộ truyện Kim Dung đã “lén” in lại hầu hết các tác phẩm kim dung dưới hình thức đổi tên nhân vật, bối cảnh lịch sử và tên tác giả, nội dung truyện giữ y nguyên.Sau khi nhận thấy sự ủng hộ của bạn đọc và các cơ quan quản lý “mắt nhắm mắt mở “ cho qua thì một số tác phẩm sau này của Kim Dung, nxb Quảng Ngãi giữ y nguyên bản gốc.
Năm 1991, tạp chí Kiến Thức Ngày Nay – tờ báo đầu tiên sau năm 1975 đăng bài nhận định khách quan, khoa học về tiểu thuyết Kim Dung. Bài báo ấy có tên “Những giai thoại về tiểu thuyết của Kim Dung” của tác giả Phan Nghị (Tạp chí Kiến thức ngày nay số 67-1991). Sau đó có thêm nhiều người như Vũ Đức Sao Biển, Tuyết Lan, Ngô Thiện, Huỳnh Ngọc Chiến...viết bài và các khảo luận phân tích truyện Kim Dung và được đăng trên nhiều báo khác nhau. Vũ Đức Sao Biển là tác giả viết khảo luận Kim Dung đầu tiên sau 1975 ( Kim Dung giữa đời tôi thượng – trung – hạ xuất bản năm 1997-1999). Truyện Kim Dung và giá trị của nó dần dần được nhìn nhận khách quan và không có sự phản ứng cấm đoán, quy chụp từ phía các cơ quan quản lý.
Năm 1999, Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên mua bản quyền dịch tác phẩm võ hiệp của Kim Dung thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Từ năm 2001, toàn bộ tác phẩm võ hiệp của Kim Dung lần lượt được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất. Các dịch giả gồm có Cao Tự Thanh, Vũ Đức Sao Biển, Nguyễn Thị Bích Hải, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Hoàng Ngọc (Huỳnh Ngọc Chiến).
Con đường trở lại Việt Nam sau 1975 của truyện Kim Dung không đơn giản. Song như triết học có câu “ cái gì đúng thì cái ấy tồn tại” .Truyện Kim Dung và giá trị của nó sẽ sống mãi trong lòng người đọc.
***
Ai có kỷ niệm nào vui, buồn với truyện KH, vô chia sẻ/ share ...cho xôm tụ ...
Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ 1986 – BỘ PHIM KIM DUNG ĐƯỢC YÊU THÍCH BẬC NHẤT TẠI VIỆT NAM
Nếu có cuộc khảo sát các thế hệ fans Kim Dung 5x, 6x, 7x, 8x, 9x, tại Việt Nam về bộ phim Kim Dung được yêu thích nhất thì Ỷ Thiên Đồ Long Ký 1986 chính là ứng cử viên hàng đầu.
Tại sao như thế?
Đầu tiên phải nói là do tác phẩm Ỷ Thiên Đồ Long Ký khi phát hành tại Việt Nam đã nhận được sự yêu mến của đông đảo người xem. Nhiều biệt hiệu, tên gọi, câu nói ….trong tác phẩm này đã đi vào lời ăn tiếng nói, câu vè, ca dao, lô tô… của nhiều người dân trong xã hội. Chính vì thế khi chuyển thể thành phim thì dễ nhận được sự quan tâm , theo dõi, yêu mến của nhiều người.
Thứ hai, phim Ỷ Thiên Đồ Long Ký 1986 là phim Kim Dung đầu tiên được phổ biến rộng rãi tại Việt Nam.
Vào thời điểm năm 1983 tại Việt Nam , hai phim Kim Dung kinh điển của TVB là Anh Hùng Xạ Điêu 1983 và Thần Điêu Đại Hiệp 1983 thì hầu như không ai được xem do lệnh cấm phổ biến tác phẩm Kim Dung và đất nước còn nghèo, lạc hậu, đóng cửa với bên ngoài. Phim Ỷ Thiên Đồ Long Ký 1986 là bộ phim Kim Dung đầu tiên được phát hành chính thức tại Việt Nam thông hệ thống Fafilm Việt Nam. Ở các đô thị lớn như Sài Gòn , Hà Nội …người dân có thể thuê/mua băng để xem qua đầu máy. Còn ở các vùng nông thôn , chủ yếu xem qua dịch vụ chiếu phim tư nhân và những đội chiếu phim lưu động. Chuyện cả nhà nhiều thế hệ từ già đến trẻ rồng rắn rủ nhau đi xem phim Ỷ Thiên Đồ Long Ký 1986 ở rạp chiếu bóng, hội trường của thôn xóm, ở những quán chiếu phim tư nhân… có thể làm những bạn gen Z bây giờ khó hình dung – nhưng nó là những hình ảnh quen thuộc, thân thương lúc bấy giờ.
Thời điểm thập niên 80, khi mà đời sống văn hóa – giải trí của đa số người dân còn ít, nghèo nàn thì việc được xem một bộ phim xuất sắc như Ỷ Thiên Đồ Long Ký 1986 thực sự để lại rất nhiều sự yêu thích, tình cảm, hồi ức tốt đẹp về bộ phim này.
Thứ ba, Ỷ Thiên Đồ Long Ký 1986 là bộ phim xuất sắc , kinh điển :
1.Ỷ Thiên Đồ Long Ký ra mắt năm 1986, quy tụ toàn mỹ nam mỹ nữ lúc bấy giờ, có thể gọi là phiên bản thanh xuân tú mỹ nhất: Lương Triều Vỹ, Lê Mỹ Nhàn, Đặng Tụy Văn, Thiệu Mỹ Kỳ, Tăng Hoa Thiên…
2. Diễn xuất đỉnh cao và có hồn nhất. Sau này những bản làm lại ko có hồn bằng. Xem những bản kia ko thấy xúc động và tương thông tình cảm như bản này.
- Lương Triều Vỹ rất thành công trong việc thể hiện Trương Vô Kỵ thông qua ánh mắt (ánh mắt biết nói !), cử chỉ, hành động, lời thoại. LTV không chỉ diễn tả một Trương Vô Kỵ hiền lành, nghĩa hiệp mà còn là một Trương Vô Kỵ tình cảm, quyến rũ, hấp dẫn. Trong một số cuộc bình chọn của HK, Singapore…. Lương Triều Vỹ thường được độc giả bình chọn là TVK hay nhất.
- Vai diễn Triệu Mẫn do Lê Mỹ Nhàn thủ vai được giới phê bình đánh giá là xuất sắc, thể hiện đúng nguyên tác. Nhan sắc xinh đẹp và cực kỳ phù hợp dòng phim kiếm hiệp, cổ trang. Diễn xuất của cô rất tinh tế, làm nên một nàng quận chúa Mông Cổ thông minh, sắc sảo, lém lỉnh nhưng không kém phần dễ thương, ngây thơ không giống một số phiên bản khác có phần láu cá, ma mãnh, hung dữ (tính cách vậy giống Dung nhi hơn).
- Chu Chỉ Nhược của Đăng Tụy Văn thực sự xuất sắc về diễn xuất nhất là phần diễn xuất nội tâm nhân vật. Những phân đoạn điển hình như Chu Chỉ Nhược gặp lại Trương Vô Kỵ làm người ta xem 1 lần chỉ muốn ….xem lại 10 lần nữa !
- Quách Tương- Tăng Hoa Thiên xuất hiện chỉ 25 phút mà không thể quên vì xinh đẹp, phong cách đỉnh cao và dễ thương quá.
- Tiểu Chiêu của Thiệu Mỹ Kỳ lai tây thật xinh đẹp, hấp dẫn.
- Bảy anh Thất hiệp đẹp trai, phong độ ngời ngời. Trương ngũ hiệp gần như vô đối - quá tuyệt diệu.Các anh khác anh nào cũng đặc sắc và hợp thành 7 anh thất hiệp thật khó quên.
- Trương Tam Phong của cố nghệ sĩ Bào Phương như trong truyện bước ra.
- Ân Tố Tố của Trịnh Du Linh cũng rất hay, Trâu Điên thật thú vị…...
- Diệt Tuyệt Sư Thái của Lý Hương Cầm dữ dằn mà nghiệt ngã. Mỗi lần xuất hiện là sự hằn học làm đen tối cả đương trường.
- Giác Viễn chỉ xuất hiện dăm mười phút đầu tiên, mà qua diễn xuất quá già dặn điêu luyện của gạo cội Cao Hùng mà dấu ấn rất khó quên. Tương tự với Vi Nhất Tiếu của Hứa Thiệu Hùng, nhưng ở phong cách trái ngược, Hài hước nhẹ nhàng rất có duyên!
- Dương Tiêu của Lê Hán Trì, đoạn đầu có thể thua xa nét hào hoa quá ấn tượng từ Dương Tiêu của Lâm Vũ Thân trong Ỷ Thiên 2019, nhưng đoạn sau lại vào vai rất ngọt 1 Dương Tiêu già dặn trầm tính biết ăn năn.
- Phạm Dao từ Đào Đại Vũ hầu như chưa nổi tiếng, dáng người thanh thoát và phong thái dứt khoát quyết liệt từ ủ mưu cho đến triển khai không 1 động tác thừa….
-Ân Ly- Trần An Doanh đanh đá nhưng đáng thương, đáng yêu cũng đáng hận.
-Thành Khôn của Lưu Giang- một vai phản diện đặc sắc, ấn tượng mà người ta khó quên được.
….
3. Bài hát chính - phụ của phim rất xuất sắc ( Kiếm Ở Bên Ai, Lòng Như Con Nước Rời Xa) .Nhạc nền hay, tình cảm và rất phù hợp.
4. Không cải biên chế tác dặm mắm thêm muối vào cốt truyện, nếu có gì khác truyện thì chỉ là dựng phù hợp với phim thôi.
5. Kỹ xảo không bằng thời nay nhưng thời đó là thượng thừa, đánh thật gây cảm xúc thật.
Với những fans Kim Dung 5x-9x tại Việt Nam, hiếm có bộ phim kiếm hiệp nào để lại cảm xúc, tình cảm nhiều như phim này.Vì thế sẽ không ngạc nhiên khi có rất nhiều người đã xem đi xem lại bộ phim này hàng năm và có nhiều người đã xem lại 15-20 lần !
Ỷ Thiên Đồ Long Ký 1986 mãi là một phần ký ức vui vẻ không thể nào quên đối với những ai từng xem!
The following 1 user Likes duke's post:1 user Likes duke's post
• TanThu
Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
Nhặt từ Net
Viết thêm cho lần tái bản năm 2016
Cũng gần 3 năm kể từ ngày tập tùy bút này ra đời, tôi không ngờ mình cũng viết lăng nhăng thêm được hơn chục bài.
Tất cả chỉ là những mảng ký ức rời rạc về Mẹ, về Sàigòn, nơi tôi sinh ra và lớn lên với biết bao thăng trầm của đời người, và một chút về Đà Lạt, nơi đang dung túng cho những mảng ký ức đó xuất hiện bên tách trà ly rượu.
Thôi, gom hết luôn vào lần tái bản này cho tiện. Nợ văn chương coi như trả sạch, cả vốn lẫn lời.
Tôi nghĩ thế, nhưng nhà xuất bản nghĩ khác. Họ muốn tách ra làm hai tập theo chủ đề: tập về Sài gòn xưa sẽ xuất bản sau, và tập về Mẹ để in liền cho kịp mùa Vu Lan sắp đến. Tôi giật mình, lại thêm một mùa Vu Lan nữa…
Thời gian là thuốc tiên, giúp tôi thân thiện hơn với lẽ tử sanh, không chỉ của mẹ tôi, mà của chính tôi nữa, tự nhiên như giọt rượu tan vào ly nước.
Tôi nhận được nhiều mail từ độc giả, đa số là mail từ mấy “thằng già” đồng cảnh ngộ. Những mail này ngắn ngủi, chuệch choạc, không bỏ dấu, mà sao mặn quá chừng. Đừng tưởng trái tim già băng giá với những ký ức nhạt nhòa xa xưa về mẹ. Lại có thư của một bà ở nước ngoài: “Tôi muốn mua quyển sách tặng cho ông xã tôi. Ổng vừa mất mẹ”.
Tôi thấy mình được chia sẻ nhiều.
Nhưng có một email đã để lại trong tôi nhiều dấu chấm than (!). Tôi muốn trích một câu trong email này để kết thúc phần viết thêm:“Ông mất mẹ, nhưng có mẹ để nhớ. Còn tôi, tôi không biết mặt mẹ tôi từ lúc chào đời…”
Đôi lời
(Lời nói đầu cho lần xuất bản năm 2013)
Tôi viết báo cũng được gần 20 năm. Viết tài tử, vui viết buồn ngưng, có khi viết liên tục vài ba tháng, có khi ngưng vài ba năm.
Mới đầu là dịch, rồi viết, mà chỉ viết quanh quẩn trong lĩnh vực khoa học, đôi khi lấn sân qua chuyện nhân văn một chút. Có lần ngứa miệng nói leo qua cả đề tài…giáo dục, nhưng bây giờ thì hết dám rồi.
Cái thứ văn chương ống nghiệm bị nhiễm thói quen chạy theo sự kiện, đánh giá sự kiện, và nếu có thể, khái quát hóa vấn đề. Thế nên nó nhạt nhẽo, nếu cay, thì cay vị gừng, chứ không đậm đà như tiêu hành ớt tỏi. Cái nguyên tắc nhạt nhẽo đó ít nhiều đã chi phối các bài viết của tôi, dù viết bất cứ thể loại nào. Chưa bỏ nhược điểm đó được.
Nhiều lần tôi bị dụ vào cái nghiệp làm báo. Viết báo có thể xem là nghề, nhưng làm báo phải gọi là…nghiệp. Làm báo ma lực lắm, một thứ tiền oan nghiệp chướng mà Trời dành cho những kẻ kiếp trước đi ăn đám cưới không mang theo phong bì. Các sư tổ Tản Đà hay Nguyễn Văn Vĩnh không phải là tấm gương đấy sao!
Phước đức ông bà, tôi vẫn thấy nguyên lý nhân-quả trong khoa học hấp dẫn hơn nhiều, chứ cuồng si trong thế giới “cây đè điện giựt” của báo chí thì dễ suy tim lắm.
Đời lắm nỗi truân chuyên, coi vậy chứ không phải vậy. Thôi, thà chết dưới phát súng của kẻ gian ác, còn hơn sống quằn quại dưới nhát dao của tên đạo đức giả.
Đầu năm 2011, mẹ tôi mất. Một người bạn xúi (dại) tôi cầm bút viết lại. Mùa Vu Lan năm đó, tôi viết “Những thằng già nhớ mẹ”. Đó là bài tạp bút đầu tiên trong đời tôi.
Tạp bút (personal essay), hay còn gọi là tùy bút, tản văn,…ai muốn hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp gì đó, mặc kệ, tôi gọi thể văn đó là…“câu chuyện bàn rượu”. Có chút men cay, câu chuyện sẽ từ trái tim này đi thẳng tới trái tim kia. Tách trà hay ly cà phê làm con người ta tỉnh táo lắm, câu chuyện lại phải đi vòng qua…cái đầu. Ngôn ngữ bị tính toán thì sự thật trên đường đi cũng rơi rụng ít nhiều.
Mùa Vu Lan năm sau (2012), tôi viết bài tạp bút cuối cùng. Tôi nghĩ, viết lăng nhăng trên bàn rượu như thế đủ rồi. Bạn bè lại xúi (dại), ráng thêm chút chút để in sách. Thêm 6 tháng nữa, tôi cũng viết chỉ được 3 bài. Sức viết lăng nhăng rõ ràng đã kiệt.
Đa số các bài trong tuyển tập này được viết giữa 2 mùa Vu Lan đó. Có vài bài, đang nói chuyện này, tự nhiên lại xen chuyện bà mẹ vào một chút. Bạn đọc nào may mắn còn mẹ, xin bỏ qua cho. Nỗi đau còn mới quá! Riêng với các bạn đã mất mẹ, xin lỗi, tôi… xả chấp.
Hồi xưa tôi đọc “chùa” nhiều lắm. Quyển tạp bút này ra đời, coi như trả xong cái nợ văn chương, ít ra cũng trả được nợ gốc.
Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đến những thân hữu đã khích lệ và giúp tôi ra được tuyển tập này. Chẳng ai muốn tôi nêu tên ra ở đây cả.
Sài Gòn ngày 5 tháng 5 năm 2013
Vũ Thế Thành
The following 1 user Likes duke's post:1 user Likes duke's post
• TanThu
Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
Tiếng Huế, một ngoại ngữ
Người bạn đời gốc Bắc của nhà văn Túy Hồng có lần đã phát biểu cảm nghĩ về tiếng Huế như sau: “Người Huế nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ Huế, người Nam người Bắc đứng ở ngoài nghe, không làm sao chen vào được một câu”.
Võ Hương An
[img=0.4x0.4]https://saigonthapcam.files.wordpress.com/2022/05/tieng-hue.jpg[/img]
Mới nghe qua, tưởng như đùa, nhưng đem đối chiếu với kinh nghiệm thực tế qua giao tiếp thì quả ý kiến ấy không phải là không có lý, tuy hơi cường điệu một chút. Ai trong người Huế trên bước đường tha hương lại không hơn một lần gây bối rối cho người đồng hương khác xứ khi đối thoại với rặt giọng sông Hương?
Sau năm 1954, hơn một triêu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam để tránh hiểm họa Đỏ, đã sống rải rác khắp mọi miền dưới vĩ tuyến 17. Dù ở đâu, dù mấy chục năm đã trôi qua, họ vẫn giữ nguyên giọng Bắc, chỉ thay đổi một vài thổ ngữ cho dễ chuyện trò thông cảm.
Còn Huế mình, khi tha hương, đa số đều đổi giọng, hoặc Nam hoặc Bắc; nếu không được khéo léo rặt ròng như Bắc Nam chính cống thì cũng lơ lớ cho người khác xứ dễ nghe, chứ không còn rặt Huế nữa, ngoại trừ khi nói chuyện trong gia đình hay với đồng hương Cơm Hến.
Việc không đổi giọng của đồng bào miền Bắc di cư và việc đổi giọng hay pha giọng của người Huế tha hương, có người cho rằng đó là dấu hiệu của mặc cảm về giọng nói. Tôi không nghĩ như thế.
Đồng bào miền Bắc tha hương vẫn giữ nguyên giọng nói, không phải do mặc cảm tự tôn, tự cho rằng đó là một giọng nói hay, không việc gì phải đổi. Mặt khác, người Huế tha hương thường đổi giọng cũng không phải vì mặc cảm giọng nói của mình trọ trẹ khó nghe. Tất cả chỉ là sự đáp ứng thực tế của cuộc sống, sự thích nghi với hoàn cảnh.
Việc gì đồng bào miền Bắc phải đổi giọng khi giọng nói ấy không gây trở ngại nào trong đối thoại? Tại sao mình cứ khăng khăng giữ nguyên giọng Huế trong giao tiếp, khiến đồng bào khác xứ không hiểu gì cả, phải tốn công lặp đi lặp lại, giải thích này nọ, mất thì giờ? Như vậy làm sao dễ cảm thông với nhau cho được? Không đổi hay đổi, tất cả chỉ là thế. Không mặc cảm, không gượng gạo.
“Thương nhau thương cả đường đi . . .” . Thanh Nam quen với “nhỉ, nhé, hộ, gì cơ, làm sao . . . ” nhưng vì yêu Túy Hồng nên phải ráng nghe và hiểu “hí, nghe, giúp, cái chi rứa, làm răng . . . ” . Còn người dưng nước lã với nhau, lấy gì làm áp lực để buộc người ta phải hiểu điều mình nói?
Nói mà người khác không hiểu hay khó hiểu là một nhược điểm nên tránh trong giao tiếp. Vì vậy, sự điều chỉnh cho thích ứng với nhu cầu thực tế là sự thích nghi hoàn cảnh một cách khôn ngoan . Người Tàu tới nơi nào cũng sống được và sống giàu sống mạnh, là nhờ tinh thần hội nhập thực tế . Tuy vậy, không bao giờ đánh mất bản chất Trung Hoa của họ . Hòa mà không hùa là thế .
Ai cũng biết Tổng Thống Ngô Đình Diệm vốn quê Lệ Thủy, Quảng Bình nhưng sinh trưởng ở Huế. Nói chuyện với người Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, ông nói tiếng Huế nhưng khi nói trước công chúng, khi đọc diễn văn hay thông điệp, bao giờ ông cũng dùng giọng Nam. Ông mang mặc cảm giọng Huế trọ trẹ chăng? Hiển nhiên là không.
Trong nước, ông là người có quyền lực nhất, nhưng không vì quyền lực đó để buộc quốc dân phải nghe cho được giọng Huế khó nghe của ông. Ông cần được hết thảy người dân của mọi miền đất nước nghe, hiểu và thông cảm. Đổi giọng, vì thế là một sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu thực tế.
Trong bài viết nói trên, Túy Hồng có một nhận xét rất đúng: “Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà có thể chỉ là một giọng nói trong phòng khách” . Đó cũng là một trong những lý do trong sự đổi giọng của Tổng Thống Diệm, trong việc giả giọng Bắc của Hoàng Thi Thơ khi điều khiển các chương trình ca nhạc, của Như Hảo trên đài phát thanh và truyền hình v.v…
Nói trước đám đông thì dở nhưng rỉ rả trong phòng khách thì rất dễ lọt tai. Có lẽ cũng vì cái ưu điểm “giọng nói trong phòng khách” đó nên nhiều chàng trai khác xứ đã lăn xả vào làm rể xứ Huế chăng ?
Tôi không phải là một nhà ngữ học . Vì vậy, những điều trình bày ở đây chỉ là những ý kiến rất thô thiển, có tính cách thường nghiệm của một kẻ bình thường . Đứng trước một thực tế là giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu (“ngoại ngữ Huế “) đối với đồng bào các miền khác, có nên chăng thử đặt câu hỏi tại sao ? Để dễ thông cảm .
Ở đây xin tạm hiểu “giọng” là nói về thanh âm phát ra từ người nói và “tiếng” dùng để chỉ về ý nghĩa của chữ dùng . Đôi khi, trong “tiếng” bao gồm luôn cả “giọng”, chẳng hạn cái tiêu đề tạm dùng ở trên .
Giọng Huế khó nghe đối với đồng bào khác xứ, phải chăng vì thanh âm do người Huế phát ra thuộc một âm vực khó nhận ra ? Tôi có cảm tưởng như khi phát âm, người Bắc thiên về giọng thấp, người Nam đi giọng cao, còn người Huế thì bình bình .
Phải chăng cái đặc tính bình thanh này khiến nó trở thành khó nghe ? Điều này xin để bàn tay chuyên môn của các nhà âm ngữ học can thiệp . Riêng tôi nghĩ rằng nếu miền Bắc và miền Nam có giọng nói dễ nghe, họ lại rất khó giả giọng miền khác . Trái lại, nếu âm vực giọng Huế thuộc loại bình bình, trung tín, khó nhận ra đối với người ngoài, thì cũng chính nhờ đặc điểm trung tín này đã giúp người Huế có thể giả giọng khắp mọi miền không mấy khó khăn .
Giọng Bắc, giọng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Saigon . . . người Huế đều giả được tuốt . Cũng tỉ như nước lã không màu; nước không màu chứa trong ly thủy tinh trong suốt khó thấy; muốn cho người ta dễ thấy thì pha màu, và muốn pha màu gì cũng được .
Nghĩ sao nói vậy, chứ tôi biết rằng ý kiến trên sẽ bị bà con khác xứ chỉnh ngay, vì đã hơn một lần anh bạn người Nam nói với tôi rằng “Con gái Huế thì thanh tao, nhẹ nhàng, nhưng tiếng Huế của mấy ông nghe nặng lắm .”
Người Huế phát âm không phân biệt dấu hỏi dấu ngã; không phân biệt có “g” với không “g”, “c” với “t” . Nếu từ Quảng Nam trở vào người ta khó phân biệt “b” và “p”, đến nỗi khi đánh vần thường hỏi nhau “bê bò hay pê phở” và ngay cả đến những bậc khoa bảng tiếng Tây như gió cũng có lúc nói âm “pê phở” chưa chỉnh, thì ở Huế, tại vùng quê và ngay đối với lớp người già sống tại thành phố, người ta không phân biệt âm “gi”, “d” và “nh” . “Người già” và “người nhà” đều được nói giống nhau .
Sau khi làm xong cái nhà, tôi nói chuyện với ông chú già: “Mặc dù cháu tính khá kỹ, vậy mà cuối cùng cũng phải mượn thêm của bạn bè mới đủ, vì số chi phí vượt quá mức dự trù” .
Ông cụ thản nhiên đáp: “Cháu không nghe à, ôn mệ mình từ xưa nay đã nói là làm già (đồng hóa làm nhà và làm già, nghĩa là làm đôi ra, làm nhiều hơn) chớ có nói làm non mô; mà đã làm già thì hụt tiền thôi .”
Trộn lẫn giữa âm thanh và ý nghĩa quả thật là một lối chơi chữ rặt kiểu Huế, các bạn khác miền e khó mà thưởng thức .
Tôi không biết chắc khi một người ngoại quốc học tiếng Việt, cái khó nhất đối với họ là gì ? Cách phát âm với năm thanh (sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã và không dấu) bằng trắc khác nhau, nghe như điệu hát chăng ? Văn phạm chăng ? . . .
Riêng đối với người Việt, có lẽ việc đánh dấu hỏi, ngã cho đúng cũng đã là một vấn đề . Hồi còn học tiểu học, thầy dạy lớp Nhất đã truyền cho lũ nhóc đệ tử chúng tôi một bí quyết để viết hỏi ngã cho đúng, với “câu thần chú “:
“Anh Huyền ngã nặng, hỏi con dao có sắc không ?”
Ý thầy muốn chúng tôi phải nhớ rằng trong một từ kép, hễ chữ nào đi với chữ có dấu huyền hay dấu nặng thì đánh dấu ngã; còn chữ nào đi với chữ có dấu sắc hay không dấu thì đánh dấu hỏi, trừ một vài ngoại lệ phải thuộc lòng . Chẳng hạn:
– Nghĩ ngợi / nghỉ ngơi
– Sừng sững, sửng sốt
Thần chú như thế kể cũng linh nghiệm thật, nhưng khi viết chính tả cũng phải tốn công suy nghĩ, hơi . . . mệt . Tôi vái trời khi đi thi tiểu học được gặp một thầy giáo hay cô giáo người Bắc, vì tôi nghiệm ra rằng người Bắc phát âm dấu hỏi dấu ngã rất đúng . Ấy là nhờ gần gũi với một ông Hà Nội đang tán bà chị tôi .
Cho đến bây giờ vẫn thế, bộ óc tôi ghi nhận rằng khi phát âm dấu ngã thì người Bắc nói nghe như dấu sắc (nghĩ ngợi . . . nghí ngợi) và dấu hỏi nghe như dấu nặng (nghỉ ngơi . . . nghị ngơi) .
Giả giọng Bắc mà không biết qui luật này sẽ đánh dấu hỏi ngã sai bét và lòi đuôi “giả cầy” ngay . Một ông nhạc sĩ nọ gốc miền Trung, thường nói giọng Bắc trên TV, trước 75 có lần bị báo chí diễu là “người nói giọng Bắc hay nhất nước” cũng chỉ vì không để ý điều đó .
Cách đây non 30 năm, lần đầu tiên khi đọc một cuốn truyện (không nhớ tên) của một văn sĩ người Bắc (không nhớ bút hiệu) đến đoạn đối thoại của một nhân vật nữ người Huế, tôi vừa cười thích thú , vừa giận . Thích thú, vì tác giả viết rất có duyên . Giận là giận mấy ông thợ nhà in sắp chữ (tôi đinh ninh thế) .
Ai đời “Thôi em về hí”, lại sắp chữ thành “Thôi, em về hỉ” . . . Chữ “hí” của người ta viết với dấu sắc, nghe dịu dàng êm ái như rứa, đem sửa lại thành “hỉ” với dấu hỏi, nghe lãng xẹt, vô duyên như ăn cơm hến thiếu ruốc .
Trong lời nói thường nhật của người Huế, HÍ là một từ đệm, đóng vai trò như NHÉ hay NHỈ tiếng Bắc và NHA tiếng Nam . . . Tôi cứ thầm cằn nhằn và giải thích như thế với mấy ông ấn công vô danh; mãi sau mới có dịp biết rằng mình đã nghĩ oan cho họ . Hầu như trong các truyện có dính líu đến ngôn ngữ của xứ Huế, chữ HÍ đệm ở cuối câu đều được nghe và viết thành HỈ .
Khi người Huế phát âm những chữ thuộc về dấu sắc, người Bắc và người Nam đều nghe thành dấu hỏi hoặc dấu nặng . Đó là lý do HÍ biến thành HỈ . Điều đáng nói là sai lầm này cũng hiện diện trong những tác phẩm do chính người Huế viết ra . Lỗi ở ấn công chăng ? Nếu không, đó là điều khó hiểu .
Trong bài “Tôi Không Yêu Tiếng Huế” (Tiếng Sông Hương 1990), tác giả Phàm Phu đã viết rất dí dỏm về những trở ngại do giọng Huế và tiếng Huế gây ra trên chốn giang hồ, vì người khác xứ nghe dấu khác đi .
Một thiếu nữ Hà Thành khi nghe một thanh niên Huế ngỏ lời: “Cô cho tôi xin một cái bóng (tấm hình) của cô để làm kỷ niệm . . .” đã ngơ ngác hỏi lại “Thưa, anh bảo cái bọng gì cơ ạ ?” (t. 45) .
Một ông người Huế khi vào hội tứ sắc đã hỏi làng “Hôm nay tui biết tui hên nên muốn đánh lớn . Mấy bà có chịu hai cắc (một lệnh) không ?” Câu nói này đã làm cho một bà người Nam giận dữ bỏ chơi, vì nghe lầm dấu sắc ra dấu nặng, tưởng ông kia ăn nói xí xọn (t. 46) .
Thời gian ở tù Cộng Sản trong trại “cải tạo”, được sống gần gũi với anh em người Quảng Nam, tôi mới biết giọng Huế đã được nghe như thế nào . Buổi tối, trong khi chờ tới giờ ngủ, anh em thường tụ tập chơi cờ hoặc kể chuyện vui cho đỡ buồn . Có lần một anh bảo tôi: “Đố anh nói to và đúng câu ‘Đem vở vô buồng, học đủ rồi ra ‘ ” .
Dĩ nhiên là tôi đáp ứng ngay, dõng dạc, rõ ràng . Câu nói vừa dứt, lập tức tiếng vỗ tay và tiếng cười khoái trá nổi lên . Có cả tiếng hô “hay, hay ! nói tiếp đi” . Tôi ngơ ngác không hiểu, vì không tin rằng câu nói đơn giản đó lại có hiệu lực chọc cười đến thế . Ông bạn ăn chung mâm vừa cười vừa cắt nghĩa “Tụi tui nghe người Huế nói dấu hỏi thành dấu nặng cả, nên mới phịa ra câu đó để chọc anh đó” . À ra thế !
Giọng Huế tuy khó nghe với người khác xứ nhưng rất dễ chỉnh: trong lúc nói chuyện, chỉ cần đổi “tông” lơ lớ đi một chút là người nghe thoải mái ngay . Tiếng Huế mới là cả vấn đề, bởi vì khi nói đến giọng là chỉ mới đề cập tới hình thức, còn đi vào tiếng là đi vào nội dung, đi vào đời sống văn hóa .
Ngôn ngữ chẳng qua là qui ước về âm thanh do con người phát ra . Vì vậy, cùng một âm thanh phát ra giống nhau nhưng do qui ước khác nhau nên mỗi dân tộc hiểu theo một nghĩa riêng .
Tác giả Phàm Phu (TSH 90, đã dẫn) kể rằng trong một lần dạo phố Bangkok, thấy cô người Thái cực kỳ xinh đẹp, bèn chụp ảnh để kỷ niệm . Vừa đưa máy ảnh lên nhắm, vừa hỏi ý kiến ông bạn đồng hương làm hướng đạo: “Chụp hí ?” (Chụp nhé ?) thì mỹ nhân hoảng hốt bỏ chạy, còn tác giả bị bạn mắng như tát nước là ăn nói thô tục đối với phụ nữ ngoại quốc . Lý do là trong tiếng Thái “chụp” có nghĩa là “hôn”, còn “hí” là “cái ấy” của phụ nữ .
Hai tiếng Huế vô tội đã trở thành ngôn ngữ sàm sỡ ở Bangkok . Hồi còn ở tù “cải tạo” tại trại Tiên Lãnh (Quảng Nam), tôi và một anh bạn đã làm cho mấy phụ nữ Kàtu bỏ chạy trong cơn mưa .
Sau một ngày vất vả đốn cây rồi đốt thành than, tổ chúng tôi bốn người quảy bốn gánh than đầy ắp về trại . Nửa đường, trời đổ mưa, bèn ghé vào một cái chòi trong rẫy lúa bỏ hoang để tạm núp mưa, cho than khỏi ướt .
Một lát, thấy có bốn năm phụ nữ Thượng, người Kàtu, từ phía suối lúp xúp chạy về chòi chúng tôi, ý hẳn cũng để đụt mưa . “Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm . . .”, sợ mấy phụ nữ sẽ bị trợt té trên con đường dốc dẫn vào lều đã trở thành trơn trợt, anh bạn và tôi la lên “Coi chừng té ! Té !” .
Kỳ lạ, câu nói vừa dứt thì nghe mấy người đàn bà đó ré lên chí chóe gì đó và đổi hướng không chạy vào lều nữa . Trong tổ, có anh bạn gốc Trà Mi (quận miền núi ở Quảng Nam) nhẩn nha giải thích “Nói như mấy ông thì cho vàng tụi hắn cũng không vô núp mưa . ‘Té ‘, tiếng Kàtu có nghĩa là đ.., biết chưa ? Lần sau gặp tụi đàn bà con gái ở đây đừng có nói bậy như vậy nữa, coi chừng có ngày ăn rựa” . Hú vía !
Giữa các dân tộc, qui ước thanh âm khác nhau dẫn đến ý nghĩa khác nhau đã đành, mà ngay trong cùng một nước ngôn ngữ cũng thay đổi theo địa phương . Cùng một từ, mỗi miền có thể hiểu một nghĩa khác nhau . Cùng chỉ một vật hay một việc, mỗi miền có một lối gọi khác nhau .
Chẳng hạn chữ “đồ” cũng có ý nghĩa khác nhau giữa hai miền Bắc Nam . Trong khi miền Nam, miền Trung dùng chữ đồ một cách hồn nhiên để chỉ về đồ vật thì người Bắc lại dùng nó để chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ . Vì vậy, khi thấy ba ông bạn cùng chụp chung một tấm hình (chữ Hán gọi là đồ) với một cô đầm, ông nào ngó cũng chễm chệ, phong lưu, Tú Xương đã ỡm ờ vịnh ngay:
Ba bác chung nhau một cái đồ. . .
Thôi đừng chê nhỏ lại cười to !
Cùng chỉ một vật dùng để chứa thức ăn, ở Bắc gọi là bát, Huế gọi là đọi, Nam gọi là tô . Cùng chỉ động tác rơi xuống đất vì mất thăng bằng, người Bắc gọi là ngã, Huế gọi là bổ, Nam gọi là té .
Sự đa dạng trong ngôn ngữ của một dân tộc là điều tự nhiên; bao giờ trong cái chung cũng có cái riêng và thấp thoáng trong cái riêng là hình ảnh cái chung .
Hình như địa lý và lịch sử đã kết hợp với nhau để tạo nên cho Huế một môi trường dễ làm nảy sinh nhiều thổ âm và thổ ngữ hơn các miền khác, đến độ có người đã nói là có thể sưu tập thành một tiểu tự điển tiếng Huế .
Trong TSH 93, qua bài “Thử nói về ảnh hưởng cung đình trong phong cách Huế”, tôi đã có dịp khái quát về ảnh hưởng của ngôn ngữ cung đình trong ngôn ngữ Huế . Điều đáng nêu lên ở đây là: tại sao tiếng Bắc, tiếng Nam không gây trở ngại khi giao tiếp như tiếng Huế ? Ngoài giọng Huế khó nghe, như đã nói ở trên, phải chăng vì tiếng Huế quá đặc thù ? Phải chăng vì ngôn ngữ Huế ít được phổ biến ? Hay vì tiếng Huế khúc mắc khó hiểu ? Thiết nghĩ có lẽ do tất cả .
Người khác xứ có thể dễ dàng quen thuộc với “răng, ri, mô, tê, rứa, hè, hí” vì tính cách phổ thông của chúng, nhưng quả tình khó mà thông cảm với những lối nói đặc thù khác .
Tôi có anh bạn người Nam, sống ở Huế khá lâu . Trong một buổi trà dư tửu hậu, anh tuyên bố rằng “Bây giờ người Huế nói cách chi tui cũng hiểu” . Nghe vậy, một anh bạn khác liền hỏi ngay: “Thiệt hả ? Rứa thì anh có biết vụ hai đứa con ông Bảy bựa qua ngầy lộn rồi lôi giau từ trong chờn ra trữa cươi đập chắc, một đứa bể mỏ, một đứa u trốt. Mạ hắn can không được, đứng trữa cươi la làng như quạ quạ bẻ bắp” .
Anh bạn người Nam ngẩn tò te, chịu thua . Đây là chìa khóa mật mã:
– Bựa qua: hôm qua
– Lôi giau: lôi nhau
– Ngầy lộn: gây gỗ
– Chắc: với nhau
– Chờn: giường
– Trữa cươi: giữa sân
– Bể mỏ: vỡ mồm, dập miệng
– U trốt: u đầu
Mới chỉ có một câu nói ngắn như vậy mà cần phải giải thích đến tám chữ mới làm cho người ngoài hiểu được, và thực ra, đó mới chỉ là những chữ nặng về hình thức hơn ý nghĩa .
Nếu đi vào ý nghĩa thì sự khúc mắc càng thể hiện rõ rệt hơn . Thành ngữ “tào lao xịt bộp” là một thành ngữ phổ thông ở Huế, dùng để chỉ lời nói hay việc làm không đâu vào đâu, không có chủ đích, không ý nghĩa, kiểu “nghe qua rồi bỏ” .
Trong một cuộc tiếp kiến Toàn Quyền Đông Dương, Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (mẹ vua Bảo Đại) đã làm cho một vi quan lúng túng khi phải thông dịch câu nói rặt Huế của bà “Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp . . .” (Nguyễn Đặng, TSH 93), chỉ vì ông không phải là người Huế .
“La ngầy” hay “ngầy” có nghĩa là “la rầy” nhưng “ngầy lộn” lại có nghĩa là “gây gỗ” với nhau . “Mụ nớ” có nghĩa là “người đàn bà kia” (không có ý kính trọng) nhưng khi một người đàn ông được gọi là “Mụ” hay “Mệ”, có nghĩa ông ta là người trong hoàng tộc .
Có một thực tế mà dường như ít ai để ý . Ấy là kể từ ngày chữ quốc ngữ trở thành văn tự chính thức, thay thế cho chữ Hán thì lối viết theo cách phát âm của người Bắc là lối viết chính thức của nước ta .
Thực vậy, từ giấy tờ hành chánh cho đến tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học . . . phổ biến qua hình thức văn tự, hầu như tất cả đều được viết theo cách phát âm này . Ngoại trừ một Hồ Biểu Chánh của hồi đầu thế kỷ và sau này có thêm Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và hiện nay Hồ Trường An, là viết văn theo rặt giọng Nam, còn tất cả, bất cứ người cầm bút thuộc lãnh vực nào, xuất thân từ địa phương nào, đều viết theo phong thái âm giọng miền Bắc .
Bình Nguyên Lộc viết tiểu thuyết theo giọng Nam nhưng khi viết “Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam”, một tác phẩm biên khảo, cũng viết theo cách phát âm miền Bắc . Số học giả, thi sĩ, văn sĩ người Huế trong nền văn chương quốc ngữ đông biết mấy, thế nhưng không vì vậy mà “răng, ri, mô, tê, rứa, ni, nớ . . .” được chính thức đi vào văn học như “sao, thế này, đâu, kia, vậy, này, ấy . . .”
Tiếng Việt theo cách phát âm miền Bắc hầu như đã trở thành lối viết chính thức, có lẽ do truyền thống lập quốc và Nam Tiến .
Trong âm nhạc, ta cũng thấy hiện tượng tương tự . Khi hát tân nhạc, tất cả ca sĩ đều phát âm theo giọng Bắc, bất kể người miền nào . Nhiều danh hề đã chọc cười khán giả một cách thành công khi thỉnh thoảng hát tân nhạc theo giọng Nam . Ban AVT nhờ có Vân Sơn đệm giọng Huế mà trở thành hài hước có duyên .
Từ thập niên 60, một số nhà văn nữ người Huế quả có đưa tiếng Huế vào tác phẩm nhưng cũng chỉ có tính cách mắm muối thêm duyên, kiểu như Vân Sơn đệm giọng Huế trong AVT chứ chưa tạo được sắc thái địa phương như Hồ Biểu Chánh hay Hồ Trường An .
Giọng Bắc, giọng Nam dễ nghe, đó là lý do tại sao đồng bào miền Bắc, miền Nam không gặp trở ngại với người khác xứ . Trái lại, bên cạnh giọng nói thuộc về một âm vực khó nghe, người Huế lại nói và viết không giống nhau . Thêm vào đó, Huế lại quá phong phú thổ âm, thổ ngữ, cả về số lượng cũng như ý nghĩa .
Tất cả những cái đó đã biến tiếng Huế trở thành “ngoại ngữ” ! Muốn hiểu rành “ngoại ngữ” đó, chỉ có cách hãy sống với Huế . Ai không tin, thử hỏi mấy ông rể Huế, biết ngay .
Võ Hương An
Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
Các cô gái Tung Của giới thiệu về các ...O Huế & xứ Huế bình yên đến lạ
...
Quote:Em chỉ kiếm một mảnh vườn riêng thôi
Bởi cuộc đời không có thật
Và tình yêu...
Posts: 1,499
Threads: 83
Likes Received: 854 in 487 posts
Likes Given: 609
Joined: Jul 2021
Câu chuyện chân thật về Sài Gòn những ngày đầu sau tháng 4 năm 1975 qua lời kể của ca sĩ Ái Vân
26/04/2024
Bài viết sau đây được trích từ cuốn sách Để Gió Cuốn Đi của nữ ca sĩ xinh đẹp Ái Vân, một người được sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, vào Sài Gòn lần đầu tiên vào đúng dịp 30/4/1975, mọi thứ đối với cô đều lạ lẫm, và đã kể lại trải nghiệm đó của bản thân trong cuốn hồi ký. Sách Để Gió Cuốn Đi được Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Trí Việt – First News xuất bản năm 2016, từng được báo Thanh Niên trích đăng nhiều kỳ.
Thời điểm 1975, Ái Vân mới 19 tuổi, đang là sinh viên năm 2 khoa Thanh nhạc của Nhạc Viện Hà Nội.
Cô kể lại: Ngày đẹp trời, chú Nguyễn Văn Thương nhắn tôi lên phòng giám hiệu. Thầy nói: “Bên Đài Truyền hình cần bổ sung xướng ngôn viên để vào tiếp quản Sài Gòn vì bên ấy thiếu người quá. Ông Tố Hữu đề nghị chọn Ái Vân”. Tôi sướng mê đi. Tôi chưa bao giờ là xướng ngôn viên của Đài Truyền hình cả, có lẽ hay biểu diễn các tiết mục thiếu nhi trên Đài, và cũng đã đọc nhiều cho buổi Phát thanh Thiếu niên Tiền phong nên được chọn chăng? Được vào Nam, lại được làm xướng ngôn viên (miền Bắc gọi là phát thanh viên) cho Đài Truyền hình Sài Gòn những ngày đầu tiên của hòa bình, còn vinh dự nào hơn.
Tôi có hai, ba ngày chuẩn bị, tíu tít người hỏi thăm. người gửi người nhà cái này, người nhờ mua cái kia, rộn ràng còn hơn lần đầu đi nước ngoài. Sáng sớm ngày 29/4/1975 chiếc xe “pa” chuyển bánh từ trụ sở ban tin tức Đài Tiếng nói Việt Nam số 39-41 Bà Triệu – Hà Nội trực chỉ Sài Gòn. Đoàn gồm 20 người gồm nhiều thành phần: xướng ngôn viên, biên tập viên, kỹ thuật viên, quay phim, ánh sáng, hậu cần… […]
Sau mấy ngày đi cấp tốc, trưa ngày 2/5/1975, xe đến cửa ngõ Sài Gòn, qua Xuân Lộc rồi xa lộ Biên Hòa. Dọc xa lộ áo quần lính, giầy lính, thắt lưng bỏ lại. Những chiếc xe chật như nêm, trên nóc là những xe Honda. Đó là sự hoảng loạn, bề bộn của những ngày chiến tranh vừa dứt. Mọi người nói với nhau: “Sài Gòn rồi!… Sài Gòn đó kìa!”.
Đường vào Thành phố rộng thênh thang, phẳng lì. Lại xuýt xoa thì thầm: “Như đường của Tây”. Không thấy cờ hoa chào đón, chỉ thấy vẻ tiêu điều trên thành phố tráng lệ trước đây. Lại vẫn quần áo, mũ, giày, thăt lưng lính rải đầy đường… Nhiều hơn cả là vỏ đạn, đường Hồng Thập Tự đầy vỏ đạn. Dấu vết chiến tranh hằn rõ trên mặt phố.
Chiều 2/5, chiếc xe của Đài Phát Thanh, Truyền hình từ từ lăn bánh tiến vào Đài Truyền hình Thành phố Sài Gòn. Ngày 30/4 đến với những người trên chuyến xe ấy, chắc hẳn hoàn toàn khác với hình dung của tất cả mọi người. Im lặng, im lặng và im lặng. Cảm giác hụt hẫng tràn ngập trong xe: “Tiến vào Sài Gòn” những ngày đầu “hòa bình thống nhất”, ngày xưa gọi là “Giải phóng miền Nam”.
Mọi người được thu xếp nghỉ tạm bên Đài Phát thanh ngay sát Đài Truyền hình, cách nhau chỉ vài bước chân. Đài tuyền hình thấy cho chị Kiều Oanh nghe đâu mới ở R về, và một chị là xướng ngôn viên cũ của Đài Truyền hình Sài Gòn rất xinh, da trắng mịn với giọng Huế ngọt ngào tên Thanh.
Đoàn ngoài Bắc vô được bố trí ở nhiều nơi khác nhau. Tôi và mấy chị nữa, hình như bên bộ phận hành chính, được cho về ở một căn phòng tầng 3 trong căn chung cư ngay ngã 6, hình như là đường Võ Tánh thì phải. Căn phòng trống trơn, tối om, công tắc điện, bóng đèn, quạt trần chả hiểu sao đều bị gỡ hết, dây điện lòng thòng. Mấy chị em trải tấm vải dù mang từ ngoài Bắc vô nằm tạm trên sàn ngủ qua đêm. Ngày vô Đài Truyền hình làm việc, tối về nghĩ ở căn phòng tối om đó. Ở đó được thú vui là tối đến ra ngã 6 ăn quà. Thích nhất là được nếm thử con nghêu nướng mỡ hành và món bánh mì kẹp thịt. Ở ngoài Bắc tôi chưa được thưởng thức bao giờ.
Đài Truyền hình tổ chức một cuộc gặp gỡ giới thiệu mọi người với nhau. Ngoài những người cùng đi từ ngoài Bắc và vài người gặp hôm trước, tôi có dịp được gặp làm quen với nhạc sĩ Nguyễn Hiền, nhạc sĩ Trần Văn Trạch với hai bài hát đặc biệt gây ấn tượng là Xổ số kiến thiết Quốc gia và Chuyến xe lửa mùng Năm, bài này có đoạn được ông giả tiếng xe lửa chạy xình xịch nghe rất lạ, lý thú vô cùng.
Ở Hà Nội nhỏ bé xinh xinh, vào Sài Gòn thấy ngợp. Ra chợ Bến Thành thấy người dân khác hẳn. Lúc đó người Sài Gòn không dám ăn diện như trước, nhưng vẫn thấy sự khá giả trên những bộ đồ họ mặc. Họ đón nhận mình với thái độ vui mừng một cách gượng gạo, có phần nghi ngại. Dân Sài Gòn thấy ai từ bắc vào đều gọi là bộ đội.
“Bộ đội” truyền hình ca nhạc cô nào cũng coi được, mấy bà mấy cô cứ xúm lại mấy chị em xuýt xoa: “Bộ đội mà sao da trắng bóc hà?”. Nhiều người còn cầm tay tôi ngạc nhiên bảo: “Ủa, nghe nói bộ đội rút móng tay người ta. Cô này bộ đội nè, sao móng tay còn nguyên nè, ngộ quá há”. Tôi mua vài thứ lặt vặt, đưa tiền ngoài Bắc, cô bán hàng tính ra 1 đồng ăn 1.000 đồng tiền Sài Gòn, cả chợ ồ lên nói: “Trời, tiền ngoài Bắc còn giá trị hơn tiền dollar à”. Cô bán hàng nói: “Em chờ chút để qua đổi tiền thối nha”. Tưởng chị chê tiền của tôi thối (mùi hôi), tôi cãi: “Không, tiền em không thối đâu ạ”. Chị bán hàng lại tưởng tôi không cần thối lại, nói: “Đâu được, để qua đổi tiền khác thối lại em”. – “Dạ không, đã bảo tiền em mới, giữ cẩn thận lắm, không thối đâu ạ”. Hai bên cứ “thối” với “không thối” suýt cãi nhau, mãi sau nhờ có người giải thích tôi mới ớ ra “thối” là trả lại tiền thừa.
Trước đây cứ nghe nói đồng bào miền Nam “bị Mỹ ngụy kìm kẹp” khổ lắm, rất cần sự giúp đỡ từ miền Bắc, cứ hình dung dân Sài Gòn đói khổ lắm. Mới vào Sài Gòn tôi rất ngỡ ngàng. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc, trang điểm, đi lại, ăn nói nhẹ nhàng; chỉ cần ra chợ mua gì cũng có câu cảm ơn và túi ni lông đựng đồ đủ biết mình không cùng đẳng cấp văn minh với người ta rồi. Biết mình bị ngộ nhận với thông tin lệch lạc. Theo địa chỉ ba cho từ ngoài bắc, tôi tìm đến nhà cô Hà Thị Tuyết, ở nhà gọi là cô Cả, là chị lớn của ba. Khi đến thăm cô Cả, cô sinh viên nghèo Ái Vân cũng mang biếu gia đình chút quà từ tiêu chuẩn ăn của mình. Con dâu trưởng của cô Cả hỏi: “Cô mang cho chúng tôi quà gì thế?”. Tôi trịnh trọng vừa mở bọc ni lông vừa nói: “Em biếu gia đình 2 cân gạo ạ, chắc nhà mình cũng đang cần”. Ối giời, cả nhà cười nghiêng ngả: “Giời ạ. Lại mang gạo cứu trợ cho chúng tôi nữa cơ đấy. Khổ thân em”. Rồi chị dắt tôi tới mở thùng gạo to tướng bằng nhựa, bên trong đầy ắp gạo, thứ gạo trắng muốt và thơm phức, nõn nà.
Bây giờ tôi mới để ý trong nhà ngoài ti vi, tủ lạnh, còn có máy giặt và nhiều thứ lạ lẫm khác cho thấy một cuộc sống rất tiện nghi, không thể có bất kỳ nhà nào ở miền Bắc tại thời điểm đấy, dù là nhà ông Thủ tướng.
(Toàn miền Bắc đã bị ăn "quả lừa" của tuyên giáo, tuyên truyền cs!!!)
Trích: Ái Vân – Để Gió Cuốn Đi – Nhà xuất bản Hội Nhà Văn – Trí Việt
Theo nhacvangbolero.
|