Hãy bừng tỉnh để nhận ra một sự thật gây sốc!
#16
BÀI 23: TUẦN HIỆP NHẤT GIẢ HIỆU

[Image: chair%2Brome.jpg]Lex orandi, lex credendi” - Luật đức tin là luật cầu nguyện, đó là ý nghĩa câu thành ngữ Latin kinh điển này. Tin sao thì cầu nguyện như vậy. Cầu nguyện chính là cách diễn tả đức tin tự nhiên và chân thực nhất của GH. Satan, kẻ thù truyền kiếp của GH và các tín hữu, thừa biết rằng, Nó không thể nào phá huỷ đức tin của GH duy chỉ bằng lý lẽ suông được. Cách tiêu diệt đức tin khả dĩ nhất và cũng nhẹ nhàng êm ái nhất, đó là làm thoái hoá lời cầu nguyện và những thực hành đạo đức. Khi lời cầu nguyện và các việc đạo đức được cải biến một cách “mới mẻ” khác với GH, thì dần dần đức tin cũng sẽ mai một và biến khỏi ký ức lúc nào không hay. 

Thông qua hai “đầy tớ” là Tam Điểm và Cộng Sản, Satan đã thực hiện thành công kế sách trên của Nó (xem lại các bài, nhất là bài 2,3, và 5). Thật vậy, Tam Điểm và Cộng Sản đã thực sự xâm nhập và thao túng hoàn toàn GPV2 kể từ CĐ Vatican II đến nay. Dù có diễn kịch tinh vi và tài che dấu thế nào, nếu tin theo lời dạy của GH, người ta sẽ nhận thấy cái đuôi của hai kẻ thù này thò ra. Với Tam Điểm đó là CHỦ NGHĨA TỰ DO. Còn với Cộng Sản đó là SỰ THÙ GHÉT TRUYỀN THỐNG. 

Thật vậy, nơi GPV2, vì được dẫn dắt bởi Chủ Nghĩa Tự Do – Liberalism – nên mọi niềm tin tôn giáo đều đáng trân trọng, mọi quan điểm đều được lắng nghe, mọi lối sống đều nên khuyến khích, mọi nhu cầu của con người đều được đáp ứng…tắt một lời, GPV2 là một tôn giáo tôn thờ con người và tất cả đều vì các nhu cầu của con người. Giáo lý của GPV2 đều sực mùi giáo thuyết của Tam Điểm, một tình huynh đệ phổ quát mà không cần đến Thiên Chúa. Một sự tự do diễn dịch giáo lý xu theo thời đại, hoàn cảnh và văn hoá. Đây có thể coi là một nét “đáng yêu” mà thế gian dành cho GPV2.  Đó chính là dung mạo đặc sệt Tam Điểm nơi GPV2.

Còn chân dung của Cộng Sản thì sao? Như nói trên, SỰ THÙ GHÉT TRUYỀN THỐNG nơi GPV2 chính là nét dung mạo đặc sệt Cộng Sản. Cộng Sản luôn thù ghét truyền thống và những ai trung thành với truyền thống. Bằng mọi cách nó phải làm cho người ta mất gốc và trở nên mơ hồ về truyền thống, căn tính và bản sắc của mình. Lúc đó, con người sẽ như kẻ bị lạc mất điểm tựa tinh thần, không khả năng tự vệ, không còn khái niệm đúng sai, vô phương hướng, nên dễ dàng bị nhồi sọ, dẵn dắt, và cai trị. Miếng đòn nguy hiểm này của Cộng Sản không chỉ đúng trên phương diện xã hội, mà còn rất đúng trên phương diện tôn giáo như đã và đang được thể hiện nơi GPV2.

Khi Cộng Sản đã thâm nhập GPV2, việc đầu tiên nó làm đó là thực hiện một cuộc ĐỔI MỚI. Đối với Cộng Sản, đổi mới đồng nghĩa với phá huỷ: phá huỷ truyền thống và thay vào đó bằng một cái gì đó gọi là sáng tạo và mới mẻ. Sự mới mẻ mà GPV2 đem đến chính là Phụng Vụ Mới, Thánh Lễ Mới, Bí Tích Mới, Chức Linh Mục Mới, Giáo Luật Mới, Giáo Lý Mới…tất cả những cái mới này, không hẳn hoàn toàn sai lạc nhưng chúng được tạo ra bằng cách dung nạp và trộn lẫn một số sai lầm lệch lạc vào. Những mầm sai lạc ấy như men trong bột, cuối cùng sẽ huỷ hoại tất cả kho tàng đức tin, phụng vụ, và lề luật thánh thiêng một cách rất tự nhiên, mà không bị một sự phản kháng nào.

Kể từ bài này và những bài tiếp theo, ĐÂY LÀ ĐỨC TIN sẽ nói về những việc thực hành đạo đức của GH Công Giáo mà GPV2 vẫn còn thực hiện, với chủ đích duy nhất là để mô phỏng, bắt chước nhằm lừa dối mọi người, để làm ra vẻ đó vẫn là GH Công Giáo cho mọi người yên tâm gắn bó. Trong thực tế, những thực hành đạo đức của GPV2 chỉ là sự mô phỏng bắt chước những thực hành đạo đức của GHCG mà thôi. Chỉ có vẻ bề ngoài nhang nhác giống, chứ cái chất bên trong hoàn toàn khác.
    
ĐÂY LÀ ĐỨC TIN xin được bắt đầu hành trình tái khám phá đức tin đã mất bằng cách so sánh đối chiếu việc cầu nguyện và các thực hành đạo đức của GHCG và GPV2. Bài đầu tiên này sẽ dành để hiểu về Tuần Bát Nhật cầu nguyện cho sự hiệp nhất của GH, nay gọi tắt là Bát Nhật Hiệp Nhất – BNHN. 

Thật vậy, tuần BNHN đã được Đức Leo XIII phát động khởi xướng từ năm 1894. Đối với GH, Hiệp Nhất thật sự là phải Hoán Cải trở về với GHChính vì thế, nội dung cầu nguyện chủ đạo của toàn thể GH trong tuần BNHN này, đó là ƠN HOÁN CẢI của các hạng người khác nhau như ta thấy dưới đây. 

Thật vậy, sau khi ra đời, Giáo Phái Vatican II vẫn duy trì việc cử hành tuần BNHN này hàng năm, nhưng với một ý hướng hoàn toàn khác với chủ ý của GH. Bảng đối chiếu so sánh dưới đây là bằng chứng cho thấy sự khác nhau hoàn toàn trong chủ đích lời cầu nguyện: 

ĐỌC TIẾP ĐỂ THẤU HIỂU RÕ RÀNG HƠN

https://daylaductin.blogspot.com/2020/01...C3R5nT2okM

Innocent Innocent Innocent
Reply
#17
BÀI 24: CHAY TỊNH, SÁM HỐI GIẢ [/url]


Tiếp nối đề tài so sánh những thực hành đạo đức của GH và của Giáo Phái Vatican II – GPV2, bài trước đã nói về Tuần Hiệp Nhất giả, bài này sẽ nói về chủ đề chay  tịnh và sám hối. Chay tịnh ở đây có ý chỉ luật khổ chế ăn chay, kiêng thịt của GH. Còn sám hối là muốn nói về cách thức thể hiện lòng sám hối cách tập thể và công khai, nhất là khi tham dự thánh lễ. Lý do thôi thúc chúng ta tìm hiểu chủ đề này là để giúp mỗi người nhận ra đâu là việc chay tịnh sám hối thực sự Công Giáo, và đâu là việc chay tịnh sám hối giả tạo và phản Công Giáo.          

1. CHAY TỊNH.

Ăn chay là một hình thức khổ chế rất cổ xưa. Ngay cả nguyên tổ loài người là Adam và Eva, dù sống trong vườn địa đàng, cũng phải giữ một hình thức trai tịnh đó là, không được ăn trái cây ở giữa vườn (St 3,2-3). Môse đã ở trên núi, ăn chay suốt 40 ngày trước khi nhận Mười Điều Răn; Eliah đã ăn chay suốt 40 đêm ngày trên đường lên núi Horeb (1V 19,8). Chúa Giêsu đã ăn chay suốt 40 ngày đêm trong hoang địa (Mt 4,2).

Theo các Thánh Giáo Phụ, Justin và Irene, chính Đức Kitô đã thiết lập và thánh hoá việc ăn chay. Vì thế, thánh Leo và Jerome đã nói, ngay từ thời đầu của Giáo Hội, các Tông Đồ đã ấn định và thực hành thời gian chay tịnh khổ chế 40 ngày theo gương Chúa Giêsu, nhằm giúp tín hữu chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh. 

Luật ăn chay những thế kỷ đầu rất nghiêm ngặt. Các tín hữu buộc phải ăn chay và kiêng thịt hoàn toàn trong suốt 40 ngày, hàng ngày chỉ được ăn sau khi mặt trời lặn. Ai phạm luật  “ăn chay kiêng thịt” sẽ bị cấm rước lễ Mùa Phục Sinh (Công Đồng Toledo, năm 653), và còn bị trừng phạt theo luật dân sự vì tội cố tình chống lại tôn giáo. Luật ăn chay của GH, theo thời gian, đã được nới lỏng rất nhiều so với thuở ban đầu và tính đến thời Đức Pio XII (1939-1958), chỉ còn buộc tín hữu phải ăn chay và kiêng thịt toàn phần vào các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay mà thôi. Tất cả những ngày còn lại trong Mùa Chay, chỉ buộc ăn chay và kiêng thịt một phần, nghĩa là mỗi ngày vẫn được ăn thịt vào bữa chính.     
    
Luật ăn chay (law of fast) của GH dạy thế nào?

Luật ăn chay của GH quy định rằng (GL. đ.1251): vào ngày ăn chay, chỉ được ăn một bữa chính và hai bữa phụ. Bữa chính được phép ăn thịt và ăn no (full meal) như bình thường. Hai bữa phụ không được ăn thịt và tổng lượng đồ ăn của hai bữa phụ cộng lại không được nhiều bằng bữa chính.

Luật ăn chay buộc mọi người từ đủ 21 tuổi trọn cho đến hết 59 tuổi trọn. Khi bắt đầu chớm sang tuổi 60 thì không bị buộc phải giữ luật ăn chay.  

Luật kiêng thịt (law of abstinence) của GH dạy thế nào?

Luật kiêng thịt của GH (GL. đ.1250) cấm việc ăn thịt, nước súp và các món chế biến từ thịt của các loài động vật có vú, móng vuốt, sinh sản và lớn lên trên mặt đất, dân gian vẫn gọi là loài máu nóng. Loài máu lạnh, như cá, tôm, ngêu sò ốc hến..được phép dùng. Luật kiêng thịt buộc mọi người từ đủ bẩy (7) tuổi cho đến hết đời. 

Đó là luật ăn chay và kiêng thịt. Giờ nói đến việc thực hành hai luật đó. Trong năm, có những ngày luật chỉ buộc phải ăn chay; có những ngày luật chỉ buộc phải kiêng thịt; và có những ngày luật buộc phải thực hành cả hai việc, ăn chay và kiêng thịt cùng nhau.

Những ngày luật buộc chỉ phải ăn chay.

Tín hữu bị buộc phải ăn chay trong những ngày sau:

Tất cả các ngày trong tuần của Mùa Chay cho đến hết trưa ngày Thứ Bẩy Tuần Thánh, ngoại trừ các ngày Chúa Nhật.

Các ngày vọng trước Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Lễ Đức Mẹ Lên Trời, Lễ Các Thánh, và Lễ Giáng Sinh. Nếu 4 ngày lễ này rơi vào ngày Thứ Hai trong tuần, thì ngày vọng sẽ là ngày Chúa Nhật nên sẽ không phải ăn chay. 

Bốn ngày Thứ Tư Ember (Ember Wednesday) và bốn ngày Thứ Bẩy Ember (Ember Saturday) trong năm, theo Tứ Quý trong năm.  

Những ngày luật buộc chỉ phải kiêng thịt:

Tất cả các ngày Thứ Sáu trong năm ngoài Mùa Chay.

Những ngày buộc cả hai việc ăn chay và kiêng thịt: 

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay, và bốn ngày Thứ Sáu Ember (Ember Friday) trong năm, theo Tứ Quý trong năm.

Ai được luật miễn phải ăn chay và kiêng thịt?

Những người ốm bệnh đang phải điều trị; những phụ nữ đang mang thai hoặc đang nuôi con bằng sữa mẹ; những người suốt ngày phải làm việc lao động nặng chân tay. 

Giải thích áp dụng:

Lý do GH buộc tín hữu phải kiêng thịt vào tất cả các ngày Thứ Sáu trong năm là vì, ngày Thứ Sáu là ngày Chúa chết cho chúng ta, ngày Chúa hiến dâng Thịt và Máu Ngài cho chúng ta. Việc chay tịnh giúp ích cho cả phần hồn lẫn phần xác của chúng ta. Nhờ chay tịnh, linh hồn được nên mạnh mẽ, làm chủ được các đam mê của thân xác, và lướt thắng các cám dỗ của ma quỷ (x. 1Cr 9,27). Nhờ chay tịnh, các đam mê của xác thịt sẽ bớt nổi loạn tàn phá (Gl 5,19), những đam mê vốn được kích động  một phần bằng việc ăn thịt, món khoái khẩu của con người.

Ngày Ember là gì? 

Ngày Ember có nguồn gốc từ tiếng Latin bởi từ Quatuor Tempora, nghĩa là bốn mùa hoặc Tứ Quý trong năm. Quatuor Tempora dịch sang tiếng Đức là quatember, hay quatertember trong tiếng Hà Lan, vì thế chữ Ember được coi là kiểu nói rút gọn từ tiếng Đức hoặc tiếng Hà Lan. Một năm có 4 tuần Ember, rơi vào tuần đầu tiên của mỗi mùa ứng với bốn mùa trong năm (Xuân-Hạ-Thu-Đông). 

Trong tuần Ember, có 3 ngày Ember là Thứ Tư, Thứ Sáu và Thứ Bẩy, tín hữu buộc phải ăn chay và kiêng thịt để cầu nguyện, xin Chúa thánh hoá Bốn Mùa trong năm và đồng thời cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi và hàng giáo sỹ, xin Chúa ban thợ gặt cho Giáo Hội. Do vậy, truyền thống lâu đời của GH vẫn ưu tiên cử hành lễ truyền chức vào các ngày Thứ Bẩy Ember trong năm. 

Ba ngày Ember đầu tiên trong năm là các ngày Thứ Tư, Thứ Sáu và Thứ Bẩy ngay sau Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay; Ba ngày Ember tiếp theo là, các ngày Thứ Tư, Thứ Sáu và Thứ Bẩy ngay sau Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống; Ba ngày Ember kế tiếp là, các ngày Thứ Tư, Thứ Sáu và Thứ Bẩy ngay sau ngày Lễ Suy Tôn Thánh Giá 14/9; và ba ngày Ember cuối cùng trong năm là các ngày Thứ Tư, Thứ Sáu, và Thứ Bẩy ngay sau ngày 13/12, lễ Thánh Lucy. Do vậy, mỗi lần nhắc đến các ngày Ember, chúng ta hiểu đó là các ngày Thứ Tư, Thứ Sáu, và Thứ Bẩy của Tứ Quý trong năm như trên.   
  
Tâm tình phải có khi ăn chay?

Một là Yêu Mến. Yêu mến ở đây có nghĩa là, ta phải yêu mến chính luật ăn chay và việc ăn chay mà GH dạy. Luật ăn chay của GH được các Tông Đồ thiết lập phỏng theo gương của Chúa Giêsu, được thực hành và lưu truyền qua suốt dòng thời gian. Nếu không có lòng yêu mến và thực hành việc ăn chay, thì chính thái độ bất cần và coi thường ấy làm cho người ta ra ô uế và hư đốn, chứ không phải vì cái việc không ăn chay kiêng thịt khiến người ta ra ô uế. Vì như Chúa Giêsu đã nói: con người bị ô uế không phải vì những gì từ bên ngoài vào qua miệng, nhưng là vì tất cả những gì từ bên trong xuất ra….bởi chính từ lòng người, mà các tư tưởng giết người, trộm cắp, tà dâm, và gian ác xuất phát ra…những cái đó làm cho con người ra ô uế. Chính thái độ bất tuân coi thường lời dạy của Chúa và GH, sẽ làm cho người ta ra ô uế, chứ không hệ tại cái việc phá chay, ăn thịt. Vì thế, yêu mến luật ăn chay và quyết tâm thực hành là đòi hỏi hàng đầu khi giữ chay. Chính lòng yêu mến và quyết tâm giữ chay kiêng thịt, giúp chúng ta thánh hoá bản thân và làm đẹp lòng Chúa. 

Sau yêu mến, hài hoà là điều phải có. Hài hoà ở đây nghĩa là, việc ăn chay phải được thể hiện bằng trọn vẹn con người, cả thể xác và tâm hồn. Phần xác thực hành khổ chế bằng việc giảm bớt hưởng thụ ăn uống, thì phần hồn phải hướng về Chúa bằng cầu nguyện và hướng về tha nhân bằng việc bác ái cụ thể như cứu giúp người nghèo đói, và dẹp bỏ tật nói hành nói xấu lẫn nhau, bỏ nghe những lời nói xấu, tránh đọc những sách báo và coi phim ảnh khiêu dâm độc hại…nếu không thực hiện hài hoà như vậy thì việc ăn chay chỉ còn là hình thức bề ngoài, không có giá trị trước mặt Chúa. Ma quỷ không ăn uống gì nhưng Nó không bao giờ ngưng nghỉ làm sự xấu và lôi kéo con người theo Nó. Cho nên, phải giữ sự hài hoà khi ăn chay. Ăn chay không cầu nguyện như ngọn đèn không dầu; ăn chay không bác ái bố thí giống như thửa ruộng không hạt giống, chỉ để nuôi cỏ dại.  

Giải thích thực hành luật ăn chay: Luật ăn chay quy định: vào ngày ăn chay, chỉ được ăn một bữa chính và hai bữa phụ. Bữa chính được phép ăn thịt và ăn no (full meal) như bình thường. Hai bữa phụ không được ăn thịt và tổng lượng đồ ăn của hai bữa phụ cộng lại không được nhiều bằng bữa chính. 

Vì thế, nếu một người bình thường ăn 3 bát cơm một bữa, thì hai bữa phụ, mỗi bữa chỉ được ăn một bát. Như vậy, tổng lượng đồ ăn hai bữa phụ cộng lại vẫn chưa bằng một bữa chính. Ngoài ra, có thể hoán chuyển bữa chính tuỳ theo mỗi người sao cho hợp với nhu cầu của bản thân. Nếu lấy bữa trưa làm bữa chính thì bữa trưa được ăn no và ăn thịt như bình thường. Hai bữa phụ không thịt còn lại sẽ là sáng và tối. Hoặc nếu lấy bữa tối là chính, thì bữa tối được ăn no và ăn thịt như bình thường, hai bữa phụ không thịt còn lại sẽ là sáng và trưa. Luôn luôn phải nhớ nguyên tắc: Một chính hai phụ. Hai phụ phải nhỏ hơn một chính. Chính có thịt. Hai phụ không thịt. Nếu lượng thức ăn hai bữa phụ nhiều bằng một bữa chính, ngày đó kể như phá chay và lỗi luật.

Vào ngày ăn chay, không được ăn vặt giữa các bữa. Nước trắng dùng theo nhu cầu. Nước trái cây (juice), kể cả sữa, được phép dùng giữa các bữa. Rượu bia và các đồ uống chứa cồn các loại không được dùng trong ngày ăn chay.

Tính bó buộc của luật ăn chay kiêng thịt.

Luật ăn chay và kiêng thịt của GH là một bó buộc nghiêm ngặt đối với các tín hữu. Mọi vi phạm đều mắc tội và mức độ nặng nhẹ của tội sẽ tương ứng với lượng thức ăn vượt quá quy định. Thí dụ: trong ngày ăn chay, ngoài các bữa được ăn như chỉ dẫn ở trên, nếu ăn thêm một lượng đồ ăn vượt quá  một lạng (100g), bất kể liền một lúc hay nhiều lần gồm lại, sẽ mắc tội trọng; ít hơn một lạng thì chỉ mắc tội nhẹ. Với ngày buộc phải kiêng thịt thì sao? Nếu ăn quá nửa lạng thịt (>50g), sẽ mắc tội nặng; nếu ít hơn nửa lạng thì mắc tội nhẹ.

Chay Thánh Thể.      

Ngoài luật ăn chay kiêng thịt như trên, tín hữu còn phải giữ chay Thánh Thể mỗi khi dâng lễ hoặc rước lễ. Luật giữ chay Thánh Thể cũng là một bó buộc nghiêm ngặt của GH nhằm nhắc nhở tín hữu về lòng tôn kính phải có đối với Bí Tích cực trọng và tránh mọi nguy cơ phạm thánh. Luật giữ chay Thánh Thể của GH cũng đã trải qua nhiều thích nghi theo thời gian. Hiện tại, luật này được thực hành chiếu theo Tự Sắc Sacram Communionem (ngày 19-3-1957) của Đức Pio XII. Tự Sắc quy định: Tín hữu buộc phải giữ chay trọn vẹn đủ ba tiếng trước giờ dâng lễ (đối với Lm) và trước khi hiệp lễ (đối với giáo dân). 

Nếu không giữ chay Thánh Thể trọn đủ ba tiếng, LM không được phép dâng Thánh Lễ và giáo dân không được phép rước lễ.

Giữ chay Thánh Thể nghĩa là gì? Nghĩa là các tín hữu bị cấm không được ăn các thức ăn đặc và đồ uống chứa cồn (rượu, bia, coctails…) trong phạm vi 3 tiếng trước khi dâng lễ hoặc rước lễ; trong phạm vi một tiếng đối với đồ uống không chứa cồn (trà, cafe, nước trái cây, sữa) ; nước uống tinh khiết không hạn chế.            


Nhận xét:

Luật ăn chay và kiêng thịt của GH do các Tông Đồ thiết lập, được duy trì và thực hành suốt dòng thời gian cho đến khi Giáo Phái Vatican II ra đời. Trải qua nhiều lần thay đổi thích ứng với hoàn cảnh khác nhau, GH vẫn giữ nguyên số ngày phải ăn chay kiêng thịt trong năm; chỉ có cách thức ăn chay là được GH giảm nhẹ chút cho phù hợp với cuộc sống của con người ở mỗi thời đại. 

Thay vì phải kiêng thịt hoàn toàn trong suốt Mùa Chay và chỉ được ăn sau khi mặt trời lặn, đến thời Đức Pio XII, GH chỉ buộc phải kiêng thịt trong các ngày Thứ Sáu, còn các ngày khác trong Mùa Chay vẫn được ăn thịt trong bữa chính.  Ngoài 40 ngày chay thánh, các tín hữu còn thực hành ăn chay kiêng thịt trong các ngày Ember, các ngày vọng của một số lễ trọng trong năm, và giữ chay Thánh Thể mỗi khi rước lễ.   

Như thế, trong suốt cả năm, tín hữu luôn được nhắc nhở và thực hành việc chay tịnh khổ chế, là phần không thể thiếu trong đời sống Kitô hữu. Nhờ luật chay tịnh thường xuyên như vậy, tinh thần hy sinh hãm  được thấm đượm vào lòng trí các tín hữu. Nhờ đó, họ có được sự khôn ngoan và sức mạnh để lướt thắng các cám dỗ của ba thù là ma quỷ, thế gian, và xác thịt, như Chúa Giêsu đã nói, có thứ Quỷ chỉ có thể trừ được bằng việc ăn chay và cầu nguyện mà thôi (Mt 17,21).

Luật ăn chay và kiêng thịt như trên là luật phổ quát trong toàn thể GH, vì thế luật đó thuộc về đối tượng đệ nhị của Ơn Bất Khả Ngộ, nên không thể sai lầm. Khi nói, Luật ăn chay kiêng thịt của GH là không thể sai lầm nghĩa là, luật đó thực sự cần thiết cho đời sống đức tin và không hề tiềm ẩn một nguy hại nào cho các tín hữu, cả phần xác lẫn phần hồn. Do đó, GH sẽ không bao giờ thay đổi cách toàn diện hoặc bãi bỏ luật ăn chay kiêng thịt mà GH đã thiết lập và thực hành từ thưở ban đầu.

Giáo Phái Vatican II hầu như đã bãi bỏ hoàn toàn luật ăn chay kiêng thịt của GH. Việc ăn chay kiêng thịt chỉ còn buộc có hai ngày trong năm là, Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Việc kiêng thịt các ngày Thứ Sáu trong năm chỉ còn là lời khuyên. Thường khi, ý niệm ăn chay kiêng thịt còn chưa kịp xuất hiện trong đầu người ta, thì ngày ăn chay kiêng thịt đã trôi qua rồi! 

Chỉ với hai ngày thực hành việc ăn chay và kiêng thịt mà Giáo Phái Vatican II vẫn gọi đó là “Mùa Chay”, đó chẳng phải là sự mỉa mai nực cười sao? Nếu đem so sánh với Mùa Chay của GH Công Giáo, mùa chay của GPV2 rõ ràng chỉ còn là một cái vỏ hình thức không hơn không kém, chứ nội dung bên trong và thực hành bề ngoài thì hoàn toàn khác. Ngoài ra,  khái niệm “Chay Thánh Thể” thì đã hầu như đã biến mất nơi GPV2. Họ có thể vô tư ăn uống cho đến ngay trước giờ lễ, rồi thản nhiên vác bụng chứa đầy rượu bia với lòng lợn tiết canh và “cầy tơ bẩy món” ra nhà thờ dâng lễ và rước lễ!!! Luật chay Thánh Thể vẫn buộc ngặt như Tự Sắc 1957 của Đức Pio XII ở trên, bỗng chốc thay đổi chỉ còn hình thức bề ngoài như của GPV2 thì phải khẳng định rằng, sự thay thay đổi đến độ phá huỷ như thế chỉ có thể đến từ kẻ thù của GH mà thôi. 

Việc thay đổi luật ăn chay kiêng thịt cách triệt để đến mức bãi bỏ và phá huỷ như vậy, chắc chắn đó không phải là sự thay đổi đến từ GH. Vì thế, chỉ cần suy gẫm về luật ăn chay kiêng thịt này thôi, đã đủ cho thấy Giáo Phái Vatican II không phải là GH Công Giáo. Đó chỉ là một tổ chức hoạt động theo sự chỉ đạo của các kẻ thù của GH, những kẻ đã chiếm được tổ chức bề ngoài của GH kể từ khi đức Pio XII qua đời. GPV2 chỉ còn giữ một vài nét vẻ bề ngoài tựa như GH để đánh lừa người ta mà thôi, chứ thực chất đó không phải là GHCG.

2. SÁM HỐI 

[url=https://1.bp.blogspot.com/-6_JpuoOhPi4/XoJscgdObzI/AAAAAAAAAOs/D9dhp87tAWg-jrNLVZ0BMutIuyrrD7YegCNcBGAsYHQ/s1600/altar.jpg][Image: altar.jpg]Ở đây không có ý nói về việc sám hối cá nhân cũng như tâm tình bên trong của mỗi người, nhưng chỉ có ý nói đến cách thế bề ngoài của việc sám hối tập thể và không khai trong đời sống phụng vụ của GH, nhất là khi tham dự thánh lễ. 

Thánh lễ của GH bắt đầu với phần cầu nguyện dưới chân bàn thờ. LM đứng hướng mặt lên bàn thờ, đọc thánh vịnh 42 (43), sau đó cúi gập mình đọc kinh Cáo Mình như sau:

Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng, Đức Trinh Nữ Maria, Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Thánh Gioan Tẩy Giả, hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô, cùng toàn thể các thánh và (anh chị em/cha), tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, và việc làm: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Vì vậy tôi xin Đức Trinh Nữ Maria,Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Thánh Gioan Tẩy Giả, hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô, cùng toàn thể các thánh và (anh chị em/cha), khẩn cầu cho tôi trước toà Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Amen.

[Image: altar1.jpg]Sau LM, đến phần giáo dân đọc kinh Cáo Mình như trên trong tư thế quỳ và cúi đầu, nhưng chỉ đọc thầm, riêng cậu giúp lễ đại diện đọc lớn tiếng. Cụm từ “và anh chị em” được thay bằng chữ “và cha”.

Sau khi LM và giáo dân tuần tự cáo lỗi mình trước mặt Chúa, cũng là lúc kết thúc phần cầu nguyện dưới chân bàn thờ, LM tiến lên bàn thờ tiếp tục dâng lễ. 

Đó là nội dung và cách thế của việc sám hối trong phụng vụ Công Giáo. Đối chiếu với nghi thức sám hối của trong phụng vụ của GPV2 ta thấy một điều hoàn toàn khác như sau: 

Về nội dung, kinh Cáo Mình của họ đã sửa đổi bóp méo theo tư tưởng Tin Lành. Phần kêu cầu đích danh đến Đức Trinh Nữ Maria và các thánh như phần chữ đỏ ở trên đã bị cắt bỏ. 

Về cách thế, nghi thức sám hối của họ được thực hiện cách rất vui vẻ nhẹ nhàng, không còn phân biệt phần của linh mục và phần của giáo dân: mọi người quây quần hướng mặt vào nhau, chủ tế hướng mặt về cộng đoàn và quay lưng lại bàn thờ, đứng thẳng và ngẩng cao đầu, tất cả cùng đọc kinh cáo mình đã bị bóp méo như trên, bất cần đến sự chuyển cầu của Đức Mẹ và các thánh. Ngoài ra, họ cũng hiếm khi thể hiện lòng sám hối bằng kinh Cáo Mình. Thay vào đó, họ có thể xử dụng cách thức sám hối khác, được gợi ý sẵn trong sách, hoặc có thể theo sự ứng khẩu của chủ tế, khỏi cần cáo mình làm chi!

Hãy dừng lại giây lát, so sánh đối chiếu và bình tâm suy ngẫm. Nghi thức sám hối trong phụng vụ của GPV2, nếu so với của GH, ta thấy hoàn toàn khác cả về hình thức và nội dung. Sự khác biệt đó nói lên một điều là, nghi thức sám hối của GPV2 chỉ là một sự mô phỏng bắt chước, hời hợt nửa vời, và hoàn toàn không còn diễn tả niềm tin và tâm tình mà GH muốn diễn tả qua nghi thức này. 

Đó là hậu quả của việc bóp méo phá huỷ thánh lễ Công Giáo như đã nói ở bài 14. Lễ của GPV2 thực chất chỉ là cuộc tụ họp phụng vụ Tin Lành. Lễ giả hiệu, phản Công Giáo nên việc sám hối đầu lễ cũng chỉ là hình thức sám hối giả hiệu phản Công Giáo mà thôi.

KẾT LUẬN:

Chay tịnh và sám hối giả hiệu của GPV2 một lần nữa cho thấy, GPV2 chỉ là một tổ chức Công Giáo giả hiệu để lừa dối mọi người. Đó chỉ là một tổ chức, như tôi đã tuyên bố trong bài 18, chứa đựng bên trong và diễn tả ra bên ngoài tất cả những bằng chứng và dấu hiệu của một giáo hội giả để lừa dối mọi người. Đón đọc bài tới với chủ đề: các bí tích giả.

Chúa đã dùng thánh giá mà cứu chuộc loài người,
Xin thương xót chúng con!
Reply
#18
BÀI 25: BÍ TÍCH GIẢ [/url]

[url=https://1.bp.blogspot.com/-LKgp0END__8/Xoq6LV0_xaI/AAAAAAAAAPM/f8VI6wg64ycEQZOFtFUu8yX8cPcHZ169ACNcBGAsYHQ/s1600/Pius%2Bxii%2B.jpg][Image: Pius%2Bxii%2B.jpg]Gần 50 năm trước khi lễ mới và các bí tích của Giáo Phái Vatican II (GPV2) ra đời, LM. Sylvester Berry đã viết như sau khi chú giải câu Kh 13,16: “…Trong thực tế, sẽ có một tổ chức hoàn hảo – một giáo hội của Satan được dựng nên đối nghịch với Giáo Hội của Đức Kitô. Satan sẽ thế chỗ của Thiên Chúa Cha, Tên Phản Kitô sẽ được tôn vinh như Đấng Cứu Thế, và ngôn sứ của Nó sẽ sắm vai giáo hoàng. Các nghi thức của chúng sẽ là sự giả mạo các Bí Tích và các việc ma thuật của chúng sẽ được tung hô như những phép lạ.” (đọc thêm bài số 8).


Những lời chú giải giật mình trên đây khiến ta phải liên tưởng đến các bí tích của GPV2. Trong bẩy bí tích của GPV2, chỉ có hai bí tích là rửa tội và hôn phối được coi là thành sự. Mặc dù đã có nhiều sửa đổi làm cho cách hiểu hai bí tích này có phần khác với GH, nhưng công thức bí tích (mô thể) của hai bí tích này vẫn giữ được đúng  ý nghĩa so với công thức của GH. Hơn nữa, thừa tác viên của hai bí tích này không đòi buộc phải có tư cách linh mục, nghĩa là, giáo dân cũng là thừa tác viên hữu hiệu. Còn năm bí tích kia (Thêm Sức-Thánh Thể-Giải Tội-Xức Dầu-và Truyền Chức) thì hoàn toàn vô hiệu. Lãnh nhận 5 bí tích này nơi GPV2 là vô ích, bất kể có chủ ý và lòng thành đến đâu. Lý do là vì, các bí tích ấy đã bị thay đổi, bóp méo tự bản chất, với chủ ý phá huỷ bí tích, nên chúng không còn là BT của GH nữa. 

[Image: francis.jpg]Bài 14 đã chứng minh Lễ Mới (bí tích thánh thể) của GPV2 không phải là Thánh Lễ Công Giáo mà chỉ là hình thức phụng vụ Tin Lành, là lễ giả mà thôi. Bài 15 đã giải thích tại sao nghi thức truyền chức giám mục (bí tích truyền chức) của GPV2 là vô hiệu. Vẫn chiếu theo những điều kiện để cử hành bí tích thành hiệu như đã nói ở bài 15, bài này sẽ giải thích vắn tắt tại sao ba bí tích còn lại của GPV2, là thêm sức, giải tội, và xức dầu, cũng hoàn toàn vô hiệu và trống rỗng. 

Có hai ý do căn bản khiến cho ba bí tích này trở nên vô hiệu. Thứ nhất là do nghi thức bí tích sai lạc; thứ hai là tư cách của thừa tác viên cử hành.  

Nguyên nhân thứ nhất:  do nghi thức bí tích sai lạc. 

Nguyên nhân này đã xảy ra ngay từ thời điểm nghi thức Lễ Mới lễ và nghi thức Các Bí Tích của GPV2 được ban hành và đưa vào áp dụng từ những năm 1968-1969. Tại thời điểm đó và những năm liền ngay sau đó, đa số thừa tác viên của ba bí tích này đều có chức giám mục hoặc linh mục (vì họ được truyền chức đúng theo nghi thức của GH). Tuy có chức giám mục, linh mục, nhưng vì họ đã dùng nghi thức bí tích sai lạc của GPV2, nên bí tích họ cử hành vô hiệu. 

Nghi thức các bí tích của GPV2 bị sai lạc chỗ nào? Sai lạc trầm trọng và có hệ thống đã xảy ra ở phần Mô Thể của bí tích. Như đã phân tích kỹ ở bài 15, đây xin được nhắc lại vắn tắt. Mô Thể, cũng gọi là Công Thức Bí Tích, là những lời bắt buộc phải đọc và phải đọc cho chính xác để làm cho bí tích thành hiệu và phát sinh hiệu quả. Những lời trong Công Thức Bí Tích của GPV2 đã bị sửa đổi bóp méo và không còn diễn tả đúng ý nghĩa và bản chất của Bí Tích như GH vẫn hiểu và diễn tả qua suốt dòng lịch sử. Mô Thể là một phần của dấu chỉ của Bí Tích và là phần cấu thành bản chất của Bí Tích, do chính Chúa Giêsu thiết lập, nên GH khẳng định là GH không có quyền động chạm và làm thay đổi bản chất ý nghĩa những lời của Mô Thể. Bất kỳ sự thay đổi bóp méo nào, làm mất đi ý nghĩa đích thực của Mô Thể như GH vẫn hiểu, hậu quả dẫn đến đó là sự phá huỷ bí tích.

Dưới đây là sự đối chiếu và nhận xét những lời trong Công Thức Bí Tích của ba bí tích, thêm sức-giải tội-và xức dầu, của GPV2 với của GH:

Bí Tích Thêm Sức:

Công thức của GPV2: …N, hãy nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần.

Công thức của GH: …N, cha ghi dấu thánh giá cho con và cha thêm sức cho con bằng dầu cứu độ. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.
(N, Signo te Crucis, et confírmo te Chrísmate salútis. In nómine Patris, et Fílii, et Spíritus Sancti.) 

Nhận xét: lời công thức bí tích thêm sức của GPV2 hoàn toàn khác với công thức của GH. Những lời công thức của GPV2 rất hàm hồ đại khái, không diễn tả rõ điều gì và ơn gì của Chúa Thánh Thần? Đó là chưa kể đến sự bất nhất giữa lời đọc và cử chỉ khi cử hành bí tích này nơi GPV2. Lời đọc hoàn toàn không diễn tả và ăn khớp gì với cử chỉ đang làm.  Tay ghi dấu thánh giá và xức dầu trên trán người lãnh nhận, mà lời đọc đi kèm hoàn toàn không liên quan gì hành động vẽ hình thánh giá và chất thể dầu đang xức. Nói nôm na là, miệng một đàng, tay một nẻo! bất nhất. Hoàn toàn không có sự liên kết mật thiết giữa cử chỉ và lời đọc, tức giữa chất thể và mô thể, một điều kiện bắt buộc trong cử hành bí tích. Trong khi đó, nơi công thức và việc cử hành của GH thì có sự hài hoà ăn khớp rõ ràng giữa cử chỉ và lời đọc. Khi cử hành bí tích, thừa tác viên đọc: …N, cha ghi dấu thánh giá cho con và cha thêm sức cho con bằng bằng dầu cứu độ (liền với lời đọc này là cử chỉ ghi dấu thánh giá với ngón tay thấm đượm dầu thánh đang xức trên trán người lãnh nhận). 

Hậu quả của sự khác nhau này là gì? Bí tích thêm sức của GPV2 vô hiệu vì công thức bí tích đã bị thay đổi bóp méo tự bản chất và hoàn toàn khác với Bí Tích của GH.   

Bí Tích Giải Tội:

Công thức của GPV2: Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa mà giao hoà thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội. Xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh mà ban cho con ơn tha thứ và bình an. Vậy cha tha tội cho con, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen

Công Thức của GH: Xin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tha tội cho con, và nhờ quyền năng của Ngài, cha tha cho con mọi án vạ tuyệt thông, (huyền chức), và cấm chế, theo mức độ quyền hạn của cha và sự xứng đáng của con. Vậy, cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
(Dóminus noster Jesus Christus te absólvat: et ego auctoritáte ipsíus te absólvo ab omni vínculo excommunicatiónis, (suspensiónis), et interdícti, in quantum possum, et tu índiges. Deínde ego te absólvo a peccátis tuis, in nómine Patris, et Fílii, et Spíritus Sancti. Amen). 

Nhận xét: Công thức tha tội của GPV2 hoàn toàn tối nghĩa mơ hồ. Công thức đã xoá bỏ những lời tối quan trọng này “Xin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tha tội cho con”. Điều đó chứng tỏ họ đã chối bỏ, không tuyên xưng và nài xin Chúa Giêsu Kitô là Đấng có quyền tha tội! Công thức không có sự diễn tả rõ ràng ai là đấng tha tội và ai là dụng cụ trung gian trong việc tha tội. Đọc và suy ngẫm công thức tha tội hàm hồ của GPV2 ta thấy, cả trọn câu đầu tiên chỉ là lời dẫn rườm rà không cần thiết. Sau lời dẫn đó, họ nài xin Chúa dùng tác vụ của “Hội Thánh”, hiểu là chức linh mục của họ, mà tha tội cho hối nhân. Xin Chúa dùng linh mục của họ mà tha tội, chứ không xin chính Chúa Giêsu tha tội, như trong công thức của GH. Mà linh mục của GPV2 thì hoàn toàn không được trao quyền để tha tội, vì nghi thức truyền chức LM của GPV2 đã cắt bỏ nghi thức đặt tay trao quyền tha tội cho tân chức (coi lại bài 15)! Không nài xin Chúa Giêsu tha tội, còn thừa tác viên thì không có quyền tha tội, vậy nên công thức tha tội của GPV2 chỉ hoàn toàn là những lời vô ích và vô hiệu, nghe cho vui tai!    

Trong khi đó, công thức tha tội của GH là một diễn tả tuyệt vời và rõ ràng bản chất của bí tích giải tội. Chúa Giêsu là đấng tha tội. Điều đó được tuyên xưng và nài xin ngay ở đầu công thức (Xin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tha tội cho con). Còn linh mục chỉ là dụng cụ trung gian Chúa dùng trong việc tha tội, trong quyền hạn và khả năng mà Chúa và GH ban cho. Ngoài ra, trong công thức tha tội của GH còn có chi tiết tha án vạ “huyền chức - suspensiónis”, bình dân gọi là treo chén, nếu hối nhân là linh mục. Sở dĩ vậy là vì giáo sỹ hoặc tu sỹ vào toà xưng tội phải giới thiệu căn tính của mình cho cha giải tội. (tỷ dụ: thưa cha, con là giám mục, linh mục, phó tế, hoặc tu sỹ đã khấn trọn hay khấn tạm..không được phép che dấu căn tính của mình, trừ khi cha giải tội đã biết trước điều đó thì khỏi cần xưng ra).    

Hậu quả: Bí tích giải tội nơi GPV2 vô hiệu vì công thức tha tội của họ mơ hồ, tối nghĩa và hoàn toàn không diễn tả đúng bản chất của bí tích như GH vẫn tin và truyền dạy.

Hẳn sẽ có lý luận rằng, chỉ cần những lời “Cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen” cũng đủ làm cho bí tích thành sự. Đúng như vậy! Tuy nhiên điều đó chỉ đúng và áp dụng cho công thức tha tội của GH mà thôi. Trong lúc thật sự khẩn cấp và nguy tử, khi không đủ thời gian để đọc trọn vẹn công thức tha tội, thì chỉ cần đọc vắn tắt như trên cũng đủ. Mặc dầu vậy, những lời bị bỏ qua đó vẫn hoàn toàn diễn tả chủ ý của GH đó, là tuyên xưng và nài xin Chúa Giêsu là Đấng có quyền tha tội, còn LM chỉ là dụng cụ trung gian Chúa dùng để tha tội mà thôi. Trong khi đó, công thức tha tội của GPV2 dù đọc đầy đủ hay đọc vắn tắt thì, chủ ý tuyên xưng và nài xin Chúa Giêsu Kitô tha tội, đã hoàn toàn bị chối bỏ và loại khỏi công thức của họ. Vì thế, dù đọc đầy dủ hay vắn tắt, thì thiếu sót và tà ý chối bỏ, không thèm nài xin Chúa Giêsu tha tội của họ vẫn còn đó. Do vậy, công thức tha tội của GPV2 là vô hiệu.    

Bí Tích Xức Dầu:

Công thức của GPV2: (xức tránNhờ việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn Thánh Thần mà giúp đỡ con; (xức hai lòng bàn tayđể người giải thoát con khỏi mọi tội lỗi, cứu chữa và thương làm cho con được thuyên giảm

Công thức của GH: (xức tuần tự trên mắt, tai, mũi, miệng, tay, chânNhờ việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa tha cho con mọi tội con đã phạm bởi việc sử dụng (mắt/tai/mũi/miệng/tay/ chân). Amen.
(Per istam sanctam Unctiónem et suam piíssimam misericórdiam indúlgeat tibi Dóminus quidquid per (visum/audítum/odorátum/gustum et locutiónem/tactum/gressum) deliquísti. Amen.)

Nhận xét: điều trước tiên phải nói đó là GPV2 đã bất cần và loại bỏ hoàn toàn việc xức dầu riêng từng giác quan và các phần cơ năng theo thứ tự gồm : mắt, tai, mũi, miệng, và chân. Đối với GH, việc loại bỏ bất cần và bất phân biệt như vậy luôn luôn là trọng tội. Tiếp đến, phân tích công thức xức dầu của GPV2 ta thấy, công thức gồm hai phần, xức trán và xức lòng bàn tay. Khi xức trán, họ nài xin ơn Chúa Thánh Thần giúp đỡ (không biết giúp đỡ cụ thể điều gì); khi xức lòng bàn tay, họ nài xin Chúa giải thoát khỏi mọi tội, đồng thời nài xin Chúa cứu chữa và làm cho thuyên giảm cơn ốm bệnh tật phần xác. Xét theo nội dung tổng thể toàn công thức, họ xin Chúa giải thoát người được xức dầu khỏi mọi tội lỗi (điều này được coi là sát nghĩa với công thức xức dầu của GH). Còn với ý nài xin tiếp theo là, “xin thương cứu chữa và làm cho con được thuyên giảm”, đây là điều hoàn toàn mới và khác hẳn với nội dung công thức xức dầu của GH. Chính ý thêm vào này đã làm thay đổi căn bản bản chất của bí tích Xức Dầu như GH vẫn tin. Chủ ý của Chúa Giêsu khi thiết lập bí tích này, cũng như niềm tin và thực hành của GH đó là, để ban ơn trợ giúp phần hồn và tha thứ tội lỗi cho người trong cơn nguy tử để họ được bình an và sẵn sàng ra đi gặp Chúa, chứ không phải là xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác. Vì thế, trong công thức xức dầu của GH, ơn tha tội là ơn duy nhất được diễn tả và nài xin Chúa ban cho người bệnh. Xin thuyên giảm bệnh tật thể xác, tuy là một điều tốt, hoàn toàn không phải là mục đích của Bí Tích Xức Dầu Nguy Tử.

Tại sao có sự khác biệt căn bản như thế giữa công thức của GH và của GPV2? Sự khác biệt ấy đến từ chính tên gọi bí tích này. GH gọi bí tích này là “Bí Tích Xức Dầu Nguy Tử - Extreme Unction”. Vì thế, nguy tử là điều kiện bắt buộc phải có, để trao ban và lãnh nhận bí tích thành sự, và mục đích chính của việc xức dầu là ban ơn trợ lực phần hồn và ơn tha tội cho người lãnh nhận, giúp họ sẵn sàng ra đi gặp Chúa. Trong khi đó, GPV2 gọi là “bí tích xức dầu bệnh nhân – Anoiting of the Sick”. Vì là sức dầu bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh, dù nặng nhẹ thế nào, cũng có thể xin xức dầu. Và khi xức dầu cho bệnh nhân, thì việc xin ơn chữa lành và thuyên giảm bệnh tật là chính đáng quá còn gì! Tuy nhiên, chủ ý được thêm vào này đã làm sai lạc bản chất của Bí Tích Xức Dầu như GH vẫn tin và thực hành. Vì có sự khác nhau vể bản chất của bí tích như thế, tất yếu đưa đến sự khác biệt trong thực hành mục vụ giữa GH và GPV2. 

Đối với GH, Bí Tích Xức Dầu là bí tích dành cho người thực sự trong cơn nguy tử. Vì thế, điều kiện bắt buộc để lãnh nhận bí tích thành sự là, người lãnh nhận phải thực sự đang trong lúc nguy tử do tuổi già hoặc bệnh tật, và cơn nguy tử phải hoàn toàn mang tính tự nhiên (do tuổi già hoặc bệnh tật) và có tính nội tại, nghĩa là cơn nguy tử phải phát xuất từ chính bên trong con người của lãnh nhận xức dầu. Mọi thực hành trái ngược, chẳng những làm cho bí tích vô hiệu mà còn mắc thêm tội phạm thánh và làm hư bí tích. Do vậy, đối với GH, những người lính trước khi ra trận, họ cũng chỉ có thể được giải tội chứ nhưng không thể lãnh nhận xức dầu, vì sự nguy tử của họ không tự nhiên và không mang tính nội tại, nó đến từ bên ngoài. Ngay cả các tử tù trước khi bị hành quyết, cũng chỉ có thể lãnh nhận bí tích giải tội mà thôi, chứ không thể lãnh nhận phép xức dầu! 

Trong khi đó ta thấy, vì gọi là “bí tích xức dầu bệnh nhân” nên trong thực hành, GPV2 đã làm rất khác với GH. Nơi GPV2, chẳng những bệnh nhân mà bất cứ ai cũng có thể xin xức dầu. Họ dạy rằng đừng nghĩ việc xức dầu là chỉ dành cho người sắp chết! Đừng đợi sắp chết mới xin xức dầu. Bí tích là phương tiện Chúa ban ơn sủng cho con người, nên cứ có ước muốn lãnh nhận là nên làm. Lãnh nhận xức dầu không bổ phần hồn cũng bổ phần xác! Vì lòng đạo đức đơn sơ lãng mạn như thế, nhiều nơi trong GPV2 tổ chức xức dầu định kỳ hàng tháng hoặc quý, vào một ngày nhất định nào đó. Bất cứ ai có lòng muốn cũng có thể được xức dầu. Cho nên mới có chuyện hết sức bình thường nơi GPV2 là, nhiều nam thanh, nữ tú, khoẻ như vâm, cũng thành kính khoanh tay lên lãnh nhận phép xức dầu từ tay “cha”! Không bổ phần hồn cũng bố phần xác mà. Cứ nhận lấy được! Việc ban và nhận bí tích xức dầu như thế, đối với GH, là hoàn toàn vô hiệu. Việc làm đó nơi GPV2 chẳng phải là một sự mô phỏng bắt chước bí tích thánh của GH sao? Thấy từa tựa vậy mà không phải vậy!  Họ đã làm cho việc xức dầu nên như thể là một cách chữa bệnh có tính ma thuật bùa chú vậy!

Hậu quả, xét theo nội dung bản chất của công thức bí tích xức dầu và việc thực hành áp dụng bí tích ấy nơi GPV2 như phân tích trên, bí tích xức dầu nơi GPV2 là hoàn toàn vô hiệu, là một bí tích giả, chỉ là sự mô phỏng bắt chước bí tích của GH mà thôi.

Tiểu kết phần so sánh Nghi Thức Bí Tích: qua việc phân tích đối chiếu các Công Thức Bí Tích nêu trên ta thấy: các công thức bí tích của GPV2 đã bị sửa đổi tận căn, làm thay đổi bản chất của bí tích như GH vẫn tin và thực hành suốt dòng thời gian. Việc sửa đổi bóp méo công thức bí tích như vậy chẳng những làm hư các bí tích mà con đánh mất luôn chủ ý “làm như GH làm” trong việc trao ban bí tích. Do đó, các bí tích thêm sức, giải tội và xức dầu của GPV2 là hoàn toàn trống rỗng và vô hiệu. 

Thứ hai là, do tư cách của thừa tác viên.

Các BT Thêm Sức, Giải Tội, và Xức Dầu, chẳng những vô hiệu khi dùng công thức bí tích sai lạc, mà con vô hiệu vì  được cử hành bởi thừa tác viên không có tư cách chức thánh. Những BT này muốn cử hành thành sự, bắt buộc thừa tác viên cử hành phải có tư cách giám mục hoặc linh mục. Mà như đã chứng minh ở bài 15, nghi thức truyền chức giám mục của GPV2 là hoàn toàn vô hiệu và trống rỗng. Nghi thức đó chỉ sản sinh ra các giám mục giả. Các giám mục giả ấy lại tiếp tục sinh ra các linh mục giả khác. Cho nên, tính cho đến thời điểm hiện tại, sau 50 năm áp dụng nghi thức truyền chức giả của GPV2, có thể nói toàn bộ hàng giáo sĩ đương chức bây giờ của GPV2 chỉ là một hàng giáo sỹ giả, một hàng giáo sỹ không chức linh mục. 

Một hàng giáo sỹ giả, không chức giám mục, linh mục, thì không thể cử hành các BT. Thêm Sức, Thánh Thể, Giải Tội, Xức Dầu, và Truyền Chức, thành sự được, bất kể họ dùng nghi thức bí tích đúng đắn thế nào.  

KẾT LUẬN và GỢI MỞ:

Các bí tích của GPV2 như vừa chứng minh, là hoàn toàn vô hiệu và trống rỗng. Tình trạng của GPV2 ngày càng thê thảm, trống rỗng, úa tàn theo thời gian, và phải đi đến chỗ tự huỷ như đã nhiều lần điểm qua ở các bài trước. Hành trình tự huỷ của GPV2 mang cả hai chiều kích hữu hình và vô hình. 

Chiều kích hữu hình: Chiều kích này được thể hiện qua việc suy tàn trông thấy, đó là việc đóng cửa các giáo xứ, chủng viện và dòng tu; là việc hư hỏng suy đồi có tổ chức và hệ thống nơi hàng giáo sĩ cấp cao. Họ giải thích và bào chữa cho sự thoái hoá suy tàn của họ là do ảnh hưởng của sự bùng nổ phát triển vũ bão của khoa học, kinh tế và cuộc sống hiện đại ở nửa cuối thế kỷ 20! Lý lẽ thô thiển đó chẳng khác nào tự bắn vào mình vì gián tiếp coi khoa học kỹ thuật và cuộc sống văn minh hiện đại là kẻ thù của tôn giáo! Tuyệt nhiên, không thấy ai hoài nghi thắc mắc xem liệu sự khô cằn, chết dần chết mòn ấy, có phải là do của ăn “vô bổ” là các bí tích giả của GPV2 hay không? 

Chiều kích vô hình. Chiều kích này chỉ có thể được đo lường và nhận biết bằng đức tin thật sự. Nếu có đức tin Công Giáo thật sự, người ta sẽ nhận ra CĐ Vatican II chính là cuộc phản bội đức tin lớn lao và có hệ thống mà Chúa, Đức Mẹ, Thánh Phao-lô và Giáo Hội đã cảnh báo. Ở thời điểm những năm ngay sau khi CĐ Vatican II kết thúc, hàng giáo sỹ của GPV2 bấy giờ đều là những người có chức giám mục và linh mục thật, vì họ được đào tạo và truyền chức theo đúng thể thức của GH. Tuy nhiên, họ đã, do chủ ý hoặc vô tình, trở nên những người lạc giáo vì đã tin theo học thuyết của CĐ Vatican II, một học thuyết được xây dựng trên Lạc Thuyết Duy Tân (đọc thêm bài 17 và 22). Khi Nghi Thức Lễ Mới (lễ giả) và Nghi Thức Các Bí Tích Mới (các bí tích giả), biên soạn theo tinh thần của cuộc cách mạng phá huỷ đức tin Công Giáo mang tên “CĐ Vatican II”, được đưa vào áp dụng, hàng giáo sỹ bấy giờ đã từ bỏ Thánh Lễ thật và các Bí Tích thật của GH để cử hành lễ giả và các bí tích giả mới được đưa ra ấy. 

Vì thế, đời sống đức tin nơi GPV2 từ thời bấy giờ trở đi ngày càng tệ hại và thê thảm. Các mục tử thật lại đi nuôi chiên bằng lễ giả và bí tích giả. Các buổi tụ họp phụng vụ của họ hoàn toàn thiếu vắng ân sủng. Sự vô hồn, thiếu vắng ân sủng ấy, là bằng chứng và câu trả lời rõ ràng cho sự suy tàn hữu hình của GPV2. Mặc dầu vậy, Thiên Chúa nhân lành, chậm giận và giàu tình thương, vẫn kiên nhẫn chờ đợi những mục tử đầu đàn phản loạn (hoặc lầm chẳng biết) đang đi theo GPV2, những người có chức giám mục và linh mục, biết hối cải từ bỏ sai lầm và trở về với chính đạo. Đáng tiếc, lòng nhân từ của Chúa đã không được đáp ứng. Sau 50 năm chờ đợi, đến nay, đa số các mục tử có chức GM và LM thật trong GPV2 hầu như đã chết hoặc khuất bóng về vườn. GPV2 giờ đã hoàn toàn nằm trong tay và được dẫn dắt bởi các mục tử giả, không chức GM và LM, vì họ được sinh ra từ Nghi Thức Truyền Chức giả của GPV2. 

GPV2 tại thời điểm hiện tại kể như đã chết, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Toàn bộ hàng giáo sỹ lãnh đạo GPV2 bây giờ đều là giáo sỹ giả. Tất cả các bí tích đều giả dối, vô hồn, và trống rỗng. Giám mục giả, linh mục giả, cử hành các bí tích giả. Bản chất giả dối nơi GPV2 giờ tăng gấp đôi. Trước đây, sự giả dối nơi GPV2 nằm ở chỗ, các GM và LM thật nuôi chiên bằng các bí tích giả. Nhưng trong tình cảnh đó, ít ra vẫn còn chút hy vọng vào sự hoán cải của các mục tử phản loạn ấy. Đáng tiếc, điều đó đã không xảy ra và cho đến nay, GPV2 giờ chỉ còn toàn là các mục tử giả, ngày ngày dâng lễ giả và nuôi chiên bằng các bí tích giả. Một tình cảnh tệ hại và và tuyệt vọng vì không còn khả năng hoán cải và phục hồi. Các mục tử thật mà sai lầm lạc lối thì còn có hy vọng tự hối cải để trở về với tư cách mục tử thật của mình. Chứ các mục tử giả thì chỉ có phế bỏ mà thôi, chứ không một sự hối cải nào có thể khiến họ trở nên các mục tử thật được. GPV2 giờ đây, chỉ là một tổ chức gồm toàn giáo sỹ giả, hàng ngày dâng lên Chúa kiểu thờ phượng giả dối (lễ giả), và cung cấp cho người ta toàn bí tích vô ân sủng, rồi mỗi lúc họ lại sản sinh ra thêm những giáo lý và thực hành phản Công Giáo…một tổ chức như vậy mà vẫn để cho còn tồn tại khiến nhiều người lầm tưởng là GH Công Giáo, thì làm sao phù hợp với ý định nhân lành của Chúa khi thiết lập GH vì phần rỗi loài người?

Ví thế, do sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, GPV2 phải đến lúc bị dẹp bỏ, không thể để nó tiếp tục tồn tại và gây ngộ nhận cho người ta thêm nữa. Sức mạnh bên ngoài nào có thể đóng cửa toàn bộ GPV2 như hiện tại nếu không phải là chính Nó, một giáo hội giả đã xuất hiện để lừa dối và dẫn dắt không chỉ những người mang danh Công Giáo, mà cả loài người đi theo con đường rộng của nó, con đường dẫn đến hư mất đời đời? Việc đóng cửa toàn bộ GPV2 trên toàn thế giới, không để cho các bí tích giả của Nó đến với đoàn chiên lầm chẳng biết, đó là điều kỳ diệu Chúa làm như Ngài đã từng làm nhiều lần trong lịch sử cứu độ, đó là dùng chính bàn tay của kẻ thù của dân Chúa để kết liễu nó! 

Như đã nhiều lần phải kêu lên và nay lại phải kêu to hơn: GPV2 chỉ là một giáo hội giả để lừa dối mọi người. Lý do Nó lừa được nhiều người tin Nó là GH Công Giáo là vì Nó đã chiếm được tổ chức cơ cấu bề ngoài của GH và dần dần thay thế các mục tử thật bằng các mục tử giả mà Nó đã tạo ra. Còn bên trong, tất cả các nghi thức của Nó chỉ là sự giả mạo các Bí Tích của GH Công Giáo. 

Tình cảnh GPV2 đang phải đóng cửa toàn diện như hiện nay khiến nhiều người khóc than thuơng tiếc vì không được lãnh các bí tích. Thật tội nghiệp cho những con chiên chỉ biết đơn sơ phó thác và hầu như đánh mất khả năng phân biệt mục tử thật với mục tử giả. Nếu còn đức tin Công Giáo, hãy khóc than việc Thánh Lễ và các Bí Tích Tích của GH đã bị GPV2 phế bỏ và thay thế bằng các bí tích giả của họ từ 50 năm trước rồi. Chứ ngồi đó mà khóc than và trông ngóng các bí tích giả của GPV2 thì chẳng khác nào như những người mà câu thành ngữ ta đã ví von: “mộ cha không khóc, đi khóc mả thằng ăn mày”! Coi chừng sau khi hồi tỉnh trở lại trong tương lai mù mịt tới đây, GPV2 sẽ trưng ra cho một hình thức thờ phượng mới, một quái thai sinh ra từ Pachamama bụng mang dạ chửa mà họ đã rước vào tôn kính hồi Tháng Mười năm ngoái.      

Trong lúc này, những ai được ơn bừng tỉnh khỏi cơn mê và nhận ra chân tướng phản Công Giáo của GPV2, hãy dứt khoát từ bỏ Nó ngay tức khắc và hãy đi tìm kiếm các mục tử thật cùng với Thánh Lễ và các bí tích thật của GH nếu có thể, vì chúng hoàn toàn chưa bị biến mất khỏi mặt đất, và chúng sẽ không bao giờ bị biến mất. Tuy nhiên, việc tìm kiếm ấy bây giờ sẽ có khó khăn và mức độ khó khăn tuỳ theo mỗi nơi. 

Việt Nam bây giờ trong tình cảnh không hề tìm đâu ra một linh mục nào còn tồn tại trung thành với GH và đứng ngoài tổ chức của GPV2. Chỉ còn một số vị có chức LM thật, vì họ được đào tạo và truyền chức từ năm 1968 trở về trước, khi Nghi Thức Truyền Chức giả của GPV2 còn chưa được đưa vào áp dụng.  Nhưng đáng tiếc, tất cả những vị này, tuy là linh mục thật, đều đã tự biến mình thành những người lạc giáo vì đã phó thác tin theo GPV2. Tuy là những LM lạc giáo, nhưng trong hoàn cảnh bất khả kháng, không thể tìm đến được với các LM bình thường của GH, giáo dân được phép đến lãnh nhận bí tích nơi các LM lạc giáo “ngay lành” này, nhất là các bí tích giải tội và xức dầu nguy tử. Một lưu ý tối quan trọng khi đến với các LM này là, phải xin họ ban bí tích theo nghi thức của GH trước đây, chứ không được dùng nghi thức bí tích giả của GPV2.

Nếu không thể tìm được LM thật, thì mỗi ngày hãy làm việc ăn năn tội cách trọn trước khi ra khỏi nhà. Thực hiện việc ăn tội cách trọn (hoàn hảo) bằng cách nào? Hãy đọc Kinh Ăn Năn Tội, đồng thời trong lòng trào dâng một sự đau buồn sâu xa và thành tâm hối lỗi mọi tội nặng đã phạm làm mất lòng Chúa. Động cơ của sự đau lòng hối lỗi này là vì yêu mến Chúa, Đấng là Sự Thiện và Tốt Lành tuyệt đối. Đánh đổi Sự Thiện Hảo Tốt Lành Tuyệt đối bằng những tội lỗi thì còn đau đớn dại khở nào hơn? Nếu sám hối chỉ vì lo sợ án phạt hoả ngục, thì đó gọi là sự sám hối không hoàn hảo. Rồi phải quyết tâm dốc lòng đoan hứa sẽ không tái phạm tội làm mất lòng Chúa nữa và cố gắng hết sức để đi xưng tội sớm nhất có thể. Việc ăn năn tội cách trọn như thế chỉ là phương thế tạm thời để khôi phục lại Ơn Thánh Hoá đã bị mất do bởi tội nặng đã phạm, chứ không phải là cách thế tha tội thay cho bí tích giải tội và việc xưng tội trực tiếp với LM. Đó là lời dạy và thực hành của GH. Hình thức ăn năn tội cách trọn là một phương thế tuyệt vời, được GH cho phép ta dùng trong lúc khẩn thiết. Tỷ dụ, linh mục đến giờ dâng lễ hoặc giáo dân đến lúc rước lễ, nếu ý thức mình mang trọng tội, họ có thể thực hiện việc ăn năn tội cách trọn để có thể dâng lễ và rước lễ. Rồi sau đó, mau chóng đi tìm LM để xưng tội. Vì vậy, ăn năn tội cách trọn mỗi ngày trước khi ra khỏi nhà hoặc trước mỗi khi nghỉ đêm, là việc làm thực sự hữu ích và thiết thực lúc này đối với giáo dân tại VN.  

Trước khi kết thúc, xin được điểm qua một vài chất vấn mà bạn đọc đôi khi đã gửi đến. Một số người đã từng thắc mắc rằng: Nếu GPV2 không phải là GH, thì làm sao Chúa có thể cho phép điều đó xảy ra?  Và nếu xảy ra như thế, vậy GH bây giờ đang ở đâu? Và làm sao có thể khôi phục lại GH?

Xin được trả lời bằng một vài gởi mở như đã từng nói nhiều lần rải rác trong các bài trước. Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa, đang chịu cuộc khổ nạn như Chúa Giêsu đã chịu. Cuộc khổ nạn của Chúa không phải là thất bại của Chúa, nhưng Chúa đã tự nguyện phó mình cho kẻ dữ và sự chết để tiêu diệt chúng. Chúa đã tự nguyện để cho mình hoàn toàn bị khuất đi và nằm yên trong mồ ba ngày, để rồi Chúa tiêu diệt tử thần và phục sinh vinh hiển. Chúa là Đầu và là Hôn Phu của Giáo Hội đã phải chịu như vậy, thì GH, hiền thê của Chúa, cũng phải trải qua cuộc khổ nạn như thế. Chúa cho phép GH bị kẻ thù khuynh đảo lấn lướt đến độ hầu như mất dạng, nhưng GH sẽ được phục hồi như Chúa đã phục sinh (đọc thêm phần kết luận bài 20).

GH của Chúa bây giờ đang ở đâu? Như ý trên đã nói, GH đang trải qua cuộc khổ nạn. Vì thế, chiều kích hữu hình của GH đã bị khuất dạng vì đang thiếu vắng mục tử đầu đàn hữu hình là Giáo Hoàng và tổ chức cơ cấu quản trị bề ngoài của GH đã và đang bị chiếm giữ bởi GPV2. Tuy nhiên, chiều kích vô hình của GH thì vẫn còn đó và sẽ không thể bị tiêu diệt. Nơi đâu còn có Thánh Lễ và Thánh Thể của Chúa, nơi đó có GH và có Chúa ở cùng. 

Làm sao có thể khôi phục lại GH? Việc đó tuỳ thuộc thánh ý Chúa vì không gì là không thể đối với Chúa. GH có thể được phục hồi bằng một sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa hoặc bằng cách nào đó không ai có thể nói trước. Thêm nữa, chúng ta không cần phải có lời đáp cho mọi câu hỏi. Điều quan trọng nhất là chúng ta phải TRUNG THÀNH với Chúa và GH. 

Lạy Chúa, Chúa đã dùng thánh giá mà cứu chuộc loài người! Xin thương xót chúng con.      

Đón đọc bài sau với đề tài: Giáo Sỹ Giả và Việc Phải Làm

Innocent 
 
https://daylaductin.blogspot.com/2020/04...C3R5nT2okM
Reply
#19
BÀI 26: GIÁO SỸ GIẢ [/url]


Bài 15 đã chứng minh Nghi Thức Truyền Chức của Giáo Phái Vatican II (GPV2) là hoàn toàn vô hiệu. Những ai được truyền chức theo Nghi Thức đó, đều chỉ là những Gm và Lm giả mà thôi. Bản chất giả của chức Gm và Lm nơi GPV2 không chỉ khởi phát ở thời điểm quyết định là lúc truyền chức, mà còn  được thể hiện trong toàn bộ quá trình đào tạo trước đó. 

Do vậy, bài này sẽ nói thêm về những thiếu sót nghiêm trọng trong qúa trình đào tạo Lm của GPV2. Đúng hơn phải nói đó là chủ ý của GPV2 để sản xuất ra các Lm theo ý của họ và hoàn toàn khác với GH Công Giáo. Muốn hiểu rõ hơn về bản chất giả của hàng giáo sỹ GPV2, trước tiên  chúng ta cần tìm hiểu xem giáo sỹ là ai và việc đào tạo các giáo sỹ như thế nào trong GH. Rồi từ đó, ta sẽ đối chiếu với quy trình đào tạo nơi GPV2, để thấy được tại sao các giáo sỹ được sinh ra bởi GPV2 chỉ là hạng giáo sỹ giả không hơn không kém.

GIÁO SỸ VÀ VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO SỸ TRONG GH.

1. Giáo sỹ là ai?

Danh từ giáo sỹ (cleric) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (κλερος), có nghĩa là phần (portion) hoặc của thừa kế (inheritance). Trong Cựu Ước, toàn bộ chi tộc Levi, hình ảnh tiên trưng hàng giáo sỹ GHCG, được chính Thiên Chúa tuyển chọn để tiếp tục công việc của Mosê, đặc biệt là để chăm lo việc thờ phượng Chúa trong dân Israel. Vì thế, toàn chi tộc Lêvi không được nhận một phần đất nào làm cơ nghiệp. Trái lại, họ được toàn dân giúp đỡ bằng thuế thập phân, dâng hoa quả đầu mùa, và hưởng của lễ dâng trong đền thờ. Thiên Chúa phán với Aaron: trong xứ của chúng, ngươi sẽ không có phần cơ nghiệp, ngươi sẽ không có phần ở giữa chúng, chính Ta là phần của ngươi, là cơ nghiệp của ngươi ở giữa con cái Israel (Ds 18,20). 

Thánh Jerome đã sử dụng câu Kinh Thánh trên để giải thích ý nghĩa của từ giáo sỹ:  Họ được gọi là các giáo sỹ vì họ là phần của Chúa và Chúa là phần của họ. Các giáo sỹ là phần của Chúa vì Chúa đã chọn họ vào bậc giáo sỹ. Chúa là phần của họ vì họ đã đón nhận lời mời gọi của Chúa và đã hiến dâng chính họ để phục vụ Chúa. Chính vì lý do đó, họ từ bỏ thế gian cũng như việc theo đuổi các nghề trần tục. Và cũng như các con cái Levi thuở xưa, các giáo sỹ cũng được giúp đỡ bởi các tín hữu, dân tuyển chọn của Giao Ước Mới, tức GH. 

Vì vậy, luật của GH rất rõ ràng trong những quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của giáo sỹ. Bổn phận hàng đầu của giáo sỹ theo Giáo Luật quy định (c.124) đó là: họ phải sống thánh thiện hơn giáo dân và phải nêu gương sáng cho đoàn chiên bằng một đời sống ngay chính và nhân đức. 

Sống đạo đức thánh thiện là một đòi buộc của luật chứ không chỉ đơn giản là một lời khuyên. Đổi lại, giáo dân có bổn phận phải kính trọng, vâng phục và trợ giúp hàng giáo sỹ. 

2. Việc đào tạo giáo sỹ trong GH.

Vì giáo sỹ là người thuộc về Chúa, được Chúa chọn để chăm lo việc phụng thờ Chúa và lãnh đạo dân, nên mô hình đào tạo giáo sỹ của GH được phỏng theo cuộc đời Chúa Giêsu và phương pháp mà Ngài đã huấn luyện và đào tạo các tông đồ. Mô hình đào tạo giáo sỹ trong truyền thống của GH, ngay từ thưở ban đầu cho đến trước Vatican II, được thực hiện theo mô hình và thứ tự các bước như sau:

Tonsura: Cắt tóc (tonsure)
Ostiaritate:  Chức giữ cửa (the order of Porter).
Lectorate: Chức đọc sách (the order of Lector).
Exorcistate: Chức trừ quỷ (the order of Exorcism).
Acolytate: Chức giúp lễ (the order of Acolyte).
Subdiaconate: Chức phụ phó tế (the order of Subdeacon).
Diaconate: Chức phó tế (the order of Deacon).
Presbyteratus: Chức linh mục (the order of Priesthood).

Để trở thành linh mục Công Giáo, bắt buộc phải được đào tạo và truyền chức theo đúng thứ tự như trên. Nếu truyền và lãnh nhận các chức “nhảy cóc”, không theo đúng thứ tự, kẻ nhận chức sẽ tức khắc bị treo, cấm thi hành chức vụ, cho đến khi lãnh đủ các chức đã bỏ sót. Giờ ta cùng tìm hiểu vắn tắt ý nghĩa các chức theo thứ tự trên. 

Tiến trình đạo tạo Lm được chính thức bắt đầu bằng:

Tonsura: Đây gọi là nghi thức cắt tóc, tiếng Anh là tonsure. Nghi thức này theo thông lệ, diễn ra khi kết thúc chương trình triết học ở chủng viện và do giám mục chủ sự. Nghi thức gồm hai phần chính: cắt tóc và trao áo Surplis, cùng những lời nguyện đi kèm. 

Cắt tóc: giám mục sẽ cắt một nhúm tóc trên đỉnh đầu của ứng viên ở năm chỗ khác nhau, tạo thành hình thánh giá, cùng với cử chỉ cắt tóc, giám mục sẽ đọc những lời trong câu Tv 15,5 và ứng viên lặp lại đọc theo: Chúa là phần của sản nghiệp con, là chén của con: chính ngài sẽ khôi phục sản nghiệp cho con. (Dominus pars haereditatis meae, et calicis mei, tu es, qui restitues haereditatem meam mihi ).

Trao áo Surplis: sau nghi thức cắt tóc, giám mục sẽ trao áo Surplis cho ứng viên kèm theo lời đọc: Xin Chúa mặc cho con con người mới, con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa trong công chính và thánh thiện. (Induat te Dominus novum hominem, qui secundum Deum creatus est, in justitia, et sanctitate veritatis).
    
Ý nghĩa: Nghi thức cắt tóc tuy không phải là một chức vụ nhưng nó là nghi thức quan trọng không thể thiếu trong tiến trình đào tạo giáo sỹ và linh mục. Nghi thức này được áp dụng ngay từ thời các tông đồ và do chính Thánh Phê-rô thiết lập[url=applewebdata://75F0AEC9-9819-43AB-B393-9691B1E899EC/#_ftn1][1]. Đó là điều được Thánh Gregory thành Tour, Thánh Isidore thành Seville, Đấng đáng kính Bede, và nhiều tác giả trong GH, chứng thực. Nghi thức cắt tóc là cửa dẫn vào bậc giáo sỹ. Qua nghi thức này, ứng viên được GH chính thức được tách khỏi bậc giáo dân để được tháp nhập vào hàng giáo sỹ, cho dù chưa thật sự là giáo sỹ theo đúng nghĩa chặt của danh từ. Đi kèm với nghi thức này là hàng loạt những bài suy niệm quý giá của GH và các thánh để lại, giúp ứng viên sống tinh thần của bậc giáo sỹ và linh mục đúng như Chúa và GH mong muốn.  

Sau nghi thức công khai “xuống tóc đi tu” như trên, ứng viên buộc phải sống tinh thần đạo đức thánh thiện như Chúa và GH đòi hỏi ở bậc giáo sỹ. Trong tiến trình đào tạo tiến tới chức linh mục, ứng viên sẽ tuần tự được lãnh 4 chức nhỏ (minor orders) và ba chức lớn (major orders). 

Bốn Chức Nhỏ gồm: Giữ Cửa - Đọc Sách-Trừ Quỷ- và Giúp Lễ. Bốn chức nhỏ này do Chúa Giêsu thiết lập và đã thi hành trong cuộc đời tại thế của Ngài:
  • Chức Giữ Cửa được Chúa Giêsu thi hành khi ngài xua đuổi những kẻ buôn bán và đổi tiền ra khỏi Đền Thờ (Mt 21,12-13)
  • Chức Đọc Sách được Chúa Giêsu thi hành khi Ngài vào Hội Đường trong ngày Sabath và đọc sách Thánh (Lc 4,16).
  • Chức Trừ Quỷ được Chúa Giêsu thi hành nhiều lần, khi Ngài trừ quỷ cho những kẻ bị quỷ ám (Mt 8,16; 12,28-29; Lc 11,20-21; …), và Chúa đã trao quyền trừ quỷ cho các tông đồ khi sai các ông đi rao giảng(Mt 10,1; Mc 3,15; Lc 9,1).
  • Chức Giúp Lễ được Chúa Giêsu thi hành khi Ngài mạc khải và khẳng định Ngài là “ánh sáng trần gian” (Ga 8,12)

Vì thế, Thánh Gioan Eudes và nhiều thần học gia, đã coi 4 chức nhỏ này cũng thuộc về bí tích truyền chức[2]. Tuy nhiên, đến nay GH mới chỉ công nhận ba chức GM-LM và PT là thuộc về Bí Tích Truyền Chức. Mặc dầu vậy, tầm quan trọng của bốn chức nhỏ này là miễn bàn cãi và buộc phải có trong tiến trình đạo tạo linh mục. Bởi thế, CĐ Trento đã truyền dạy rằng: bất cứ ai cho rằng bốn chức này không quan trong thì bị vạ tuyệt thông (Denzinger, 841, 962, đọc thêm bài 15). 

Sau bốn Chức Nhỏ, đến ba Chức Lớn theo thứ tự: Phụ Phó Tế-Phó Tế-và Linh Mục.
  • Chức Phụ Phó Tế:  Với chức này, ứng viên chính thức bị bó buộc phái sống độc thân khiết tịnh và đọc kinh thần vụ theo quy định của Giáo Luật. 
  • Sau Phụ Phó Tế, lần lượt đến các chức Phó Tế và Linh Mục. 

Trên vừa trình bày là quá trình đào tạo LM của GH Công Giáo. Giờ ta cùng tìm hiểu quy trình đào đạo Lm của GPV2.  

VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO SỸ NƠI GPV2.

Khi GPV2 ra đời, để phá huỷ chức LM Công Giáo, họ đã bãi bỏ mô hình, cách thức đào tạo, và truyền chức của GH để cho ra những cái mới của riêng họ. Trong tiến trình đào tạo đến chức LM của GPV2 chỉ còn bốn chức: Đọc Sách, Giúp Lễ, Phó Tế, và LM. Còn lại, Nghi Thức Cắt Tóc, Chức Đọc Sách, Trừ Quỷ, và Phụ Phó Tế đã bị loại bỏ.

Tiến trình đạo tạo đến chức LM của GPV2 không còn được bắt đầu với nghi thức “xuống tóc đi tu”, và các chức nhỏ đã bị bãi bỏ và được lãnh nhận “nhảy cóc”, không đúng theo thứ tự các chức. Không có “xuống tóc đi tu”, chưa lãnh nhận chức Giữ Cửa đã lãnh nhận chức Đọc Sách, chưa nhận chức Trừ Quỷ đã lãnh chức Giúp Lễ, bỏ qua chức Phụ Phó Tế để nhảy lên chức Phó Tế, GH tuyệt đối cấm việc truyền chức nhảy cóc như trên và người lãnh các chức đó sẽ bị treo, cấm thi hành chức vụ cho đến khi lãnh nhận đủ các chức đã bị bỏ sót (c. 977 & 2374). 

Hậu quả, chức LM trong GPV2 trở nên vô hiệu và trống rỗng, một chức LM giả không hơn không kém. Việc GH đã ra vạ tuyệt thông bất cứ ai phủ nhận sự cần thiết của các Chức Nhỏ, và luật phổ quát của GH (c. 977) buộc phải truyền chức đúng thứ tự và cấm việc truyền chức nhảy cóc, phán quyết ấy của GH là không thể sai lầm và sẽ không bao giờ có chuyện GH thay đổi theo cách tự phản lại mình như thế. Cho nên, mô hình đào tạo và cách thức truyền chức sai lạc của GPV2 không thể đến từ GH, nó đến từ kẻ thù của GH, những kẻ muốn phá huỷ chức LM Công Giáo. 

Như vậy ta thấy, bản chất giả của chức LM nơi GPV2 không chỉ được thể hiện ở bước quyết định lúc Truyền Chức LM, nhưng nó được thể hiện trong cả tiến trình dài và lỗi hệ thống trước đó, như vừa phân tích trên. Tất cả những sửa đổi bóp méo trong tiến trình đào tạo và truyền chức LM của GPV2 chỉ có một mục đích duy nhất: PHÁ HUỶ CHỨC LINH MỤC CÔNG GIÁO. Một vài chức nhỏ còn được giữ lại chỉ để nhằm che mắt lừa mị, khiến người ta tin là họ vẫn còn tiếp nối với truyền thống của GH Công Giáo. 

Vì chỉ là những Lm giả, nên hàng giáo sỹ GPV2 mang nặng tư tưởng bài bác và thù ghét giáo sỹ (Anticlericalism).  

Nơi GPV2 ta thấy, họ ác cảm và thù ghét tất cả những gì là đặc thù của giáo sỹ. Họ coi não trạng giáo sỹ, chủ nghĩa giáo sỹ trị, hay Chủ Nghĩa Giáo Sỹ,  là nguồn gốc của mọi sai lầm, tệ nạn và suy đồi trong giáo phái của họ. Chủ Nghĩa Giáo Sỹ là căn nguyên của mọi sai lạc và suy đồi trong GPV2. Đó là kết luận mà các giáo sỹ chóp bu trong GPV2 đã đúc kết sau quá trình biện phân dưới sự hướng dẫn của “thần khí”! 

Chủ Nghĩa Giáo Sỹ có phải là căn nguyên của sự sai lạc và suy đồi như kết luận trên của GPV2? Để trả lời, ta cùng đi tìm hiểu xem Chủ Nghĩa Giáo Sỹ thật sự là gì và thái độ Bài Giáo Sỹ đến từ đâu. Rồi từ đó, ta có tiêu chuẩn để đánh giá và đưa ra câu trả lời. 

Chủ Nghĩa Giáo Sỹ (CNGS) là gì? 

Chủ Nghĩa Giáo Sỹ (clericalism) được thần học Công Giáo định nghĩa là, một sự thể hiện sai lạc về giáo sỹ; một nỗ lực mở rộng quyền hành và ảnh hưởng ra ngoài phạm vi chính đáng của giáo sỹ. Đối với các kẻ thù của GH, thì ngay cả những hoạt động và quyền bính hợp pháp của giáo sỹ cũng bị quy kết cho cái gọi là “chủ nghĩa giáo sỹ” với nghĩa thù nghịch.[3]

[Image: the-hireling-shepherd-14.jpg]
kẻ chăn thuê
Từ định nghĩa trên ta thấy, CNGS là sự một diễn tả sai lạc về giáo sỹ. Định nghĩa này quả là một sự miêu tả chân thực dung mạo hàng giáo sỹ GPV2. Giáo sỹ của GPV2 là những người được “miễn trừ” khỏi cần “xuống tóc đi tu”, khỏi phải mặc tu phục cho rườm rà xa cách vì “chiếc áo không làm nên thầy tu”; được giải thoát khỏi bổn phận phải sống thánh thiện hơn bậc giáo dân vì họ đã “khiếm tốn” hạ mình xuống cũng ngang hàng như giáo dân mà thôi, chứ “không dám” coi mình cao hơn giáo dân!  Vì thế, họ được thong dong, tự do hơn để khoe khoang những chuyên môn sở trường, cùng ảnh hưởng của họ ra ngoài lãnh vực chính đáng của giáo sỹ. Cho nên, thay vì toả hương thánh thiện trên giáo dân bằng gương sáng một đời sống hy sinh, cầu nguyện, và bác ái…giáo sỹ GPV2 thích dấn thân trở nên các “anh hùng” đấu tranh chính trị bênh vực người nghèo; nên các nghệ sỹ hát hò, diễn kịch, khiêu vũ nhảy đầm; nên những bậc thầy tư vấn hạnh phúc gia đình; nên những chuyên gia chữa bệnh, xoa bóp, bấm huyệt; nên những cao thủ trong những cuộc nhậu; nên cẩm nang sống về kinh nghiệm xâm nhập các nhà thổ; nên bậc thầy dạy kỹ năng làm tình…vân vân và vân vân. Tất cả những đặc điểm này một lần nữa cho ta thấy sự thật về hàng giáo sỹ GPV2: Đó chỉ là một hàng giáo sỹ giả, vì được đào tạo và truyền chức sai lạc nên tất yếu phải thi thố quyền hành và ảnh hưởng của họ ra trong các lãnh vực ở ngoài phạm vi chính đáng của giáo sỹ như vừa liệt kê. 

Mặc dầu vậy, việc thi thố vai trò của giáo sỹ nơi GPV2 như nói ở trên vẫn là chưa đủ. Họ vẫn còn bị coi là quá xa cách với dân chúng. Vì vậy, họ được khuyến khích phải để cho mình được “ngấm mùi chiên” hơn nữa, chứ như hiện tại vẫn còn “sạch sẽ bóng bẩy” lắm!

Mở ngoặc ngoài lề chút về đàn chiên nơi GPV2. Vì được chăn dắt bởi những mục tử giả như thế, đoàn chiên nơi GPV2 sẽ nên như thế nào? Đoàn chiên sẽ được “nâng cấp”, được “mục tử hoá”, được “giáo sỹ hoá”, để thi hành những công việc của giáo sỹ. Thật vậy, nơi GPV2, hàng ngũ giáo dân đã được “bơm” và “lên tinh thần” bằng lý tưởng lớn lao kiểu như: Giáo hội không phải của hàng giáo sỹ mà là của giáo dân. Giống như trong các xã hội Cộng Sản, người dân được “bơm” lý tưởng “nhà nước là của dân”!  

Bây giờ là thời đại của giáo dân. Giáo dân phải vùng lên với nhiều sáng kiến và chủ động để xây dựng một GH của dân. Với lý tưởng ấy, các đoàn thể như “trăm hoa đua nở”, được ra đời để làm những việc đặc thù của giáo sỹ như đọc kinh thần vụ, giảng dạy giáo lý, hướng dẫn tĩnh tâm, rao giảng kỹ năng sống đạo….họ làm thay, làm đỡ cho giáo sỹ nhiều việc, để giáo sỹ của họ có thêm thời gian hoà mình vào dòng đời cho “thấm đượm thêm mùi chiên”! 

Vì được chăm sóc như vậy, nên “đàn chiên” nơi GPV2 có cách đánh hơi và nhận biết mục tử rất khác lạ. Mục tử nào mà chỉ biết mặc áo chùng thâm,  chuyên chăm cầu nguyện, và giảng giải chuyện đạo đức, thì họ không thích cho lắm. Đó là hạng mục tử kiêu kỳ, xa cách, và không thực tế. Mục tử "đích thực" bây giờ phải có tửu lượng thâm hậu, bốc phét ngất trời, và trên bục giảng phải biết làm cho chiên cười “quặn bụng, rơi răng”! 

Nói tóm, hàng giáo sỹ GPV2 chỉ là một hàng giáo sỹ giả từ trong ra ngoài. Bề trong, vì họ được đào tạo sai lạc, không đúng như GH. Bề ngoài, đó là tất cả những biểu hiện phản giáo sỹ như vừa phân tích ở trên.

Bài Giáo Sỹ là gì?

Não trạng hay tư tưởng Bài Giáo Sỹ (anticlericalism) là thái độ chống đối Giáo Hội Công Giáo, và đặc biệt là chống đối những hoạt động hợp pháp của hàng giáo sỹ. Thái độ Bài Giáo Sỹ là đặc điểm nổi bật của trào lưu tục hoá. Trào lưu tục hoá phát triển theo thời gian, đạt đến cực điểm và bùng nổ ra nơi Cuộc Cách Mạng Pháp (1789). Tư tưởng tục hoá và bài giáo sỹ được Tam Điểm và các nhóm Tin Lành gieo vãi, chăm bón vun trồng cho lớn và lan rộng toàn thế giới như hiện nay. Những thế lực này dùng phương tiện là những luật lệ dân sự để trù dập việc giảng dạy và thực hành đức tin Công Giáo chân thật trong hệ thống các trường học, dẹp bỏ những dấu hiệu đặc trưng Công Giáo ở nơi công cộng, và tục hoá những hoạt động từ thiện và nhân đạo của GH.[4] Trong khi đó, bất cứ niềm tin và thực hành tôn giáo nào khác, miễn là không phải Công Giáo, cũng đều được khuyến khích cho học sinh tìm hiểu!

Định nghĩa Bài Giáo Sỹ trên có liên hệ gì với hàng giáo sỹ GPV2? Có đấy! Vì mang trong mình bản chất giáo sỹ giả do bị đào tạo và truyền chức sai lạc, nên từ trong tiềm thức, họ chán ghét và không thích làm những việc đặc thù của giáo sỹ thật như GH truyền dạy đó là: phải sống thánh thiện hơn giáo dân, phải chuyên cần kinh nguyện, phải giảng dạy cho giáo dân đạo lý Công Giáo, và phải dốc toàn tâm lực chăm lo việc phụng thờ Chúa. Vì họ sợ và chán ghét những bổn phận thánh thiện của giáo sỹ thật, cho nên họ lao mình hăm hở thi thố những chuyên môn và tài năng bất xứng với giáo sỹ như vừa nói trong định nghĩa “Chủ Nghĩa Giáo Sỹ” ở trên.   

Kẻ mang não trạng thù ghét Giáo Sỹ, những người được Chúa chọn, rất cần được thức tỉnh bản thân bằng bài học từ việc Chúa trừng phạt nhãn tiền những kẻ dám ngông cuồng oán giận, chống báng Mose và Aaron, hình ảnh tiên trưng của hàng giáo sỹ trong Giáo Hội, dân của Giao Ước Mới.

Sách Dân Số (chương 16) thuật lại việc nhân vật có tên là Core (Corac), mặc dù có họ hàng gần với Mose, đã dám ngông cuồng nổi loạn chống lại Mose và Aaron, kết án họ độc tài và tự cho mình quyền ở trên dân và lãnh đạo dân. Core lớn tiếng thách thức Mose và Aaron, dù chẳng tốt lành gì hơn ông ta và mọi người, vậy mà cũng đưa mình lên hàng lãnh đạo dân! Core và những kẻ hùa theo ông ta cũng đòi cho mình quyền và địa vị như Aaron. Mose rất đau buồn và hẹn ngày hôm sau, trước mặt toàn dân, sẽ mở mắt cho Core và những kẻ nổi loạn biết ai là người được Chúa chọn. Ngày hôm sau, dù Mose đã khẩn nài Thiên Chúa tha thứ, nhưng vì tội của Core thực ra không phải là chống Môse và Aaron mà là chống Thiên Chúa, cho nên Thiên Chúa đã trừng phạt nhãn tiền Core cùng với các kẻ hùa theo nổi loạn muốn đòi cho mình quyền như Môse và Thượng Tế Aaron, bằng cách cho đất nứt ra nuốt chửng tất cả 250 người xuống âm phủ. Đó là cái kết kinh hoàng cho tất cả những kẻ dám ngông cuồng bài bác và chống đối những người mà  Thiên Chúa đã chọn. 

Sang thời Tân Ước, Chúa không còn trừng phạt nhãn tiền như vậy nữa.  Điều đó không có nghĩa là Chúa bỏ qua hoặc làm ngơ tội bài bác và chống đối các giáo sỹ, những người mà Chúa đã chọn làm phần riêng của Ngài. Họ sẽ phải trả lẽ ở đời sau! 


KẾT LUẬN:

Như đã lên tiếng trong tuyên ngôn cá nhân: GPV2 chứa đựng bên trong và biểu hiện ra bên ngoài tất cả những dấu hiệu của một giáo hội giả, một hiền thê giả của Đức Kitô để lừa dối mọi người, thì nay cũng có thể nói tương tự: hàng giáo sỹ của GPV2 cưu mang bên trong (cách thức đào tạo và truyền chức) và biểu hiện ra bề ngoài (lời giảng, lối sống và hành động) tất cả những sai lạc và suy đồi một hàng giáo sỹ giả. 

Nhờ biện phân dưới sự hướng dẫn của “thần khí”, họ đi đến chỗ nghiệm ra rằng, tất cả những sai lạc, những tệ ấu dâm, đồng tính luyến ái, tham nhũng tiền bạc, dối trá, đấu đã lẫn nhau và tranh dành địa vị, quyền lực, đều là sản phẩm của Chủ Nghĩa Giáo Sỹ! 

Một lần nữa, chiến thuật quỷ quyệt, đổi trắng thay đen, bóp méo và đánh tráo khái niệm, lại được các chóp bu của GPV2 sử dụng để che đậy bản chất giáo sỹ giả của họ, nhằm lừa mị người ta tin vào thiện chí và cái vỏ nguỵ khiêm tốn của họ, giống như họ đã giả đò lên án lạc giáo nhưng thực chất là nhằm mỉa mai, bài bác đức tin Công Giáo (coi bài 19, ý “thứ hai, vấn đề chống lạc giáo”). 

Nếu GPV2 hiểu CNGS là một sự thể hiện sai lạc về giáo sỹ; một nỗ lực mở rộng quyền hành và ảnh hưởng ra ngoài phạm vi chính đáng của giáo sỹ như cách GH định nghĩa ở trên, thì họ phải dốc sức chỉnh đốn hàng giáo sỹ của họ, vì đã bị ngấm quá nhiều mùi “xú” của thế gian, vì đã thể hiện sai lạc và thi thố ảnh hưởng của mình ra ngoài phạm vi chính đáng của giáo sỹ. Nhưng không, họ vẫn phê bình các giáo sỹ của họ vẫn còn giữ mình “sạch sẽ” lắm, còn xa cách “chiên” lắm. Hãy để mình ngấm thêm nữa cho thật đậm đặc mùi chiên. Trái lại, tất cả những biểu hiện đặc thù của giáo sỹ như việc chăm chỉ giữ cốt cách giáo sỹ bằng một đời sống kỷ luật, chuyên chăm cầu nguyện và mặc tu phục thường ngày…đều sẽ bị họ mỉa mai và quy kết cho đó là những biểu hiện của CNGS! Cách suy nghĩ ấy của giới chóp bu GPV2 đích thị là lối suy nghĩ thù nghịch với GH, với hình ảnh các giáo sỹ đích thực, những người được Chúa chọn và là cơ nghiệp của Chúa. Vì, như định nghĩa ở trên đã nói,  đối với các kẻ thù của GH, thì ngay cả những hoạt động và quyền bính hợp pháp của giáo sỹ cũng bị quy kết cho cái gọi là “chủ nghĩa giáo sỹ” với nghĩa thù nghịch.

Nhìn vào hàng giáo sỹ của GPV2 hiện tại, từ trung tâm đầu não Vatican cho đến các địa phương, với tất cả những sai lạc đức tin và suy đồi đạo đức không tả hết bằng lời, một hàng giáo sỹ như thế mà được coi là phần và cơ nghiệp của Chúa, thì quả đúng Chúa đã thất bại hoàn toàn!

Vì thế,  kết luận đúng đắn phải là: những “ung nhọt bệnh tật” trong GPV2 là hậu quả của căn bệnh GIÁO SỸ GIẢ, những giáo sỹ được đào tạo và truyền chức theo cách thức hoàn toàn đối nghịch với Giáo Hội.  

NGUỒN 

Innocent Innocent Innocent

[1] L BACUEZ, Priestly Vocation and Tonsure (Classic Reprint). (Place of publication not identified: FORGOTTEN Books, 2015), 1–2.
[2] Jean Eudes and William Leo Murphy, The Priest: His Dignity and Obligations (Fitzwilliam, NH: Loretto, 2008), 217.
[3] Donald Attwater, A CATHOLIC DICTIONARY, 3rd Edition edition (The Macmillan Company, 1958), 101.
[4] Attwater, 24.
Posted 3 days ago by Joseph Paul Pham Duc Hau
Reply
#20
NÀY LÀ GIỜ CỦA NHỮNG THỬ THÁCH ĐAU KHỔ ĐÃ ĐIỂM RỒI!

HÃY NHÌN XEM, LẮNG NGHE, SUY GẪM THẬT KỸ CÀNG ĐỂ THẤY
AI  ĐỒNG LÕA VỚI HỘI TAM ĐIỂM FREEMASONIC, LÀ TÊN JUDAS PHẢN BỘI CHÚA!






Dr Taylor Marshall


Recently the leading Italian Freemasonic magazine Nuovo Hiram of the masonic Grand Orient lodge in Italy has hailed Pope Francis's "Document on Human Fraternity for World Peace and Living Together" and promoting their secular ideals. The periodical praises Pope Francis's document as: “innovative” as “a slow-released drug” inaugurating a “new era” and “turning point for a new civilization." Dr. Taylor Marshall gives you a run-down on the history of Infiltration into the Vatican and how Pope Francis is accomplishing the Revoltion of Tiara and Cope planned in the 1800s by the Carbonari in the Permanent Instruction of the Alta Vendita.

Tạm dịch:


Gần đây, tạp chí Freemasonic hàng đầu của Ý Nuovo Hiram của Grand Orient ở Ý đã ca ngợi "Tài liệu về tình huynh đệ của con người vì hòa bình thế giới và chung sống" của Đức Giáo hoàng Phanxicô và thúc đẩy lý tưởng thế tục của họ.

Tạp chí định kỳ ca ngợi tài liệu của Giáo hoàng Phanxicô là: "Đổi mới = cách tân", khi một "loại thuốc được phát hành chậm", khánh thành một kỷ nguyên mới và là bước ngoặt cho một nền văn minh mới.


Tiến sĩ Taylor Marshall cho bạn biết lịch sử về âm mưu phá hủy Giáo Hội bằng cách xâm nhập vào Vatican và làm thế nào Giáo hoàng Phanxicô đang hoàn thành Cuộc nổi dậy của Tiara và đối phó được lên kế hoạch vào những năm 1800 bởi Carbonari trong Chỉ thị thường trực của Alta Vendita (Freemasonic high ranking).

For the full treatment, see Dr. Taylor Marshall's book:
Infiltration: The Plot to Destroy the Church from Within:
https://amzn.to/3g1ATJh

🙏🏻WILL YOU PLEASE HELP ME GROW THIS CHANNEL AND PODCAST? 🙏🏻
▶️ 1. 🔔 Don’t miss a Youtube CATHOLIC LIVESTREAM: Please click Subscribe, then Click "Notification Bell" = 🔔 and select “all” to be notified of all new shows and CATHOLIC LIVESTREAMS.
▶️ 2. 👍🏻 Please "Like" this video.
▶️ 3. 📲 Please share this video on Facebook and Twitter using the SHARE button.
▶️ 4. 🙏🏻 Become a Channel Patron and get signed books and Catholic resources: https://www.patreon.com/drtaylormarshall
▶️ 5.  📖 FREE Dr M book: "Thomas Aquinas in 50 Pages by Dr Marshall: https://taylormarshall.com/
▶️ 6.  🖥 Want to go deeper? Take online theology courses with Dr Marshall: https://newsaintthomas.com
▶️ 7. 📚 Please explore Dr Marshall's 8 books  at amazon.com: https://amzn.to/2MOZG3G
▶️ 8.  🐦 Follow Dr Taylor Marshall on Social Media:

🔴 Join my Patreon Sponsors: https://www.patreon.com/drtaylormarshall
🔴 Facebook: https://www.facebook.com/DrTaylorMars...
🔴 Twitter: https://twitter.com/TaylorRMarshall
🔴 YouTube: Click Subscribe, then Click "Notification Bell" = 🔔 (all)

Take Dr. Marshall’s online Catholic courses by signing up as a student at newsaintthomas.com


[Image: 4fe93334f9af40cc39913460d1631a4e.jpg]
Reply
#21
NÓ ĐÃ VÀ ĐANG ÂM THẦM ĐẶT KẾ HOẠCH, VÀ BÂY GIỜ ĐÃ LỘ MẶT !

TIN HAY KHÔNG TIN LÀ QUYỀN CỦA BẠN, LÀ CÂU TRẢ LỜI BẠN PHẢI ĐÁP LẠI KHI ĐỐI DIỆN VỚI QUAN THẨM PHÁN CHÍ CÔNG VÔ TƯ LÀ CHÚA JESUS CHRIST, TRƯỚC TÒA PHÁN XÉT CỦA NGÀI  Wink 

Hãy mặc lấy "toàn bộ giáp binh của Thiên Chúa", mau mau chạy vào ẩn nấp trong Tà Áo Bảo Vệ của Mẹ Maria, là nơi ẩn náu an toàn trong cơn bão thử thách đức tin sau cùng, để xin Chúa và Mẹ bảo vệ đức tin mỏng dòn, yếu đuối của bản thân ta, bằng cách lần chuỗi Mân Côi hàng ngày bạn nhé!  Innocent Please


Quote:Âm mưu thiết lập nên một Thiên Chúa Giáo thống nhất mà không có Chúa Kitô

Dấu Chỉ Thời Đại

Chủ Nhật, tháng 3 31, 2019


[Image: 02304.jpg]

Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6).

Không có con đường nào để đến được với Thiên Chúa ngoài con đường có tên là Giê su vì chính Ngài đã phán : chính Thầy là con là đường, là sự thật và là sự sống. không ai đến được với Chúa Cha mà không qua thầy (Ga 14, 6). 
Bởi chỉ duy mình Người là Đấng được Chúa Cha xức dầu tấn phong. Người là Đấng Cứu Thế, là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Vậy muốn biết và đến được với Chúa Cha cần phải qua Chúa Ki tô, còn muốn biết về Chúa Ki tô thì phải tìm đến Kinh Thánh. 

Chỉ nhờ qua việc đọc Kinh Thánh thì ta mới biết Chúa Ki tô. Vì lẽ Kinh Thánh mặc khải trọn về Chúa Ki tô. Như lời thánh Rêronimo khẳng định: “ Ai không biết kinh thánh là không biết Chúa ki tô”. Do thấy được tầm mức quan trọng của lời Chúa trong Kinh Thánh cho nên cha chủ tịch khi đi thăm viếng các tu viện đã nhắc đi nhắc với các tu sỹ về tầm quan trọng của việc đọc và suy niệm lời Chúa mỗi ngày. 
Lời Chúa là lương thực thiêng liêng hằng ngày của tu sỹ . Vì tu sỹ sống kết hợp với Chúa và chiêm niệm những thực tại siêu nhiên. Những thục tại thiêng liêng đó là những màu nhiệm về Thiên Chúa về những giáo huấn của Chúa và về đời sống vĩnh cửu được  ghi chép trong Kinh Thánh. Trong Đạo thánh Chúa Ki tô có rất màu nhiệm cao quý là những giáo huấn, các bí tích thánh thiêng cao trọng, là những kho tàng cung cấp nguồn lương thực nuôi sống đời sông thiêng liêng của mọi ki tô hữu. 
Những màu nhiệm siêu nhiên này cung cấp lương thực mang lại sự sống muôn đời nên  đáng được tu sỹ chúng ta gẫm suy mỗi ngày. Do đó có thể sánh ví các tu sỹ như người canh gác, coi sóc giữ gìn và bảo vệ những kho tàng thiêng liêng của Giáo hội. Vì thế, chúng ta hãy gìn giữ và đừng bao giờ để mất những bí tích thánh thiêng của Đạo thánh công giáo, vì mất nó chúng ta sẽ mất sự sống vĩnh cửu. 
Để làm tốt nhiệm vụ này mọi tu sỹ cần phải năng đọc Kinh Thánh vì tất cả kho tàng đó được ẩn chứa trong Kinh Thánh.  Kinh Thánh là bản tình ca, ca ngợi về tình yêu cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Mà tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày trọn vẹn cho ta qua Chúa ki tô. Vì Chúa Ki tô là con Một Thiên Chúa. Bởi đó Người phán:  Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha  vì thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy (Ga 14, 9-10).

Để hiểu biết về Chúa Ki tô và những giáo huấn của Người chúng ta cần phải đọc và suy niệm Lời Chúa càng nhiều càng tốt, vì chỉ mình Chúa Ki tô là con đường duy nhất dẫn ta đến ơn cứu độ. Việc đọc, suy niệm và nắm vững những giáo huấn của Chúa ki tô là việc cấp bách hơn bao giờ hết với chúng ta vào thời điểm lịch sử này, vì lẽ người ta đang muốn dẫn dắt các ki tô hữu đến với Chúa Cha bằng những con đường khác mà không qua Chúa Giê su ki tô.
Đó là những con đường ảo rộng thênh thang do con người bày vẽ ra. Vì người ta đã ngán đi con đường hẹp do Chúa Ki tô khai mở dẫn lối.

Đây con xin lấy một ví dụ về việc hiệp nhất các ki tô hữu và thống nhất các tôn giáo.
Sự hiệp nhất các ki tô hữu là ước mong của Chúa ki tô vì Ngài đã xin với Cha: “xin cho chúng nên một như Cha với Con là một”. để thực hiện ước mong về sự hiệp nhất ấy mà giáo hội luôn nỗ lực cầu nguyện và đối thoại với các chi phái ki tô khác, thậm chí còn đối thoại với cả những tôn giáo ngoài ki tô với ước mong đem tất cả về nhà Cha trên trời. Nhưng suư hợp nhất mà Chúa mong đợi là sự hợp nhất trong Thần Khí nghĩa là trong sự thật vì chỉ có sự thật mới mang đến sự giải thoát mà thôi. 
Như vậy để hợp nhất như Chúa Ki tô mong đợi là tất cả phải trở về và đón nhận giáo huấn của Chúa đúng với bản chất của giáo huấn ấy, chứ không phải theo cách giải thich lệch lạc của con người, mà phải theo đúng với giáo huấn tông truyền mà Giáo hội đã lãnh nhận từ Chúa. Để đạt được sự hiệp nhất này đòi buộc các ki tô hữu thuộc mọi giáo hội phải khiêm nhường hạ mình xuống chấp nhận giáo huấn của Chúa theo đúng bản tính của nó, khi đó sự hợp nhất tự khắc sẽ đến. Tuy nhiên vì con người đầy kiêu ngạo, cố chấp và bảo thủ ngay cả với những sai lạc vì thế mà sự hiệp nhất trong Thần Khí như Chúa mong đợi là một điều khó thành hiện thực. Bởi  khó và hầu như không thể vì những người lầm lạc vẫn cố chấp và bảo vệ sự lầm lạc của họ.  
Vì thế cho nên bây giờ nhiều vị hữu trách trong Giáo hội công giáo muốn tìm một con đường khác dễ dàng hơn cho sự hiệp nhất. Bởi vì những kẻ lầm lạc không trở về hợp nhất với Giáo hội, cho nên giáo hội phải hạ mình đến với họ. Con đường này do con người bày ra chứ không đến từ Chúa. Vì sự hiệp nhất theo con đường này, con đường mà hoàn toàn do con người vẽ ra thì chẳng mang lại ơn ích gì mà chỉ đem đến sự huỷ diệt vì sự hiệp nhất theo cách này sẽ xoá sổ Ki tô giáo hoàn toàn. Có thể gọi con đường này là “tự hủy và tha hoá”.

Tự hủy và tha hoá cách nào? Bằng cách loại bỏ những gì khác với người ta. Mà ở đây các Bí tích với một số tín điều, và nhất là bí tích thánh thể cực trọng sẽ bị người ta loại bỏ.
Chúng ta hãy quan sát kỹ tiến trình của sự hiệp nhất vì nó sẽ xóa bỏ các bí tích, giáo lý và các biểu tượng ki tô giáo một cách rất tinh vi.

Trước tiên là sự hợp nhất các ki tô hữu, trong 4 chi phái ki tô giáo duy chỉ có chính thống giáo là giống công giáo hơn cả, vì thế sự hiệp nhất giữa công giáo và chính thống là điều miễn bàn.
Điều đáng chú ý là hai chi phái còn lại là; anh giáo và tin lành, bởi hai chi phái ki tô này có khoảng cách khác biệt quá lớn với công giáo về tín lý và bí tích. 
Tin lành và anh giáo không có các bí tích hữu hiệu như công giáo trừ bí tich rửa tội. Do đó để hai giáo hội này hợp nhất với công giáo trong khi họ vẫn cố chấp bảo vệ sự lầm lạc của họ thì buộc công giáo phải hạ mình đến với họ thì mới mong có sự hợp nhất. Nhưng để đến với họ và để được họ chấp nhận thì ta phải nên giống họ. vậy muốn nên giống họ thì buộc Giáo hội công giáo phải loại bỏ các bí tích, nhất là bí tích Thánh thể. Để loại bỏ Bí tích Thánh thể thì chỉ cần sửa đổi nghi thức truyền phép bằng cách viết lại và thêm bớt để nó mang một nghĩa khác. 
Vì lời truyền phép là lời của chính Chúa Giê su, vậy khi lời Chúa bị con người sửa đổi thì nó không còn là Lời Chúa nữa. Do đó nó không còn quyền năng biến đổi bản thể bánh, rượu thành mình và máu Chúa nữa. Khi đó sự hiện diện của Chúa trong bí tích thánh thể không còn nữa. và đây là thời gian kết thúc thánh lễ mà tiên tri Đaniel  tiên báo. Việc loại bỏ các bí tích và thánh thể sẽ được thực hiện cách rất tinh vi nên nhiều người sẽ không nhận ra nhưng ai trung thành tuân giữ luật Chúa và am hiểu kinh thánh sẽ nhận ra nó là gì. Khi các bí tích bị loại bỏ thì sự hiệp nhất tức khắc sẽ đến cách tự nhiên. Nhưng Sự hiệp nhất này sẽ xoá bỏ hoàn toàn giáo hội công giáo tông truyền. Vì các kho tàng của công giáo đã bị đánh cắp. Khi đó chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa của câu lời Chúa này:  hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ nhưng cái chính yếu  thì đã chối bỏ. (2 Tm 3,5).

 Sự hiệp nhất các ki tô hữu coi như đã hoàn tất. tuy nhiên người ta chưa thỏa mãn nếu chỉ có các ki tô hữu hiệp nhất với nhau, vì người ta sẽ còn muốn tiến xa hơn nữa để tiến tới sự hợp nhất tất cả các tôn giáo. Bởi lẽ như chúng ta thấy là giáo hội công giáo không chỉ tìm cách hợp nhất các ki tô hữu mà giáo hội còn đang đối liên tôn với các tôn giáo ngoài ki tô như; hồi giáo, do thái giáo và cả phật giáo nữa. Nhưng liệu sự hiệp nhất với các tôn giáo này có thể xảy ra không, khi mà sự khác biệt là quá lớn? Câu trả lời là có thể và phải xảy ra vì đã được tiên báo trong Kinh thánh. Kinh thánh không ghi chép chi tiết về vấn đề này nhưng đáp án thì rõ rằng. vậy,  chúng ta hãy quan sát kỹ diễn biến dẫn đến sự hiệp nhất thì sẽ thấy đáp án đó thật rõ rằng.

Bây giờ ta hãy để ý xem sự thống nhất các tôn giáo với ki tô giáo có khả thi không và theo cách nào?
Câu trả lời vẫn là; tự hủy và tha hoá , bằng việc loại bỏ mọi khác biệt. Sự hiệp nhất giữa các ki tô hữu đã phá huỷ tận căn Giáo hội công giáo, thì sự hiệp nhất với các giáo hội ngoài ki tô sẽ xoá sổ hoàn toàn ki tô giáo. Bởi vì những tôn giáo này không nhìn nhận Chúa Giê su là Đấng cứu Thế và là Đấng cứu độ duy nhất. Do đó, để có thể hiệp nhất với những tôn giáo này thì điều tiên quyết là phải loại bỏ tất cả các bí tích, các biểu tượng , giáo lý ki tô giáo, và ngay cả kinh thánh cũng sẽ bị loại bỏ. trong đó biểu tượng cần phải loại bỏ nhất là cây thánh giá. Vì thánh giá là biểu tượng của Ki tô giáo và là nơi Chúa chịu chết để cứu nhân loại, do đó cần phải loại bỏ. Khi loại bỏ Thánh giá là người ta minh nhiên chối bỏ cái chết mang ơn cứu chuộc và cả vai trò cứu thế duy nhất của Chúa ki tô. Vì nếu không có cái chết của Ngài trên thập giá thì chẳng ai được cứu chuộc khỏi tội và sự chết đời đời. Để việc loại bỏ cái chết mang ơn cứu chuộc và vai trò cứu thế duy nhất của Chúa được hữu hiệu thì người ta sẽ tuyên bố là không có tội trọng và hoả ngục, viện lẽ là thiên Chúa là tình yêu và là Đấng đầy lòng thương xót cho nên không thể có hoả ngục vì sự tồn tại của hoả ngục thì đối nghịch với thiên Chúa tình yêu. Chúng ta biết Tội trọng dẫn đến sự chết đời đời là hoả ngục. Vậy khi tuyên bố không có hoả ngục thì cái chết của Chúa trên thập giá là vô nghĩa vì đâu có tội và có hoả ngục đâu mà cứu với chuộc…

Như vậy, việc loại bỏ thánh giá và không nhìn nhận vai trò cứu độ duy nhất của Chúa Giê su là lúc người ta loại bỏ hoàn toàn ki tô giáo, vì ki tô giáo được chính Chúa Ki tô lập nên.
Khi ki tô giáo bị loại bỏ thì tất cả các tôn giáo sẽ hợp nhất với nhau và lấy tên là Thiên Chúa giáo thống nhất. Vì tất cả các tôn giáo này đều có niềm tin vào Thiên Chúa. Ngày mà thiên Chúa giáo thống nhất ra đời sẽ có một biểu tượng của tà giáo được đặt trên các bàn thờ. Biểu tượng này sẽ thay thế cho thánh giá. Nó chính là đồ ghê tởm khốc hại mà tiên tri Đaniel nói đến và được Chúa nhắc lại trong Tin Mừng thánh Mt 24, 15 như sau: “ "Vậy, khi anh em thấy đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ Đa-ni-en đã nói đến người đọc hãy lo mà hiểu!
Theo tiên tri Đaniel thì ngày biểu tượng này được đặt lên là ngày thánh lễ chấm dứt. Lời đó như sau: “ Các lực lượng do y gửi đi sẽ xuất hiện và xúc phạm đến thánh điện vốn là thành trì kiên cố. Ở đó chúng sẽ bãi bỏ lễ tế thường tiến và đặt đồ ghê tởm khốc hại.32 Những kẻ lơ là với Giao Ước thì bị y dùng xảo kế mà làm cho ra ô uế. Còn những con dân nhận biết Thiên Chúa của mình thì sẽ vững mạnh và ra tay hành động” Đn 11,31-32. 
Và ở Đn 12, 11-13. Có chép: “Từ thời lễ thường tiến bị bãi và đồ ghê tởm khốc hại được đặt lên, sẽ có một ngàn hai trăm chín mươi ngày.12 Phúc thay ai kiên tâm chờ đợi suốt một ngàn ba trăm ba mươi lăm ngày” khi Thánh lễ bị bãi bỏ sẽ có thánh lễ mới mà nghi thức truyền phép đã bị thay đổi, thánh lễ này không còn cử hành hy tế thập giá và ban bánh hằng sống nữa mà để tôn thờ tên phản ki tô. 
Đối với thế gian thì đây là sự hợp nhất tuyệt hảo, tuy nhiên đối với chúng ta là những người ki tô thì đây là ngày đáng buồn nhất và đáng sợ nhất vì sự hiệp nhất theo cách này sẽ dẫn tất cả nhân loại xuống hoả ngục. Đừng ai ảo tưởng và để mình bị mắc lừa và cuốn hút vào thứ tôn giáo giả đến từ hoả ngục này. Vì lời Chúa không bao giờ thay đổi nên hãy nhớ lời này: “không ai có thể đến với Cha mà không qua thầy” và “ai không tuyên xưng Chúa con thì cũng không có Chúa Cha”.

Sự hiệp nhất này không đến từ Thiên Chúa mà là đến từ tên phản ki tô. Ngay khi sự hiệp nhất này xẩy ra người ta sẽ giới thiệu cho thế giới một chúa ki tô khác. Kẻ mà thánh phao lô nói tới trong thư thứ 2 gửi tín hữu Thê xa lô ni ca như sau: Trước đó, phải có hiện tượng chối đạo, và người ta phải thấy xuất hiện người gian ác, đứa hư hỏng. Tên đối thủ tôn mình lên trên tất cả những gì được gọi là thần và được sùng bái, thậm chí nó còn ngồi trong Đền Thờ Thiên Chúa và tự xưng là Thiên Chúa  Khi tôi còn ở với anh em, tôi đã từng nói những điều ấy, anh em không nhớ sao ? Anh em biết cái gì hiện đang cầm giữ nó, khiến nó sẽ chỉ xuất hiện được vào thời của nó. Thật vậy, mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành. Chỉ đợi người cầm giữ nó bị gạt ra một bên, bấy giờ tên gian ác sẽ xuất hiện, kẻ mà Chúa Giê-su sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Người, và sẽ tiêu diệt bằng ánh huy hoàng, khi Người quang lâm” 2 Tx 2,4 -8. 
Đây chính là tên phản ki tô mà Chúa đã cảnh báo:  "Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: "Này, Đấng Ki-tô ở đây" hoặc "ở đó", thì anh em đừng tin.24 Thật vậy, sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển chọn, nếu có thể.25 Thầy báo trước cho anh em đấy! Mt 24, 23- 25
Theo thánh phao lô thì Tên phản ki tô chỉ có thể xuất hiện khi mà người cầm giữ nó bị gạt ra một bên. Vậy người cầm giữ nó là ai? Như chúng ta biết điều kiện để có sự hợp nhất là phải loại bỏ các bí tích và nhất là bí tích thánh thể. Vậy là đã rõ người cầm giữ sự xuất hiện của tên phản ki tô chính là sự hiện diện của Chúa Giê su trong bí tích thánh thể. Chỉ khi sự hiện diện của Chúa Giê su ki tô bị loại bỏ, thì tên phản ki tô mới có thể xuất hiện để thay thế vị trí của Người và tuyên xưng chính mình là đấng ki tô.
 Chúng ta biết rằng: tất cả ơn sủng đều phát sinh từ cái chết của Chúa trên thánh giá và từ Thánh thể cực trọng vậy khi Thánh giá và Thánh thể bị loại bỏ thì sự dữ sẽ mặc sức hoành hành và cửa hoả ngục sẽ mở toang vì không còn quyền lực nào có thể ngăn chặn sự tàn phá của sự dữ nữa. Vì thế mà vào thời điểm ấy cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng phạt thứ tôn giáo lầm lạc này và mọi tai ương mà sách Khải Huyền mô tả sẽ hoàn tất. 
Sau đó sẽ là ngày phán xét. Những ngày này không còn xa nữa đâu!

Thứ tôn giáo giả này chỉ mang đến sự hư mất đời đời. thế nhưng hầu hết nhân loại sẽ đón nhận và chạy theo để ứng nghiệm lời Chúa phán: khi Con Người ngự đến liệu còn lòng tin trên mặt đất nữa chăng?.  Tại  sao thứ tôn giáo này chỉ đem đến sự chết mà người ta lại đón nhận nó? Vì nó ban cho người ta sự thoải bởi lẽ nó sẽ dung túng và hợp thức hoá tội lỗi. Tôn giáo này sẽ là thử thách lớn lao nhất đối với nhân loại. Chỉ có ai trung thành tuân giữ 10 điều răn và giáo huấn của Chúa ki tô mới vượt qua được. Chúng ta những tín hữu ki tô, chúng ta hãy nghe lời khuyên của thánh phao lô là đừng chạy theo thứ tin mừng mới (xx Gl 1) và học thuyết mới vì Chúa ki tô hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời. đừng để cho những học thuyết xa lạ mê hoặc anh em (xx Rm 8 13). Vậy ai thuộc về Chúa ki tô thì hãy giữ lời Người. Vì chỉ ai bền trí tới cùng mới được cứu thoát. Và ai nấy  phải ghi nhớ lời này: “ không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” Ga 14,6. Vì thế chúng ta phải năng đọc và suy niệm kinh thánh để am tường lời Chúa và trung thành tuân giữ vì “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” Mt 24, 35.
Con ước mong cha và cộng đoàn luôn tâm niệm lời thánh vịnh này: “lời Chúa là ngọn đèn soi con bước là ánh sáng chỉ đường con đi” Tv 118, 105.
                                                                               

Tu sỹ: hạt bụi

http://www.sudiepchuaden.com/2019/03/am-...-chua.html

Tại sao Giáo Hội Công Giáo lại có Đức Giáo Hoàng giả?
 Dấu Chỉ Thời Đại Thứ Bảy, tháng 3 17, 2018

http://www.sudiepchuaden.com/2014/12/tu-...-cong.html
Reply
#22
"ĐÂY LÀ CUỘC CHIẾN ĐẤU BẤT DIỆT GIỮA THIỆN VÀ ÁC ĐANG DIỄN RA"

MỘT BỨC THƯ CỦNG CỐ ĐỨC TIN & THÊM SỨC MẠNH CHO NGƯỜI THỜ CHÚA ĐANG CHIẾN ĐẤU CHO SỰ THIỆN, ĐƯỢC GIÁO HỘI ĐỒNG HÀNH

Đức Tổng Giám mục Carlo Maria Viganò (Cựu sứ thần Tòa thánh tại Hoa Kỳ) gửi Tổng thống Trump: "Đây là cuộc chiến đấu bất diệt giữa thiện và ác đang diễn ra'

Ngài khuyến khích tổng thống tiếp tục cuộc chiến thay mặt cho những “đứa trẻ ánh sáng”.

Chủ nhật, Ngày 7 tháng 6 năm 2020

Thưa Tổng Thống,
Trong những tháng ngày gần đây, chúng ta đã chứng kiến sự hình thành của hai mặt đối lập nhau mà tôi mô tả như trong Kinh Thánh: những đứa trẻ của ánh sáng và những đứa trẻ của bóng tối. Những đứa trẻ của ánh sáng là thành phần dễ thấy nhất của loài người, trong khi những đứa trẻ của bóng tối đại diện cho một nhóm thiểu số chuyên chế. Tuy nhiên, nhóm trước là đối tượng của sự phân biệt đối xử khiến họ trở thành thiểu số về mặt đạo đức so với kẻ thù của họ là thành phần thường giữ các vị trí chiến lược trong chính phủ, chính trị, kinh tế và truyền thông. Một sự thật không thể giải thích được là người tốt lại trở thành những con tin của những kẻ ác độc và những kẻ này được giúp đỡ thoát khỏi sự ích kỷ hoặc sự sợ hãi.

Hai mặt trái ngược nhau này, theo tinh thần của Thánh Kinh tự nhiên, là kết quả của sự tách biệt rõ ràng giữa con cháu của Người phụ nữ và con cháu của Con Rắn. Một mặt, có những người mặc dù có nhiều khuyết điểm và yếu đuối, được thúc đẩy bởi ý muốn làm điều tốt, trung thực, nuôi nấng gia đình, tham gia làm việc, tạo thịnh vượng cho quê hương, giúp đỡ người túng thiếu, và, tuân theo Luật của Thiên Chúa, để xứng đáng với Nước Trời. Mặt khác, có những người phục vụ bản thân họ, không theo bất kỳ nguyên tắc đạo đức nào, họ muốn phá hủy gia đình và quốc gia, bóc lột công nhân để biến thành những người giàu có, tạo chia rẽ trong nội bộ và gây chiến tranh, tích lũy quyền lực và tiền bạc: đối với họ, ảo tưởng giả dối về hạnh phúc tạm thời thì một ngày nào đó, nếu không sám hối, họ sẽ hứng chịu số phận khủng khiếp đang chờ họ trong sự nguyền rủa đời đời (trong hỏa ngục).

Thưa Tổng thống, trong xã hội, hai thực tại đối nghịch này cùng tồn tại như kẻ thù vĩnh cửu, giống như Thiên Chúa và Satan là hai kẻ thù muôn đời. Và dường như những đứa trẻ của bóng tối (nhóm người mà chúng ta có thể dễ dàng xác định bởi cái gọi là thế lực nhà nước ngầm (deep state) mà Ngài đã khôn ngoan phản đối và nó đang gây chiến dữ dội với Ngài), đã quyết định phô bày nguồn gốc của họ, tiết lộ kế hoạch của họ. Dường như họ chắc chắn đã kiểm soát hoàn toàn mọi thứ đến nỗi họ không màng che giấu ý định thực sự của họ. Các cuộc điều tra đã được tiến hành sẽ tiết lộ trách nhiệm của những người điều hành tình trạng khẩn cấp dịch Covid không chỉ trong việc chăm sóc sức khỏe mà còn về mặt chính trị, kinh tế và truyền thông.Trong các hoạt động xã hội bằng kỹ thuật khổng lồ này, chúng ta sẽ thấy được những kẻ nắm số phận của nhân loại, họ tự kiêu hãnh về quyền năng chống lại ý nguyện của người dân và quyền hảnh của họ trong chính quyền tại các quốc gia.

Chúng ta cũng sẽ phát hiện được các cuộc bạo động hiện nay đã bị kích động bởi những kẻ khi thấy bệnh dịch chắc chắn đang yếu dần và các hạn chế hoạt động xã hội vì đại dịch đang mời dần, do đó họ phải kích động những rối loạn dân sự, bởi vì họ biết sẽ bị theo dõi, sẽ bị lên án vì đã tấn công vào dân chúng cách phi lý. Tại Âu Châu cũng đang xảy ra tương tự với sự nhịp nhàng hoàn hảo... Điều khá rõ ràng là các cuộc biểu tình trên đường phố là công cụ cho mục đích của những ai đó muốn được bầu trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới, thể hiện các mục tiêu của thế lực nhà nước ngầm với niềm tin chắc chắn. Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên nếu trong một vài tháng, chúng ta thấy ẩn sau những hành động phá hoại và bạo lực này, có những người mong sẽ thu lợi từ việc phá nát trật tự xã hội để dựng ra một thế giới không có tự do: Solve et Coagula, như câu ngạn ngữ Masonic dạy.

Mặc dù khó hiểu, những tương phản mà tôi đã mô tả cũng được thấy trong tôn giáo. Có những chức sắc trung thành chăm sóc đàn chiên của Chúa, nhưng cũng có những kẻ phản đạo tìm cách phân tán đàn chiên và trao cho lũ sói hung ác nuốt chững. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những lính đánh thuê này là đồng minh với những đứa trẻ của bóng tối và đối nghịch với những đứa trẻ của ánh sáng: giống như một thế lực ngầm, cũng có loại giáo hội ngầm phản bội nhiệm vụ của mình và từ bỏ những cam kết đúng đắn trước Chúa. Do đó, Kẻ thù vô hình, những người điều hành giỏi cuộc chiến chống lại xã hội, cũng chiến đấu chống lại những vị chức sắc tốt trong giáo hội. Đó là một trận chiến tâm linh, mà tôi đã nói gần đây trong Kháng Thư được công bố vào ngày 8 tháng Năm (2020).

Lần đầu tiên, Hoa Kỳ có một vị Tổng thống can đảm bảo vệ quyền sống, không e ngại tố cáo các cuộc đàn áp Kitô giáo trên khắp thế giới, Ngài nói về Chúa Giêsu Kitô và quyền tự do thờ phượng. Sự tham gia của Ngài vào “Diễn hành Cho Sự sống” và gần đây là công bố Tháng Tư là “Tháng chống Lạm dụng Trẻ em Quốc gia”, là những hành động xác nhận ngài chiến đấu về phe nào. Và tôi dám tin rằng cả hai chúng ta đều cùng một hướng trong trận chiến này, mặc dù có nhiều vũ khí khác nhau.

Vì thế, tôi tin rằng cuộc tấn công mà Ngài phải gánh chịu sau chuyến thăm Nhà Thờ thờ Quốc gia Saint John Paul II là một phần của câu chuyện được truyền thông dàn dựng nhằm tìm cách không chống phân biệt chủng tộc và mang lại trật tự xã hội, nhưng làm rõ thêm khuynh hướng (chính trị); không mang lại công lý, mà hợp pháp hóa bạo lực và tội phạm; không phục vụ sự thật, mà ủng hộ một đảng chính trị. Và điều đáng lo ngại là có những Giám mục - chẳng hạn như những người mà tôi mới tố cáo - bằng lời nói của họ, chứng minh rằng họ được xếp vào hàng phía đối nghịch. Họ sống theo quyền lực ngầm, theo chủ nghĩa toàn cầu, để liên kết tư tưởng với Trật tự thế giới mới mà họ nhân danh “tình huynh đệ phổ quát” không có gì là Cơ đốc giáo cả, nhưng nó gợi lên ý tưởng Masonic của những kẻ muốn thống trị thế giới bằng cách đuổi Chúa ra khỏi tòa án, ra khỏi trường học, ra khỏi gia đình và thậm chí ra khỏi nhà thờ.

Người dân Mỹ đã trưởng thành và giờ đây đã hiểu truyền thông chính thống không muốn truyền bá sự thật nhưng tìm cách im lặng và bóp méo nó, truyền bá dối trá có ích cho mục đích của riêng tư. Tuy nhiên, điều quan trọng là những người tốt chiếm đa số đã thức tỉnh từ sự hửng hờ và không chấp nhận tiếp tục bị lừa dối bởi một số ít kẻ giả dối với mục tiêu không thể chấp nhận được. Điều cần thiết là những người tốt, những đứa trẻ của ánh sáng, đến với nhau và làm cho tiếng nói của họ được lắng nghe. Cách nào hiệu quả hơn để làm điều này, thưa Tổng thống, đó là cầu nguyện, cầu xin Chúa bảo vệ Ngài, Hoa Kỳ và toàn thể nhân loại thoát khỏi cuộc tấn công dữ dội này của Kẻ thù? Trước sức mạnh của lời cầu nguyện, sự dối trá của những đứa trẻ trong bóng tối sẽ sụp đổ, âm mưu của chúng sẽ được tiết lộ, sự phản bội của chúng sẽ được hiển thị, quyền lực gây sợ hãi của chúng sẽ chấm dứt, sự lừa đảo khủng khiếp sẽ được đưa ra ánh sáng sự thật.

Thưa ngài Tổng Thống, lời cầu nguyện liên tục của tôi được gửi đến nước Mỹ yêu dấu, nơi tôi có đặc ân và vinh dự được Đức Giáo hoàng Benedict XVI gửi đến với tư cách là Sứ thần Tòa Thánh. Trong giờ phút đầy thảm kịch và quyết đoán này cho toàn nhân loại, tôi cầu nguyện cho Ngài và cho tất cả những người ở bên cạnh Ngài trong chính phủ Hoa Kỳ. Tôi tin tưởng rằng người dân Mỹ cùng hiệp thông với tôi và Ngài khi cầu nguyện với Thiên Chúa toàn năng.

Đoàn kết chống lại kẻ thù vô hình của toàn nhân loại, tôi chúc lành cho Ngài và Đệ nhất phu nhân, đất nước Hoa Kỳ yêu dấu, và tất cả công dân nam nữ có thiện chí.

Tổng Giám Mục Carlo Maria Viganò

Trần Vũ lược dịch.

Innocent Innocent Innocent
Reply
#23
PLEASE READ https://remnantnewspaper.com/web/index.p...pen-letter

Innocent Innocent Innocent
Reply
#24
NẾU TRÁI TIM BẠN LUÔN AO ƯỚC BIẾT ĐƯỢC SỰ THẬT, BIẾT ĐƯỢC CHÂN LÝ CỦA CHÚA, CỦA GIÁO HỘI THÁNH THIỆN TRUYỀN THỐNG, HÃY TÌM HIỂU, LẮNG NGHE, NHÌN VÀ XEM XÉT, SUY GẪM KỸ CÀNG ...MỜI BẠN... Innocent Innocent Innocent

https://taylormarshall.com/2020/06/428-c..._Campaign)
Reply
#25
BÀI 27: KHẮC PHỤC BỆNH GIÁO SỸ GIẢ?


Bệnh giáo sỹ giả cần khắc phục ở đây không đơn thuần chỉ là những chứng bệnh bề ngoài tỷ như, những sai lạc về đạo lý, những tệ ấu dâm và đồng tính luyến ái, và những gương xấu tày đình khác nơi hàng giáo sỹ Giáo Phái Vatican II – GPV2- như các bài trước đã nói. Tất cả những căn bệnh bề ngoài ấy không chỉ bùng phát ở mức độ hiếm hoạ lẻ tẻ, nhưng đã thực sự trở nên chứng bệnh kinh niên, có hệ thống, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, từ trung tâm Vatican cho đến các địa phương, từ các giáo sỹ chóp bu cho đến thứ bậc bình dân. Chứng kiến tệ trạng kinh khủng như vậy, và nếu xét theo nguyên tắc nhân quả, người ta phải cật vấn tự hỏi : Lạy Chúa, phải chăng đó là các mục tử Chúa gửi đến cho chúng con? 

Có lẽ nhiều người cũng cảm thấy dày vò đau đớn chút nào đó vì những tện nạn xấu xa hết tả nổi bằng lời nơi hàng giáo sỹ GPV2. Nhưng rồi họ chỉ biết tự an ủi mình rằng, thôi thì “nhân vô thập toàn”. Ai chả có lỗi! Tội lỗi trong giáo hội thì thời nào chả có! Thôi thì hãy cầu nguyện cho các “đấng”! An ủi dủ lòng như vậy, kể cũng có phần tốt lành nào đó, nhất là đối với những ai ngay lành chẳng biết và vẫn phó mình cho sự săn sóc hướng dẫn của hàng giáo sỹ GPV2. 

Nhưng nếu dừng lại ở đó mà thôi, sẽ chẳng có gì thay đổi. Chất linh mục giả nơi hàng giáo sỹ GPV2 vẫn còn nguyên đó, và người ta vẫn cứ tiếp tục quảng đại dâng cúng, nâng đỡ hàng giáo sỹ không chức linh mục ấy, để rồi lãnh lại phần cho mình là lễ giả và các bí tích giả, được cử hành bởi những giáo sỹ giả!  

Vì thế, BỆNH GIÁO SỸ GIẢ cần phải khắc phục ở đây là căn bệnh nằm ẩn nơi bản chất bên trong, nơi cái “being – hữu thể” của hàng giáo sỹ GPV2. Bề ngoài, họ là những người khoác áo giáo sỹ và ngồi ở vị trí mục tử để chăm sóc đoàn chiên. Nhưng bên trong con người họ, cái “being” của họ vẫn chỉ là một giáo dân (a layman) không hơn không kém. Họ chỉ là một giáo dân khoác áo giáo sỹ mà thôi. Nói kiểu bình dân: họ là những giáo sỹ giả! Họ cưu mang trong mình “chất giáo sỹ giả” là vì họ được sinh ra từ Nghi Thức Truyền Chức của GPV2, một Nghi Thức trống rỗng và vô hiệu như đã chứng minh ở bài 15.

Vì thế, vấn đề cốt tuỷ và thiết thực nhất cần phải trả lời và giải quyết ở đây là:  làm thế nào để khắc phục CHẤT GIÁO SỸ GIẢ nơi hàng giáo sỹ GPV2?

Thưa: Họ phải được đào tạo và truyền chức lại theo đúng thể thức và Nghi Thức Truyền Chức của GHCG, và việc truyền chức ấy phải được cử hành bởi Giám Mục có chức GM Công Giáo Tông Truyền.

Bản thân tôi là một người đã được sinh ra và lớn lên, đã được nuôi dạy trong đức tin của GPV2, đã được đào tạo và truyền chức linh mục theo Nghi Thức Truyền Chức của GPV2. Nhưng nhờ ơn Chúa dẫn dắt, nhờ được soi lòng mở trí bằng giáo lý tinh tuyền thánh thiện của Giáo Hội, và sau khi đã so sánh đối chiếu, đã cầu nguyện và dằn vặt chiến đấu với bản thân, tôi đã đi đến chỗ xác tín và thú nhận rằng: GPV2 không phải là GHCG, đức tin của GPV2 không phải là đức tin Công Giáo, và lẽ tất nhiên phải dẫn đến đó là, chức linh mục của GPV2 không phải là chức LM Công Giáo.

Với niềm xác tín như thế, tôi đã quyết tâm, với ơn Chúa giúp, vượt qua mọi khó khăn thử thách, chủ quan lẫn khách quan, để đi tu và làm lại cuộc đời. Không lẽ mang tiếng là bỏ đời đi tu, mà lại chỉ được lãnh nhận một chức linh mục đầy chất “rởm” như chức linh mục của GPV2 sao? Không thể như thế được!

[Image: IMG_5712.JPG]Tạ ơn Chúa vì nhờ ơn Người dẫn lối và ban thêm sức mạnh, cùng với sự nâng đỡ của gia đình và những ân nhân do Chúa gửi đến, sau quãng thời gian tương đương 3 năm được đào tạo và tu luyện, ngày 12 tháng 12 năm 2019, nhằm đúng ngày lễ Đức Mẹ Guadalupe, tôi đã được truyền chức linh mục lại đúng như Nghi Thức Truyền Chức Truyền Thống của GHCG. 

Hiện giờ, tôi đã thực sự có được bình an trong tâm hồn vì xác tín rằng, chức linh mục giả của GPV2 mà tôi đã lãnh nhận với ý ngay lành trước đây nơi GPV2, đã thực sự được chữa trị tận căn. Thay vào đó, tôi đã được lãnh nhận chức linh mục Công Giáo thực sự, một chức LM đích thật để cử hành Thánh Lễ và các Bí Tích của GH Công Giáo. Nỗi ám ảnh về lễ giả và các bí tích giả nơi GPV2 mà tôi đã từng cử hành trước đây đã không còn. 

Xin tạ ơn Chúa muôn ngàn lần, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!

Đáp lại tấm lòng của những người hoàn toàn xa lạ, dù chưa từng gặp mặt, nhưng đã gửi lời thăm hỏi và động viên tôi, sau đây tôi xin chia sẻ vắn tắt câu chuyện về căn nguyên và hành trình tu lại của đời tôi.

Căn nguyên khơi mào.

Nhớ lại thuở còn trong chủng viện cách nay cả hai chục năm có lẻ, khi học về văn kiện Lumen Gentium của CĐ Vatican II, tôi đã phải nhíu mày thắc mắc và lấy làm lạ, khi đọc thấy văn kiện viết rằng: Giáo Hội thật của Chúa Giêsu tồn tại trong GH Công Giáo! Vậy GH thật của Chúa Giêsu là GH nào? và GHCG là GH nào? Đó là hai GH khác nhau? Thắc mắc như vậy là vì tôi vẫn cứ đinh ninh trong lòng rằng, chỉ có GHCG là giáo hội thật của Chúa Giêsu, và là GH duy nhất mà Chúa Giêsu đã thiết lập. Thắc mắc ấy rồi cũng tự nhiên phai mờ đi, như chìm vào quên lãng! Tôi tiếp tục học bình thường, và cuối cùng cũng được truyền chức linh mục trong GPV2 năm 2006.

Năm 2011, trong khi đang học tại Mỹ, một ngày kia tôi tò mò đến dự lễ Latin truyền thống của GH được dâng ngay trong nhà nguyện của Trường nơi tôi học. Lễ được dâng vào mỗi Chúa Nhật, ngoài giờ lễ chung của Trường, và do một “LM Dòng” của GPV2 dâng cho nhóm riêng của họ. Lễ cho nhóm riêng, nhưng mọi người đều có thể tham dự nếu muốn. Tất nhiên chẳng mấy ai quan tâm vì sau giờ lễ chung lúc 8 giờ sáng, ai nấy đều tranh thủ tận dụng khoảng thời giờ rảnh cho riêng mình. Trong khi dự lễ, tôi chẳng hiểu mô tê gì và chỉ biết nhìn ngắm điệu bộ cử hành rất cung kính, trang nghiêm của vị “LM” và người giúp lễ. Buổi lễ có bầu khí rất nhẹ nhàng, trầm lắng, và linh thiêng, khiến người tham dự dễ tập trung cầu nguyện. 

Sau lễ, tôi gặp vị “LM” dâng lễ để nói cảm tưởng của mình và hỏi ngài: Đây là lễ gì vậy? Tôi muốn học dâng lễ như thế này được không? Ngài cười cám ơn và nói: tất nhiên có thể học nhưng việc này đòi hỏi tốn khá nhiều công sức và sự kiên trì. Tôi cười đáp lại: okay! Tôi sẽ cố gắng! Okay! Thank you! Có gì tôi sẽ thưa nói chuyện lại sau. Okay! Thank you!

Ước mong học dâng lễ Latin của tôi không thể nào chỉ dừng lại ở mức quan tâm xã giao như vậy được. Lòng tôi trào lên một quyết tâm và tôi tự nhủ mình phải tìm để học cho bằng được!

Với niềm ý chí quyết tâm phải tìm hiểu và học cho bằng được Lễ Latin, tôi “đào bới” trên internet và các nguồn sách cũ hiếm mua online. Thế rồi từ chuyện này dẫn đến chuyện khác, từ vấn đề này đưa đến vấn đề kia… Từ cảm giác thích thú ngạc nhiên đến băn khoăn lo lắng ! Từ hoài nghi ngờ vực đến bàng hoàng, hốt hoảng về chính bản thân mình. Bởi vì:

Nhờ tìm hiểu Lễ Latin, tôi nhận ra rằng, Lễ Latin là Thánh Lễ Công Giáo đích thực, là Thánh Lễ diễn tả chính xác và trọn vẹn nhất niềm tin của GH, là đỉnh cao hoàn mỹ của phụng vụ Công Giáo, đã bị bãi bỏ và thay bằng Lễ Mới, được ra đời với sự cộng tác của 6 mục sư Tin Lành. Vì thế, Lễ Mới đã không còn diễn tả chính xác niềm tin của GH về Thánh Lễ! Chính Đức HY. Ottaviani đã chứng minh và khẳng định như thế!  (đọc bài 14).

Nhờ tìm hiểu Lễ Latin, tôi nhận ra rằng, cùng với việc Thánh Lễ Latin bị phế bỏ, Nghi Thức Truyền Chức của GH Công Giáo cũng đã bị sửa đổi tự bản chất và được thay thế bằng Nghi Thức Truyền Chức Mới năm 1968. Nghi Thức Mới, cụ thể là Nghi Thức Truyền Chức Giám Mục, đã hoàn toàn bị sửa đổi và bóp méo cách triệt để, đến mức làm cho hiệu quả của Bí Tích trở nên vô hiệu và trống rỗng (đọc bài 15).

Đối diện trước những sự thật kinh hoàng đã xảy cho GH kể từ thời CĐ Vatican II cho đến nay, tôi bị dày vò day dứt khôn nguôi với ba câu hỏi: 

Chức linh mục mà tôi đã được lãnh nhận qua Nghi Thức Truyền Chức Mới có thực sự là Chức LM Công Giáo?

Lễ Mới ra đời sau CĐ Vatican II có thực sự là Thánh Lễ Công Giáo?

Đạo Công Giáo sau CĐ Vatican II có thực sự là Đạo Công Giáo Tông Truyền?

Sau biết bao ngày tháng cầu nguyện xin ơn phân định, cùng nỗi trăn trở đi tìm câu trả lời, cuối cùng dựa trên lời dạy của Giáo Hội, tôi đã tìm được câu trả lời “Phủ Định – Negative” cho cả ba câu hỏi trên. 
GH dạy[1]: trong những vấn đề liên quan đến đức tin và ơn cứu độ như sự thành sự của các Bí Tích, thì phải hành động theo những gì là chắc chắn, tuyệt đối không được áp dụng nguyên tắc giải quyết những nố “Hồ Nghi – Probabilism” như trong chọn lựa luân lý. Nghĩa là, khi có nghi ngờ trong những vấn đề về đức tin hoặc về sự thành hiệu của Bí Tích, và nếu sự nghi ngờ đó có căn cứ rõ ràng, thì tuyệt đối không được theo, tuyệt đối không được duy ý chí để quả quyết sự thành hiệu của các Bí Tích ấy. Áp dụng nguyên tắc này vào ba câu hỏi trên, tôi đã có được câu trả lời rõ ràng:

Chức LM Mới của GPV2 không phải là Chức LM Công Giáo vì bản chất nó đã bị sửa đổi, bóp méo, khiến cho nó không còn có cùng một bản chất như Chức LM Công Giáo nữa (bài 15). Những hoài nghi về sự vô hiệu của nó được dựa trên chứng cớ rõ ràng. Do vậy, không thể khẳng định đó là chức LM Công Giáo.

Lễ Mới của GPV2 (Bí Tích Thánh Thể) được ra đời sự góp sức của 6 mục sư Tin Lành, khiến cho  Lễ Mới đó không còn diễn tả cùng một bản chất như Thánh Lễ Công Giáo Latin trước đây (bài 14). Do đó, Lễ Mới không phải là Thánh Lễ Công Giáo. Đó là lễ giả, sản phẩm của Tin Lành. Vì thế, theo lời dạy của GH, tuyệt đối không được cử hành thánh lễ khi bản chất của nó đáng ngờ như vậy.   

Đạo Công Giáo sau Vatican II cũng vậy. Đạo ấy không còn giống với  Đạo Công Giáo trước Vatican II nữa. Bởi vì, Đạo ấy đã giảng dạy những sai lầm và chuẩn nhận việc tội lỗi mà GHCG đã luôn luôn kết án trước đó. Vì thế, tôi đã gọi đạo CG sau Vatican II bằng cái tên là “Giáo Phái Vatican II – GPV2”, một Giáo Phái được xây dựng trên học thuyết của CĐ Vatican II, một học thuyết được xây dựng trên Duy Tân Thuyết, được mệnh danh là “tổng hợp của mọi lạc thuyết” (đọc thêm các bài 10,11,12,13, và 17).   

Kết luận thực hành dẫn đến là: tôi phải được đào tạo và truyền chức LM lại đúng như thể thức của GHCG; tôi phải chấm dứt việc cử hành Lễ Mới của GPV2; và tôi phải từ bỏ đức tin sai lạc của GPV2 để trở về với Đức Tin Công Giáo. Làm sao có thể để được truyền chức linh mục lại bây giờ? Đó là gốc rễ của mọi vấn đề? 

Quá trình “tầm sư học đạo”.

Muốn lãnh nhận chức LM Công Giáo Tông Truyền thì bắt buộc phải tìm cho được người có Chức Giám Mục Công Giáo Tông Truyền, vì đó mới là Giám Mục thật, và là người kế vị đích thực của các Tông Đồ do bởi chính Chức Giám Mục Tông Truyền mà họ được kế thừa. Chức Giám Mục Tông Truyền được duy trì từ đời này qua đời kia, không bao giờ bị đứt đoạn, được gọi là mối Liên Kết Tông Truyền – Apostolic Succession. Mối Liên Kết Tông Truyền là bảo đảm chắc chắn nhất để phân biệt giáo hội thật và giáo hội giả. Giáo Hội Thật của Chúa là GH vẫn còn giữ được chức Giám Mục Tông Truyền. Giáo hội giả là GH không có Chức GM Tông Truyền. Nếu mối Liên Kết Tông Truyền bị đứt đoạn, thì Chức Giám Mục Tông Truyền sẽ héo tàn và chết, giống như cành bị cắt lìa khỏi thân cây.

Tìm đâu người có GM Tông Truyền bây giờ? Chẳng khác nào mò kim đáy bể! Bởi như đã phân tích trong bài 15, Chức GM Công Giáo đã bị GPV2 phá huỷ bằng việc cho ra đời và áp dụng Nghi Thức Truyền Chức Mới. Nghi Thức Truyền Chức Mới đã thay đổi và bóp méo bản chất của Chức GM Công Giáo cách triệt để, khiến nó trở nên vô hiệu! Muốn dâng lễ hoặc cử hành bí tích thành sự, bắt buộc tôi phải có chức linh mục thật sự của GHCG. Để được như vậy, tôi dứt khoát phải được truyền chức lại theo nghi thức truyền thống của GH.  

Sau 50 năm áp dụng Nghi Thức Truyền Chức của GPV2, tất cả các giám mục đương chức hiện tại của GPV2 đều là các giám mục giả! Chức GM của họ hoàn toàn vô hiệu và trống rỗng, giống như trong Anh Giáo. Tìm đâu cho ra người có chức Giám Mục Tông Truyền bây giờ?

Tiếp tục trong vòng cuốn tìm tòi học hỏi, tôi nhận ra một sự thật ẩn giấu bấy lâu mà tôi không hề nghe biết hoặc biết một cách phiến diện và lệch lạc. Sự thật đó là, nhờ ơn Chúa quan phòng, đã có những giám mục sớm nhận ra những sai lầm chết người khởi phát từ CĐ Vatican 2, nên đã công khai bác bỏ giáo thuyết của CĐ ấy, nhất là bác bỏ Lễ Giả và Bí Tích Truyền Chức Giả của họ. Một trong những vị GM ấy là, đức GM. Phê-rô Ngô Đình Thục của Việt Nam ta. Vì thấy được mối nguy hiển hiện ngay trước mắt, và ý thức được trọng trách Chúa trao cho mình với tư cách là một GM của GHCG, ngài đã can đảm và dám làm tất cả những gì có thể, trong khả năng của mình, để gìn giữ Chức GM Tông Truyền khỏi bị tuyệt chủng. Vì thế, ngài đã quyết định truyền Chức GM cho một số vị gồm: Gm. Jean Laborie năm1977; năm 1981, ngài tiếp tục truyền chức GM cho ba vị nữa gồm: Gm. Guerard des Laurier O.P; Gm. Domino Moises Carmona Rivera; và Gm. Adolfo Zamora. Các vị GM này, đến lượt mình, lại tiếp tục truyền chức GM cho các vị khác để gìn giữ Chức GM Tông Truyền khỏi bị tuyệt chủng. Dưới quyền những vị GM này, có các linh mục, tu sỹ nam nữ, và giáo dân, vẫn trung thành tuân giữ và thực hành Đức Tin Công Giáo như trước CĐ Vatican II. Vì trung thành tuân giữ Đức Tin Công Giáo như vậy, họ bị GPV2 lên án là "phản bội và chống giáo hội."!    

[Image: bishop%2Bthuc3.jpg]Thế rồi, nhờ ơn Chúa dẫn dắt, tôi tìm thấy những thông tin về Đức GM. Mark Anthony Pivarunas. Qua tìm hiểu kỹ thông tin về ngài, tôi thấy ngài là người đã được truyền Chức GM bởi Đức GM. Carmona ngày 24-9-1991. Đức GM. Camona này lại chính là một trong ba người đã được Đức GM. Ngô Đình Thục truyền chức GM năm 1981. Như thế có thể nói, Đức GM. Pivarunas chính là người đã được gián tiếp kế thừa Chức GM Tông Truyền từ Đức GM Ngô Đình Thục. Quá vui mừng như “kẻ vừa tìm được viên ngọc quý” trên cánh đồng thế giới toàn cỏ lùng hôm nay, tôi lập tức, không chút e dè, gửi email liên lạc với ngài liền.
  
Gẫm lại tôi thấy, việc tôi đến được với Đức GM. Pivarunas có thể coi như một phép lạ được Chúa sắp đặt. Sau khi email cho ngài để giới thiệu về bản thân và ước vọng của mình, tôi thầm cầu nguyện và hồi hộp đợi hồi âm. Một tuần, hai tuần, rồi ba tuần trôi qua không thấy gì. Tôi email lại lần nữa. Rồi vẫn “bặt vô ấm tín” không một lời hồi đáp. Gọi phone và để lại lời nhắn cũng không nhận được gì! 

Một buổi cuối tuần kia, tôi quyết định lái xe vượt quãng đường gần  800 km (Chicago – Omaha) đến tận trụ sở của Ngài. Tôi dự tính mọi việc sao cho tôi có thể đến nơi vào giờ lễ Chúa Nhật, để dự lễ và chờ đến sau lễ, mong sẽ có cơ hội gặp Ngài. Đáng tiếc, Chúa Nhật đó, ngài đi Thêm Sức ở Bang khác! Sau lễ, tôi đón gặp linh mục vừa dâng lễ để chào ngài và xin ngài thưa với Đức GM về việc của tôi. Ngài vui vẻ nhận lời chúc lành cho tôi trước khi ra về. Quãng đường lái xe gần 800 km trở lại Chicago mới thấy dài làm sao! 

Mọi việc vẫn không có gì thay đổi! Tôi vẫn ngóng chờ dài cổ mà không có tin gì từ đức GM. Không thể ngồi yên chờ đợi, tôi lại lái xe đi lần nữa với hy vọng gặp được đức GM. Mọi việc vẫn diễn ra cách đáng thất vọng như chuyến đi lần trước.

Hơn tháng sau, tôi lại thực hiện chuyến lái xe lần thứ ba và cũng là lần chót, tôi nhủ mình như vậy. Trên đường đi, tôi lần chuỗi Mân Côi như thói quen vẫn làm mỗi khi lái xe, và thầm thĩ xin Đức Mẹ cầu bầu cho tôi gặp được đức GM trong chuyến đi này. Điều khác các chuyến đi trước là trong chuyến đi lần chót này, tôi thầm như mặc cả với Chúa: Lạy Chúa, nếu chọn lựa và xác tín của con là đúng và đẹp lòng Chúa, xin cho con gặp được đức GM trong lần này. Nếu con không gặp được ngài, chắc chọn lựa của con có vấn đề nên Chúa không muốn cho con gặp! Nếu vậy, con sẽ từ bỏ ý định muốn được truyền chức linh mục lại!

Thật bất ngờ! Khi tôi đến nơi, vừa đậu và xuống xe, đồng thời hướng nhìn về phía cửa nhà của đức GM, bỗng cánh cửa mở ra và tôi như không tin vào mắt mình, một người mặc áo Soutain (cassock) đang từ trong đi ra! Đúng là đức GM rồi! Không thể nhầm vì ngài mặc áo Soutain cúc tím và có thánh giá đeo trước ngực. Tôi tiến đến giáp trước mặt để chào Ngài. Tôi vẫn chưa nói dứt thì ngài đã trả lời rằng ngài đã nghe biết về tôi! Ngài mời tôi vào nhà và nói chờ ngài ít phút, rồi ngài sẽ nói chuyện với tôi. 

Khoảng 5-7 phút sau, ngài trở lại, tôi vào đề ngay và nói cho ngài  biết nguyện vọng của tôi là, muốn được đào tạo và truyền chức linh mục lại theo nghi thức Truyền Thống Công Giáo. Ngài vui vẻ thân tình trò chuyện và hỏi thêm vài điều về tôi. Rồi ngài quyết định nhận tôi liền, đồng thời cho tôi biết những thủ tục giấy tờ cần thiết mà tôi phải hoàn tất để có thể nhập học vào đầu học kỳ Mùa Xuân sắp tới, tại chủng viện do Ngài thiết lập và điều hành.

“Ngày đầu tiên đi học”

Mọi giấy tờ cần thiết đã hoàn tất! Một ngày giữa tháng của tháng đầu năm dương lịch, tôi vui mừng, hồi hộp, lẫn chút lo lắng, cùng với hành lý tư trang dọn vào ở nội trú trong chủng viện, để được tu học và truyền chức lại. Sau khi được đón tiếp và chỉ dẫn vào phòng ở, khép cánh của lại, tôi nhìn đến tờ nội quy sinh hoạt được đặt ngay ngắn ở giữa bàn. Kỷ luật đúng là rất nghiêm ngặt, theo đúng tinh thần của GH từ thời trước Vatican II. 

Đêm đầu tiên nằm trong CV để tu lại, tôi cảm thấy có phần hơi khó ngủ vì nhiều tư tưởng đan xen xuất hiện trong đầu. Tôi phân vân liệu tôi có vượt qua thử thách của chương trình đào tạo hay không? Một thử thách bắt buộc tôi phải trải qua đó là tiếng Latin! Vì không học được tiếng Latin là kể như dấu không có ơn gọi, như các cha già trước đây vẫn nói! Nghĩ ngợi mông lung, tôi chìm vào giấc mộng lúc nào không hay! 

Sáng đầu tiên thức dậy, mắt vẫn còn cay xè vì muốn ngủ nữa. Sau khi tu phục chỉnh tề, tay cầm sách kinh nguyện bằng tiếng Latin lên nhà nguyện. Một thầy hướng dẫn chỉ chỗ ngồi cho tôi và tình nguyện ngồi ngay cạnh để giúp tôi theo kịp giờ kinh. Kinh nguyện cầm trong tay, có người chỉ tận nơi, vậy mà tôi “như vịt nghe sấm”, chẳng thấy, chẳng nghe và dĩ nhiên là chẳng hiểu họ đang đọc gì và ở chỗ nào! Dẫu được an ủi rằng cần phải có thời gian, tôi vẫn có phần nản chí và âu lo, không biết tình trạng này sẽ ra sao và kéo dài bao lâu! 

Sinh hoạt trong chủng viện.

Trong chủng viện, các sinh hoạt từ trên nhà nguyện cho đến nhà cơm, tất cả các cha và chủng sinh đều ngồi chỗ theo thứ tự các chức mà họ đã được lãnh nhận. Tôi là chủng sinh lớn tuổi nhất và cũng là “lính mới tò te” nên theo thứ tự ưu tiên các chức, tôi xếp hạng bét sau cùng! Trên nhà nguyện, người có chức cao nhất sẽ chịu trách nhiệm chủ sự các phần kinh nguyện. Ở phòng ăn, việc xếp hàng lấy đồ ăn cũng theo thứ tự các chức từ lớn đến nhỏ.  

Ngoài các giờ kinh nguyện, thánh lễ và học hành, các chủng sinh được phân chia làm các công việc như cọ rửa nhà vệ sinh, dọn dẹp nhà cửa, nấu cơm, rửa bát, đổ rác, đọc sách thiêng liêng trong bữa ăn, cho đến các công việc trên phòng thánh, nhà nguyện, chăm sóc các đồ dùng trọng phụng vụ, và giặt ủi các khăn thánh dùng trong cử hành thánh lễ. 

Vì công việc được phân chia tương ứng với các chức theo thứ tự các chức dẫn đến chức LM (bài 26), nên người có chức càng cao bao nhiêu, thì càng được làm những việc gần với bàn thánh hơn bấy nhiêu. Quy trình đạo tạo như thế, in vào lòng chủng sinh một ý thức rõ ràng về sự thánh thiêng và ý nghĩa của những chức mà họ được lãnh nhận. Khi được truyền chức linh mục, người ta mới thực sự hiểu được ý nghĩa của câu nói “ngày được bước lên bàn thánh” là như thế nào! Tôi là lính mới, chưa có sự gì, nên bắt đầu từ việc tầm thường nhất là cọ rửa nhà vệ sinh, lau dọn nhà cửa, nấu cơm, rửa bát….  Khi lên đến chức phó tế, chức thứ 6 theo thứ tự các chức, thì không còn phải làm những việc bình thường kia nữa. Thay vào đó, phó tế sẽ lo việc giặt ủi khăn thánh, có thể được làm thừa tác viên cho rước lễ và đi trao Mình Thánh cho bệnh nhân.  

Thú thật là nhiều lúc, tôi cũng cảm thấy tủi thân chạnh lòng ghê gớm! Đường đường chính chính cũng là một “LM Vatican II” chứ ít gì! Vậy mà giờ đây phải thế này! Lòng tự trọng và sĩ diện của tôi như bị tổn thương. Có tiếng như vang lên trong lòng: ai bắt ngươi như vầy đâu! Tự ngươi chui đầu vô đây thì ráng chịu thôi! Nếu ngươi “ngoan ngoãn” bằng lòng với chức linh mục Vatican II của ngươi thì đâu nên nỗi!  

Tuy nhiên, điều thực sự đã khiến tôi vượt qua được mọi thử thách, mà tôi tin là do ma quỷ xúi giục và tấn công vào vẻ sĩ diện phàm tục của tôi, hầu làm tôi nản chí đó là: nỗi khao khát cháy bỏng một ngày nào đó mình được lãnh nhận Chức Thánh Linh Mục đích thực của Chúa và GH, để được ngày ngày dâng Hy Tế Thánh Lễ cực trọng lên Thiên Chúa, để cầu cho người sống, kẻ chết; đồng thời xoá tan nỗi ám ảnh về bản thân chỉ là một LM giả, phải dâng lễ giả của giáo phái Vatican II. Chính lòng ước ao cháy bỏng ấy khiến cho mọi thử thách hiện tại của tôi chỉ là chuyện nhỏ, chẳng nghĩa lý gì!

Ngoài những thử thách chủ quan đến từ con người bên trong, tôi còn phải đương đầu với những lời chê bai, trách móc, dè bỉu, nói xấu và cáo buộc sau lưng. Tích cực hơn chút là những câu hỏi với giọng thách thức kiểu như: vậy cha nghĩ tất cả GH và mọi người sai hết ư? Tôi giữ đạo, dự lễ và nhận các bí tích mấy chục năm qua cũng vô ích hết sao? Cha bỏ GH, vậy sau này cha phục vụ ai? Cả thế giới ca ngợi các “đức giáo hoàng” mà cha lại không tin họ là giáo hoàng sao? Cha cho mình thông minh giỏi giang hơn mọi người sao? ….

Bỏ mặc ngoài tai tất cả! Tôi không có trách nhiệm trả lời cho ai ngoài chính bản thân tôi và trước mặt Chúa. Tôi tin chắc một điều, tôi là nạn nhân vô tội vì tôi được sinh ra và thừa hưởng đức tin sai lạc của GPV2 như một lẽ tự nhiên, bất khả kháng. Tình cảnh của tôi có thể ví như những con em được sinh ra trong các gia đình Tin Lành, Anh Giáo…họ có thể là những con người rất tử tế, bác ái, và đáng mến, nhưng một sự thật khách quan và hiển nhiên là, họ vẫn chỉ là những lạc giáo trước mặt Chúa, không hơn không kém, bất kể họ thành tâm thiện chí và nhiệt thành bao nhiêu trong việc thực hành đức tin của họ. Bao lâu họ chưa từ bỏ đức tin sai lạc để trở về với Đức Tin Công Giáo, họ vẫn là những người lạc giáo và hoàn toàn không thuộc về GH. Tất cả các lễ nghi phụng vụ của họ, dù đẹp đẽ trang trọng bao nhiêu, chỉ là cuộc tụ họp của con người và hoàn toàn phi ân sủng siêu nhiên, bất kể họ tin tưởng phó thác và thành tâm thế nào. Đó là những sự thật đã bị lãng quên và rất khó nghe với nhiều người. Nhưng chân lý thì vẫn luôn là chân lý. Vì thế, việc tôi chối bỏ chính mình, nhìn nhận mình là nạn nhân của GPV2 mà tôi đã được sinh ra và lớn lên trong đó, thì quả là điều điên khùng như có nhiều người nghĩ. Thà bị tiếng là điên khùng mà được chết trong Đức Tin Công Giáo thì còn hơn tất cả mọi sự gì khác.           

Trở lại với chuyện tiếng Latin, ngoài lớp học theo giáo trình Latin chuyên biệt cho Giáo Sỹ - Ecclesiastical Latin for Clerics (tập chú vào Thánh Lễ, Thần Học, Giáo Luật, Kinh Thần Vụ, và Thánh Ca Latin (Latin Gregorian Chant - Liber Usualis), tôi còn được kèm học thêm ngoài giờ. Thử thách thật sự đến với tôi là, vừa vào chủng viện được khoảng hai tuần, Đức Cha nói tôi học để chuẩn bị giúp lễ! Wow! Thấy các cha và người giúp lễ đọc làu làu, tôi hoảng hồn lo lắng vì miệng lưỡi đọc bây giờ cứ như dính lại với nhau, biết bao giờ mình có thể nhớ và đọc được như vậy! 

Tôi quyết tâm và nhủ lòng hãy chăm chỉ cố gắng, đồng thời lên tinh thần cho mình: người ta làm được, mình cũng làm được! Không chỉ dựa sức mình, tôi cầu xin Chúa giúp. Đơn giản, tôi thưa với Chúa: Lạy Chúa xin mở miệng lưỡi và lòng trí con, để con đọc, nhớ và hiểu được tiếng Latin! Rồi tôi vác sách ra lầm rầm đọc cho nhớ. Tôi tìm chỗ vắng khuất để đọc và phải đọc lớn tiếng vì chỉ có như vậy mới biết mình đọc đúng hay không và tiếng phát ra thế nào. Đọc thầm thì dễ và trôi chảy hơn là đọc lớn tiếng.

Thế rồi dần dần tôi cũng nhớ được trong đầu và đọc được ra ngoài miệng tất cả những lời bắt buộc phải nhớ để có thể giúp lễ và dâng lễ. Muốn dâng lễ được, cần phải học thuộc gần như toàn bộ nghi thức Thánh Lễ, vì tất cả những lúc chuyển trên bàn thờ, hay cử chỉ, điệu bộ trong Thánh Lễ, đều có kèm theo những lời mà LM buộc phải đọc! 

Có người tò mò hỏi, vậy cha có hiểu hết những điều cha đọc bằng tiếng Latin? Đương nhiên là không thể hiểu hết ngay! Nhưng phần quen thuộc và quan trọng như Nghi Thức Thánh Lễ và công thức các bí tích thì phải hiểu và nhỡ rõ. Kinh thần vụ cũng sẽ hiểu từ từ cùng với thời gian. Tuy chưa hiểu tất cả mọi chữ trong lời kinh, nhưng cảm nghiệm trong lòng Chúa ban cho thì thật tuyệt vời và đầy an ủi. Cầm cuốn kinh thần vụ trong tay đọc, nhiều lúc trào nước mắt chỉ một vì ý tưởng chợt đến trong đầu: biết bao vị thánh trong GH đã từng mở miệng đọc chính những chữ những lời như mình đang đọc đây! Một niềm an ủi thật ngọt ngào! 


Là một LM. Vatican II, nên tôi theo một chương trình đạo tạo có phần khác với các chủng sinh khác. Ngoài tiếng Latin như một đòi hỏi bắt buộc, tôi tập trung chủ yếu vào phần Thần Học (tín lý, luân lý, và mục vụ), Giáo Luật và Thánh Kinh.

[Image: IMG_4104.JPG]
Nghi Thức Tunsure
Việc cày đầu học khiến cho cảm giác như tháng ngày trôi qua nhanh hơn. Cuối kỳ học thứ nhất, tôi được chính thức đón nhận vào bậc giáo sỹ qua Nghi Thức Tonsure – Cắt Tóc. Cùng hôm đó, tôi được chịu Phép Thêm Sức lại, và nhận Thánh Phaolô làm Đấng Bảo Trợ. Sở dĩ như vậy là vì, Phép Thêm Sức mà tôi đã lãnh nhận năm 1985 trong GPV2 bị coi là vô hiệu vì Công Thức Bí Tích đã bị sai lệch như như đã nói trong bài 25.


Kỳ này học này nối tiếp kỳ học kia! Tôi học thâu cả mùa hè! Cùng với thời gian, tôi như được tái sinh trong Đức Tin Công Giáo, Đức Tin đã bị chôn vùi vào quên lãng sau Vatican II. Càng học hỏi, tôi càng nhận ra giáo thuyết của GPV2 đã từng bị GH kết án nặng nề như thế nào trước đây. Càng học tôi càng nghiệm ra mình đã bị nhồi sọ bằng đức tin sai lạc của GPV2 như thế nào, đã vô tình, không may ở trong tình trạng chia lìa với Đức Tin Công Giáo Tông Truyền. Nhiều lần nước mắt đã tuôn rơi khi nhận ra mình đã từng bao năm ở trong thận phận của kẻ phản bội GH, để bênh vực và rao giảng những giáo điều mà GH đã kết án trước đó!

[Image: IMG_5718.JPG]Đi cùng với ơn tái sinh trong đức tin, tôi cũng được lớn lên trong ơn của Bí Tích Truyền Chức. Mỗi kỳ học qua đi, tôi lại được lãnh các chức để tiến dần đến Chức Linh Mục, theo thứ tự 7 Chức như đã nói ở bài 26. Nhờ ơn Chúa, dưới sự dẫn dắt và cầu bầu của Đức Mẹ và Thánh Giuse, ngày 12-12-2019, nhằm ngày lễ Đức Mẹ Guadalupe, tôi được lãnh nhận Thiên Chức Linh Mục Công Giáo.

Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa; và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, Đấng Cứu Độ tôi…

KẾT LUẬN:

[Image: IMG_5724.JPG]Tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc đời tôi cho đến nay, quả thực như một giấc mơ. Giấc mơ ấy là kết quả của một hành trình đầy bất ngờ, xen lẫn âu lo, dằn vặt, chiến đấu và chọn lựa quyết liệt, bất chấp mọi gian lao thử thách. Việc được truyền chức linh mục lại theo đúng thể thức của GHCG, qua việc đặt tay phong chức của một vị có Chức GM Công Giáo Tông Truyền, giờ đây không một chút mảy may nghi ngờ còn vương vấn, tôi đã thực sự trở nên một linh mục của GHCG, để ngày ngày dâng Thánh Lễ Công Giáo trên bàn thờ và cử hành các Bí Tích đúng như chủ đích của Chúa Giêsu, Đấng thiết lập các Bí Tích và truyền lại cho GH, và được GH gìn giữ bất biến qua mọi thời.


[Image: IMG_5726.JPG]

Tất cả những bài đã viết trên blog này là kết quả và cũng là bằng chứng về cuộc tái sinh của tôi để trở về với GHCG. Nếu có thể nói tôi đã viết để chống ai đó, thì người mà tôi chống lại chính là TÔI! Tôi đã phủ nhận chính mình! Tôi đã trả lại đức tin và chức linh mục mà tôi đã lãnh nhận từ GPV2. Giờ đây, tôi đã được tái sinh và là linh mục của GHCG. Tôi sẽ sống, phục vụ và chết trong đức tin của GH.
  
Reply
#26
Đến đây, tôi xin được chia sẻ một vấn nạn đã từng khiến tôi phải day dứt dằn vặt lương tâm khá nhiều cho đến khi tìm thấy câu trả lời đó là: nếu tôi coi chức LM và Lễ của GPV2 là vô hiệu, vậy tất cả những thù lao mà tôi đã được nhận do việc dâng lễ và cử hành các bí tích của GPV2 trước đây sẽ phải tính sao? Tôi phải trả lại hết cho mọi người? Hay tôi phải dành cả chục năm để dâng lễ bù lại? Thật may mắn là GH đã dự liệu trước tình huống đó và đã cho tôi câu trả lời về vấn nạn trên.

Thật vậy, GH dạy: trong trường hợp linh mục được truyền chức lại với lý do việc truyền chức trước đó vô hiệu, thì ngay tức khắc, khi việc truyền chức lại thành sự (ipso verbo cum Ssmo), tất cả những thánh lễ và bí tích do linh mục đó cử hành trước đây lập tức được bù đắp bằng kho tàng ân sủng của GH.[2]

[Image: IMG_5732.JPG]Thật tuyệt vời và đầy an ủi! Tôi đã thực sự không còn mắc nợ ơn bí tích của bất cứ ai đã từng đến với tôi trước đây. Trái lại, ơn sủng bí tích đã được bù đắp tức khắc, ngay khi việc truyền chức lại của tôi thành sự. Trước đây, tôi ở trong tình cảnh: LM giả, cử hành lễ giả và các bí tích giả, thế mà lại nhận thù lao thật từ đoàn chiên. Như vậy sao đành và công bằng ở đâu! Giờ đây, chức linh mục giả trong tôi đã được thay thế bằng chức linh mục đích thực của GH, cho nên món nợ ơn bí tích đối những người đã từng đến với tôi trước đây, đã được bù đắp hoàn toàn, trên cả mong đợi!

Đó là vắn tắt về câu chuyện “tái sinh đời tu” của tôi! Hiện giờ tâm hồn tôi đã có được sự bình an vì không còn bị dằn vặt lương tâm với thân phận của một Lm giả, dâng lễ giả và các bí tích giả nữa. 

Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!

+++++++++++++
+++++++++++++++

Đôi hàng vắn tắt về ĐC Phê-rô Ngô Đình Thục

Trước đây, tôi từng nghe người ta gán cho ĐC Thục đủ những thứ tội nào là lạc giáo, ly giáo, nào là chống đối “GH và giáo hoàng”, nào là chống lại những “cải cách” của CĐ. Vatican II, nào là chống đối bảo thủ….những lúc nghe người ta nói vậy, tôi cũng chỉ biết nghe vậy chứ không biết nói gì, vì đâu biết gì mà nói!

Vậy ĐC Thục là ai?

Ngài sinh tại Huế ngày 6-10-1897. Các anh em trong gia đình dòng họ của ngài đa phần theo nghiệp chính trị. Riêng phần ngài dấn thân theo đuổi ơn gọi linh mục và tu học tại Pháp. Ngài được thụ phong linh mục ngày 20-12-1925. Ngài đậu ba bằng tiến sỹ về Giáo Luật, Thần Học và Triết Học, nên ngài được tham gia giảng dạy tại Đại Học Sorbornne, Paris. Năm 1927, ngài trở về Việt Nam phục vụ và tiếp tục tham gia việc giảng dạy trong chủng viện và đại học. Ngày 4-5-1938, ngài được tấn phong Giám Mục và gây dựng địa phận Vĩnh Long tại Tp. Vĩnh Long ngày nay. Không chỉ gây dựng địa phận Vĩnh Long, ngài cũng là người góp công sức lớn để thiết lập Đại Học Đà Lạt.

Vì trải qua liên tiếp hai cuộc cách mạng, cách mạng trong GH với CĐ Vatican II, và cách mạng trong xã hội là Cuộc Chiến Miền Nam, ngài đã phải lánh nạn, xa cách quê hương và sống tại Pháp.

ĐC Thục đã làm gì? 

[Image: bishop%2Bthuc2.jpg]Trước tiên, ngài đã nhận ra những sai lầm “chết người” tiềm ẩn trong học thuyết của CĐ Vatican II, nhất là Lễ Mới (Novus Ordo Mass) và Nghi Thức Truyền Chức Mới, do các kẻ thù của GH muốn áp đặt và đưa vào thực hành trong GH. Chủ ý duy nhất mà các kẻ thù của GH muốn quyết tâm  thực hiện, khi cho ra đời Lễ Mới và Nghi Thức Truyền Chức Mới, đó là phá huỷ Thánh Lễ Công Giáo và Chức Giám Mục Công Giáo, hầu biến GHCG, về bản chất, cũng giống như các giáo phái Tin Lành và Anh Giáo. Chỉ cơ cấu tổ chức bề ngoài của GH là vẫn giữ nguyên. Còn cái hồn bên trong, tức kho tàng ân sủng siêu nhiên, là Thánh Lễ và các Bí Tích, thì phải bị thủ tiêu! Tất cả chúng ta đều giống nhau! Ecumenism!

[Image: bishop%2Bthuc1.jpg]Sau khi nhận ra sự thật kinh khủng đó, ĐC Thục đã cảm thấy bị thúc bách phải làm điều gì đó, trong phạm vi khả năng của mình, để bảo vệ GH Công Giáo trước quỷ kế tinh vi đang chụp xuống trên GH. Ngài nhận thấy điều quan trọng nhất cần phải được gìn giữ, đó là Chức Giám Mục Tông Truyền, vì đó là đầu mối của mọi sự! Nếu không có Chức GM, thì sẽ không có LM, không có Thánh Lễ và không có các Bí Tích. Nếu không có Chức Giám Mục thì sẽ không có gì hết và GH sẽ hoàn toàn nên giống như Anh Giáo và các giáo phái Tin Lành! Sở dĩ Anh Giáo và các nhóm Tin Lành chỉ là những tổ chức của loài người, phi ân sủng siêu nhiên, là vì họ không có Chức Giám Mục Tông Truyền. Chức GM Tông Truyền là đầu mối và bảo đảm cho mọi sự, kể cả sự tồn vong của GH. Do vậy, ĐC Thục đã quyết định truyền chức giám mục cho một số vị như đã nói ở trên. Đó là hành động anh hùng để khẳng định niềm tin và lập trường như ngài đã công bố trong tuyên ngôn của mình (xem bài 14). Do hành động này, ĐC Thục đã bị “giáo hội” (GPV2) ra vạ tuyệt thông!

Thời gian cuối đời.

Theo hồi ký của cha Francis Miller (O.F.M), một nhân chứng sống, đầu những năm 1980, ĐC Thục di cư sang Mỹ và được đón về lưu trú tại tu viện của cha Miller ở Rochester, New York. Cha Miller, khi đó vẫn là thầy, kể lại: vào thời điểm đó, ĐC Thục đã 85 tuổi, nhưng ngài vẫn rất minh mẫn, vẫn còn dạy các thầy trong tu viện tiếng Latin và còn kể chuyện hài bằng Latin nữa! 

Có một điều cứ khiến cha Miller phải luyến tiếc và hối hận mãi đó là, ngài đã bị mắc vào bẫy của một nhóm người Việt, và để vuột mất ĐC Thục vào tay họ. Chuyện là thế này: 

Vì biết ĐC Thục là người VN nên thi thoảng ngài đưa ĐC Thục đi ăn nhà hàng Việt Nam quanh vùng Rochester. Rồi từ đó dẫn đến quen biết một số người có đạo, và đôi khi họ mời ĐC Thục ghé nhà họ đọc kinh cầu nguyện.

Từ đó, tin ngài đang sống Rochester được lan rộng ra nhiều nơi và đến tai ông T, một nhân vật “máu mặt” và là chủ nhân khách sạn Carter tại New York. Ông T đã đi xe Limousine đến Rochester thăm ĐC Thục và đã nhiều lần kêu phone mời ngài đi thăm bà con gốc Việt tại New York, nhưng đều bị từ chối. Lần thứ hai, ông T đến thăm ĐC Thục và nài nỉ ngài đi New York để thăm và đón Tết sắp tới với cộng động người Việt ở đó. Biết cha Miller e ngại, lo cho sức khoẻ của ĐC Thục nên ông T cam kết sẽ lo chu đáo mọi sự để giữ an toàn và sức khoẻ cho ĐC. Cha Miller cũng đưa ra nhiều điều kiện kèm theo, trong đó có 2 điều kiện bắt buộc là: phải đi bằng máy bay và phải để cha Miller tháp tùng ĐC Thục.  Ông T rất vui vẻ chấp thuận mọi điều kiện và tiến hành lo sắp đặt mọi sự cho chuyến đi.

Đến ngày như đã hẹn, ông T cùng một tài xế đi xe Limousine đến đón ĐC Thục và cha Miller. Cha Miller giật mình ngạc nhiên vì không thấy họ đi về phía phi trường Rochester nên hỏi: đang đưa chúng tôi đi đâu đó? Ra phi trường, họ đáp lại. Cha Miller nghĩ họ sẽ đổi hướng trở ra phi trường sau khi đã lỡ ở lối rẽ trước. Nhưng không, họ vẫn tiếp tục đi! Cha Miller lo lắng nói mạnh, nếu các ông biết giữ lời thì quay lại phi trường ngay! Không thể bắt ĐC ngồi xe 7 tiếng dọc đường về New York được. Yên tâm! xe này êm lắm, đừng lo - Ông T đáp! Cha Miller lo lắng vì sự việc đang theo chiều hướng bất thường. Nhùng nhằng mãi, rồi ông T cũng chịu nhượng bộ bằng cách ghé vào phi trường Syracuse để book chuyến bay cho ĐC Thục và cha Miller về New York. Còn ông T và tài xế tiếp tục chạy xe trong đêm trở lại New York và hẹn đón ĐC Thục vào sáng sớm hôm sau.

Sớm hôm sau, ông T đón ĐC Thục và cha Miller ở phi trường và đưa về khách sạn của mình. Hôm sau, họ đưa ĐC Thục đi dự Tết với cộng đồng người Việt. Thấy họ đến chúc tụng đồ ăn và thức uống, xen lẫn tiếng cười nói và âm thanh lớn, cha Miller cảm thấy lo ngại cho sức khoẻ của ĐC. Xong sự kiện Tết ở NY, họ vẫn chưa muốn buông tha và để cho ĐC Thục trở lại Rochester. Vẫn còn nhiều chương trình hấp dẫn lắm! Đừng tính chuyện về vội! Cứ yên tâm! Họ trấn an vậy! Đến hôm sau, họ đưa ngài về Washington DC để gặp cộng đồng người Việt ở đó. Ngạc nhiên hơn, họ còn thu xếp cho ĐC Thục vào toà khâm sứ Vatican tại Washington nữa! Rồi họ xin cha Miller để cho ĐC Thục có thời gian chuyện riêng với đức Nuncio! Cha Miller thực sự hoang mang không biết họ đang toan tính gì với ĐC Thục! 

Sau khi kết thúc những ngày với đầy các sự kiện bất ngờ tại vùng Washington DC, họ đưa ĐC trở lại khách sạn Carter, New York. Tuy nhiên, họ vẫn líu giữ bằng mọi cách, không để ĐC Thục trở về Rochester. Cha Miller qua nóng ruột muốn về nên đã do thám trong khách sạn, rồi bàn tính với ĐC Thục để tìm cách trốn đi. Không may, họ đã cho người mai phục và giữ ĐC Thục ở lại. Tuyệt vọng chán nản, cha Miller buộc phải kêu cảnh sát! Cảnh sát đến giải quyết. Họ hỏi ĐC Thục có muốn nghỉ ở đây không. Tôi rất mệt mỏi và muốn được nghỉ – ĐC Thục đáp. Thế là, cảnh sát quyết định để cho ĐC Thục nghỉ lại. Đó là cũng là lần cuối cùng cha Miller được nhìn thấy ĐC Thục!

Tháng 12 năm 1984, Đức Cha Phê-rô qua đời tại Carthage, Missouri, ở cơ sở của một Dòng giáo sỹ Vatican II gốc Việt Nam. Ngài được an táng tại một nghĩa trang ở Spingfield, cũng thuộc bang Missouri. Theo nguồn đáng tin cậy cho biết, hài cốt của Đức Cha Phê-rô đã được di dời đi nơi khác và không rõ hiện giờ ngài đang nằm ở đâu!

Có nguồn tin nói, ĐC Thục đã sám hối và xin Vatican tha vạ trước khi qua đời. Những đó vẫn chỉ là tin đồn. Giới Công Giáo Truyền Thống yêu cầu cần phải có bằng chứng đưa ra. Tuy nhiên, tất cả vẫn chỉ dừng lại ở bằng chứng miệng và được truyền khẩu. Trong tuyên ngôn Munich 1982 (xem bài 14), ngài đã gián tiếp phủ nhận John Paul II là giáo hoàng nên khó có chuyện ngài sám hối và xin tha vạ. Hơn nữa, ngài xác tín những việc ngài đã làm là bổn phận bó buộc lương tâm với tư cách là một GM Công Giáo.

Đức Cha Phê-rô đã qua đời nơi đất khách quê người. Ngài ra đi khi quê hương đất mẹ vẫn còn trong cảnh lầm than, đói nghèo. Giáo Hội thì đang ngày càng trở nên lu mờ! Một vị GM từng quen với ĐC Thục nhớ lại cho biết, mỗi lần có dịp thăm ĐC, chuyện trò nhiều thứ, nhưng luôn có một nỗi trăn trở canh cánh trong lòng của Đức Cha Phê-rô đó là, ngài cảm thấy rất tiếc và buồn cho quê hương của ngài vì Thánh Lễ và Đức Tin Công Giáo đã mai một không còn nữa. Nỗi buồn tha hương tuy rất nặng nhưng không trĩu nặng bằng nỗi buồn khi thấy, Thánh Lễ và Đức Tin Công Giáo dần mai một biến mất trên chính quê của ngài. Mỗi khi có dịp, ngài vẫn nhẩm miệng: dầu sao tôi vẫn tin chắc rằng, những điều ấy một ngày nào đó sẽ được sống lại trên quê hương của tôi.

Vâng, niềm tin và hy vọng là những phẩm chất không bao giờ thiếu nơi người tông đồ đích thực của Chúa. Niềm mong ước của ngài cho quê hương không phải chỉ là mong ước suông. Niềm mong ước ấy đến từ chính những “hạt giống” mà ngài đã gieo trong nước mắt. Ngài đã phải trả giá, phải gánh chịu nhiều “tai tiếng, tủi nhục, và hắt hủi” để lưu lại cho hậu thế Chức Giám Mục Tông Truyền. Nhờ đó, chức LM, Thánh Lễ Công Giáo và kho tàng ân sủng các Bí Tích sẽ còn được tiếp tục lưu truyền mãi, đến tận cùng thời gian.

Với GPV2, Đức Cha Phê-rô là “một tội đồ phản loạn”. Nhưng đối với các GM, LM và tín hữu Công Giáo Truyền Thống ở rải rác khắp nơi trên thế giới, Đức Cha Phê-rô là ân nhân và thánh nhân. Vì chính ngài đã có công lớn trong việc gìn giữ Chức GM Tông Truyền, Thánh Lễ Công Giáo, và các Bí Tích được còn mãi với thời gian. Trong giới Công Giáo Truyền Thống ngày nay, ĐC Thục được coi là tiêu chuẩn khách quan và công khai, bảo đảm cho những gì được gọi là “Công Giáo và Tông Truyền” đích thực. Các vị xưng mình là giám mục, linh mục Công Giáo Tông Truyền ư? Ai đã truyền chức cho quý vị? Có thuộc dòng dõi Đức Cha Thục không (Bishop Thuc’s Lineage)? Nếu không thì bye bye nhé! Fake! Bởi thế, người ta hiểu tại sao bên Âu-Mỹ, ngày càng nhiều nhóm Công Giáo giả hiệu xuất hiện để lừa dối thiên hạ. Họ tự xưng nhận là thuộc Bishop Thuc’s Lineage và họ dâng lễ Latin để thu hút những thành phần gọi là “hoài cổ” đang theo đạo Vatian II, nay bỗng dưng thích Lễ Latin. Cẩn thận!

Trọng kính ĐC Phê-rô, dẫu tin rằng, ĐC đã được nghe lời tuyên dương đầy ngọt ngào và an ủi của Ông Chủ: “hỡi đầy tớ trung tín và tốt lành! hãy vào hưởng niềm vui với chủ ngươi!”. Vâng! Chúng con tin ĐC đang hưởng niềm vui thiên quốc! Nhưng chúng con thì vẫn còn lang thang trên “chốn khách đầy nước mắt này”, và chúng con đêm ngày cầu nguyện, mong cho những “hạt giống” mà ĐC đã can đảm “gieo trong nước mắt” ngày càng được trổ bông trĩu hạt, mong cho “kho tàng” ĐC trối lại sớm được mọi người nhận biết và làm cho rạng rỡ huy hoàng.

Amen! 


++++++++++++++++++++++

Reply
#27
HÃY NHẬN RA MỘT SỰ THẬT GÂY SỐC 

NGAY GIỜ ĐÂY, TRẬN CHIẾN TRANH TÂM LINH ĐANG TỚI HỒI QUYẾT LIỆT!

NẾU BẠN LÀ NGƯỜI TÔN THỜ CHUÁ, PHẬT, BẠN CẦN PHẢI LÊN TIẾNG NÓI, GÓP SỨC CUẢ MÌNH ĐỂ LÊN TIẾNG NÓI CHỐNG LẠI CÁC THẾ LỰC MA QUỶ SỰ ÁC ĐANG NGÀY CÀNG HUNG HĂNG TẤN CÔNG SỰ THIỆN, LUÂN THƯỜNG ĐẠO LÝ CUẢ THIÊN CHUÁ, ĐẠO GIÁO CUẢ CHA ÔNG CHÚNG TA

VẠCH TRẦN SỰ THẬT:

VẠCH MẶT THẾ LỰC ĐEN TỐI VỚI NHỮNG ÂM MƯU MA QUỶ PHÁ HUỶ LUÂN THƯỜNG ĐẠO LÝ CỦA TIỀN NHÂN
VẠCH MẶT THẾ LỰC ĐEN TỐI VỚI NHỮNG KẺ VÔ THẦN ỦNG HỘ CHO CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN TÀN ÁC CỦA LŨ QUỶ ĐỎ VÔ NHÂN TÍNH, CỦA LŨ SÚC VẬT TÔN THỜ, BÁN LINH HỒN CHO QUỶ SA TAN CHỈ VÌ NHỮNG HAM MUỐN ĐIÊN RỒ DANH, LỢI, THÚ: HÁO DANH CHUỘNG TIẾNG, MUỐN ĐƯỢC NỔI DANH DO LÒNG KIÊU NGẠO; HAM MÊ LỢI ÍCH LÀM GIÀU CHO BẢN THÂN VÀ GIA ĐÌNH VỚI BẤT CỨ THỦ ĐOẠN VÔ ĐẠO ĐỨC NÀO; HAM MÊ LẠC THÚ XÁC THỊT, DÂM Ô ĐỒNG TÍNH, LÀM TÌNH TẬP THỂ BẦY ĐÀN, NGOẠI TÌNH, GIẾT NGƯỜI ĐOẠT VỢ, ĐOẠT  CHỒNG NGƯỜI KHÁC ...

HÃY XEM, LẮNG NGHE, SUY GẪM ...THỜI GIỜ NGÀY CÀNG CẤP BÁCH ...





HOAN HÔ TỔNG THỐNG TRUMP VỀ SỰ GAN DẠ QUẢ QUYẾT CHIẾN ĐẤU CHỐNG LẠI CÁC THẾ LỰC SỰ ÁC, ĐỨNG ĐẦU LÀ LŨ QUỶ ĐỎ TRUNG CỘNG (CHÚNG CŨNG LÀ CON RỒNG ĐỎ, QUỶ SATAN CUẢ THỜI ĐẠI HIỆN NAY!)





Innocent Innocent Innocent
Reply
#28
Innocent



Reply
#29
ĐỐI MẶT VỚI SỰ LŨNG ĐOẠN TỪ BÊN TRONG GIÁO HỘI:

Tiến sĩ Taylor Marshall kêu gọi điều tra về nguyên nhân tại làm sao một Kẻ Tội Đồ Ấu Dâm McCarrick leo tới chức hồng y toà thánh Vatican.



Reply
#30
TƯỞNG RẰNG HOẢ TÁNG LÀ ĐÚNG, NHƯNG CHÚNG TA ĐÃ LẦM !!!

HÃY ĐỌC KỸ NGUYÊN DO TẠI SAO 

Quote:BÀI 28: HOẢ TÁNG và PHÁ THAI

Hôm nay, ĐÂY LÀ ĐỨC TIN xin tiếp tục trở lại với công việc như quen làm từ mấy bài gần đây đó là, nói về những lời dạy sai lạc và việc làm tỗi lỗi của Giáo Phái Vatican II – GPV2. Chủ đề của bài hôm nay là Hoả Táng và Phá Thai. Đây là hai vấn đề “hot” và thực sự nhức nhối lương tâm Công Giáo đích thực. Hy vọng sau khi đọc xong bài này, những ai đang gắn bó với GPV2 hãy bừng tình mà tự vấn lương tâm mình: tôi đang theo GHCG hay kẻ thù của GH? 

Vẫn với một cách thức quen thuộc, trước tiên là tìm hiểu lời dạy của GHCG về vấn đề Hoả Táng và Phá Thai, sau đó đối chiếu với lời dạy và thực hành của GPV2. 

NGUỒN: 

https://daylaductin.blogspot.com/2020/07/bai-28-hoa-tang-va-pha-thai.html?fbclid=IwAR3NsPJJ5bTyrtF0Qq2lTc9lagOzIUPYumfkesngvbnisqz6cC3R5nT2okM
Reply