2019-07-02, 05:14 PM
KINH VĂN PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERÀVÀDA -
KHỞI NGUỒN CỦA DÒNG VĂN HỌC PHẬT GIÁO
TT.ThS. Thích Giác Trí
Phó Ban Trị sự GHPG Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
KHỞI NGUỒN CỦA DÒNG VĂN HỌC PHẬT GIÁO
TT.ThS. Thích Giác Trí
Phó Ban Trị sự GHPG Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Kinh văn Phật giáo Nguyên thủy Theravada dung chứa trọn vẹn lời dạy của Đức Phật Siddhattha Gotama là một trong những nền văn học cổ Ấn Độ ra đời vào thế kỉ thứ VI TCN, được ghi nhớ thuộc lòng và phổ biến bằng phương pháp truyền khẩu trở thành dòng văn học Phật giáo khơi nguồn tín ngưỡng tâm linh hơn 350 triệu người ở các quốc gia Đông Nam Á, ảnh hưởng đến văn hóa phương Tây về Jhana Thiền (phương pháp tẩy rửa tâm), cân bằng giải thoát các tình trạng của Tâm, phát triển tính bao dung Bất bạo động.
1. Bối cảnh hình thành
Thái tử Sidhartha Gotama sinh khoảng năm 623 trước Công nguyên con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và hoàng hậu Maha Maya (Đại Tịnh Diệu) dòng Koliya, kế thừa cai trị vương triều Sakka (Thích Ca), 13 năm sau nhìn thấy cảnh khổ bên ngoài cung điện, Ngài quyết định trở thành du sĩ tìm kiếm con đường thoát khổ. Sau khi giác ngộ thành Phật (sammàsambuddho). Đức Phật Sakya Gotama thuyết giảng phương pháp thực hành cho 05 người bạn cũ Kondanna (Kiều Trần Như), phát triển cộng đồng tu sĩ Phật giáo (Tăng đoàn Sangha) và khởi đầu cho 45 năm đi qua nhiều vùng miền quốc gia phổ biến giáo Pháp - dòng văn học các bậc thánh. Ở tuổi 80 Đức Phật nhập Niết bàn. Vài tháng sau ngày Phật niết bàn, tại thành phố Rajagaha (Vương Xá) trong hang động Sattapaṇṇi (Thất Diệp) dưới sự bảo trợ của đức vua Ajatasattu (A Xà Thế), trưởng lão đại sư Maha Kassapa (Đại Ca Diếp) chủ trì Hội nghị Trùng tụng Pháp và Luật (Sangiti Dhammavinaya) đã chọn 500 thánh tăng trong số 700.000 vị để kết tập trùng tụng phân loại những lời dạy của Đức Phật Gotama qua 09 thể loại văn học (Navaṅgasatthusāsana):
Kinh (Sutta), Ứng tụng (Geyya), Ký thuyết (Veyyākaraṇa), Kệ ngôn (Gāthā), Cảm hứng ngữ (Udāna), Như thị thuyết (Itivuttaka), Bổn sanh (Jātaka), Vị tằng hữu (Abbhūtadhamma), Phương quảng (Vedalla). Các thể loại văn học này chuyển tải toàn bộ lời dạy của Đức Phật Gotama là văn học Phật giáo Nguyên Thủy Theravada khởi nguồn cho các dòng văn học Phật giáo sau này.
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada không thêm vào bớt ra lời dạy nào dù nhỏ của Đức Phật.
Trưởng lão Thánh tăng Upali chịu trách nhiệm về Luật (Vinaya) truyền thừa dòng văn học Luật chuyên giảng dạy về Luật, văn học Luật Phật giáo được khởi đầu bằng câu “Tena samayena…” (Lúc ấy Đức Phật ở…)
Trưởng Lão Ananda chịu trách nhiệm về Kinh khởi đầu bằng câu “Evam me sutam” (Tôi được nghe như vầy).
Trưởng lão Puṇṇa đứng đầu về thuyết Pháp; Kumārakassapo đứng đầu về hùng biện; Kaccāna đứng đầu về phân loại; Koṭṭhita đứng đầu về tuệ phân tích; và nhiều vị đại trưởng lão khác.
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada được ghi nhớ thuộc lòng, truyền khẩu, tụng đọc mỗi ngày như một Pháp thân Đức Phật (Dhammakàya) hiện diện thuyết pháp giác ngộ mọi người.
2. Kinh văn và văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada
Kinh (Sutta), Ứng tụng (Geyya), Ký thuyết (Veyyākaraṇa), Kệ ngôn (Gāthā), Cảm hứng ngữ (Udāna), Như thị thuyết (Itivuttaka), Bổn sanh (Jātaka), Vị tằng hữu (Abbhūtadhamma), Phương quảng (Vedalla). Các thể loại văn học này chuyển tải toàn bộ lời dạy của Đức Phật Gotama là văn học Phật giáo Nguyên Thủy Theravada khởi nguồn cho các dòng văn học Phật giáo sau này.
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada không thêm vào bớt ra lời dạy nào dù nhỏ của Đức Phật.
Trưởng lão Thánh tăng Upali chịu trách nhiệm về Luật (Vinaya) truyền thừa dòng văn học Luật chuyên giảng dạy về Luật, văn học Luật Phật giáo được khởi đầu bằng câu “Tena samayena…” (Lúc ấy Đức Phật ở…)
Trưởng Lão Ananda chịu trách nhiệm về Kinh khởi đầu bằng câu “Evam me sutam” (Tôi được nghe như vầy).
Trưởng lão Puṇṇa đứng đầu về thuyết Pháp; Kumārakassapo đứng đầu về hùng biện; Kaccāna đứng đầu về phân loại; Koṭṭhita đứng đầu về tuệ phân tích; và nhiều vị đại trưởng lão khác.
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada được ghi nhớ thuộc lòng, truyền khẩu, tụng đọc mỗi ngày như một Pháp thân Đức Phật (Dhammakàya) hiện diện thuyết pháp giác ngộ mọi người.
2. Kinh văn và văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada
Kinh văn Phật giáo Nguyên thuỷ cũng chính là văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada ban đầu được truyền khẩu, sau đó được khắc trên đá, chép trên lá bối hiện lưu truyền ở Srilanka (Tích Lan) Burma (Miến Điện) Campuchia, Lào, India (Ấn Độ) và ở một số vùng Phật giáo Pakistan, Afganistan, Việt Nam trong 03 giỏ chứa (Tam tạng) là: Tạng Kinh (sutta pitaka); Tạng Luật (Vinaya pitaka); Tạng A Tỳ Đàm (Abhidhamma Pitaka). Tam Tạng được chuyển tải bằng 09 thể loại văn học là:
1. Kinh (Sutta) thể loại văn xuôi, có nội dung phân tích (Vibhaṅga) và giải thích (Niddesa), phổ biến trong tạng Luật và tạng Kinh như Trường bộ kinh (Dìgha Nikaya), Tương ưng kinh (Samyutta Nikaya), Đại phẩm Luật (Mahavagga), Tiểu phẩm Luật (Culla vagga).
2. Ứng tụng (Geyya) có hai thể loại văn xuôi và văn vần (kệ ngôn); hay là những bài giảng có kệ ngôn (Sagāthā) tìm thấy nhiều trong Tạng kinh và tạng Luật.
3. Ký thuyết (Veyyākaraṇa) thể loại văn xuôi có nội dung hệ thống luận lý, triết học ( bao gồm các thành tố của Tâm, sở hửu tâm , qui trình của Tâm , qui trình của Vật chất cơ bản) được tìm thấy trong Kinh Tạng và A Tỳ Đàm Tạng rất ít trong Luật ( Vinaya).
4. Kệ ngôn (Gāthā) thể loại văn vần: như tập Trưởng lão Tăng kệ (Theragāthā), Trưởng lão Ni kệ (Therīgāthā), Pháp cú (Dhammapada), và một số kệ ngôn trong kinh tập (Suttanipāta) là thể loại văn học đã từng được Tu sĩ Bà la môn dùng để chuyển hóa tư tưởng, sáng tác, thể hiện tu chứng.
5. Cảm hứng ngữ (Udāna) gồm 82 bài kệ mà Đức Phật tự thốt lên, không do ai cầu thỉnh thuyết pháp. Thể loại văn học dạng thi kệ này phổ biến trong đời sống cư dân các giai cấp ở Ấn Độ thời cổ đại.
6. Như thị thuyết (Itivuttaka) gồm 110 bài pháp được mở đầu và kết luận với câu “Vuttaṃ h'etaṃ bhagavatā” (Điều này đã được Đức Thế Tôn nói đến). Thể loại văn học này được tìm thấy trong Tiểu bộ kinh.
7. Bổn sanh (Jātaka) gồm 550 câu chuyện liên quan đến Đức Phật và các nhân vật liên quan (Chuyện tiền thân Đức Phật). Thể loại Bổn sanh kết nối các sự kiện, nhân vật, hoàn cảnh từ quá khứ đến hiện tại để nhận diện các vấn đề về nhân quả báo ứng, tình trạng duyên nghiệp, nhân vật trong sự kiện.
8. Vị tằng hữu (Abbhūtadhamma) có nghỉa là những điều lạ lùng, kỳ diệu khó xảy ra. Thể loại văn học này chuyển tải các nội dung đặc biệt như nói đến bốn pháp kỳ diệu hy hữu của vua Chuyển Luân Vương; bốn pháp kỳ diệu của Tôn giả Ānanda...
9. Phương quảng (Vedalla) thể loại văn học chuyển tải các nội dung hỏi đáp, dẫn chứng đưa đến thể nghiệm nhận thức chân lý như: kinh Cūlavedalla (Tiểu kinh Phương quảng), Mahāvedalla (Đại kinh Phương quảng), kinh Sammādiṭṭhi (kinh Chánh tri kiến), Sakkapañhā (kinh Đế Thích sở vấn).
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada cũng được tìm thấy trong các bản kinh như Mi Tiên vấn đáp (Milanda Panha) giải thích; trình bày qua thi ca, sử thi như Mahavamsa (Đại sử của Tích Lan), Dipavamsa (Đảo sử) và các bản giải thích ý nghỉa các bài kinh qua một số bộ sách được dịch sáng tác bởi nhiều vị Luận sư như ngài Budhaghosa, ngài Dhammapala có 76 tập.
1. Kinh (Sutta) thể loại văn xuôi, có nội dung phân tích (Vibhaṅga) và giải thích (Niddesa), phổ biến trong tạng Luật và tạng Kinh như Trường bộ kinh (Dìgha Nikaya), Tương ưng kinh (Samyutta Nikaya), Đại phẩm Luật (Mahavagga), Tiểu phẩm Luật (Culla vagga).
2. Ứng tụng (Geyya) có hai thể loại văn xuôi và văn vần (kệ ngôn); hay là những bài giảng có kệ ngôn (Sagāthā) tìm thấy nhiều trong Tạng kinh và tạng Luật.
3. Ký thuyết (Veyyākaraṇa) thể loại văn xuôi có nội dung hệ thống luận lý, triết học ( bao gồm các thành tố của Tâm, sở hửu tâm , qui trình của Tâm , qui trình của Vật chất cơ bản) được tìm thấy trong Kinh Tạng và A Tỳ Đàm Tạng rất ít trong Luật ( Vinaya).
4. Kệ ngôn (Gāthā) thể loại văn vần: như tập Trưởng lão Tăng kệ (Theragāthā), Trưởng lão Ni kệ (Therīgāthā), Pháp cú (Dhammapada), và một số kệ ngôn trong kinh tập (Suttanipāta) là thể loại văn học đã từng được Tu sĩ Bà la môn dùng để chuyển hóa tư tưởng, sáng tác, thể hiện tu chứng.
5. Cảm hứng ngữ (Udāna) gồm 82 bài kệ mà Đức Phật tự thốt lên, không do ai cầu thỉnh thuyết pháp. Thể loại văn học dạng thi kệ này phổ biến trong đời sống cư dân các giai cấp ở Ấn Độ thời cổ đại.
6. Như thị thuyết (Itivuttaka) gồm 110 bài pháp được mở đầu và kết luận với câu “Vuttaṃ h'etaṃ bhagavatā” (Điều này đã được Đức Thế Tôn nói đến). Thể loại văn học này được tìm thấy trong Tiểu bộ kinh.
7. Bổn sanh (Jātaka) gồm 550 câu chuyện liên quan đến Đức Phật và các nhân vật liên quan (Chuyện tiền thân Đức Phật). Thể loại Bổn sanh kết nối các sự kiện, nhân vật, hoàn cảnh từ quá khứ đến hiện tại để nhận diện các vấn đề về nhân quả báo ứng, tình trạng duyên nghiệp, nhân vật trong sự kiện.
8. Vị tằng hữu (Abbhūtadhamma) có nghỉa là những điều lạ lùng, kỳ diệu khó xảy ra. Thể loại văn học này chuyển tải các nội dung đặc biệt như nói đến bốn pháp kỳ diệu hy hữu của vua Chuyển Luân Vương; bốn pháp kỳ diệu của Tôn giả Ānanda...
9. Phương quảng (Vedalla) thể loại văn học chuyển tải các nội dung hỏi đáp, dẫn chứng đưa đến thể nghiệm nhận thức chân lý như: kinh Cūlavedalla (Tiểu kinh Phương quảng), Mahāvedalla (Đại kinh Phương quảng), kinh Sammādiṭṭhi (kinh Chánh tri kiến), Sakkapañhā (kinh Đế Thích sở vấn).
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada cũng được tìm thấy trong các bản kinh như Mi Tiên vấn đáp (Milanda Panha) giải thích; trình bày qua thi ca, sử thi như Mahavamsa (Đại sử của Tích Lan), Dipavamsa (Đảo sử) và các bản giải thích ý nghỉa các bài kinh qua một số bộ sách được dịch sáng tác bởi nhiều vị Luận sư như ngài Budhaghosa, ngài Dhammapala có 76 tập.
3. Triết học của văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada
Tính triết học trong văn học Phật giáo Nguyên thủy dựa trên quy luật: Do cái này có mặt nên cái kia có mặt. Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt. Do cái này sinh nên cái kia sinh. Do cái này diệt nên cái kia diệt.
Mọi thứ đủ điều kiện (duyên) sinh ra không đủ điều kiện không sinh ra nên “Ai thấy được Duyên, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy duyên”.
Nghiệp chính là quyến thuộc của mọi Người, cố ý hành động nói suy nghĩ sẽ tạo ra nghiệp quả tốt xấu.
“Mắt tai mũi lưỡi thân ý của tôi của người, bên trong bên ngoài đều trong tình trạng thay đổi mang đến khổ… không cố chấp. Mọi thứ không phải của Ta "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", cần phải quán xét bằng trí tuệ.
Mọi thứ đủ điều kiện (duyên) sinh ra không đủ điều kiện không sinh ra nên “Ai thấy được Duyên, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy duyên”.
Nghiệp chính là quyến thuộc của mọi Người, cố ý hành động nói suy nghĩ sẽ tạo ra nghiệp quả tốt xấu.
“Mắt tai mũi lưỡi thân ý của tôi của người, bên trong bên ngoài đều trong tình trạng thay đổi mang đến khổ… không cố chấp. Mọi thứ không phải của Ta "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", cần phải quán xét bằng trí tuệ.
4. Ngôn ngữ văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada
Ngôn ngữ Đức Phật thuyết giảng Pháp là ngôn ngữ truyền thống của dòng Thích Ca (cha), dòng Koliya (mẹ), ngôn ngữ giai cấp vua chúa (Khattiya) dòng Thích Ca và ngôn ngữ phổ thông đương thời. Đức Phật đã từ chối đề nghị của hai anh em Tỳ kheo Yamelu và Tekula có biệt tài ngôn ngữ xin chuyển ngữ Pháp của Phật qua ngôn ngữ thi ca Sankrit; Đức Phật cho phép các Tỳ kheo học tập giáo Pháp bằng phương ngữ của mình. Luận sư Budhaghosa (thế kỷ IV TCN) đã cho rằng chữ saka nirutti (phương ngữ) ở đây là ngôn ngữ Magadha (Ma Kiệt Đà) lúc đó.
Thời đại của Đức Phật, ở Ấn Độ có trên 12 quốc gia và các bộ tộc đã tạo nên sức mạnh truyền thống văn hóa của Ấn Độ, nước Magadha (Ma Kiệt Đà) dưới quyền cai trị của vua Tần Bà Sa La (Bimbisara 543-491 TCN) có vị trí địa chính trị quan trọng toàn vùng đồng bằng sông Hằng (Ganga), nông nghiệp phát triển, sản vật dồi dào, giao thông bằng đường sông, đường bộ thuận lợi, kết nối với các Quốc gia lân cận, nhiều nhà mua bán đã đến Magadha trao đổi hàng hóa, vì thế ngôn ngữ Maghadha dùng để trao đổi mua bán, hàng hóa, văn hóa xã hội trong đẳng cấp thương buôn thuộc các quốc gia đồng bằng sông Hằng.
Ngôn ngữ Magadha không phải là ngôn ngữ Sankrit của giai cấp Bà La Môn. Do đặc tính của ngôn ngữ Sankrit dung chứa thi ca, học thuật, nghi lễ cúng bái Phạm Thiên các vị Thánh thần. Ngôn ngữ Magadha có thể là ngôn ngữ thế tục pha trộn với Sanskrit (hydrid Sanskrit), khả năng ngôn ngữ Magadha hình thành từ tầng lớp vua chúa (khattiya) pha trộn với phương ngữ bản địa phục vụ lợi ích cho số đông trở thành ngôn ngữ văn học Prakit có năng lực dung chứa các nền văn hóa đa dạng. Ngôn ngữ Magadha hoặc ngôn ngữ Kosala là ngôn ngữ tiền thân của Pali hay chính là ngôn ngữ Pali đã trở thành nguồn cảm hứng của nhiều nhà nghiên cứu sau này như ngài Budhaghosa thế kỷ IV, Rhys Davids, Oldenberg, Geiger thế kỷ XIX, XX, v.v..
Luận sư Budhaghosa thế kỷ IV đã dùng ngôn ngữ Pali ghi chép toàn bộ dòng văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada trên lá bối hay còn gọi là Tam tạng Pali (Tipitaka).
...
Thời đại của Đức Phật, ở Ấn Độ có trên 12 quốc gia và các bộ tộc đã tạo nên sức mạnh truyền thống văn hóa của Ấn Độ, nước Magadha (Ma Kiệt Đà) dưới quyền cai trị của vua Tần Bà Sa La (Bimbisara 543-491 TCN) có vị trí địa chính trị quan trọng toàn vùng đồng bằng sông Hằng (Ganga), nông nghiệp phát triển, sản vật dồi dào, giao thông bằng đường sông, đường bộ thuận lợi, kết nối với các Quốc gia lân cận, nhiều nhà mua bán đã đến Magadha trao đổi hàng hóa, vì thế ngôn ngữ Maghadha dùng để trao đổi mua bán, hàng hóa, văn hóa xã hội trong đẳng cấp thương buôn thuộc các quốc gia đồng bằng sông Hằng.
Ngôn ngữ Magadha không phải là ngôn ngữ Sankrit của giai cấp Bà La Môn. Do đặc tính của ngôn ngữ Sankrit dung chứa thi ca, học thuật, nghi lễ cúng bái Phạm Thiên các vị Thánh thần. Ngôn ngữ Magadha có thể là ngôn ngữ thế tục pha trộn với Sanskrit (hydrid Sanskrit), khả năng ngôn ngữ Magadha hình thành từ tầng lớp vua chúa (khattiya) pha trộn với phương ngữ bản địa phục vụ lợi ích cho số đông trở thành ngôn ngữ văn học Prakit có năng lực dung chứa các nền văn hóa đa dạng. Ngôn ngữ Magadha hoặc ngôn ngữ Kosala là ngôn ngữ tiền thân của Pali hay chính là ngôn ngữ Pali đã trở thành nguồn cảm hứng của nhiều nhà nghiên cứu sau này như ngài Budhaghosa thế kỷ IV, Rhys Davids, Oldenberg, Geiger thế kỷ XIX, XX, v.v..
Luận sư Budhaghosa thế kỷ IV đã dùng ngôn ngữ Pali ghi chép toàn bộ dòng văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada trên lá bối hay còn gọi là Tam tạng Pali (Tipitaka).
...
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore