2023-05-30, 06:04 PM
Tôi sinh sau đẻ muộn những năm sau khi Sài Gòn mất tên, nhưng rất may cho tôi là gout nghe nhạc của tôi được ảnh hưởng từ mẹ và anh hai nên đến tận bây giờ tôi vẫn yêu thích dòng nhạc cùng với những giọng hát xưa.
…
3 nam danh ca nổi tiếng nhất của dòng nhạc tình ca trước 1975: Anh Ngọc, Duy Trác, Sĩ Phú
Nếu như ở thể loại nhạc vàng có “tứ trụ” gồm 4 nam ca sĩ – nhạc sĩ tài năng, nổi tiếng và được yêu thích nhất: Duy Khánh, Chế Linh, Nhật Trường, Hùng Cường, thì ở thể loại nhạc tình ca (cách gọi chung cho loại nhạc trữ tình bán cổ điển trình diễn thính phòng) cũng có 3 người nam danh ca nổi tiếng nhất, được nhiều thế hệ ca sĩ kính trọng và ngưỡng mộ, đó là Duy Trác, Sĩ Phú và Anh Ngọc.
Điểm chung của những nam danh ca này là không được qua một trường lớp đào tạo thanh nhạc nào. Điều này có vẻ là một nghịch lý, vì dòng nhạc trữ tình tiền chiến có tính chất thính phòng, bán cổ điển, mang tính nhạc thuật cao, dòng nhạc nhưng các nam ca sĩ này vẫn chinh phục được khán giả bằng giọng hát rất tình cảm, và cũng không kém phần điêu luyện.
Một điểm chung đặc biệt khác của cả 3 nam canh ca Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Ngọc, đó là dù sở hữu giọng hát được đánh giá là “thượng thặng”, ít người sánh bằng như vậy, nhưng họ đều xem việc đi hát như là một cuộc dạo chơi, không phải là nghề chính và mỗi người đều có công việc chuyên môn khác nhau. Nếu như Duy Trác là một luật sư (đồng thời là dịch giả – ký giả), Anh Ngọc là nhân viên sở thông tin trong 10 năm, sau đó nhập ngũ và làm việc ở trong đài phát thanh quân đội, còn Sĩ Phú là một quân nhân chuyên nghiệp cấp tá.
1. Danh ca Anh Ngọc
Mặc dù được mọi người xem là một nam danh ca nổi tiếng của tân nhạc từ cuối thập niên 1940 cho đến nhiều năm sau đó, nhưng ít người biết rằng ca hát không phải là nghề chính của Anh Ngọc.
Ông từng chia sẻ về việc này:
“Thực ra ca nhạc đâu phải là nghề của tôi. Nhiều người không biết đến chuyện đó, nên cho là tôi suốt đời hoạt động ca nhạc. Nhưng thực ra không phải. Điều đó người ta không nghĩ ra, tôi cũng không muốn nói đến. Thực ra tôi không phải là một người ca sĩ nhà nghề, đi hát chỉ là chuyện phụ thêm thôi.”
Anh Ngọc sinh năm 1925 tại Hà Đông, trưởng thành tại Hà Nội và từng theo học các trường Thăng Long, Puginier và Louis Pasteur ở đây. Dù sinh trưởng trong một gia đình mang tính truyền thống, nhưng từ khi còn rất trẻ, ông đã yêu thích ca hát, đặc biệt là các bài nhạc Tây, khi mà tân nhạc Việt Nam vẫn chưa hình thành rõ nét.
Năm 1947, ông vào Huế thăm một người anh làm việc ở đây và lưu lại Huế hơn 1 năm. Trong thời gian này ông được nữ danh ca Minh Trang mời hát trên đài phát thanh Huế.
Năm 1949 Anh Ngọc vào Sài Gòn để khởi đầu cộng tác với đài phát thanh Pháp Á, nơi Minh Trang đang cộng tác. Sau đó, ông lần lượt được mời hát trong chương trình ca nhạc của các đài phát thanh Quân Đội, Đài phát thanh Sài Gòn, đài Mẹ Việt Nam, đài Tiếng Nói Tự Do và Đài Truyền Hình Việt Nam.
Thời gian sau đó, Anh Ngọc trở xướng ngôn viên trên đài phát thanh, đồng thời phụ trách chương trình ca nhạc “Tiếng Nhạc Tâm Tình” từ đầu thập niên 1960 cho đến tháng 4 năm 1975. Chương trình “Tiếng Nhạc Tâm Tình” của Anh Ngọc từng được nhà văn Mai Thảo nhận xét là “một chương trình được yêu mến, đợi chờ và tán thưởng nhất trong nhiều năm”, được sự cộng tác của các giọng ca thượng thặng của nền tân nhạc Việt Nam ở trong thời kỳ vàng son, như là các canh ca Kim Tước, Thái Thanh, Mai Hương, Hà Thanh,… cùng sự phụ hoạ của một ban nhạc đàn dây gồm những nhạc sĩ tên tuổi.
Về giọng hát của danh ca Anh Ngọc, nhiều đồng nghiệp và người thuộc giới văn nghệ đã thừa nhận tài năng của ông, một giọng ca trung hòa được 2 yếu tố là giọng ca tuyền cảm và dày dặn về mặt kỹ thuật:
“Ngoài việc truyền đạt lời hát một cách rõ ràng và chuẩn xác, Anh Ngọc còn sử dụng cách luyến láy cũng như phân đoạn câu hát để nói lên ý nghĩa của bài hát, hay nói đúng hơn là những ý nghĩa chứa đựng trong bài hát” (Jason Gibb)
“Tiếng hát ông rất mạnh, sang sảng. Ông lên tới những nốt rất cao mà không mỏng, xuống được những nốt trầm mà vẫn dầy, vẫn rõ. Khoảng cách của các nốt nhạc được ông xướng lên đồng đều, không lép mà chắc nịch. Phải nói đến chuyện trời cho ấy vì ngày nay nhờ kỹ thuật âm thanh ai cũng có thể tự nghĩ rằng mình có giọng ca thiên phú.
Anh Ngọc có làn hơi phong phú. Ông là một trong số ca sĩ hiếm hoi của Việt Nam vẫn giữ được trường độ của một câu nhạc rất dài. Từ chuyện thiên phú phải nói đến chuyện nhân tài: ông hiểu nội dung ca khúc và cách diễn tả. Nói một cách khác ông rất thông minh và nắm được cách thế bắt buộc của câu hát. (ca sĩ Quỳnh Giao)
Lần cuối cùng danh ca Anh Ngọc đứng trên sân khấu là ở tuổi 79. Cho đến nay, dù vắng bóng đã lâu, nhưng hình ảnh phong độ cùng “giọng hát trượng phu” đó sẽ không bao giờ bị phai mờ theo thời gian. Hiện nay ông đang an nhàn tận hưởng tuổi 96 bên gia đình.
…
3 nam danh ca nổi tiếng nhất của dòng nhạc tình ca trước 1975: Anh Ngọc, Duy Trác, Sĩ Phú
Nếu như ở thể loại nhạc vàng có “tứ trụ” gồm 4 nam ca sĩ – nhạc sĩ tài năng, nổi tiếng và được yêu thích nhất: Duy Khánh, Chế Linh, Nhật Trường, Hùng Cường, thì ở thể loại nhạc tình ca (cách gọi chung cho loại nhạc trữ tình bán cổ điển trình diễn thính phòng) cũng có 3 người nam danh ca nổi tiếng nhất, được nhiều thế hệ ca sĩ kính trọng và ngưỡng mộ, đó là Duy Trác, Sĩ Phú và Anh Ngọc.
Điểm chung của những nam danh ca này là không được qua một trường lớp đào tạo thanh nhạc nào. Điều này có vẻ là một nghịch lý, vì dòng nhạc trữ tình tiền chiến có tính chất thính phòng, bán cổ điển, mang tính nhạc thuật cao, dòng nhạc nhưng các nam ca sĩ này vẫn chinh phục được khán giả bằng giọng hát rất tình cảm, và cũng không kém phần điêu luyện.
Một điểm chung đặc biệt khác của cả 3 nam canh ca Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Ngọc, đó là dù sở hữu giọng hát được đánh giá là “thượng thặng”, ít người sánh bằng như vậy, nhưng họ đều xem việc đi hát như là một cuộc dạo chơi, không phải là nghề chính và mỗi người đều có công việc chuyên môn khác nhau. Nếu như Duy Trác là một luật sư (đồng thời là dịch giả – ký giả), Anh Ngọc là nhân viên sở thông tin trong 10 năm, sau đó nhập ngũ và làm việc ở trong đài phát thanh quân đội, còn Sĩ Phú là một quân nhân chuyên nghiệp cấp tá.
1. Danh ca Anh Ngọc
Mặc dù được mọi người xem là một nam danh ca nổi tiếng của tân nhạc từ cuối thập niên 1940 cho đến nhiều năm sau đó, nhưng ít người biết rằng ca hát không phải là nghề chính của Anh Ngọc.
Ông từng chia sẻ về việc này:
“Thực ra ca nhạc đâu phải là nghề của tôi. Nhiều người không biết đến chuyện đó, nên cho là tôi suốt đời hoạt động ca nhạc. Nhưng thực ra không phải. Điều đó người ta không nghĩ ra, tôi cũng không muốn nói đến. Thực ra tôi không phải là một người ca sĩ nhà nghề, đi hát chỉ là chuyện phụ thêm thôi.”
Anh Ngọc sinh năm 1925 tại Hà Đông, trưởng thành tại Hà Nội và từng theo học các trường Thăng Long, Puginier và Louis Pasteur ở đây. Dù sinh trưởng trong một gia đình mang tính truyền thống, nhưng từ khi còn rất trẻ, ông đã yêu thích ca hát, đặc biệt là các bài nhạc Tây, khi mà tân nhạc Việt Nam vẫn chưa hình thành rõ nét.
Năm 1947, ông vào Huế thăm một người anh làm việc ở đây và lưu lại Huế hơn 1 năm. Trong thời gian này ông được nữ danh ca Minh Trang mời hát trên đài phát thanh Huế.
Năm 1949 Anh Ngọc vào Sài Gòn để khởi đầu cộng tác với đài phát thanh Pháp Á, nơi Minh Trang đang cộng tác. Sau đó, ông lần lượt được mời hát trong chương trình ca nhạc của các đài phát thanh Quân Đội, Đài phát thanh Sài Gòn, đài Mẹ Việt Nam, đài Tiếng Nói Tự Do và Đài Truyền Hình Việt Nam.
Thời gian sau đó, Anh Ngọc trở xướng ngôn viên trên đài phát thanh, đồng thời phụ trách chương trình ca nhạc “Tiếng Nhạc Tâm Tình” từ đầu thập niên 1960 cho đến tháng 4 năm 1975. Chương trình “Tiếng Nhạc Tâm Tình” của Anh Ngọc từng được nhà văn Mai Thảo nhận xét là “một chương trình được yêu mến, đợi chờ và tán thưởng nhất trong nhiều năm”, được sự cộng tác của các giọng ca thượng thặng của nền tân nhạc Việt Nam ở trong thời kỳ vàng son, như là các canh ca Kim Tước, Thái Thanh, Mai Hương, Hà Thanh,… cùng sự phụ hoạ của một ban nhạc đàn dây gồm những nhạc sĩ tên tuổi.
Về giọng hát của danh ca Anh Ngọc, nhiều đồng nghiệp và người thuộc giới văn nghệ đã thừa nhận tài năng của ông, một giọng ca trung hòa được 2 yếu tố là giọng ca tuyền cảm và dày dặn về mặt kỹ thuật:
“Ngoài việc truyền đạt lời hát một cách rõ ràng và chuẩn xác, Anh Ngọc còn sử dụng cách luyến láy cũng như phân đoạn câu hát để nói lên ý nghĩa của bài hát, hay nói đúng hơn là những ý nghĩa chứa đựng trong bài hát” (Jason Gibb)
“Tiếng hát ông rất mạnh, sang sảng. Ông lên tới những nốt rất cao mà không mỏng, xuống được những nốt trầm mà vẫn dầy, vẫn rõ. Khoảng cách của các nốt nhạc được ông xướng lên đồng đều, không lép mà chắc nịch. Phải nói đến chuyện trời cho ấy vì ngày nay nhờ kỹ thuật âm thanh ai cũng có thể tự nghĩ rằng mình có giọng ca thiên phú.
Anh Ngọc có làn hơi phong phú. Ông là một trong số ca sĩ hiếm hoi của Việt Nam vẫn giữ được trường độ của một câu nhạc rất dài. Từ chuyện thiên phú phải nói đến chuyện nhân tài: ông hiểu nội dung ca khúc và cách diễn tả. Nói một cách khác ông rất thông minh và nắm được cách thế bắt buộc của câu hát. (ca sĩ Quỳnh Giao)
Lần cuối cùng danh ca Anh Ngọc đứng trên sân khấu là ở tuổi 79. Cho đến nay, dù vắng bóng đã lâu, nhưng hình ảnh phong độ cùng “giọng hát trượng phu” đó sẽ không bao giờ bị phai mờ theo thời gian. Hiện nay ông đang an nhàn tận hưởng tuổi 96 bên gia đình.
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-
願得一心人,
白頭不相離.
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-
願得一心人,
白頭不相離.