Các Ẩn Số Chính Trị Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim-Dung
#49
II. CÁC THÔNG ĐIỆP CHÁNH TRỊ MÀ KIM DUNG ĐƯA RA TRONG MỘT SỐ ĐỀ TÀI QUAN TRỌNG ĐƯỢC ÔNG TRÌNH BÀY VÀ MỔ XÈ.

Ngoài thông điệp mà Kim Dung nhắn gởi cho những ngưởi hoạt động chánh trị qua sự tích các nhơn vật chánh yếu trong các bộ truyện võ hiệp nổi tiếng của ông, lại còn một sổ thông điệp chánh trị khác mà ta có thể nhận thấy qua các vấn đềquan trọng được ông trình bày và mổ xẻ một cách sâu sắc và hấp dẫn.

A. VẤN ĐỀ CHÁNH NGHĨA CỦA CON NGƯỜI TRANH ĐẤU CHẢNH TRỊ.

Người tranh đấu chánh trị có thể phân ra làm hai hạng: một hạng chỉ biết có quyền lợi của mình và trắng trợn nhìn nhận điều này, và một hạng công khai dựa vào một chánh nghĩa. Trong hạng sau này, lại có người thật sự tin tưởng nơi chánh nghĩa mình nêu ra, và người chỉ lợi dụng nó chớ không thành tâm phục vụ nó. Vậy, chánh nghĩa được nêu ra trước hết là để thâu hút sự tán thành và ủng hộ của quần chúng. Nhưng đối với một số người, nó cũng là một lý tưởng biểu tượng cho một lẽ phải cao qui thúc đẩy họ tranh đấu một cách dũng mãnh và liên tục. Dầu thế nào thì vấn đề chánh nghĩa cũng là một vấn đề quan trọng vào bực nhứt trong công cuộc tranh đấu chánh trị. Nó là một trong những yếu tố mang sự thành công đến cho người tranh đấu, vì kẻ tranh đấu cho quyền lợi mình và trắng trợn nhìn nhận điều này thường bị nhiều người chống đối và khó có thể triệt hạ hay chế ngự hết mọi người để đem phần thắng lợi cuối cùng về cho mình.

Trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, ta có thể nhận thắy hai loại chánh nghĩa: một loại dựa vào dân tộc và một loại dựa vào một đạo lý có tánh cách tổng quát hơn.

I. Chánh nghía dựa vào dân tộc.

a. Bản chất của chánh nghĩa dựa vào dân tộc.

Từ khi đã được văn minh, loài người đã thành lập những cộng đồng có tổ chức, nếu nhỏ và thuần túy về huyết thống thì gọi là bộ tộc, còn lớn và có huyết thống phần nào bị pha trộn thì gọi là dân tộc. Ai cũng sanh ra bên trong một cộng đồng như vậy và được nhàu nắn từ nhỏ theo nếp sống vật chất và tinh thần của bộ tộc hay dân tộc của mình nên tự nhiên có những mối liên hệ tình cảm rất sâu đậm với nó. Nói chung thì phần lớn con người đều xem bộ tộc hay dân tộc của mình cao quí hơn bộ tộc hay dân tộc khác. Họ cũng muốn cho bộ tộc hay dân tộc minh vượt lên trên và chế ngự các bộ tộc và dân tộc khác, hay it nhứt cũng không bị bộ tôc hay dân tộc khác chế ngự. Bởi đó, việc phục vụ bộ tộc hay dân tộc tự nhiên trở thành một chánh nghĩa làm động lực cho cuộc tranh đấu chánh trị. Chánh nghĩa này lại càng trở thành cấp thiết để huy động người theo phục vụ nó khi bộ tộc hay dân tộc bị sự uy hiếp hay bị sự chế ngự của bộ tộc hay dân tộc khác.

Giai đoạn làm khung cảnh cho các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung là một giai đoạn trong đó người Hán tộc đã bị sự uy hiếp hay sự chế ngự của những người thuộc bộ tộc khác. Người Khiết Đơn lập nước Đại Liêu đã gây áp lực nặng nề ở phía đông bắc Trung Quốc. Họ Thát Bạt thuộc tộc Tiên Ti lập nước Tây Hạ cũng đã nhiều lần lấn vào biên cảnh của Trung Quốc ỏ phía tây bắc để cướp bóc. Sau đó, người Nữ Chân lập nước Đại Kim đã chiếm đoạt Hoa Bắc trong tay người Hán. Người Mông Cổ đi xa hơn, đã chinh phục cả Trung Quốc để lập nên nhà Nguyên. Sau nữa, người Mãn Châu, một giống dân thuộc tộc Nữ Chân, cũng đã chinh phục Trung Quốc và lập nhà Thanh. Bởi đó, trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, chánh nghĩa dân tộc đã đóng một vai tuồng rất quan trọng đổi với những người Trung Hoa thuộc Hán tộc.

Nói chung thì việc đề cao bộ tộc hay dân tộc mình dễ đưa đến việc xem các bộ tộc hay dân tộc khác là thù địch. Bởi đó, chánh nghĩa dân tộc thường xây dựng trên lòng căm hận bộ tộc hay dân tộc thù địch với mình và điều này làm cho người xem bộ tộc hay dân tộc thù địch đó là tàn bạo hung ác và còn ở trong tình trạng mọi rợ dã man.

Kim Dung dĩ nhiên là đã mô tả điều này trong các bộ truyện võ hiệp nổi tiếng của ông. Nhưng ông cũng đồng thời nêu ra nhiều khía cạnh khác rất đặc biệt để cho chúng ta thấy rằng vấn đề thật sự rất phức tạp chớ không phải là đơn giản như người ta có thể lầm tưởng.

b. Chánh nghĩa dân tộc và các nhân vật chánh yếu trong các truyện võ hiệp Kim Dung.

Nếu chì lấy sự tích các nhân vật chánh yếu đã được nêu ra trên đây để nghiên cứu về vấn đề này, chúng ta có thể nhận thấy rằng chỉ có Lịnh Hồ Xung là hoàn toàn không có liên hệ gì đến sự giiao tiếp giữa Hán tộc với các bộ tộc khác. Phần Hư Trúc thì chỉ có liên hệ đến sự giao tiếp đó ở chỗ ông đã cưới một công chúa Tây Hạ làm vợ. Nhưng điều này không gây trở ngại gì cho công việc của ông hav của các bạn ông.

Mộ Dung Phục và Đoàn Dự thì ở trong những hoàn cảnh rất đặc biệt. Mộ Dung Phục vốn là người thuộc tộc Tiên Ti và mưu đồ chiếm một phần lãnh thổ người Hán để lập nước Đại Yên. Đoàn Dự là người của nước Đại Lý, nhưng tổ tiên ông lại là người Hán tộc và nói chung thì nước Đại Lý của ông trước sau vẫn có sự giao hảo với ngưởi Hán tộc chớ không có sự thù hiềm.

Riêng Dương Khang là người Hán tộc nhưng lại vì ham mê phú quí mà nhận làm con của Hoàng Nhan Liệt, thân vương nước Đại Kim. Ông đã tận lực giúp đỡ nước Đại Kim trong mưu đồ chinh phục đất của Đại Tống. Vậy, ông đã hoàn toàn đi ngược lại chánh nghĩa dân tộc. Do đó, ông đã bị sỉ vả là người nhận giặc làm cha và phản dân hại nước. Trong số những nhơn vật có vấn đề cần phải giải quyết khi muổn phục vụ chánh nghĩa dân tộc thì người ít bị rắc rối nhứt là Trương Vô Kỵ. Ông là người cầm đầu cuộc tranh đấu của người Hán để tự giải phóng khỏi ách thống trị của người Mông Cổ đã thành lập nhà Nguyên. Nhưng người yêu ông là Triệu Minh lại là con gái của một thân vương Mông Cổ đương cầm binh đánh lại các tổ chức người Hán chống đối triều đình. Tuy nhiên, Triệu Minh đã yêu Trương Vô Kỵ đến mức từ bỏ gia tộc và địa vị của mình để theo ông. Lúc đã theo Trương Vô Kỵ rồi, Triệu Minh mặc dầu không trực tiếp giúp đỡ ông chọi lại quân Mông Cổ, cũng đã không chút nào ngăn trở ông trong việc thi hành nhiệm vụ của ông đối với Hán tộc, nên Trương Vô Kỵ đã không phải lọt vào một hoàn cảnh khó xử.

So với Trương Vô Ky, Quách Tĩnh ở vào một tình trạng rắc rối hơn. Lúc nhỏ, ông đã ở đất Mông Cổ và đã được người Mông Cổ tiếp nhận và dưỡng dục. Ổng đã từng hợp tác với các nhà lãnh đạo Mông Cổ đi tranh đấu cho quyền lợi dân Mông Cổ. Do đó, ông đã được Thành Cát Tư Hán yêu mến và hứa gả con gái là Công Chúa Hoa Tranh. Riêng Đà Lôi là con trai của Thành Cát Tư Hãn đã kết nghĩa anh em với ông. Vậy, có thể nói rằng Quách Tĩnh đã có những liên hệ tình cảm và quyền lợi sâu đậm với người Mông Cổ. Nhưng sau đó, các nhà lãnh đạo Mông Cổ lại có ý định xâm chiếm lãnh thổ nhà Đại Tổng của người Hán Tộc. Họ đã tỏ ý sẵn sàng trọng dụng Quách Tĩnh và cho ông một địa vị cao và một thế lực lớn nếu ông chịu hợp tác với họ. Do đó, Quách Tĩnh đã phải chọn lựa giữa chánh nghĩa dân tộc với quyền lợi cùng tình cảm cá nhơn của ông. Tuy bản tánh chậm chạp, ông đã quyết định về vấn đề này một cách nhanh chóng và đã cương quyết đứng về phia chánh nghĩa dân tộc. Ổng đã sẵn sàng lén vào đại bản dinh Mông Cổ để hành thích vị chủ tướng của địch quân mặc dầu vị chủ tướng đó chính là Đà Lôi, người đã từng kết nghĩa anh em với ông.

Có lẽ Quách Tĩnh phần nào dễ quyết định vì thân mẫu ông đã dạy ông bài học yêu nước từ lúc bé. Bà lại đã tự tử sau khi bị Thành Cát Tư Hãn ra lịnh bắt đi để Quách Tĩnh khỏi bị uy hiếp và bắt buộc phải phục vụ người Mông Cổ. Vậy, bà đã vì Thành Cát Tư Hãn mà chết. Mặt khác, Quách Tĩnh thật sự không yêu Công Chúa Hoa Tranh mà lại yêu Hoàng Dung. Điều này thêm vào việc mẹ mất vì Thành Cát Tư Hãn làm cho ông dễ dàng đứng về phía dân tộc minh để chống lại Mông Cổ.

So với Quách Tĩnh, hoàn cảnh Dương Quá lại càng éo le hơn. Dương Quá vổn đã thấy cảnh người Mông Cổ sát hại ngưởi Hán tộc và rất căm phẫn. Nhưng sau khi được biét rằng Quách Tĩnh và Hoàng Dung có dính dáng đến cái chết của thân phụ mình là Dương Khang mà không biết rõ thật sự Dương Khang đã làm những gì, ông đã nảy sanh ý định dựa vào người Mông Cổ để sát hại Quách Tĩnh và Hoàng Dung để báo thù cho thân phụ. Đó là vì ông nhận chân rằng võ công mình còn kém Quách Tĩnh, mà Hoàng Dung lại là người rất có mưu cơ, nên ông không thể thành công nếu không được sự yểm trợ của một thế lực mạnh. Tuy nhiên, khi thấy Quách Tĩnh và Hoàng Dung tận lực bảo vệ thành Tương Dương trước cuộc tấn công của người Mông Cổ, ông lại cảm thấy cố chỗ không ổn nên hóa ra ngần ngại trong việc hãm hại họ. Cuổi cùng, ông đã tránh được việc sa vào lầm lỗi trước đây của thân phụ ông khi đã biết được sự thật về ông này. Chẳng những không sát hại Quách Tĩnh và Hoàng Dung, ông còn giúp họ trong việc chặn đứng một cuộc tấn công của người Mông Cổ trong dịp chúc thọ cho Quách Tường.

c. Hai khía cạnh đặc biệt của vấn đề chánh nghĩa dân tộc, biểu lộ qua trường hợp của Tiêu Phong và Vi Tiều Bảo.

Nhưng về vấn đề chánh nghĩa dân tộc, hai nhơn vật có sự tích đáng lưu ý hơn hết là Tiêu Phong và Vi Tiểu Bảo. Với trường hợp hai nhơn vật này, Kim Dung đã nêu ra hai khía cạnh đặc biệt của vấn đềchánh nghĩa dân tộc.

1) Tiêu Phong vốn là người thuộc bộ tộc Khiết Đơn. Nhưng từ bé, ông đã được giao cho một gia đình người Hán nuôi dưỡng, rồi lại theo người Hán đi học tập văn võ. Cho đến khoảng 30 tuổi, ông đã mang tên là Kiều Phong và chỉ sổng với người Hán. ông đã được nuôi dưỡng và giáo dục trong tinh thần căm thù và khinh thị người Khiết Đơn. Khi hoạt động cho Cái Bang, ông đã lấy việc phá vở các mưu đồ của người Khiết Đơn và giết hại người Khiết Đơn làm những công trạng đáng được khen ngợi.

Đến khoảng 30 tuổi, trong lúc giữ chức vụ Bang Chủ Cái Bang, Kiều Phong mới bị những người thù nghịch vạch rõ chơn tướng ông là người Khiết Đơn. Ông xem việc làm người Khiét Đơn là một sỉ nhục nên rất xấu hổ và bực tức. Trong khi đi điều tra thêm về thân thế mình, có lẽ ông vẫn ngầm hy vọng rằng ông thật sự là người Hán. Nhưng đến lúc đã có bằng chứng không thể chổi cãi được rằng ông là người Khiết Đơn, Tiêu Phong đã chứng kiến được việc quân Đại Tống thuộc giống Hán cư xử một cách tàn bạo dã man đổi với những người dân Khiét Đơn yếu đuối và vô tội. Nhờ đó, ông ý thức rằng sự tàn bạo dã man không phải là bản chất riêng của người Khiết Đơn. Mặc dầu có một nền văn hóa mà họ tự hào là cao hơn văn hóa Khiết Đơn, người Hán cũng có những hành động tàn bạo dã man. Mặt khác, tình yêu của A Châu là một cô gái Hán tộc lúc đã biết chắc ông là người Khiết Đơn còn làm cho Tiêu Phong thấy rằng sự phân biệt giữa các dân tộc không ngăn chận được các cá nhơn dị chủng thông cảm nhau và thương yêu kính mến lẫn nhau.

Những điều trên đây làm cho Tiêu Phong xét lại vấn đề chánh nghĩa dân tộc. Ông đã nhận chân rằng nó không phải có tánh cách khách quan và biểu lộ một chơn lý tuyệt đối, mà là một quan niệm chủ quan và do đó mà có thể đưa đến những cái nhìn và những hành động thiên vị. Người phụng thờ chánh nghĩa dân tộc một cách tuyệt đối lúc nào cũng xem dân tộc minh là giỏi nhứt và luôn luôn có lý. Họ luôn luôn binh vực dân tộc mình và chỉ biết có quyền lợi của dân tộc mình. Do đó, họ có thể tỏ ra bất công và tàn nhẫn đối với dàn tộc khác.

Sau khi đã thấy rõ sự thật về chánh nghĩa dân tộc, Tiêu Phong đã điều chỉnh lại thái độ của mình. Ông vẫn theo chủ trương phục vụ quyền lợi dân tộc mình: đó là dân tộc Khiết Đơn từ khi ông biết chắc là ông thuộc nòi giổng Khiết Đơn. Chắc hẳn là ông không ngần ngại hy sinh quyền lợi và cả tánh mạng mình để bảo vệ nước Đại Liêu nếu nước này bị dị tộc xâm lấn. Nhưng Tiêu Phong đã không tán thành việc nhà vua Đại Liêu mở cuộc xâm lăng Đại Tổng để mở rộng bờ cõi Đại Liêu và làm cho dân Khiết Đơn chế ngự được dân Hán. Ổng đã treo ấn từ quan để khỏi phải tham dự chiến dịch xâm lăng đó. Và ông thà chịu ngồi tù chớ không đổi ý mặc dầu nhà vua Đại Liêu đã tìm mọi cách thuyết phục ông. Cuổi cùng, khi đã được các bạn giải thoát khỏi ngục thất Đại Liêu, ông đã uy hiếp cả vua Đại Lièu để ép ông này chấp nhận xem nước Đại Tống là nước anh em và bỏ ý định xâm lăng của minh. Nhưng ông ý thức rằng đó là một hành động trái với quyền lợi dân tộc mình và đụng chạm đến uy quyền của nhà lãnh đạo nước mình và đã vung gươm tự sát.

2) . Vi Tiểu Bảo không phải bị dồn vào thế phải hủy mình như Tiêu Phong, nhưng cũng đã phải rời bỏ chánh trường. Nỗi khổ tâm của ông có khác nỗi khổ tâm của Tièu Phong, nhưng cũng phát xuất từ một khía cạnh đặc biệt của vấn đề chánh nghĩa dân tộc.

Nhà Thanh vốn do người Mãn Châu xây dựng và khi xâm lăng Trung Quốc, người Mãn Châu đã sát hại rất nhiều người Hán tộc. Thièn Địa Hội là một đoàn thể chủ trương chống lại nhà Thanh để khôi phục nhà Minh: đó là một tổ chức của người Hán ái quốc nhằm mục đích giải phóng dân Hán khỏi ách thống trị của người Mãn Châu. Khi theo Thiên Địa Hội, Vi Tiểu Bảo không phải đã gượng gạo chấp nhận gia nhập vì tình thế bắt buộc mà đã thật sự ngưỡng mộ đoàn thể này, vì từ lúc nhỏ, ông đã bị ảnh hưởng của những người trong giới giang hồ khích động tinh thần dân tộc. Người bạn đầu tiên của Vi Tiểu Bảo trong giới này lại là Mao Thập Bát, một người có nhiệt tâm trong việc giải phóng Hán tộc khỏi sự cai trị của nhà Thanh.

Đối với Vua Khương Hy, Vi Tiểu Bảo chỉ ngẫu nhiên mà được gần gũi. Nhưng về sau, Vi Tiểu Bảo đã có sự thương mến và kính trọng Vua Khương Hy, mà điều này không phải chì vì Khương Hy là một nhà vua và có ban nhiều ơn huệ cho ông. Một trong những lý do làm cho Vi Tiểu Bảo trung thành với Khương Hy là vì qua nhiều cuộc nói chuyện với nhà vua này, ông đã nhận thấy rằng đó là một người thật sự thương nhơn dân và hết lòng lo cho nhơn dân. Vua Khương Hy đã khẳng định rằng dưới quyền mình, bá tánh còn được dễ chịu hơn dưới quyền các nhà vua triều Minh. Điều này đã được chính các học giả Cố Viêm Võ, Tra Kế Tá, Hoàng Lê Châu và Lữ Lưu Lương công nhận với Vi Tiểu Bảo. Tuy vẫn chống vua Khương Hy vì ông này là người Mãn Châu, các học giả người Hán trên đây cũng nhận thấy rằng các vua nhà Minh từ vua khai quốc là Thái Tổ (t.v. 1368-1398) cho đến vua chót là Sùng Trinh (t.v. 1628-1644), người thì tàn nhẫn bạo ngược, người thì mê muội hồ đồ, chẳng ai sáng suốt và tốt bằng Vua Khương Hy.

Vi Tiểu Bảo đã rút lui khỏi chánh trường vì không muốn bị kẹt giữa hai yêu cầu: một bên của những người nhứt định chống Vua Khương Hy vì đó là một nhà vua dị tộc, một bên của Vua Khương Hy bắt buộc ông phải tuyệt đối trung thành với mình và triệt hạ những người chống mình. Tuy không nói một cách rõ ràng, Kim Dung đã cho chúng ta thoáng thấy rằng một trong những lý do làm cho Vi Tiểu Bảo không chịu đứng hẳn về phía chánh nghĩa dân tộc và phản bội Vua Khương Hy là vì ông đã phần nào có cảm giác là nhà vua di tộc đó đã sáng suốt và thương dân Hán hơn là các nhà vua Hán tộc của triều đại trước.

d. Những khổ tâm nan giải mà người theo chánh nghĩa dân tộc có thể gặp.

Với cái chết của Tiêu Phong và sự rút lui khỏi chánh trường của Vi Tiểu Bảo, Kim Dung đã nêu ra những khổ tâm nan giải mà người theo chánh nghĩa dân tộc có thể gặp. Nói chung thì việc phục vụ dân tộc là một việc hợp chánh nghĩa và không ai phủ nhận được điều này. Nhưng liệu con ngưởi có thể chấp nhận làm bất cứ việc gì để phục vụ dân tộc minh hay không?

1). Vấn để này được đặt ra khi các nhà lãnh đạo dân tộc có chủ trương thống trị tất cả các dân tôc khác và áp dụng một chánh sách bạo tàn đổi với tất cả mọi người để đạt mục đích của mình. Việc nhà vua Đại Liêu muốn xâm lăng nước Đại Tống cố thể so sánh với việc Hitler muốn chinh phục các nước Âu Châu khác để tiến đến việc chinh phục hoàn cầu. Và nỗi khổ tâm cùa Tiêu Phong thật cũng chẳng khác nỗi khổ tâm của những người Đức ái quốc, nhưng theo lý tưởng tự do và nhơn bản trong thời Đảng Quốc Xã cầm quyền. Những người này đã bị giằn vặt giữa hai yêu cầu trái ngược nhau. Với tư cách là người Đức, họ thấy phải phục vụ dân tộc Đức. Nhưng với tư cách là người theo lý tưởng tự do và nhơn bản, họ thấy phải chống chọi lại Hitler và do đó mà phải chống chọi lại chánh quyền Đức đương hữu. Họ không phải đã tự tử như Tiêu Phong. Nhưng dầu cuối cùng đã chọn con đường nào, chắc hẳn là họ cũng hết sức khổ tâm.

Một trường hợp khổ tâm tương tự là trường hợp nhà bác học Nga lừng danh Sakharov. Ồng chắc chắn là một người thương nước. Trong lúc còn tin tưởng rằng Liên Sô bị Mỹ uy hiếp và cần tăng cường lực lượng để tự vệ, ông đã tận lực phục vụ chánh quyền cộng sản Nga. Chính ông là người đã chế tạo quả bom khinh khí đầu tiên cho nước mình. Nhưng với việc chánh quyền cộng sản Nga dùng võ lực thanh toán phong trào đòi tự do hóa ở Tiệp Khắc năm 1968, Sakharov đã nhận chân rẳng chính quyền cộng sản Nga có một chánh sách tàn bạo phi nhân và có chủ trương chế ngự cả hoàn cầu để xây dựng một chế độ độc tài toàn diện trên toàn thế giới. Do đó, ông đã chống lại chánh quyền này. Tuy chưa đi đến mức chót như Tiêu Phong là ép được các nhà lãnh đạo nước mình từ bỏ chánh sách của họ rồi tự tử, Sakharov đã thực hiện bước đầu của Tiêu Phong là treo ấn từ quan rồi đi ngồi tù: Ông Sakharov đã bỏ hết các quyền lợi mà ông đã hưởng được trong chế độ cộng sản Liên Sô với tư cách là một nhà bác học xuất sắc lại có công lớn, và hiện đang sổng trong cảnh “nội lưu”, tức là bị bắt buộc phải đến ở một vùng xa thủ đô Moscow do chánh quyền cộng sản Liên Sô chì định.

còn tiếp...
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply


Messages In This Thread
RE: Các Ẩn Số Chính Trị Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim-Dung - by Lục Tuyết Kỳ - 2022-08-15, 12:50 AM