Tiểu thuyết/film Kim Dung thì từ lớn đến bé ai cũng thích từ bao nhiêu năm nay với những môn phái võ lâm, giai nhân tài tử anh hùng tứ phương. Mấy nhà làm film thì kg ngừng cải biên từ bộ truyện chính để sinh ra những bộ film bắt mắt, tình sử éo le để thu hút người xem. Tuy nhiên bài viết này nhân vật chính kg phải là Thần Điêu Đại Hiệp một tay giết vua Mông Cổ nhưng si tình chờ đợi Cô Cô 16 năm, cũng kg phải anh chàng Kiều/Tiêu Phong với môn võ công thượng thừa Giáng Long Thập Bát Chưởng, một chấp ba cao thủ mà quýnh ba người này u đầu mẻ tráng (Đinh Xuân Thu, Du Thản Chi và Mộ Dung Phục), cũng kg phải nói về mấy nàng xinh đẹp hoa thấy hoa ghen, trăng thấy trăng thẹn mà võ công thì cũng kg thua kém mấy đấng nam nhân thậm chí còn thông minh hơn cả Thái Sơn của võ lâm như chưởng môn phái Cổ Mộ Lâm Triều Anh bắt Vương Trùng Dương thua tâm phục khẩu phục còn phải tặng luônn cho bà mộ hoạt tử nhân. Bắt chước sư phụ "Tiêu Phong" 2022 của VB viết dài quảng cáo.
Thật ra thì đề tài này nhiều năm trước tôi và mấy anh em đã hàn huyên rất nhiều, tối nay vô tình có người gửi ra email phổ biến lại bộ sách của GS Nguyễn Ngọc Huy nên tôi lần mò lại rinh vào đây, ai có hứng thì đọc. Một góc nhìn khác với các nhân vật trong truyện võ hiệp Kim Dung.
Bộ sách này là tuỳ bút của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, gồm 29 chương.
...
Tên thật của Kim Dung là Tra Lương Dung, ông sinh vào tháng 3/1924, trong thời gian Trung Quốc xảy ra nội chiến lần thứ 2. Năm 1946, ông vào học tại Học viện Luật của Đại học Đông Ngô Thượng Hải (sau sáp nhập vào Học viện Chính trị Pháp luật Hoa Đông), mùa thu năm 1946, ông làm biên dịch điện tín quốc tế cho tờ Đại Công Báo Thượng Hải. Năm 1948, ông tốt nghiệp và được điều đến làm việc tại phân xã Hong Kong của Đại Công Báo.
Tháng 10/1949, ĐCSTQ thành lập chính quyền, đầu năm 1950 phát động cuộc vận động “trấn phản”. Khi đó, ĐCSTQ coi bố của Tra Lương Dung là Tra Xu Khanh là đại địa chủ và tiến hành phê phán đấu tố, bị phán quyết tội tử hình, ông bị hành quyết bằng súng.
Các Ẩn Số Chính Trị Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim-Dung
Tác Giả: Gs Nguyễn Ngọc Huy
LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc Trung Hoa là một dân lộc có biệt tài kể chuyện. Lịch sử văn học của họ đã trải qua mấy ngàn năm liên tục nên có thể được xem là lâu dài và bền vững nhứt thề giới. Nhiều tác phẩm của họ đã được các dân lộc khác nhất là dân tộc Việt Nam, biết rõ và thưởng thức. Trong số các tác phẩm nảy, có những bộ truyện chẳng những bao gồm những tình tiết gay cấy, những dữ kiện và tư tưởng tân kỳ mà còn chứa đựng một ý nghĩa thâm thúy. Do đó, nó chẳng những hấp dẫn được người bình dân mà còn tạo ra được nhiều đề tài suy nghiệm cho những người có một trình độ học vấn cao.
Trước đây, các bộ truyện PHONG THẦN, TÂY DU, ĐÔNG CHÂU LIỆT QUỐC, TÂY HÁN CHÍ VÀ TAM QUỐC CHÍ đã đồng thời được người bình dân say mê, và người trí thức nghiền ngẫm một cách thích thú để tìm hiểu các ý nghĩa triết lý hoặc các bài học chánh trị tiềm ẩn bên trong tác phẩm. Thời hiện đại, cũng có nhiều tác giả Trung Hoa nổi tiếng.
Nhưng có lẽ ngày nay tác giả được biết nhiều nhất là Kim Dung. Theo một bài đăng trong tuần báo FAR EASTERN ECONOMIC REVIES ngày 8 tháng 8 năm 1985 thì từ khi ông bắt đầu cho đăng các tác phẩm của ông trên các nhựt báo ở Hongkong năm 1955, Kim Dung đã có hàng triệu độc giả trong các cộng đồng Trung Hoa ở khắp nơi trên thế giới ngoài Hoa Lục vì ở Hoa Lục đảng Trung Cộng đã cấm đọc truyện võ hiệp từ năm 1949 với lý do là loại truyện này có trình cách phản động và phong kiến. Phần chánh quyền Đài Bắc thì không cấm nhơn dân đọc truyện võ hiệp nhưng lại bài xích Kim Dung vì ông là người thiên tả.
Tuy nhiên việc cấm đọc truyện võ hiệp Kim Dung đã chấm dứt cả ở Hoa Lục lẫn ở đảo Đài Loan. Theo sự nhận xét của bài báo đăng trên tờ FAR EASTERN ECONOMIC REVIES nói trên đây thì ngày nay, có lẽ Kim Dung là tác giả duy nhứt về tiểu thuyết được hai ông Đặng Tiểu Bình và Tưởng Kinh Quốc thưởng thức. Người dân Hoa Lục rất mê say truyện võ hiệp Kim Dung . Khi tác phẩm ông được phát hành lần đầu tiên ở Quảng Châu, người ta đã nối đuôi nhau để mua và chỉ trong một ngày là sách ông đã bán sạch. Số độc giả của ông ở Hoa Lục sẽ còn tăng thêm vì năm 1985 một nhà xuất bản ở Thiên Tân đã cho in truyện võ hiệp Kim Dung với lối chữ giản hoá hiện đang thông dụng. Ấn bản đầu tiên lên đến 500000 quyển. Ngoài ra còn nhiều nhà xuất bản khác ở Hoa Lục in và phát hành sách của Kim Dung, mỗi bộ sách in ra ít nhứt cũng là 200000 quyển. Một trong những lý do làm cho truyện của Kim Dung được người Trung Hoa cả ở Hoa Lục lẫn hải ngoại nhiệt liệt hoan nghinh như vậy là vì nhờ nó mà các thế hệ trẻ biết được nền văn hoá cổ truyền của dân tộc mình.
Người Việt Nam chúng ta vốn đã chịu nhiều ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và biết thưởng thức các truyện võ hiệp y như người Trung Hoa. Do đó. Kim Dung cũng là tác giả được người Việt Nam chúng ta biết đến nhiều nhứt. Vào cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970 ở Miền Nam Việt Nam. phong trào đọc truyện võ hiệp Kim Dung rất mạnh. Thời đó, trừ ra một vài tở báo có một vị thế đặc biệt vững chắc còn thì đều phải đăng bộ tiểu thuyết Kim Dung đang viết và đăng mỗi ngày trên các báo Hoa ngữ xuất bản ở Hongkong và Chợ Lớn. Nhựt báo Việt Nam nào trễ nải trong việc dịch và đăng lại bộ tiểu thuyềt ấy thì thường mất nhiều độc giả.
Trong Phái Đoàn V. N. C. H. tham dự Hòa Hội ở Paris từ cuối năm 1968, bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ của Kim Dung đã là một đề tài mạn đàm hữu ích. Phái Đoàn này vốn gồm nhiều thành phần khác nhau. Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ lúc đó là Phó Tổng Thống đã được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu giao cho nhiệm vụ giám sát Phái Đoàn. Ông Đại Sứ Phạm Đăng Lâm, lúc đó là Tổng Lãnh Sự V. N. C. H. ở Pháp. được bổ nhiệm làm Trưởng Phái Đoàn . Ngoài ra, về phía các nhơn viên của Chánh Phủ V. N. C. H. thời đó còn có Ông Nguyên Xuân Phong, nguyên Bộ Trưởng Bộ Lao Động rồi Bộ Xã Hội và một số viên chức các bộ, nhất là Bộ Ngoại Giao. Nhưng bên cạnh các vị trên đây, Phái Đoàn lại có những người không phải là nhơn viên chánh phủ như Luật Sư Vương Văn Bắc, Nữ Luật Sư Nguyễn Thị Vui và chúng tôi, lúc đó là Tổng Thư Ký Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Những người không phải là nhơn viên chánh phủ bên trong Phái Đoàn, tuy đồng ý với chánh phủ về việc phải bảo vệ Miền Nam Việt Nam chống lại sự xâm lăng của Cộng Sản, nhưng không phải tán thành chánh phủ về mọi việc. Đặc biệt Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến mà chúng tôi là Tổng Thư Ký lúc đó ở vào vị thế một chánh đảng đối lập. Các dân biểu của Phong Trào đã nhiều lần cùng với các dân biểu đối lập khác biểu quyết chống lại các dự luật của chánh phủ và lên tiếng đòi hỏi chánh phủ phải thực thi dân chủ. bảo đảm các quyền tự do căn bản của người công dân và thanh trừng các phần tử tham nhũng hiếp đáp bóc lột nhơn dân.
Khi Hòa Hội sắp khai mạc, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã cho người sang mướn một biệt thự ở vùng Neuilly làm nơi ăn ở cho các nhơn viên Phái Đoàn không có tư thất ở Paris. Việc nhiều nhơn viên của Phải Đoàn ở chung với nhau một chỗ có hai cái lợi: một là đỡ tốn kém, hai là các nhơn viên thường gặp mặt nhau và có thể tập họp nhau nhanh chóng để thảo luận về công việc của Phái Đoàn. Tất cả mọi người lúc đó đều đồng tâm nhất trí trong việc đối phó với Cộng Sản. Nhưng giữa Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ và các cộng sự viên của ông một bên, và các nhơn viên Phái Đoàn không thuộc thành phần chánh phủ một bên, vẫn có nhiều sự dị biệt về nhiều mặt. Chẳng những không có cái nhìn giống nhau về các vấn đề chánh trị nội bộ của V.N.C.H., họ còn có những sự khác nhau trong nghề nghiệp, trong quan niệm về cuộc đời, trong nếp sổng cũng như trong lề lối tiêu khiển. Bởi đó, ngoài việc trao đổi tin tức mỗi người thâu lượm được và thảo luận với nhau về những việc phải làm để đối phó với Cộng Sản, họ không còn điểm tương đồng nào khác để thắt chặt thêm sự giao hảo với nhau.
Bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ được đăng trên báo hằng ngày của Sài Gòn lúc đó đã cung cấp một đề tài rất hữu ích cho mọi người. Trong Phái Đoàn, ai cũng đọc bộ võ hiệp trên đây do người ở Sài Gòn gởi qua và cũng đều thích thú theo dõi nó. Việc mạn đàm về các nhơn vật và các tình tiết trong TIẾU NGẠO GIANG HỒ đã giúp cho các nhơn viên Phái Đoàn V. N. C. H. sống chung nhau tại biệt thự mướn ở Neuilly có dịp nói chuyện vui vẻ với nhau ngoài công việc Phái Đoàn mà không sự đụng chạm đến nhau và mất niềm hảo cảm đối với nhau.
Ở Miền Bắc Việt Nam trước đây chánh quyền cộng sản đã cấm đọc truyện võ hiệp. Nhưng sau khi Cộng Sản chiếm lấy Miền Nam Việt Nam, nhơn dân Miền Nam vẫn tiếp tục đọc các bộ truyện võ hiệp Kim Dung mà họ còn giữ được và ngay cả đến bọn cán bộ cộng sản cũng đọc và say mê các tác phẩm ấy. Ngoài ra, nhơn dân Miền Bắc Việt Nam ngày nay cũng thích thú đọc truyện võ hiệp Kim Dung. Riêng cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại thì từ mấy năm trước đây đã có phong trào đọc lại truyện võ hiệp Kim Dung và hiện giờ lại đến phong trào xem các phim video vê các bộ truyện ấy.
Truyện võ hiệp Kim Dung đã phổ biến trong giới độc giả Việt Nam đến mức đó thì tự nhiên phải có nhiều người Việt Nam viết bài bình luận về nó. Trong số những người này, cũng có kẻ đề cập đến một vài khía cạnh có liên quan đến chánh trị. Lúc bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ vừa chấm dứt, Ông Trần Việt Sơn đã viết bài đăng trong hai số 1683 và 1684 của báo CHÍNH LUẬN để nêu ra một số nhận xét về hồi kết cuộc của bộ truyện đó. Các bài này đã được trích đăng lại trong bản dịch TIẾU NGẠO GIANG HỒ của Ông Hàn Giang Nhạn (Quyền 14-15. trang 2679- 2686).
Trong các bài báo nêu ra trên đây Ông Trần Việt Sơn đã nhấn mạnh chỗ trong TIẾU NGẠO GIANG HỒ các môn phái không thực hiện được sự đoàn kết nội bộ và không thật tâm đoàn kết với các môn phái cùng mục tiêu đấu tranh đều bị tiêu diệt. Ông cũng lưu ý rằng những người sống sót trong cuộc đấu tranh và không những sống sót mà còn thành công rực rỡ là những người tính việc đoàn kết thực sự, có thái độ quên mình để lo cho đại cuộc nên không tranh giành quyền vị, và áp dựng đúng những nguyên tắc của lẽ đạo Đông Phương.
Ông Trần Việt Sơn là một nhà bình luận chánh trị nổi tiếng của Miền Nam Việt Nam trước đây. Bài ông viết về TIỂU NGẠO GIANG HỒ hiển nhiên là có ý nhắn nhủ các chánh khách và các chánh đảng quốc gia Việt Nam nên rút ra từ bộ truyện võ hiệp này các bài học cần thiết. nhất là bài học đoàn kết để đối phó hữu hiệu với Cộng Sản. Vậy, ông đã phần nào đề cập đến một khía cạnh chánh trị trong truyện võ hiệp Kim Dung. Nhưng Ông Trần Việt Sơn đã không đi sâu hơn vào câu chuyện về vấn để này. Ông cũng không nói đến các khía cạnh chánh trị khác trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung. Ngoài ông ra, ít có ai khác nghĩ rằng Kim Dung có thể có một dụng ý chánh trị khi viết các tác phẩm của mình. Do đó, dường như chưa có tác giả nào nghiên cứu kỹ các ẩn sổ chánh trị bên trong các tác phẩm của nhà đại văn hào này.
Sự khiếm khuyết nói trên đây, có lẽ phát xuất từ lập trường chánh trị của chính Kim Dung. Trong một bài đăng ở NGUYỆT SAN THUẦN VĂN HỌC và được trích đăng lại trong bản dịch LỘC ĐỈNH KÝ của Hàn Giang Nhạn (Quyển 2, trang 208-212), Kim Dung đã tuyên bố như sau: “Nội dung tiểu thuyết không tránh khỏi sự biểu lộ những tư tưởng của tác giả, nhưng không phải tác giả cố ý đem nhân vật, sự tích cùng bối cảnh rời đến một lãnh vực tư tưởng hoặc chính sách nào đó… Tiểu thuyết võ hiệp không liên quan gì đến tư tưởng chánh trị, ý thức tôn giáo, khoa học trúng hay trật, đạo đức phải hay trái…”
Với những lời lẽ như trên, Kim Dung đã gần như khẳng định là ông không có dụng ý chánh trị gì khi viết các bộ tiểu thuyết võ hiệp lừng danh của ông. Dĩ nhiên là tác giả phải có những lý do đặc biệt để nói như vậy. Nếu không phải là người thân cận với ông hoặc có những tri thức rõ rệt về thân thế của ông, chúng ta rất khó suy đoán ra các lý do này. Điều mà độc giả không có hân hạnh biết rõ tác giả có thể nhận thấy là mặc dầu tác giả bảo rằng ông không có dụng ý chánh trị khi viết các bộ tiểu thuyết võ hiệp của ông, một số trong các bộ tiểu thuyết này đã có những dữ kiện có ý nghĩa chánh trị. Các dữ kiện này vừa đủ số lượng vừa ăn khớp vào nhau để có thể đưa ra những thông điệp về lập trường của tác giả.
Cứ theo các bài báo Hoa ngữ được trích đăng trong bản dịch LỘC ĐỈNH KÝcủa Hàn Giang Nhạc (Quyển I – trang 5-10) thì lúc Trung Cộng mới tranh đoạt được quyền lãnh đạo Trung Quốc, Kim Dung còn ở lại lục địa, và sau đó, ông mới dời ra Hongkong. Lúc đầu, ông làm biên tập viên cho hai tờ báo thiên tả tại đó là ĐẠI CÔNG BÁO và TRƯỜNG THÀNH HỌA BÁO. Đến năm 1957, ông mới thoát ly hai tờ báo nầy.
Qua các chi tiết trên đây và nghiên cứu các ẩn số trong một số tác phẩm của Kim Dung, ta có thể suy đoán rằng tác giả là một người vốn theo lý tưởng cách mạng tả khuynh. Lúc ban đầu, ông tỏ ra có thiện cảm với các đoàn thể theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa và các quốc gia theo chế độ cộng sản, và do đó mà chọi lại các đoàn thể thuộc hữu phái và các nước Tây Phưong. Nhưng sau đó, ông nhận chân rằng người cộng sản áp dụng một chánh sách chuyên chế toàn diện, tàn ác và phi nhân nên ông đã quay ra kết án họ. Ông cũng đồng thời điều chỉnh lại cái nhìn của ông đối với các đoàn thể chánh trị có lập trường chống chọi lại nhau. Ông không còn xem các đoàn thể ấy là chỉ gồm những người xấu và hoàn toán quấy, mà cho rằng mỗi đoàn thể đều có những người tốt và những người xấu và thường thì vừa có phần phải và phần quấy. Mặt khác, một số nhơn vật nổi tiếng và có khả năng cũng không phải được xem như là hoàn toàn tốt và thuộc phe chánh, hay hoàn toàn xấu và thuộc phe tà.
Nhưng kế bên sự thay đổi trong cái nhìn về các đoàn thể và các nhơn vật dính dáng đến cuộc tranh đấu chánh trị, Kim Dung đã đưa ra một triết lý bất biến về cuộc tranh đấu này. Đó là nền triết lý rút ra từ nền đạo lý Đông Phương. Trước hết là tư tưởng Đạo Gia, một học phái đã xuất hiện từ đời Xuân Thu Chiến Quốc (từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 3 tr. Công Nguyên) và đã có một ảnh hưởng tinh thần rất mạnh đối với dân tộc Trung Hoa. Ngoài ra Kim Dung cũng có trực tiếp nêu ra nhiều tư tưởng của Phật Giáo Đại Thừa đã thạnh hành ở Trung Quốc từ đời nhà Tùy (581-618).
Đi sâu vào các chi tiết liên hệ đến các ẩn số chánh trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, chúng ta có thể nhận thấy hai loại dữ kiện:
1- Trước hết, một số nhơn vật đã được dùng để tượng trưng cho một vài quốc gia đặc biệt trên thế giới hoặc để mô tả một vài chánh khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại.
2- Ngoài ra, một số sự việc trong hầu hết nếu không phải là tất cả các bộ truyện võ hiệp Kim Dung đã diễn tả quan niệm của tác giả về vấn đề tranh đấu chánh trị và một phần trong quan điểm này dựa vào nền triết lý của Đạo Gia và của Phật Giáo.
Trong bộ sách này, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày hai loại dữ kiện nói trên đây. Nhưng vì đa số tác phẩm của Kim Dung đã lấy lịch sử Trung Quốc làm khung cảnh nên chúng tôi thiết nghĩ cũng nên cần phác hoạ qua lịch sử này để độc giả có một ý niệm tổng quát về khung cảnh của các bộ truyện võ hiệp Kim Dung.
còn tiếp...
5 có cuốn này ở nhà nè.
Trong thời kỳ tiền sử, người Trung Hoa đã tập trung ở Hoa Bắc, đặc biệt là trên các vùng hoàng thổ phì nhiêu tại lưu vực sông Hoàng, ở các tỉnh Thiễm Tây, Sơn Tây và Hà Nam ngày nay. Ban đầu các bộ tộc người Hoa đã sống độc lập với nhau; về sau, họ mới kết hợp lại với nhau. Theo truyền thuyết thì triều đại đầu tiên là nhà Hạ (2205-1766 trước Công Nguyên); kế đó là nhà Thương (1766-1402 tr. CN) về sau đổi tên lại thành nhà Án (1401-1123 tr. CN). Dưới các triều đại này, chế độ phong kiến mới manh nha.
Từ thế kỷ 12 tr. CN. chế độ phong kiến thành hình với nhà Châu (1122-249 tr.CN). Theo chế độ đó, vua nhà Châu là vị chúa tể tối cao; bên dưới là các vua chư hầu, mỗi người làm chủ một nước. Kinh đô đầu tiên của triều đại này ở gần thành phố Tây An hiện tại (thuộc Thiễm Tây). Trong mấy thế kỷ đầu, vua nhà Châu có một uy quyền rất lớn đối với các vua chư hầu. Nhưng đến thế kỷ thứ 8 tr.CN, nhà Châu suy yếu lần lần. Năm 771, để tránh áp lực của người Khuyển Nhung, vua nhà Châu dời đô về Lạc Ấp (nay là Lạc Dương trong tỉnh Hà Nam). Vì kinh đô mới ở phía đông của kinh đô cũ nên các sử gia đã gọi giai đoạn đầu của triều đại này là Tây Châu đối chiếu lại tên Đông Châu của giai đoạn sau. Uy quyền nhà vua Đông Châu đối với các vua chư hầu ngày một giảm bớt. Trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 5 tr.CN mà sử gọi là thời kỳ Xuân Thu, các nước chư hầu mạnh đã phát triển thế lực bằng cách thôn tính các nước chư hầu nhỏ. Từ cuối thế kỷ thứ 5 đến cuối thế kỷ thứ 3 tr. CN chỉ còn một số ít nước lớn tranh chiến với nhau liên miên nên thời kỳ này được gọi là thời kỳ Chiến Quốc.
Năm 221 tr. CN, vua nước Tần đã chinh phục hết các nước khác và thống nhứt Trung Quốc, thiết lập chế độ quân chủ chuyên chế. Nhà Tần đóng đô ở Hàm Dương (trong tỉnh Thiễm Tây ngày nay) và làm chủ cả lưu vực sông Hoàng và sông Dương Tử, lại mở rộng lãnh thổ Trung Quốc đến các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Quí Châu ngày nay.
Nhưng nhà Tần chỉ làm chủ Trung Quốc trong một thời gian ngắn và sụp đổ năm 207 tr. CN. Tiếp theo đó nhà Hán cầm quyền cai trị Trung Quốc cho đến năm 220 sau CN với một thời kỳ ngắn (từ năm 8 đến năm 25 sau CN) bị gián đoạn vì sự cướp ngôi của Vương Mãng. Từ năm 202 tr. CN đến lúc Vương Mãng cướp ngôi, nhà Hán đóng đô ở Trường An (trong tỉnh Thiễm Tây ngày nay) và sau khi khôi phục lại ngôi báu, triều đại này dời đô về Lạc Dương (trong tỉnh Hà Nam ngày nay). Vì đó, thời kỳ Tiền Hán cũng được gọi là Tây Hán trong khi Hậu Hán cũng được gọi là Đông Hán. Về mặt lãnh thổ thì nhà Hán đã mở rộng thêm bản đồ Trung Quốc. Phía Nam, họ chiếm đến tỉnh Vân Nam và miền Bắc Trung Việt, phía bắc, họ chiếm miền bắc nước Triều Tiên, tỉnh Liêu Ninh và một phần đất Nội Mông Cổ ngày nay.
Từ năm 220 đến năm 580, Trung Quốc bị lâm vào cảnh phân hoá. Ban đầu, lãnh thổ Trung Quốc bị chia ra cho ba nước Ngụy (220-265), Thục (221-265) và Ngô (221-280). Năm 265, nhà Tấn làm chủ được các đất Ngụy và Thục rồi về sau chiếm luôn đất Ngô để thống nhứt Trung Quốc. Triều đại này vẫn giữ kinh đô của nhà Đông Hán là Lạc Dương, nhưng chỉ cai trị Trung Quốc được một thời kỳ ngắn thì đã suy vì các vị thân vương trong hoàng tộc tranh quyền và xung đột mãnh liệt với nhau. Vào đầu thế kỷ thứ tư, năm sắc tộc thiểu số ở Hoa Bắc là Hung Nô, Kiết, Tiên Ti và Khương thừa lúc chánh quyền nhà Tấn bạc nhược nổi lên chiếm cứ Hoa Bắc, gây tình trạng mà các sử gia gọi là nạn Ngũ Hồ Loạn Hoa. Từ năm 317 đến năm 40, vua nhà Tấn chỉ còn giữ được một phần lãnh thổ Trung Quốc và phải dời đô về Kiến Nghiệp, sau đổi làm Kiến Khương (Nam Kinh ngày nay) và thời kỳ này được gọi Đông Tấn để đối chiếu lại Tây Tấn trước đó. Từ khi nhà Tấn sụp đổ luôn năm 420 cho đến năm 589, Trung Quốc bước vào một giai đoạn được sử gọi là thời kỳ Nam Bắc Triều. Ở Hoa Nam, có 4 triều đại kế tiếp nhau là Tống (420-479), Tề (479-502), Lương (502-557) và Trần (557-589); ở Hoa Bắc thì 5 triều đại kế tiếp nhau là Bắc Ngụy (386-534), Đông Ngụy (534-550), Tây Ngụy (534-556), Bắc Tề (550-577) và Bắc Châu (577-581).
Trung Quốc đã thống nhứt trở lại với nhà Tùy (581-618) nhưng chỉ một thời gian ngắn, triều đại này lại sụp đổ, nhường chỗ cho nhà Đường (618-907). Triều đại này đóng đô ở Trường An là kinh đô cũ của nhà Tây Hán. So với đời nhà Hán, lãnh thổ Trung Quốc đời nhà Đường có thêm một phần đất Tân Cương, một phần các tỉnh Hắc Long Giang và Cát Lâm, nhưng về sau đã mất phần đất ở Bắc Triều Tiên và một phần đất ở Liêu Ninh trong khi đất Vân Nam tách ra lập nước Nam Chiếu.
Năm 907, nhà Đường sụp đổ. Trong nửa thế kỷ tiếp theo đó, Trung Quốc laị bị phân hoá thành niều nước với nhiều triều đại kế tiếp nhau, trong đó quan trọng nhứt là các nhà Hậu Lương (907-923), Hậu Đường (923-936), Hậu Tấn (936-946), Hậu Hán (947-950) và Hậu Châu (951-959). Sử Trung Quốc gọi thời kỳ này là thời kỳ Ngũ Đại.
Nhà Tống đã thống nhất Trung Quốc trở lại năm 960 và đóng đô ở Biện Kinh (nay là Khai Phong trong tỉnh Hà Nam). Nhưng lúc đó, lãnh thổ Trung Quốc đã thâu hẹp lại.
Phía nam thì dân tộc ta đã thâu hồi nền độc lập và lập nước Đại Cồ Việt, sau đổi làm Đại Việt và đóng đô ở Hoa Lư (trong tỉnh Ninh Bình hiện tại) rồi sau đó dời về Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay). Đất Vân Nam vốn đã tách ra lập nước Nam Chiếu từ đời nhà Đường lúc này đổi tên là nước Đại Lý, đóng đô ở thành Dương Thư Mị (nay là Đại Lý trong tỉnh Vân Nam). Phần đất phía tây Trung Quốc gồm Thanh Hải và Tây Tạng ngày nay thì từ đời Đường đã lập nước Thổ Phồn đóng đô ở La Sa (trong đất Tây Tạng ngày nay).
Về phía tây bắc thì một phần đất Nội Mông Cổ và phía tây bắc tỉnh Cam Túc đã bị người họ Thát Bạt tách ra lập nước Tây Hạ, đóng đô ở Hưng Khánh (nay là Ngân Xuyên trong tỉnh Ninh Hạ). Ngoài ra còn có nước Đại Liêu do người Khiết Đan thành lập ở phía đông bắc với một phần các tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây và các tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang cùng một phần đất Nội Mông Cổ. Nước này có cả thảy 5 kinh đô: Thượng Kinh là kinh đô nguyên thủy lúc mới lập quốc đặt ở Lâm Hoàng (nay là Lâm Tây trong tỉnh Liêu Ninh), Trung Kinh đặt ở Đại Định (nay là Bình Tuyền trong tỉnh Hà Bắc), Nam Kinh sau đổi làm Đông Kinh đặt ở Liêu Dương (trong tỉnh Liêu Ninh ngày nay), Tây Kinh đặt ở Đại Đồng (trong tỉnh Sơn Tây ngày nay) và Nam Kinh (tức là Bắc Kinh ngày nay).
Trong các nước kể trên đây thì nước hùng cường nhứt và có chủ trương xâm lấn nhà Tống là Đại Liêu. Để đối phó với họ, nhà Tống đã liên kết với người Nữ Chân là bộ tộc lệ thuộc người Khiết Đơn sống ở lưu vực sông Tùng Hoa trong các tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang hiện tại. Với sự yểm trợ của nhà Tống, người Nữ Chân quật khởi lên chống lại người Khiết Đơn. Năm 1115, họ tách vùng đất họ cư ngụ ở lưu vực sông Tùng Hoa ra để lập nước Đại Kim rồi tiến lên đánh phá nước Đại Liêu. Năm 1125, họ đã diệt xong nước này và đến năm 1126, họ lại tràn sang xâm lấn lãnh thổ nhà Tống, chiếm hết dải đất ở phía bắc hai con sông Hoài và Hán tức là toàn tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây, Sơn Đông, phía bắc hai tỉnh Giang Tô và An Huy cùng phần lớn các tỉnh Hà Nam và Thiễm Tây ngày nay. Nước Đại Kim đặt Thượng Kinh ở Hội Ninh (gần Bạch Thành trong tỉnh Cát Lâm ngày nay), gọi Đại Định là Bắc Kinh, Liêu Dương là Đông Kinh, Đại Đồng là Tây Kinh và lấy kinh đô cũ của nhà Tống là Biện Kinh làm Nam Kinh.
Phần nhà Tống thì phải dời đô về Lâm An (tức là Hàng Châu trong tỉnh Triết Giang ngày nay). Do đó sử gọi triều đại này là Nam Tống để đối chiếu với nhà Bắc Tống của thời kỳ trước cuộc xâm lấn của nước Đại Kim. Các nhà vua Nam Tống có chủ trương trọng văn khinh võ nên thế nước suy nhược và họ phải áp dụng một chánh sách nhân nhượng với nước Đại Kim để được yên ổn. Trong khi người Nữ Chân nổi lên đánh nước Đại Liêu thì người Mông Cổ chiếm đất Nội Ngoại Mông Cổ ngày nay. Khoảng cuối thế kỷ thứ 12, họ lại quật khởi lên. Năm 1206, nhà lãnh đạo Mông Cổ Thiết Mộc Chân tự xưng là Thành Cát Tư Hãn, nghĩa là vị hoàng đế làm chủ cả hải nội và đóng đô ở Karakorum. Từ lúc đó, ông bắt đầu mở những chiến dịch tấn công nước Tây Hạ và đến năm 1227 thì diệt được nước này. Mặt khác từ khoảng 1221-1222, ông đã dồn người Đại Kim về phía Nam sông Hoàng. Con Thành Cát Tư Hãn là Oa Khoát Đài (hay A Loa Đài) về sau được biết dưới miếu hiệu Nguyên Thái Tông (t.v. 1220-1246) đã ước hệ với người Tống để đánh nước Đại Kim và tiêu diệt nước này từ giữa thế kỷ thứ 13 và sau khi chiếm lấy nước Đại Lý năm 1253, áp lực của họ đối với nhà Tống càng mạnh mẽ hơn. Cuối cùng, nhà Nam Tống đã bị người Mông Cổ diệt năm 1276.
Từ năm 1277, người Mông Cổ đã thành lập nhà Nguyên và đóng đô ở Đại Đô (thuộc vùng phụ cận Bắc Kinh ngày nay). Với triều đại này, Trung Quốc chỉ là một bộ phận của một đế quốc rộng lớn nằm choàng trên hai châu Á – Âu. Tuy nhiên đế quốc này đã bị chia ra làm nhiều nước giữa các hoàng thân Mông Cổ. Riêng về Trung Quốc thì người Mông Cổ không nắm quyền thống trị được đến 100 năm. Vào giữa thế kỷ 14, đã có nhiều cuộc nổi loạn của người Hán tộc và năm 1368 thì người Hán tộc đã tự giải phóng để lập nhà Minh.
Triều đại mới này cầm quyền từ 1368 đến 1644. Kinh đô lúc đầu đặt ở Nam Kinh nhưng đến năm 1420, nhà Minh quyết định dời đô về Bắc Kinh. Về mặt lãnh thổ thì Trung Quốc lúc đó chưa chiếm luôn được các đất Mông Cổ, Thanh Hải, Tân Cương và các tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang. Về phía nam thì năm 1407, nhà Minh đã đem binh chiếm nước ta, nhưng chỉ đến năm 1427 họ lại phải rút về.
Từ đầu thế kỷ thứ 17, người Nữ Chân (trước đây đã lập nước Đại Kim và sau này tự gọi là người Mãn Châu) đã quật khởi trở lại và tổ chức được một lực lượng quân sự hùng mạnh. Năm 1621, họ đã chiếm được Liêu Dương và lấy thành phố này làm kinh đô. Đến năm 1636, nhà lãnh đạo Nữ Chân lập nước Đại Thanh và dời đô về Phụng Thiên (nay là Thẫm Dương trong tỉnh Liêu Ninh). Trong khi đó, tại Trung Quốc có nhiều phong trào nổi lên chống lại nhà Minh. Triều đình nhà Minh vì phải lo ngăn đỡ quân Thanh nên không thể dốc toàn lực đối phó với các nhóm chống đối võ trang bên trong. Năm 1644, người cầm đầu một trong các nhóm chống đối này là Lý Tự Thành kéo quân vào chiếm lấy Bắc Kinh. Vua nhà Minh là Sùng Trinh phải treo cổ tự ải. Tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế đã rước quân Thanh vào bên trong lãnh thổ nhà Minh để đánh Lý Tự Thành và nhà Thanh đã thừa thế chiếm luôn Trung Quốc rồi ngự trị luôn Trung Quốc đến năm 1911 mới bị cách mạng Trung Hoa lật đổ. Sau khi làm chủ Trung Quốc, nhà Thanh đóng đô ở Bắc Kinh. Dưới triều đại này, lãnh thổ Trung Quốc đã được mở rộng ra gần như hiện nay.
Trong sách này, có nói đến nhiều địa danh ở Trung Quốc. Để độc giả có thể nhận được vị trí các địa danh đó, chúng tôi xin kèm theo đây một bản đồ Trung Quốc hiện tại với các địa danh được nói đến. Ngoài ra, vì các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung đã nói nhiều đến các việc xảy ra đời nhà Tống là lúc có nhiều nước đối chọi nhau, sách này còn có hai bản đồ, một trong thời kỳ Bắc Tống (960-1126) và một trong thời kỳ Nam Tống (1127-1276) để độc giả có thể thấy rõ vị trí của các nước đó đối với nhau.
Sau hết, vì trong truyện võ hiệp của Kim Dung có nói đến nhiều phái võ nên chúng tôi thiết tưởng cũng nên có ít lời về các phái này.
Nổi tiếng ở Trung Quốc về võ thuật là hai phái Thiếu Lâm và Võ Đương, một phái do người Phật Giáo và một phái do người Đạo Giáo lãnh đạo.
Ở Trung Quốc vốn có hai ngôi chùa mang tên là Thiếu Lâm, một ngôi ở ngọn Thiếu Thất của Tung Sơn trong tỉnh Hà Nam, một ngôi ỏ ngọn Tử Cái của Bàn Sơn trong tỉnh Hà Bắc. Chùa Thiếu Lâm ở Hà Nam được xây dựng nằm Thái Hoà thừ 20 đời Hậu Ngụy (496), còn chùa Thiếu Lâm ở Hà Bắc thì được xây dựng trong niên hiệu Chí Chính (1341-1368) đời nhà Nguyên. Trong hai ngôi chùa nói trên đây thì ngôi ở Hà Nam nổi tiếng hơn cả. Tại ngôi chùa này, có chỗ Đức Đạt Ma Tổ Sư ngồi ngó vào vách đá trong suốt 9 năm.
Phái võ Thiếu Lâm phát xuất từ ngôi chùa ở tỉnh Hà Nam. Vào đầu thế kỷ thứ 7, mười ba tăng nhơn võ nghệ cao cường của chùa này đã giúp Tần Vương, tức là vua Đường Thái Tông (t.v. 627-649) sau này, trong việc bình định giặc Vương Thế Sung. Vì thế, họ rất được trọng vọng. Từ đó, chùa Thiếu Lâm ở Hà Nam cho tăng nhơn nghiên cứu và luyện tập võ nghệ và lần lần lập ra môn phái Thiếu Lâm phổ biến khắp nơi ở Trung Quốc.
Về phái Võ Đương thì theo truyền thuyết, người sáng lập là Tổ Sư Trương Tam Phong, một lãnh tụ Đạo Giáo đời nhà Tống. Căn cứ của phái này ở Võ Đưong Sơn trong tỉnh Hồ Bắc. Phái Võ Đương đã được nổi tiếng về môn nội công và về Thái Cực Quyền.
Ngoài hai phái nổi tiếng trên đây, các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung còn đề cập đến nhiều phái võ khác ít quan trọng hơn. Trong số này, có những phái có lẽ do tác giả đặt ra chớ không hẳn có thật trong lịch sử. Riêng phái Toàn Chân là một phái có thật của Đạo Giáo, được thành lập vào đời nhà Tống và đặt căn cứ tại Chung Nam Sơn trong tỉnh Thiễm Tây. Về các phái chuyên về kiếm pháp được Kim Dung gọi chung là Ngũ Nhạc Kiếm Phái, nó gồm có năm phái võ đặt căn cứ ở năm hòn núi lớn là Tung Sơn trong tỉnh Hồ Nam, Hoa Sơn trong tỉnh Thiễm Tây và Hằng Sơn trong tỉnh Sơn Tây. Phái Thanh Thành thì đặt căn cứ ở Thanh Thành Sơn trong tỉnh Tứ Xuyên.
Địa điểm làm căn cứ cho các phái võ kể trên đây có thể biết được dễ dàng vì tánh cách độc nhứt của các tên núi dùng làm danh hiệu cho các phái võ đó. Đối với một số phái võ khác cũng lấy tên những ngọn núi lớn làm danh hiệu thì vấn đề phức tạp hơn vì ở Trung Quốc có nhiều ngọn núi cùng mang một tên.
Như tên Nga Mi đã được dùng để gọi sáu ngọn núi lớn, một trong tỉnh Tứ Xuyên, hai trong tỉnh Phước Kiến , một trong tỉnh Hà Nam, một trong tỉnh An Huy và một trong tỉnh Quảng Tây. Trong các ngọn núi này thì ngọn núi trong tỉnh Tứ Xuyên nổi tiếng hơn cả có thể phái Nga Mi được nói đến đặt căn cứ tại đó.
Về núi mang tên Không Động thì có cả thảy ba ngọn: một trong tỉnh Hà Nam, một trong tỉnh Cam Túc và một trong tỉnh Giang Tây .
Riêng tên Côn Luân thì được dùng để chỉ một dãy núi rất dài chạy dọc theo ranh giới hai khu tự trị Tân Cương và Tây Tạng rồi vào sâu trong tỉnh Thanh Hải, chớ không có ngọn núi nào tên Côn Luân để ta có thể biết đó là căn cứ của phái võ Côn Luân.
Về phần Thiên Sơn thì đó cũng là một dãy núi dài trong khu tự trị Tân Cương. Còn Phiếu Diễu Sơn thì không tìm thấy trong các tự điển về địa danh của Trung Quốc cho nên chúng ta không thể biết chắc được Cung Linh Thứu làm căn cứ cho Thiên Sơn Đồng Mỗ ở địa điểm nào.
Cũng như Phiếu Diễu Sơn, Bạch Đà Sơn làm căn cứ cho Tây Độc không có trong các từ điển về địa đanh của Trung Quốc và có lẽ do Kim Dung đặt ra chớ không phải là những ngọn núi có thật.
còn tiếp...
CHƯƠNG I: CÁC NHƠN VẬT TƯỢNG TRƯNG CHO MỘT VÀI QUỐC GIA ĐẶC BIỆT TRÊN THẾ GIỚI HOẶC MÔ TẢ MỘT VÀI CHÁNH KHÁCH NỔI TIẾNG TRONG LỊCH SỬ TRUNG QUỐC CẬN ĐẠI.
Trong các tác phẩm của mình, Kim Dung đã đề cập đến nhiều nhơn vật võ công trác tuyệt. Nghiên cứu kỹ tài nghệ và đức tánh của một số trong các nhơn vật này ta có thể nhận thấy rằng Kim Dung đã dùng họ để tượng trưng cho một vài quốc gia đặc biệt trên thế giới, hoặc để mô tả một vài chánh khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại.
MỤC 1:CÁC NHƠN VẬT TƯỢNG TRƯNG CHO MỘT VÀI QUỐC GIA ĐẶC BIỆT TRÊN THẾ GIỚI.
Luận võ trên đỉnh Hoa Sơn để xác nhận vai tuồng bá chủ võ lâm là một đề tài đã được Kim Dung khai thác trong ba bộ truyện võ hiệp VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP. Tên bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ thật ra không thấy có trong danh sách các tác phẩm được Ông Hàn Giang Nhạn cho biết là chắc chắn do Kim Dung sáng tác (theo lời Dịch giả cho bản dịch LỘC ĐỈNH KÝ, Quyển 1-2 trang 3). Bởi đó, chúng ta không thể biết chắc là tác phẩm này quả thật của Kim Dung hay do người khác viết rồi gán cho Kim Dung. Nhưng trừ ra một vài điểm nhỏ nhặt, còn thì phần lớn các chi tiết về các nhơn vật chánh yếu trong đó đều phù hợp nhau nên chúng tôi nghĩ có thể dùng bộ truyện này làm một trong các tài liệu để nghiên cứu về đề tài luận võ ở Hoa Sơn được Kim Dung nêu ra.
Kể cho đủ hết thì có đến ba kỳ luận võ như vậy. Nhưng thật sự thì kỳ luận võ thứ nhì không đưa đến kết quả gì, còn trong kỳ luận võ thứ ba thì các cao thủ võ lâm gặp nhau về việc này là người đã có danh vọng rồi, lại có tinh thần hoà hợp với nhau nên đã không tỷ thí với nhau để phân hơn kém. Vậy, rốt cuộc lại, chỉ có cuộc luận võ đầu tiên là thật sự quan trọng.
Trong cuộc luận võ đầu tiên này, có 5 nhơn vật tham dự. Họ được gọi chung là Võ Lâm Ngũ Bá và mang ngoại hiệu Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái và Nam Đế. Năm nhơn vật này đã có ý thật sự tỷ thí với nhau với mục đích phân hơn kém và quyết định xem ai là người được quyền giữ bộ CỬU ÂM CHÂN KINH. Sau cuộc tỷ thí rất gay go này, mọi người đều công nhận rằng TrungThần Thông có võ cao diệu hơn hết, còn những người khác thì tài nghệ suýt soát như nhau. Ngoài họ ra, còn một nhơn vật thứ sáu được xem là đồng tài nghệ với họ, nhưng không dự cuộc luận võ này. Đó là Bang Chủ của Thiết Chưởng Bang.
Nếu chỉ xét bề ngoài câu chuyện thì Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế và Bang Chủ Thiết Chưởng Bang là những người nhờ dày công tập luyện về nội công và võ nghệ, và có người còn nhờ thêm cơ duyên tiêu thụ được một vật quí hiếm có, mà trở thành những cao thủ siêu tuyệt trong võ lâm. Nhưng khi xem kỹ các chi tiết liên hệ đến họ, chúng ta có thể nhận thấy rằng họ đã được Kim Dung dùng để ám chỉ một số quốc gia đặc biệt trên thế giới. Trong số các quốc gia được ám chỉ như vậy, laị có những quốc gia được ít nhiều thể hiện bằng những chánh khách có thật, và những quốc gia không có chánh khách biểu tượng cụ thể. Mặt khác, có khi một nhơn vật đã được dùng để tượng trưng cho một khối gồm nhiều quốc gia có những đặc điểm chung nhau.
Nhưng điều chúng ta nên để ý là tác giả các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP không phải dùng cốt chuyện của các bộ truyện võ hiệp này để kể lại cả lịch sử thật sự của các quốc gia được ông ám chỉ qua các nhơn vật võ lâm. Mục đích chánh yếu của ông là nêu ra các đặc tánh của các quốc gia hay khối quốc gia ấy. Các đặc tánh này dựa vào nền văn hoá và tâm lý nhơn dân, nó lại đưa đến những khả năng cá biệt của quốc gia trong cuộc tranh đấu với các quốc gia khác. Nói chung thì Kim Dung chỉ nêu ra một vài chi tiết liên hệ đến lịch sử các quốc gia ấy, theo cái nhìn của ông. Do đó, thời điểm tương ứng của các việc xảy ra trong các câu chuyện và của các cố sự mà nó ám chỉ không phải luôn luôn phù hợp với nhau. Mặt khác, vì quan điểm của Kim Dung đối với các quốc gia được ông ám chỉ bằng các nhơn vật võ lâm đã có sự thay đổi theo dòng thời gian nên trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, cách ông mô tả một vài nhơn vật trong số này cũng có hơi khác cách ông mô tả họ trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU.
Ta có thể nhận thấy ý Kim Dung muốn dùng các nhơn vật võ lâm để ám chỉ một số quốc gia trên thế giới trong đoạn ông mô tả cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn. Trong một giai đoạn của cuộc luận võ này, Võ Lâm Ngũ Bá đã tỷ thí với nhau theo lối “ngũ quốc giao binh”, dịch sát nghĩa chữ là “năm nước tranh chiến với nhau.”. Theo lối tỷ thí này thì mỗi người chiếm một phương vị ngũ hành rồi dùng nội công kình lực công kích người khác theo thủ pháp nào cũng được. Năm vị cao thủ tham dự cuộc luận võ được tự do chọn lựa đối thủ, muốn đấu với ai cũng được mà muốn giúp ai cũng được. Vậy, Kim Dung đã trực tiếp dùng từ ngữ “ngũ quốc” tức là “năm nước” để chỉ các cao thủ luận võ với nhau. Ngoài ra, sự diễn tiến của cuộc tỷ thí theo ông mô tả đã cho thấy là những người có cảm tình với nhau có khi đã giúp nhau, nhưng cũng có khi đã thình lình đột kích nhau, và do đó mà đỡ đòn cho người họ không ưa thích. Điều này phù hợp với sự thật trong đời sống quốc tế, là các nước thân nhau có thể giúp nhau mà cũng có thể đánh nhau những đòn bất ngờ, trong khi các nước đối nghịch nhau thường chống nhau mà cũng có khi trợ lực cho nhau một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Với các dữ kiện trên đây, ta có thể xác nhận Võ Lâm Ngũ Bá là năm nhơn vật tượng trưng cho năm quốc gia hoặc khối quốc gia trên thế giới. Về phần Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, ông không có dự cuộc luận võ ở Hoa Sơn, nhưng đã được xem là có tài nghệ ngang hàng với Võ Lâm Ngũ Bá nên cũng là tiêu biểu cho một quốc gia..
Ngoài Võ Lâm Ngũ Bá và Bang Chủ Thiết Chưởng Bang, còn có một số nhơn vật khác như Châu Bá Thông, Quách Tĩnh, Dương Khang , Hoàng Dung, Dương Quá, Cừu Thiên Lý, Cừu Thiên Xích và Công Tôn Chỉ có liên hệ đến họ với tư cách là người tượng trưng cho một quốc gia hay một khối quốc gia. Trong các nhơn vật này, có người đã là vai chánh trong tác phẩm của Kim Dung như Quách Tĩnh và Hoàng Dung trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, và Dương Quá trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP. Mặt khác, trong cuộc luận võ cuối cùng ở Hoa Sơn, Châu Bá Thông, Quách Tĩnh, Dương Quá đã được đưa lên hàng Võ Lâm Ngũ Bá với các ngoại hiệu Trung Ngoan Đồng, Bắc Hiệp và Tây Cuồng để thay thế Trung Thần Thông, Bắc Cái và Tây Độc đã chết. Tuy nhiên, các nhơn vật này thật sự chỉ có một vai tuồng phụ thuộc trong đề tài dùng các cao thủ võ lâm để tiêu biểu các quốc gia hay khối quốc gia hoặc các chánh khác thể hiện cho một quốc gia. Do đó, chúng tôi sẽ lấy Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế và Bang Chủ Thiết Chưởng Bang làm nhơn vật chánh yếu trong Mục này và chỉ sẽ đề cập đến Châu Bá Thông, Quách Tĩnh, Dương Khang, Hoàng Dung, Dương Quá, Cừu Thiên Lý, Cừu Thiên Xích và Công Tôn Chỉ khi nói đến các nhơn vật chánh yếu kể trên đây. Nhưng Kim Dung đã dùng các nhơn vật chánh yếu để chỉ các quốc gia nào?
I- NHƠN VẬT VÀ ĐOÀN THỂ TIÊU BIỂU CHO NƯỚC TRUNG HOA CỔ ĐIỂN:
Trung Thần Thông , Châu Bá Thông và Phái Toàn Chân
Trong các tác phẩm của Kim Dung nói đến Võ Lâm Ngũ Bá, có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng đệ nhứt bá là Trung Thần Thông và đoàn thể do ông lãnh đạo là phái Toàn Chân đã được dùng để tiêu biểu cho nước Trung Hoa cổ điển. Kim Dung là người Trung Hoa. Do đó, việc ông xem Trung Hoa là nước xứng đáng dẫn đầu các nước khác là việc tự nhiên. Thật sự thì trong thời cận đại, nước Trung Hoa không phải là cường quốc mạnh nhứt thế giới . Bởi đó, mặc dầu danh hiệu đệ nhứt bá võ lâm đã đạt được sau một cuộc tranh tài bằng võ nghệ, nó không phải được dùng để chỉ quốc gia cường thạnh nhứt mà để nói đến quốc gia có nền văn hoá đáng trọng vọng nhất.
A- Ý NGHĨA CỦA NGOẠI HIỆU TRUNG THẦN THÔNG.
1- Trung là ở ngay chính giữa. Từ ngàn xưa, người Tàu đã tự hào là mình sống ngay chính giữa địa cầu. Họ đã chánh thức gọi dân tộc họ là dân tộc Trung Hoa và nước họ là Trung Quốc. Các danh xưng trên đây đã cho thấy rõ quan niệm của họ về vấn đề này.
2- Về mặt tinh thần, người Trung Hoa lại theo đạo trung dung. Một số người thường lầm tưởng rằng trung dung là một thái độ ở nửa chừng trong mọi việc. Nhưng nếu hiểu trung dung như vậy thì khi phải chọn giữa hoà bình với chiến tranh, người đương nhiên phải theo chủ trương xung đột hạn chế, và khi phải chọn giữa việc làm người lương thiện với việc làm người ăn cướp thì người đương nhiên phải chấp nhận làm người ăn trộm. Sự chọn lựa máy móc như vậy không có gì khó khăn và cũng không có tánh cách đạo lý chút nào nên ta không hiểu đạo trung dung như vậy được. Thật sự trong Hán văn, chữ trung cũng đọc là trúng có nghĩa là đúng, hợp . Nó chỉ tư thế của một con người lúc nào cũng đứng trong vị thế quân bình, không nghiêng không lệch về phía nào, và trong mọi việc làm đều có thái độ thích ứng, vừa phải, không thái quá cũng không bất cập. Vì mọi việc trong đời đều biến đổi không ngừng nên việc theo đạo trung dung như thế không phải là dễ dàng. Nhưng nếu người cố gắng theo đạo trung dung được thì người trở thành sáng suốt, hiểu biết được mọi sự việc và có thể biến cải để ứng phó với mọi khó khăn, mọi trở lực, mọi địch thủ. Nói cách khác, người trở thành Thần Thông và có thể tự bảo vệ, đồng thời thực hiện được các nguyện vọng của mình.
3- Như thế, ngoại hiệu TRUNG THẦN THÔNG vừa gọi đúng danh hiệu, vừa nêu ra một quan niệm triết lý căn bản và khả năng đặc biệt của quốc gia Trung Hoa. Trong vũ trụ quan của người Trung Hoa từ ngàn xưa, ngũ hành cùng các phương hướng và các màu sắc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Vị thế trung ương thuộc hành thổ và liên hệ với màu vàng. Bởi đó trong bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, Trung Thần Thông đã thường mặc áo vàng, mà trong tổ chức chánh trị cổ của Trung Hoa, màu vàng lại là màu dành cho nhà vua. Việc Trung Thần Thông thường mặc màu vàng xác nhận địa vị số một của ông ta trong võ lâm.
B – Ý NGHĨA CỦA HỌ VƯƠNG LÀ HỌ CỦA TRUNG THẦN THÔNG
Địa vị số một của Trung Thần Thông trong võ lâm được gọi là điạ vị bá chủ. Nhưng mặc dầu đã tham dự cuộc tỷ thí để đoạt chức vị bá chủ võ lâm, Trung Thần Thông lại có một bản chất trái ngược lại tư tưởng bá chủ.
1. Trung Thần Thông vốn là một người họ Vương mà trong từ ngữ Trung Hoa, vương có nghĩa là vua. Trong Hán văn thì chữ vương gồm 3 nét ngang và 1 nét dọc. Lúc khởi thủy, có thể đây là hình vẽ cái búa mà nhà cầm quyền dùng để chặt đầu những kẻ trái lịnh hay phạm pháp. Nhưng khi đã có một nền văn hoá khá cao rồi, người Trung Hoa giải thích rằng trong chữ vương, 3 nét ngang tượng trưng cho Trời, Đất và Người, và nét dọc hàm ý nối liền ba nét ngang trên đây. Lối giải thích trên đây đã trở thành cổ điển. Nó biểu lộ rõ rệt quan niệm cho rằng quyền uy của một nhà vua xứng đáng với danh hiệu vua được xây dựng không phải trên võ lực mà trên đạo lý. Đạo lý mà nhà vua phải dựa vào được gọi là vương đạo. Nó đòi hỏi nhà vua phải hành động theo nhân nghĩa, và phải dùng những phương tiện chánh đáng để phục vụ nhơn dân. Chủ trương làm chánh trị theo vương đạo chính là chủ trương mà dân Trung Hoa đã chánh thức đề cao trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.
2. Việc theo lý tưởng vương đạo của Trung Hoa đã được Kim Dung bộc lộ rõ rệt qua việc Trung Thần Thông nhứt quyết không dùng CỬU ÂM CHÂN KINH. Đó là một tác phẩm dạy các căn bản để luyện nội công. Người tập đúng mức và thành công có thể chữa cho kẻ bị đánh mang nội thương trầm trọng và chính mình thì có thể trường sanh bất lão. Nhưng CỬU CÂM CHÂN KINH lại bao gồm những phương pháp luyện công có cái ác độc dị thường. Công phu Cửu Âm Thần Trảo phải cần dùng một số lớn heo dê còn sống để người luyện tập dùng ngón tay thọc mạnh vào trong óc của chúng. Sự luyện tập này phải kéo dài cho đến khi năm ngón tay đủ sự cứng rắn và chánh xác cần thiết. Đã vậy, người luyện tập còn phải tẩm thêm chất độc trên ngón tay. Công phu Độc Hạp Thần Công thì chuyên luyện tập móng tay, luyện xong thì chỉ cần đụng vào thân một người nào là người ấy chết không phương cứu chữa. Công phu Tồi Tâm Chưởng thì có thể làm một quả tim của kẻ địch nát bấy và kẻ địch phải thổ huyết mà chết. Hai công phu Độc Hạp Thần Công và Tồi Tâm Chưởng cũng phải dùng thú vật như mèo chó để cho người luyện tập thí nghiệm.
C- THÁI ĐỘ CỦA TRUNG THẦN THÔNG VỚI CỬU ÂM CHÂN KINH BIỂU LỘ THÁI ĐỘ CỦA NƯỚC TRUNG HOA CỔ ĐIỂN ĐỐI VỚI KHOA HỌC
1.Ta có thể nghĩ rằng Kim Dung đã dùng CỬU ÂM CHÂN KINH để chỉ các khoa học thực nghiệm. Các khoa học này nêu ra những nguyên tắc quan sát và suy luận có thể mở mang trí tuệ con người và giúp vào sự cải thiện đời sống của loài người về mọi phương diện. Nhưng nó cũng đồng thời bao gồm những cách thức làm việc trái với đạo nhân, như việc dùng các con thú làm vật thí nghiệm hay việc chế tạo các võ khí hại người quá độ như các chất nổ có sức tàn phá lớn lao, các võ khí hoá học hoặc võ khí hạch tâm.
Cứ theo hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì Trung Thần Thông đã cố công tìm ra được bộ CỬU ÂM CHÂN KINH nhưng sau khi xem qua, ông đã quyết định không dùng nó mà còn nghiêm cấm môn đệ tập luyện theo nó. Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung cho biết rằng Trung Thần Thông đã phải áp dụng các nguyên tắc ông đọc được trong CỬU ÂM CHÂN KINH mới sáng chế được các thế võ có đủ khả năng thắng các đòn của phái Cổ Một vốn mang tánh cách chế khắc võ thuật của phái Toàn Chân . Mặt khác, các cao thủ võ lâm đều tìm CỬU ÂM CHÂN KINH để học và khi học được thì đều tiến bộ rất nhiều. Tuy nhiên, Trung Thần Thông vẫn duy trì quyết định không cho môn đệ ông học CỬU ÂM CHÂN KINH.
2. Kim Dung đã dùng các sự kiện này để chỉ thái độ của người Trung Hoa trước đây đối với khoa học thực nghiệm. Người Trung Hoa thời xưa đã có những phát minh khoa học cao diệu. Họ đã làm được kim chỉ nam, chế được thuốc súng, làm đồ gốm rất tốt và xây dựng được nhiều công trình kiến trúc vĩ đại, đặc biệt là các cầu mống không cần cột chôn ở giữa dòng sông để chống đỡ, khiến cho người Âu Châu hâm mộ. Đời Tam Quốc (thế kỷ thứ 3 sau CN), Hoa Đà đã biết giải phẩu và đã dám nghĩ đến việc mổ óc cho Tào Tháo. Nhưng các nhà lãnh đạo tinh thần của Trung Hoa từ thời xưa đã hướng dẫn dân tộc họ về việc tuyệt đối tôn trọng đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm. Đó là một quan điểm sai lầm tai hại mà hậu quả được nêu rõ trong các tác phẩm của Kim Dung nói đến Trung Thần Thông và phái Toàn Chân. Mặc dầu Trung Thần Thông đã đoạt được địa vị đệ nhứt bá võ lâm, các đệ tử kế vị ông để lãnh đạo phái Toàn Chân về sau, đã thua sút các cao thủ đã từng bị ông đánh bại.
D- CHÂU BÁ THÔNG, BIỂU TƯỢNG CHO NỀN CÔNG NGHỆ CỔ CỦA TRUNG QUỐC
1. Trong phái Toàn Chân, ngoài Trung Thần Thông, chỉ có Châu Bá Thông là đã từng học CỬU ÂM CHÂN KINH. Tuy nhiên, ông này bất đắc dĩ mới phải đọc nó và lại theo đúng lời dạy của vị Giáo Chủ họ Vương là sư huynh mình nên lúc đầu, ông đã không sử dụng các điều nó dạy. Dầu vậy, ông cũng gián tiếp nhờ nó mà có một tài nghệ kinh người không thua sút Đông Tà, Bắc Cái, Tây Độc và Nam Đế. Mãi đến lúc về già, Châu Bá Thông mới dùng chiêu số Đại Phục Ma Pháp của CỬU ÂM CHÂN KINH để luyện Không Minh Chưởng. Nhưng mặc dầu thông minh đỉnh ngộ, có tài sáng chế các môn võ và cuối cùng cũng có một võ công siêu tuyệt, Châu Bá Thông không phải là người lãnh đạo phái Toàn Chân, cũng không được xem là đệ nhứt bá võ lâm. Đã thế, ông còn bị gọi là Lão Ngoan Đồng, tức là ông già mà có tánh hay chơi đùa như trẻ con, vì tánh ông ham vui, không theo đuổi những công việc làm đứng đắn một cách liên tục được.
Trong phần kết cuộc bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Châu Bá Thông đã được chọn làm kẻ thay thế Trung Thần Thông làm một trong năm bá chủ võ lâm với ngoại hiệu là Trung Ngoan Đồng. Nhưng lúc ấy, phái Toàn Chân đã suy sụp mà Châu Bá Thông cũng không hề nghĩ gì đến phái ấy. Mặt khác, theo Kim Dung, vì ông tánh tình phóng dật không ưa giới luật câu nệ, nên ông không được các nhà lãnh đạo chánh thức của phái Toàn Chân mến chuộng. Vậy, Châu Bá Thông không được Kim Dung dùng để tượng trưng toàn diện cho Trung Quốc như Trung Thần Thông trước đó.
2. Với các chi tiết trên đây, chúng ta có thể nghĩ rằng Châu Bá Thông là người được dùng làm biểu tượng cho nền công nghệ cổ của Trung Quốc. Nền công nghệ này vốn dựa vào sự thực nghiệm. Nó đã sản xuất những công trình rất tinh xảo, không thua các công trình sản xuất ở bất cứ nước nào khác. Nhưng phần lớn các phát minh của nó nhờ thực nghiệm mà nó chỉ dùng vào việc mua vui hay vào hoạt động nghệ thuật, chớ không dùng vào việc tăng cường lực lượng quốc gia. Như thuốc súng chẳng hạn, đã được người Trung Hoa phát minh rất sớm, nhưng họ đã dùng nó để làm pháo bông nhiều hơn để làm đại pháo đánh thành phá lũy. Mặt khác, những người thợ khéo của xã hội cổ Trung Quốc không được trọng vọng như những người đồng nghề ở các nước khác, đặc biệt là các nước Tây Phương, vì công việc của họ chỉ được xem là việc dùng để cho vui tai đẹp mắt mà không hữu ích cho nền chánh trị vương đạo nên họ chỉ được xem là hạng phục dịch cấp dưới của nhà vua. Tuy vẫn nói rằng “nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh”, người Trung Hoa trước đây đã khinh thường người thợ khéo và đặt những người trong ngành công nghệ nói chung ở hạng thứ ba trong bốn hạng người của xã hội: dưới hai hạng sĩ và nông.
Từ khi nắm được toàn quyền lãnh đạo nước Trung Hoa, Đảng Trung Công đã đưa nước này vào một đường lối hoàn toàn mới. Bởi đó, nước Trung Hoa cổ điển kể như đã chấm dứt về mặt chánh trị và hiện nay, nó chỉ còn được người ta biết đến và hâm mộ nhờ các tác phẩm thuộc mọi loại nó còn để lại. Các điểm trên đây đã được Kim Dung ám chỉ qua việc phái Toàn Chân lần lần suy sụp sau cái chết của Trung Thần Thông và chỉ còn được kính trọng nhờ Châu Bá Thông, một nhơn vật võ nghệ cao siêu và tánh tình khả ái làm cho người ta mến phục, nhưng không có sự nghiêm chỉnh cần thiết để có thể đóng vai tuồng lãnh đạo hay đại diện cho môn phái của mình.
Đ- CÁI NẤM MỌC TRÊN BÃ NHƠN SÂM LÀM TĂNG CÔNG LỰC TRUNG THẦN THÔNG, BIỂU TƯỢNG NỀN VĂN HÓA CỔ TRUNG HOA
1- Về phần Trung Thần Thông thì sở dĩ ông luyện được một công lực siêu phàm là vì lúc nhỏ ông đã ngẫu nhiên ăn được cái nấm mọc trên chỗ đổ bã nhơn sâm từ mấy chục năm trước tích tụ lại. Nhơn sâm là một trân quí có khả năng bổ dưỡng con người . Bã của nó đã bị đem bỏ vì đã hết công dụng, nhưng lại làm nảy sanh được cái nấm qúi. Cậu bé họ Vương sau này là Trung Thần Thông đã ăn cái nấm đó và chết mất ba ngày. Người nhà đã sắp đem cậu đi chôn, chỉ nhờ có thầy là Thanh Hư Chơn Nhơn đến và giải cứu cho, cậu mới sống lại được. Đạo hiệu Trùng Dương mà thầy của Trung Thần Thông đặt cho ông bao hàm ý đã chết mà được sống trở lại.
2. Với câu chuyện trên đây, Kim Dung muốn mô tả tính cách cao quí nhưng rất cổ của nền văn hoá Trung Hoa. Nền văn hoá này đã được duy trì liên tục từ mấy ngàn năm. Do đó, mặc dầu có nhiều điểm hay và có công dụng tốt trong quá khứ, nó không khỏi có chỗ không còn thích ứng với đời sống hiện tại. Nền văn hoá Trung Hoa đã tạo cho nước ấy một sức mạnh tinh thần thâm hậu, nhưng cũng đã là một trở ngại lớn cho việc canh tân trong mấy thế kỷ sau này và suýt làm cho Trung Hoa bị liệt cường qua phân hay chinh phục, nghĩa là súyt bị loại luôn khỏi trường chánh trị quốc tế.
E- Ý NGHĨA CỦA PHÁI ĐẠO GIÁO TOÀN CHÂN
1. Vị trí của Đạo Giáo trong lịch sử Trung Quốc.
Xét về mặt văn hoá thì hệ thống tư tưởng Trung Hoa được người ngoại quốc biết đến nhiều nhứt là Nho Giáo, còn xét về mặt võ thuật thì môn phái Thiếu Lâm. Nhưng Trung Thần Thông lại được Kim Dung mô tả như là người theo Đạo Giáo. Đó là vì Nho Giáo chỉ chuyên về văn học mà không nghiên cứu về võ thuật, còn môn phái Thiếu Lâm có tiếng về võ thuật lại là một môn phái của Phật Giáo mà Phật Giáo vốn từ Ấn Độ truyền sang nên bị người Trung Hoa xem là một tôn giáo ngoại lai. Về phần Đạo Giáo, nó là một tôn giáo phát xuất từ Trung Quốc mà cũng có nghiên cứu về võ thuật. Bởi vậy, nó đã được Kim Dung dùng để biểu tượng cho tài nghệ của nước Trung Hoa.
Xu hướng trọng Đạo Giáo hon Phật Giáo đã có ở Trung Hoa từ thời trước. Trong quá khứ, khi theo nguyên tắc tam giáo đồng lưu, người Việt Nam ta đã xem Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo như nhau, và có lúc đã chịu ảnh hưởng của Phật Giáo nhiều hơn hai tôn giáo kia. Người Trung Hoa, trái lại, lúc nào cũng đặt Nho Giáo lên trên hết, và tuy vẫn phải dung nạp Phật Giáo vì quần chúng sùng tín tôn giáo, các chánh quyền Trung Quốc hai đời Đường (618-907) và Tống (960-1276) đã trọng Đạo Giáo hơn Phật Giáo.
Vì truyền thuyết cho rằng một Giáo Tổ của Đạo Giáo là Lão Tử vốn họ Lý, mà vua nhà Đường cũng họ Lý, nên triều đại này đã nhận Lão Tử làm tiền nhơn của mình và đặc biệt ưu đãi Đạo Giáo. Năm 667, vua Đường Cao Tông đã phong Lão Tử tước Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế. Đến năm 736, vua Đường Huyền Tông lại quyết định cho các đạo sĩ và nữ quan (tức là các phụ nữa theo học Đạo Giáo) thuộc sự quản trị của Tông Chánh Tự là cơ quan coi sóc các việt liên hệ đến những người trong tông thất,nghĩa là có họ hàng với nhà vua. Nói cách khác, từ đời vua này, những người theo Đạo Giáo được xem như là người trong hoàng tộc. Đối với Phật Giáo, chánh quyền quân chủ Trung Hoa trước đây đã nhiều lần áp dụng chánh sách chèn ép. Riêng đời nhà Đường thì năm 845, vua Võ Tông đã ra lịnh đàn áp Phật Giáo, phá hủy nhiều chùa và bắt một số tăng ni hoàn tục làm cho Phật Giáo bị suy.
Nhà Tống đã tiếp tục chánh sách của nhà Đường. Nhưng vì vốn họ Triệu nên các nhà vua Tống không thể nhận Lão Tử làm tiền nhơn của mình. Do đó, họ phải tạo ra một vì thần Đạo Giáo khác để tôn thờ làm tổ tiên. Đó là Triệu Công Minh, một vị thần cỡi cọp đen, cũng được gọi là Huyền Đàn Nguyên Soái.
Vậy, từ thế kỷ thứ 7, chánh quyền Trung Hoa đặc biệt tôn sùng Đạo Giáo và sang thế kỷ thứ 8, với việc xem đạo sĩ và nữ quan như là người trong hoàng tộc, tôn giáo này được nâng lên hàng quốc giáo. Kim Dung đã dựa vào các sự thật trên đây khi mô tả Trung Thần Thông, người biểu tượng của nước Trung Hoa cổ điển, như là một nhà lãnh tụ Đạo Giáo. Tác giả các bộ truyện võ hiệp nói đến Trung Thần Thông vốn không phải là người có ác cảm với Phật Giáo. Trái lại, ông đề cao tư tưởng Phật Giáo trong nhiều tác phẩm, nhứt là trong các bộ THIÊN LONG BÁT BỘ và LỤC MẠCH THẦN KIẾM. Nhưng vì có chủ ý dùng Trung Thần Thông để biểu tượng nước Trung Hoa cổ điển, ông đã phải hạ thấp giá trị Phật Giáo xuống về mặt võ thuật, mặc dầu môn phái Thiếu Lâm theo Phật Giáo đã nổi tiếng khắp nơi. Trong bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ông cho thấy rằng Trung Thần Thông ngay từ lúc trẻ đã nhiều lần thắng một cách dễ dàng các nhà sư của chùa Thiếu Lâm trong các cuộc tỷ thí. Mặt khác, ta có thể nhận thấy rằng trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, không có vị cao tăng Trung Hoa nào có một vai tuồng siêu việt, đáng được tôn trọng.
2. Phái Toàn Chân: tiêu biểu cho tánh cách dung hợp của nền văn hoá Trung Hoa
Phái Đạo Giáo mà Vương Trùng Dương lãnh đạo tên là Toàn Chân. Đạo Giáo vốn đã được Trương Đạo Lăng sáng lập dưới đời Đông Hán (25-220) và đặt căn cứ chánh tại nơi họ Trương tu luyện là Long Hổ Sơn (trong tỉnh Giang Tây ngày nay). Nhưng từ lúc nước Đại Kim chiếm lấy phía bắc Trung Quốc, triều đình nhà Tống phải dời về phương nam, người theo Đạo Giáo ở Hà Bắc thuộc quyền cai trị của người Đại Kim đã tách ra và lập ba phái phân biệt nhau là Toàn Chân, Đại Đạo, Thái Ất. Trong ba phái này, Toàn Chân là phái mạnh nhất.
Toàn Chân vốn có nghĩa là sự thật đầy đủ, trọn vẹn. Môn phái Đạo Giáo này đã mang danh hiệu trên đây vì ngoài chủ trương riêng của Đạo Giáo, nó lại còn bao gồm những chủ trương của Nho Giáo và Phật Giáo. Các môn phái Đạo Giáo trước đó chỉ chuyên về việc luyện linh đơn và làm phù chú. Phái Toàn Chân đã thêm vào các công phu trên đây, việc theo đạo trung hiếu của Nho Giáo và các giới luật của Phật Giáo. Những người theo môn phái này đã gọi nó là Toàn Chân chính vì nó bao gồm trọn vẹn các chơn lý mà các tôn giáo lớn lưu hành ở Trung Quốc đã nêu ra. Nói chung lại thì tuy cốt là Đạo Giáo, phái Toàn Chân cũng chứa đựng cả giáo lý của Nho Giáo và Phật Giáo và điều này đã mô tả đúng tánh cách dung hợp của nền văn hoá Trung Hoa trước đây.
G- Ý NGHĨA CÁC KỸ THUẬT TRANH ĐẤU CỦA PHÁI TOÀN CHÂN
1. Nhứt Dương Chỉ:
Cứ theo hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì công phu lợi hại nhứt của Giáo Chủ phái Toàn Chân là Nhứt Dương Chỉ.
a. Chữ nhứt trước hết có nghĩa là qui tập hết các sự việc về một mối. Việc phái Toàn Chân tuy là theo Đạo Giáo nhưng đã bao gồm các giáo lý của Nho Giáo và Phật Giáo chính nó đã là một biểu lộ cho tinh thần qui tập các nguyên lý hay về một mối. Ngoài ra chúng ta còn có thể nhận thấy rằng các triết gia Trung Hoa khi nghiên cứu các dữ kiện có mối liên hệ với nhau thì thường có xu hướng tìm mẫu số chung của các dữ kiện ấy để làm bộc lộ tánh cách đồng nhứt của nó. Khi nói về KINH THI, Khổng Tử đã bảo rằng bộ sách nầy có 300 thiên, nhưng chỉ cần một lời là tóm được hết ý nghĩa của nó, ấy là “không nghĩ bậy” (THI tam bá, nhứt ngôn dĩ tế chi, viết : tư vô tà . – LUẬN NGỮ, Vi Chánh). Nói về mối đạo của mình, Giáo Tổ của Nho Giáo cũng bảo là nó có thể do nơi một lẽ mà thông suốt tất cả (Ngô đạo nhứt dĩ quán chi. LUẬN NGỮ, Lý Nhân). Cứ theo lời giải thích của Tăng Tử, đó là việc thành tâm thật ý để suy lòng mình ra lòng người. Sự cố gắng qui tập các sự việc về một mối nói trên đây phát xuất từ một quan niệm làm căn bản cho cả nền tư tuởng cổ của Trung Hoa. Đó là quan niệm xem trời, đất và vạn vật đều cùng chung một thể với nhau (thiên địa vạn vật nhứt thể).
Ngoài ý qui tập hết các sự việc về một mối, chữ nhứt còn có nghĩa là chuyên tâm vào một việc gì. Thiên Cao Dao Mô trong KINH THƯ đã bảo: “Nhơn tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh, duy nhứt, doãn chấp quyết trung” . Câu này hàm ý rằng vì mọi sự việc đều biến đổi không ngừng nên lòng người rất dễ bị nghiêng lệch và ở vào thế bất ổn (nguy) mà mối đạo thì tế nhị và ẩn ảo khó thấy rõ được (vi) cho nên người phải giữ cho lòng mình trong suốt (tinh) và chuyên nhứt thì mới giữ được cái trung. Như vậy, nhứt là một điều kiện để đạt đạo trung.
b. Về chữ dương, nó chỉ là một nguyên tắc căn bản trong vũ trụ quan của người Trung Hoa. Nó được dùng để đối chiếu lại âm, vốn chỉ một nguyên tắc khác nó và thường được xem là phần nào chọi lại nó. Như sáng là dương mà tối là âm, nam phái là dương mà nữ phái là âm, cõi sống là dương mà cõi chết là âm. Về mặt xử thế thì sự quang minh chánh trực thuộc dương, sự ám muội tà khúc thuộc âm. Về mặt võ nghệ thì cương thuật thuộc dương mà nhu thuật thuộc âm.
Tên Nhứt Dương Chỉ hàm ý rằng công phu lợi hại hơn hết của Trung Thần Thông dựa vào cương thuật tới mức tối đa và rất dũng mãnh. Kim Dung đã dùng hình ảnh này để cho thấy rằng nền chánh trị lý tưởng của Trung Hoa có tánh cách quang minh chánh trực và có mục đích thực hiện cảnh thế giới đại đồng làm cho cả thiên hạ sống yên vui hoà mục và dùng sự nhân nghĩa mà đối xử với nhau.
Tuy nhiên, trên đời không thể chỉ có dương mà không có âm. Vả lại, việc vào dương thuần tuý là điều trái với đạo trung. Bởi đó, Nhứt Dương Chỉ không phải là một công phu thường dụng. Theo Kim Dung, nó làm hao tổn rất nhiều nội lực và khi người dùng nó rồi thì nguyên khí và tinh lực trong người bị tiêu hao, phải tĩnh dưỡng nhiều ngày mới hồi phục lại công lực. Theo bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì người dùng công phu Nhứt Dương Chỉ để chữa một nội thương trầm trọng của kẻ khác phải mất công lực trong 5 năm; nếu có học CỬU ÂM CHƠN KINH và luyện tập lại đúng mức thì cũng phải mất mấy tháng mới có công lực lại như xưa. Bởi đó, Trung Thần Thông bất đắc dĩ lắm mới dùng đến Nhứt Dương Chỉ.
Nếu xem Trung Thần Thông là tiêu biểu cho một quốc gia thì việc dùng Nhứt Dương Chỉ có thể xem như là việc huy động toàn quốc để thực hiện một công trình rất lớn lao. Sự tấn công kẻ địch bằng công phu Nhứt Dương Chỉ có thể so sánch với việc gây chiến tranh với quốc gia khác. Dầu có đem thắng lợi về cho mình, chiến tranh cũng làm cho quốc gia hao tổn nhơn lực, tài lực và quốc gia phải cần một thời gian mới khôi phục lại tình trạng bình thường. Với lối mô tả Nhứt Dương Chỉ, Kim Dung có ý cho biết rằng nước Trung Hoa cổ điển không chủ trương dùng chiến tranh làm phương pháp chánh yếu để giải quyết các vụ xung đột với nước khác như một số quốc gia hiếu chiến trên thế giới, và chỉ dùng đến chiến tranh một cách bất đắc dĩ thôi.
2. Thái Cực Quyền
Trong tình trạng bình thường, Trung Thần Thông và người của phái Toàn Chân đã dùng Thái Cực Quyền trong các cuộc giao đấu. Thái Cực là tình trạng vũ trụ lúc còn là một khối hỗn mang chưa phân ra thành trời đất. Trong triết lý cổ Trung Hoa, nó dùng để chỉ một tình trạng thống nhứt nhưng bao gồm các yếu tố khác nhau. Do đó, Thái Cực hàm có lưỡng nghi là âm và dương và Thái Cực Quyền mà phái Toàn Chân thường sử dụng gồm có cả nguyên tắc cương và nhu. Về mặt nội công thì phái Toàn Chân đã luyện Thái Ất Huyền Công. Thái Ất hay Thái Nhứt vốn là tên của một ngôi sao tượng trưng cho một nguyên lý linh thiêng trong vũ trụ. Giữa Thái Ất và Thái Cực có sự liên hệ mật thiết với nhau. Thái Ất có thể xem nhu là sự thể hiện của Thái Cực và do đó mà cũng gồm cả hai nguyên tắc âm dương. Vì thế Thái Ất Huyền Công của phái Toàn Chân được Kim Dung mô tả như là một công phu vừa cương vừa nhu, khi vận chơn khí thì làm cho thân thể mềm xốp như bông gòn hay cứng như gang sắt. Điều này thích hợp với đạo trung và hàm ý rằng tùy theo vương đạo và hướng về việc dùng nhơn nghĩa, nền chánh trị Trung Hoa cũng gồm có việc dùng võ lực và hình phạt để trừng trị những kẻ làm bậy.
3. Thiên Cương Bắc Đẩu Trận.
Ngoài kỹ thuật tranh đấu cá nhơn, phái Toàn Chân lại có một kỹ thuật tranh đấu tập thể làm bảo pháp trấn sơn là Thiên Cương Bắc Đẩu Trận. Theo kỹ thuật này, phải có bảy người ngồi theo vị thế của bảy ngôi sao trong chòm sao Bánh Lái, với sao Bắc Đẩu làm chủ chốt. Khi ngồi theo vị thế đó và tương ứng tương trợ nhau, bảy người trên đây họp tập được công lực của nhau và công lực này trở thành một sức mạnh lớn lao làm cho kẻ địch khó có thể thắng họ được.
Chữ cương theo nghĩa đen là sợi dây lớn làm giềng cho một cái lưới. Nó thường được dùng với chữ kỷ vốn có nghĩa là sắp xếp các sợi tơ, và hai chữ cương kỷ ghép lại dùng để chỉ một trật tự đã an bài. Theo khoa thiên văn của người Trung Hoa thời cổ, các ngôi sao trên trời được sắp xếp thành hai bộ phận: chòm sao Bắc Đẩu thuộc thiên cương, còn dải Ngân Hà thì thuộc địa kỷ. Ở thế gian thì từ ngữ cương kỷ dùng để nói đến trật tự và qui luật của một quốc gia và thiên cương là qui chế chánh trị đương hữu.
Vậy Thiên Cương Bắc Đẩu Trận mượn danh hiệu của một chòm sao trên trời, nhưng cũng ám chỉ nền chánh trị một nước. Ta nên lưu ý rằng nhà triết học được người Trung Hoa thờ làm thánh sư là Khổng Tử đã từng so sánh nên chánh trị dựa vào đạo đức với ngôi sao Bắc Đẩu, ở yên một chỗ mà các sao khác đều phải chầu về (LUẬN NGỮ, Vi Chánh). Như thế, việc bảy người phái Toàn Chân ngồi theo vị thế bảy ngôi sao của chòm sao Bánh Lái để chống địch và danh hiệu Thiên Cương Bắc Đẩu Trận của kỹ thuật tranh đấu tập thể này đã được Kim Dung dùng để nói đến chủ trương căn bản của người Trung Hoa lấy đạo đức làm nền tảng cho việc lãnh đạo xã hội và gây tinh thần đoàn kết giữa mọi người làm cho cộng đồng trở thành một lực lượng mạnh mẽ vô địch.
H- CÁC NHƠN VẬT CÓ THỂ ĐƯỢC VƯƠNG TRÙNG DUƠNG BIỂU TƯỢNG.
Nói chung lại thì trong hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, chúng ta đã tìm thấy nhiều dữ kiện làm cho chúng ta có thể tin rằng Kim Dung đã dùng nhơn vật Trung Thần Thông và phái Toàn Chân để ám chỉ nước Trung Hoa cổ điển. Theo sự mô tả của ông thì Trung Thần Thông chết, phái Toàn Chân suy sụp lần lần về cả hai mặt võ công lẫn đạo đức. Những người nối nghiệp Trung Thần Thông chẳng những không giữ được địa vị số 1 ông đã được, mà cuối cùng phái Toàn Chân do họ lãnh đạo còn gần như tan vỡ khi căn cứ của nó là Trùng Dương Cung ở Chung Nam Sơn bị đốt cháy. Sau Trung Thần Thông , người cao thủ của phái Toàn Chân có võ công siêu tuyệt ngang với các bá chủ võ lâm khác, đó là Châu Bá Thông. Nhưng ông này không phải là người lãnh đạo của môn phái và không nghĩ gì đến nó. Qua các sự kiện trên đây, Kim Dung đã có ý bảo rằng nước Trung Hoa cổ điển đã có nền văn hoá cao diệu nhứt thế giới, nhưng vì quá chú trọng đến đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm nên nó lần lần suy vi và cuối cùng đã sụp đổ với việc Cộng Sản nắm chánh quyền, thành ra chỉ còn tồn tại với các công trình công nghệ tuyệt xảo của mình.
Nếu muốn lấy một nhơn vật siêu việt trong lịch sử Trung Quốc thời Cộng Sản chưa nắm trọn chánh quyền để so sánh với Vương Trùng Dương thì ta có thể nêu ra hai người:
1. Trước hết là Khổng Tử (551-479 tr. CN). Ông là người được dân Trung Hoa thờ làm thánh sư trong hơn hai ngàn năm. Ông tập họp các trí thức thời ông để xây dựng một học thuyết làm nền tảng cho cả nền văn hoá và chánh trị cổ của Trung Quốc và học thuyết này bao gồm các đặc tánh mà chúng tôi đã phân tích trên đây về ý thức hệ của dân tộc Trung Hoa. Nhưng khi một môn đệ là Phàn Trì muốn học làm ruộng hay làm vườn thì Khổng Tử đã bảo nên đi tìm một ông lão làm vườn hay làm ruộng mà học. Sau đó ông còn chê trí Phàn Trì là chí khí nhỏ hẹp. Theo ông, đi học là học lễ, nghĩa và tín khiến cho dân chúng từ bốn phương xa lạ khâm phục và đai con đến để theo mình (LUẬN NGỮ, Tử Lộ). Vậy chính Khổng Tử là người đã dạy dân Trung Hoa chỉ nên hướng về đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm, cũng như Vương Trùng Dương đã nghiêm cấm môn đệ học CỬU ÂM CHƠN KINH.
2. Tuy nhiên, Khổng Tử là một nhơn vật quá cổ nên không thích hợp với khung cảnh chánh trị thời nay. Bởi đó, có lẽ nhà chánh trị Trung Hoa cận đại có thể so sánh với Vương Trùng Dương là Tôn Văn. Ông là người được cả dân Trung Hoa tôn trọng và gọi là Quốc Phụ. Tên tự ông là Dật Tiên, mà theo quan niệm Trung Hoa, tiên là một nhơn vật nhờ theo Đạo Giáo mà được trường sanh bất lão. Địa vị Quốc Phụ của Tôn Văn cũng giống như địa vị Giáo Chủ phái Toàn Chân của Trung Thần Thông.
Theo bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP thì trước khi đi tu làm đạo sĩ, Trung Thần Thông đã từng tổ chức cuộc tranh đấu để chống lại người Kim, và sau đó phái Toàn Chân do ông sáng lập là một đoàn thể có chủ trương chống lại người Mông Cổ. Phần Ông Tôn Văn thì đã làm cách mạng giải thoát nước Trung Hoa khỏi sự cai trị của nhà Thanh do người Mãn Châu xây dựng, để bắt đầu chánh sách tự tân tự cường. Điều đáng lưu ý là dân Mãn Châu chính là giống dân đã thành lập nước Đại Kim trước đây. Vậy, Tôn Văn với Trung Thần Thông đã có một quá trình tranh đấu chống sự xâm lược của dị tộc như nhau.
Mặt khác, ngoài tên húy là Văn và tên tự là Dật Tiên, họ Tôn lại còn có tên hiệu là Trung Sơn. Ta có thể nhận thấy rằng tên hiệu này có chữ trung bên trong như ngoại hiệu Trung Thần Thông của Vương Trùng Dương. Về mặt ý thức hệ, Tôn Văn đã chủ trương kết hợp ba hệ thống tư tưởng Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh gồm có tư tưởng Quốc Gia, Tự Do và Xã hội làm một mối trong chủ nghĩa Tam Dân, lại tìm cách dung hoà nền văn hoá cổ của Trung Hoa với những cái hay của nền văn hóa thế giới. Đường lối chánh trị của ông dựa trên tinh thần dân bản, lại hướng đến lý tưởng thế giới đại đồng. Những điểm trên đây có sự tương đồng với chủ trương đường lối phái Toàn Chân là một đoàn thể đã kết hợp giáo lý của Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo và lấy Thiên Cương Bắc Đẩu Trận làm kỹ thuật tranh đấu trấn sơn.
Sau hết, lá cờ Thanh Thiên Bạch Nhựt Mãn Địa Hồng mà Tôn Văn và Trung Hoa Quốc Dân Đảng do ông lãnh đạo lấy làm quốc kỳ có hình mặt trời chói lọi tiêu biểu cho nền chánh trị dựa vào sự quang minh chánh trực và có thể so sánh với công phu Nhứt Dương Chỉ của phái Toàn Chân.
I- CÁC NHƠN VẬT CÓ LIÊN HỆ ĐẾN PHÁI TOÀN CHÂN SAU VƯƠNG TRÙNG DƯƠNG: QUÁCH TĨNH và DƯƠNG KHANG
Sau khi Tôn Văn chết, không còn vị chánh khách Trung Hoa nào được toàn thể người Trung Hoa tôn trọng, cũng như sau khi Vương Trùng Dương chết, không còn người nào trong phái Toàn Chân có được tầm vóc của ông trừ Châu Bá Thông, nhưng Châu Bá Thông lại không được đứng vào địa vị lãnh đạo phái này. Bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU có nói đến hai nhơn vật có liên hệ đến phái Toàn Chân là Quách Tĩnh và Dương Khang.
1. Quách Tĩnh đã học nội công với đại đệ tử của Vương Trùng Dương là Mã Ngọc, nhưng không được Mã Ngọc nhận làm học trò. Sau đó ông đã thờ Bắc Cái làm sư phụ, mà như chúng tôi sẽ trình bày sau. Bắc Cái là một nhơn vật tượng trưng cho Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế.
Mặt khác, Quách Tĩnh đã có thêm nhiều công lực nhờ hút được huyết con rắn quí của Lương Tử Ông. Con rắn này nguyên là một con rắn độc màu đen, nhưng sau khi được Lương Tử Ông nuôi lâu năm bằng những loại trân dược, nó trở thành đỏ như huyết. Như chúng tôi sẽ trình bày trong đoạn nói về Tây Độc, con rắn là một biểu tượng của nền văn hoá Tây Phương. Ngoài ra, hiện nay, người ta thường dùng màu đen để biểu tượng cho cánh hữu bảo thủ và màu đỏ để biểu tượng cho cánh tả cách mạng. Các chi tiết trên đây cho thấy rằng con rắn của Lương Tử Ông được dùng để ám chỉ chủ nghĩa Cộng Sản. Triết lý của chủ nghĩa này vốn phát xuất từ biện chứng pháp của Hegel là một nhà học giả hữu phái của nước Đức. Karl Marx là học trò của Hegel; ông đã biến biện chứng pháp Hegel thành biện chứng pháp duy vật và làm nền tảng cho hệ thống tư tưởng cách mạng vô sản của mình. Kim Dung đã dùng con rắn đỏ để chỉ biện chứng pháp duy vật của Karl Marx. Biện chứng pháp duy vật thiên tả này vốn phát xuất từ biện chứng pháp hữu phái của Hegel, cũng như con rắn đỏ của Lương Tử Ông vốn là con rắn đen bị đổi màu sau khi được nuôi lâu năm bằng trân dược.
Vậy, Quách Tĩnh biểu tượng cho một nhơn vật Trung Hoa có một sở học khá vững về nền văn hoá cổ truyền của nước mình, nhưng sau đó, đã theo chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx và gia nhập Đảng Cộng Sản Quốc Tế. Trong các chánh khách Trung Hoa quan trọng xuất hiện sau Tôn Văn, người thích ứng hơn hết với các chi tiết trên đây là Mao Trạch Đông.
Trong hai bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Quách Tĩnh đã không nhận lãnh quan chức của triều đình nhà Tống mà ông cho là hủ bại với những ông vua ham mê tửu sắc và những viên quan hèn nhát gian nịnh. Nhưng ông đã cùng với viên trấn thủ thành Tương Dương (nay là Tương Phàn trong tỉnh Hồ Bắc) lãnh đạo cuộc tranh đấu chống lại các cuộc tấn công của quân Mông Cổ. Những điều này có thể so sánh với các việc Mao Trạch Đông tuy không thuận với chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc, nhưng đã cùng chánh phủ này lãnh đạo cưộc kháng chiến chống Nhựt.
Trong phần kết cuộc của bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Quách Tĩnh lại được công nhận làm Bắc Hiệp hay Bắc Cái trong số Võ Lâm Ngũ Bá. Với sự kiện này, Kim Dung đã muốn nêu ý kiến là Mao Trạch Đông xứng đáng cầm đầu Cộng Sản Quốc Tế hơn là các nhà lãnh đạo Sô Viết kế vị cho Staline. Ta không nên lấy làm lạ về quan điểm này vì khi viết bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung đã bớt thiện cảm với Cộng Sản Nga, nhưng vẫn còn hoan nghinh Trung Cộng.
2. Dương Khang vừa là người anh em kết nghĩa với Quách Tĩnh, vừa là người đã nhiều lần chống chọi lại Quách Tỉnh. Lúc ban đầu, ông được Khưu Xứ Cơ là sư đệ của Mã Ngọc thâu nhận làm đệ tử. Vậy, ông chánh thức là người của phái Toàn Chân. Nhưng ông đã được Hoàn Nhan Liệt là một thân vương nước Đại Kim nuôi từ nhỏ và xem như con ruột. Một mặt vì thương mến và thâm cảm ơn nuôi dưỡng tử tế, một mặt vì luyến tiếc sự giàu ang của vương thất nước Đại Kim mặc dầu nước ấy đang ở vào lúc sắp bị diệt, Dương Khang đã tiếp tục trung thành với Hoàn Nhan Liệt ngay cả lúc đã được biết chắc là vị vương giả này thật sự là người thù đã làm hại cha mẹ ruột mình. Dương Khang cũng có một đôi lần bị mối thù cha mẹ thúc giục nên có ý định làm hại Hoàn Nhan Liệt, nhưng lần nào ông cũng bỏ qua ý định đó.
Cứ theo lời mô tả của Kim Dung thì Hoàn Nhan Liệt có thể xem như là tiêu biểu cho phe đế quốc xâm lược. Về phần Dương Khang thì nhơn vật chánh trị thời cận đại gần với hình ảnh của ông nhiều hơn hết là Uông Tinh Vệ. Ông này vốn là một nhà ái quốc chống lại nhà Thanh và là một nhơn vật hợp tác chặt chẽ với Tôn Văn trong Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
Trong thời kỳ chống lại nhà Thanh, ông Uông Tinh Vệ đã tỏ ra rất dũng cảm. Khi bị bắt lúc hãy còn rất trẻ, ông đã không sợ hãi mà còn làm một bài thơ để biểu lộ ý chí mình như sau:
Khảng khái ca Yên thị,
Thung dung tác Sở tù.
Dẫn đao thành nhứt khoái,
Bất phụ thiếu niên đầu.
Yên thị là cái chợ ở Yên Kinh, tức là Bắc Kinh ngày nay, nơi nhà Nguyên do người Mông Cổ thành lập dùng làm kinh đô. Lúc người Mông Cổ đánh Nam Tống thì một nhà ái quốc Trung Hoa là Văn Thiên Tường đã mộ quân chống lại họ. Ông bị bắt và bị cầm tù ở Bắc Kinh ngày nay vì không chịu đầu hàng. Trong khi ở trong ngục, ông làm bài Chánh Khí Ca để biểu lộ lòng trung nghĩa bất khuất của mình, và về sau đã bị người Mông Cổ xử tử ở Bắc Kinh.
Sở tù là người tù nước Sở. Đó là danh hiệu để chỉ Chung Nghi, một người nước Sở bị bắt làm tù binh, nhưng trong khi bị địch giam giữ vẫn có vẻ ung dung và giữ lề lối ăn mặc cư xử của nước mình.
Vậy với bài thơ trên đây, ông Uông Tinh Vệ đã lấy gương Văn Thiên Tường và Chung Nghi ra để biểu lộ ý chí của mình không chịu khuất phục nhà Thanh. Ông quyết tâm giữ thái độ ung dung như Chung Nghi và nếu có bị xử tử thì sẵn sàng ca hát một cách khảng khái ở pháp trường như Văn Thiên Tường, chỉ mong cho đao của người giám trảm chặt cho ngon để không uổng công chém cái đầu của một người thiếu niên như mình.
Sau khi Trung Hoa Dân Quốc thành lập, ông Uông Tinh Vệ trở thành một người cộng sự mật thiết với ông Tôn Văn và là một trong những người tranh quyền lãnh đạo với Tưởng Giới Thạch. Ông rất muốn cho Trung Quốc canh tân theo nước Nhựt để trở thành cường thạnh, nhưng dĩ nhiên không thể không tán thành việc nước Nhựt chinh phục Trung Quốc. Tuy nhiên, một mặt vì không chấp nhận quyền lãnh đạo của ông Tưởng Giới Thạch, một mặt vì đặt chủ trương chống lại Trung Cộng trên chủ trương chống Nhựt nên về sau, ông đã chịu thành lập một Chánh Phủ Trung Hoa hợp tác với người Nhựt khi nước Nhựt xâm lấn Trung Quốc. Do đó, Uông Tinh Vệ đã bị đa số người Trung Hoa hiện đại lên án về chỗ đã hợp tác với kẻ thù của nước mình. Nếu quả thật Kim Dung dùng Dương Khang để biểu tượng cho Uông Tinh Vệ thì ông đã theo xu hướng chung của đồng bào ông.
còn tiếp...
Kỳ,
Thấy đề "Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim-Dung" là nhào vô nhà nàng nè. Jay chưa có giờ đọc sâu xa, mới lướt thoáng qua, sẽ trở lại.
(2022-08-09, 08:38 PM)JayM Wrote: [ -> ]Kỳ,
Thấy đề "Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim-Dung" là nhào vô nhà nàng nè. Jay chưa có giờ đọc sâu xa, mới lướt thoáng qua, sẽ trở lại.
Đọc quyển này thích khi nào xem xong các truyện chính của ông Kim Dung rồi mới thấy phân tích của cố giáo sư đầy kinh ngạc. Mình đọc truyện chưởng là chỉ để đọc giải trí, còn giáo sư Huy đọc còn nhìn thấy được các tương quan chính trị đọc thấy "rất đã".
(2022-08-09, 08:38 PM)JayM Wrote: [ -> ]Kỳ,
Thấy đề "Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim-Dung" là nhào vô nhà nàng nè. Jay chưa có giờ đọc sâu xa, mới lướt thoáng qua, sẽ trở lại.
Cám ơn nàng ủng hộ. Đây là một bộ sách mà theo Kỳ thì rất đáng để đọc, Kỳ đọc đi đọc lại nhiều lần rồi mà lần nào cũng thấy rất là thích. Lúc Kỳ xem film hay đọc truyện võ hiệp thì Kỳ có cái tật hay question và muốn tìm hiểu thêm về nhân vật nào đó mà Kỳ có ấn tượng. Khi xem mấy film based trên truyện Kim Dung cũng vậy, giống như có rất nhiều ẩn số mờ mờ ảo ảo mà mình rất muốn khám phá, muốn tìm tòi để hiểu thêm. Ví dụ như Đảo Đào Hoa, thì mình thấy dường như có cái gì đó rất quen thuộc nhưng lại kg biết là cái gì, bộ sách tựa như là cánh cửa mở ra và giáo sư đã vén bức màn lên cho mình để mình bước vào bên trong và hiểu ra những bí mật đó, càng đọc lại càng thích á nàng.
(2022-08-10, 12:11 AM)005 Wrote: [ -> ] Đọc quyển này thích khi nào xem xong các truyện chính của ông Kim Dung rồi mới thấy phân tích của cố giáo sư đầy kinh ngạc. Mình đọc truyện chưởng là chỉ để đọc giải trí, còn giáo sư Huy đọc còn nhìn thấy được các tương quan chính trị đọc thấy "rất đã".
Dạ hi-5 ngũ ca nè, "rất đã" là từ diễn tả rất đúng khi đọc bộ sách này. Muội đọc bộ này khi còn trẻ lắm, mấy lần đầu đọc thì thật tình là kg hiểu hết vì văn phong ông dùng theo âm giọng của người miền Nam nên có nhiều chữ muội kg nhận ra vì muội học tiếng Việt theo lối phát âm của người Bắc. Có nhiều chữ muội đọc kg hiểu thì phải đánh dấu lại và hỏi mấy tiền bối và sư huynh giải thích giùm. Từ từ thì muội mới hiểu được hết và mới thấm bộ sách này, khi đọc lại toàn bộ từ đầu tới cuối kg bị vấp nữa thì thật là "đã" như ngũ ca nói.
Nhơn Vật Tượng Trưng Cho Nước Nhựt: Đông Tà
Xét về mặt địa lý thì nước Nhựt ở phía đông Trung Quốc. Trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung có nói đến Đông Tà thì nhơn vật mang ngoại hiệu này đã thường xuất hiện với bộ áo màu xanh. Cứ theo vũ trụ quan của người Trung Hoa thì màu xanh thuộc hành mộc và liên hệ với phương đông. Vậy, việc Đông Tà mặc áo màu xanh nhấn mạnh thêm chỗ vị trí của nước Nhựt ở phía đông Trung Quốc. Mặt khác, căn cứ của Đông Tà là một hòn đảo mang tên là đảo Đào Hoa, mà nước Nhựt lại gồm một số đảo và được nổi tiếng trên thế giới là xứ của hoa anh đào.
Trong bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, Kim Dung cho biết rằng lúc nhỏ, Đông Tà rất sợ lửa, vì có một vị thiền sư đắc đạo đoán rằng số ông có thể vì lửa mà bị chết non. Điều này có thể dùng để ám chỉ việc các đảo Nhựt có nhiều núi lửa và thường bị động đất làm cho nhơn dân bị thiệt hại nhiều và rất sợ hoả hoạn. Trước Thế Chiến II, lúc chưa phát minh được kỹ thuật giữ cho nhà khỏi bị sập vì động đất, người Nhựt không dám xây dựng cao ốc bằng xi-măng cốt sắt, mà chỉ cất nhà nhẹ bằng tre vào gỗ để ít bị tai nạn khi có động đất làm cho nhà sập. Nhưng chính vì cất nhà bằng tre và gỗ nên dân Nhật không dám dùng lò sưởi hay dùng hệ thống nước nóng nấu bằng dầu để sưởi nhà cho ấm vào mùa đông, bởi lẽ làm như vậy thì rất dễ bị nạn cháy cả thành phố khi có động đất. Phương pháp cổ truyền của dân Nhựt để chống lại sự lạnh lẽo của đêm đông là tắm nước thật nóng cho người nóng ran lên trước khi lên giường ngủ và nhờ đó mà chỉ cần đắp mền kín là khỏi bị lạnh trong khi ngủ. Chỉ sau này, khi đã phát minh kỹ thuật giữ cho nhà khỏi sập vì động đất, người Nhựt mới cất những cao ốc bằng xi-măng cốt sắt và theo phương pháp Tây Phương sưởi nhà bằng lò sưởi hoặc dùng dầu nấu nước nóng phân phối cho các phòng ốc. Chúng ta cũng được biết rằng thời Thế Chiến II, các cuộc oanh tạc của Mỹ trên các thành phố Nhựt, nhứt là thủ đô Đông Kinh, đã gây những nạn cháy kinh khủng vì nhà cửa phần lớn cất bằng gỗ và tre.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên lưu ý rằng Đông Tà là người họ Hoàng. Trong ngôn ngữ Trung Hoa, hoàng có nghĩa là màu vàng. Do đó, ta có thể nghĩ rằng Kim Dung dùng họ Hoàng để nói lên việc dân tộc Nhựt là một dân tộc da vàng. Dân tộc này vốn có mối liên hệ chặt chẽ với dân tộc Trung Hoa. Mối liên hệ giữa hai bên đã được Kim Dung ám chỉ trong tên của bà vợ Đông Tà. Trong VÕ LÂM NGŨ BÁ, bà này có tên là Hương Điệp, nhưng trong ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì tên mà Đông Tà khắc trên mộ vợ lại là Mai Hương. Sự khác biệt này có thể là một điều sơ xuất của tác giả VÕ LÂM NGŨ BÁ trong trường hợp bộ truyện này không phải do chính Kim Dung viết ra. Nhưng cũng có thể chính Kim Dung đã viết cả hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và có ý bảo rằng bà vợ của Đông Tà đã đổi tên sau khi ra đảo Đào Hoa. Dầu sao thì Mai Hương cũng có nghĩa là mùi thơm của hoa mai, mà hoa mai lại được người Trung Hoa xem như là quốc hoa, tức là loài hoa biểu tượng cho nước họ. Sự kiện bà vợ Đông Tà mang tên Mai Hương có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau. Nó có thể ám chỉ rằng dân tộc Nhựt rất gần với dân tộc Trung Hoa về mặt chủng tộc, nhưng cũng có thể biểu tượng cho việc dân tộc Nhựt đã thấm nhuần văn hoá Trung Hoa.
1. Ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá Trung Hoa đối với dân tộc Nhựt đã được Kim Dung mô tả trong thân thế của Đông Tà. Nhơn vật này đã theo học Châu Đồng là một trong những vị anh hùng của Lương Sơn Bạc và là thầy của một vị danh tướng Trung Hoa nổi tiếng trung cang là Nhạc Phi. Trưóc khi theo học Châu Đồng, Đông Tà đã là một thư sinh học theo Nho Giáo. Từ khi làm môn đệ Châu Đồng, ông đã học thêm về võ nghệ, nhưng vẫn không xao lảng việc học văn. Bởi đó, ông là người văn võ kiêm toàn. Không những thuộc các sách vở điển tich Trung Hoa, ông còn biết hết các môn võ thuật lưu hành ở Trung Quốc. Hơn nữa, ông cũng rất thông thạo về các thú tiêu khiển của người Trung Hoa là cầm, kỳ, thi, hoạ, làm được thơ phú, bài ca, thổi tiêu rất hay, lại nắm vững mọi loại kỹ thuật Trung Hoa như y dược, bói toán, chiêm tinh, tướng số, nông điền, thủy lợi, binh lược v.v.. Nếp sống của ông là nếp sống của người Trung Hoa thuộc hạng giàu sang. Ông biết thưởng thức các món ăn ngon, các thứ rượu và trà quý của Trung Quốc. Thuyền và nhà của ông được trang trí bằng gấm tốt, bằng những danh hoạ, những sách hay hiếm có, những cổ ngoạn đắt tiền. Tuy nhiên, Đông Tà lại là người thâm hiểu Đạo Giáo và hướng về sự thanh tĩnh vô vi.
2. Ngoài ngoại hiệu Đông Tà, ông lại còn được gọi là Dược Sư. Trong các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung đã cho biết rằng Đông Tà đã chế ra nhiều môn thuốc trị thương, chữa bịnh hay bổ dưỡng. Tuy nhiên, y dược chỉ là một trong các kỹ thuật ông học được và ông không phải chuyên môn dùng kỹ thuật đó để đi cứu người hay hại người như các nhơn vật mang hiệu Dược sư hay Dược Vương trong các bộ truyện võ hiệp khác. Do đó, chúng ta có thể nghĩ rằng danh hiệu Dược Sư được dùng để gọi ông kế bên ngoại hiệu Đông Tà ắt có một dụng ý đặc biệt. Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong tin tưởng Phật Giáo Đại Thừa thạnh hành của phương đông là Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Như thế, danh hiệu Dược Sư của Đông Tà có thể dùng để ám chỉ rằng dân tộc Nhựt là một dân tộc ở phía đông Trung Quốc và có theo Phật Gíáo Đại Thừa. Vậy, với lối mô tả thân thế Đông Tà, Kim Dung đã cho thấy rằng dân tộc Nhựt đã theo học văn hoá Trung Hoa và đã có một nền văn hoá chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa về mọi phương diện.
Nói chung lại thì Đông Tà đã biết rõ các kỹ thuật của Trung Hoa về mặt đạo đức, ông đã có học giáo lý các tôn giáo lớn của Trung Hoa, đặc biệt là Nho Giáo và Đạo Giáo. Ông có một tinh thần thoát tục và có những tánh tốt được dân tộc Trung Hoa đề cao là ngay thẳng, cương trực và nói ra thì giữ lấy lời. Ông đã nhiều khi ra tay cứu giúp những người yếu thế chống lại bọn tham quan ô lại và bọn trộm cướp hiếp đáp dân lành. Ngoài ra ông cũng rất kính trọng các trung thần liệt sĩ. Tuy nhiên, ông lại không được Kim Dung liệt vào hạng người theo chánh đạo mà lại bị xem là một nhơn vật nhuốm đầy tà quái. Điều này có nghĩa là theo ý Kim Dung thì mặc dầu thấm nhuần văn hoá Trung Hoa và chánh thức theo quan niệm Trung Hoa về đạo đức, người Nhựt không phải hoàn toàn theo văn hoá Trung Hoa, cũng không phải cư xử đúng theo quan niệm đạo đức của người Trung Hoa.
Tuy có học các môn võ thuật Trung Hoa, Đông Tà đã không dùng các môn ấy mà tự sáng chế ra một số môn võ riêng cho mình như Lạc Anh Chưởng, Phách Không Chưởng, Tảo Diệp Thoái, Ngọc Tiêu Kiếm Pháp, Đạn Chỉ Thần Công … Một trong các võ khí của Đông Tà là cây ngọc tiêu. Tiếng tiêu của ông thổi có thể êm đềm hoà dịu, nhưng cũng có thể khêu gợi các tình cảm của người một cách mãnh liệt, nhứt là bản Thiên Ma Vũ Khúc kích thích dục tình rất mạnh mẽ và có thể làm cho người nghe điên loạn được. Để bảo vệ căn cứ của mình, Đông Tà đã dựa vào Kỳ Môn Bát Trận của Khổng Minh mà lập ra một Phản Kỳ Môn Bát Trận, bao trùm gần hết đảo Đào Hoa. Trận đồ của Đông Tà cũng dựa vào các nguyên tắc sinh khắc, âm dương, ngũ hành, nhị thập bát tú và 64 quẻ kép của Bát Quái cùng các đặc tánh của các quẻ đó như trận đồ của Khổng Minh. Tuy nhiên, trong các trận đồ của Đông Tà, vị trí các quẻ lại ngược lại vị trí các quẻ trong trận đồ Khổng Minh.
Với các chi tiết trên đây, Kim Dung ám chỉ rằng tuy có học theo văn hoá Trung Hoa, người Nhựt vẫn có những sáng chế của mình và có khi biến chế văn hoá Trung Hoa để áp dụng cho mình. Về tôn giáo thì ngoài Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo, họ còn có một tôn giáo là Thần Đạo. Về văn tự, tuy có dùng chữ Hán, họ lại có những thứ chữ đặc biệt cho họ là katakana và hiragan. Về võ thuật, họ có các môn đặc sáng như Nhu Đạo (Judo), Hiệp Khí Đạo (Aikido), Kiếm Đạo ( Kendo) … Nhơn cuộc hoà tấu giữa Đông Tà và Tây Độc trên đảo Đào Hoa, Kim Dung đã cho biết rằng công phu của Đông Tà thể hiện qua tiếng tiêu thuộc nhu tánh, trái với công phu Tây Độc thể hiện qua tiếng đàn tranh thuộc cương tánh. Với chi tiết này, Kim Dung đã ám chỉ rằng môn võ tiêu biểu cho kỹ thuật tranh đấu của người Nhựt là Nhu Thuật về sau được biến chế để thành ra Nhu Đạo.
Riêng sự kiện Đông Tà dựa vào Kỳ Môn Bát Trận của Khổng Minh để lập Phản Kỳ Môn Bát Trận có thể được Kim Dung dùng để ám chỉ việc người Nhựt thay đổi thứ tự của các mục tiêu chánh trị so với quan niệm Trung Hoa. Từ ngàn xưa, người Trung Hoa đã hướng đến lý tưởng thế giới đại đồng và trong tư tưởng của họ, việc bình thiên hạ là mục tiêu tối hậu, trị quốc chỉ cốt để dọn đường cho việc bình thiên hạ. Người Nhựt, trái lại, đã lấy việc xây dựng cho quốc gia mình hùng cường làm mục tiêu tối hậu và chánh sách đối ngoại của Nhựt luôn nhắm vào việc phục vụ riêng cho nước Nhựt chớ không phải hướng đến việc làm lợi cho mọi dân tộc như nhau theo lý tưởng đại đồng của Trung Hoa.
Qua việc mô tả võ công và kỹ thuật bảo vệ căn cứ của Đông Tà, Kim Dung đã cho thấy phần nào sự khác nhau giữa người Nhựt với người Trung Hoa. Việc đặt quyền lợi dân tộc lên trên lý tưởng đại đồng đã là một điểm dị biệt quan trọng. Ngoài ra, việc Đông Tà dùng tiếng tiêu để kích thích dục tình con người một cách mãnh liệt còn hàm ý rằng người Nhựt không theo đúng trung dung của người Trung Hoa mà thiên về sự túng dục, giống như người Tây Phưong mà biểu tượng là Tây Độc như chúng tôi sẽ trình bày trong đoạn nói về nhơn vật sau này. Một biểu lộ khác của sự thiếu tự chế của người Nhựt là việc Đông Tà quá bi thương về cái chết của vợ đến mức muốn chết theo bà, và gần như điên cuồng khi nghe nói con gái là Hoàng Dung cũng đã chết. Vậy, theo Kim Dung, người Nhựt đã nhiễm một số ác tật của người Tây Phương. Do đó, ông mói gọi nhơn vật tượng trưng cho họ là Đông Tà, đối chiếu lại Tây Độc.
Các đặc lánh của người Nhựt cũng đã được Kim Dung mô tả qua tâm tánh và lối xử sự của Đông Tà. Nhơn vật này vốn cao ngạo ương gàn, không xem thiên hạ ra chi. Khi ông muốn làm gì thì ông nhứt quyết làm cho bằng được, bất chấp dư luận. Ông đã huấn luyện môn đồ và con gái ông theo tinh thần trọng thực danh, không câu nệ tiểu tiết, có thể trộm cắp, cướp giựt của người những khi cần. Trong thực tế, Đông Tà đã có đủ phương tiện ăn xài huy hoắc và lập một căn cứ vừa kiên cố vừa sang trọng là vì ông đã dựa vào võ công siêu tuyệt của minh để đi lấy tiền của người giàu có hoặc đi tống tiền các tiêu cục lớn làm ăn phát đạt. Ông đã điềm nhiên nhận lãnh danh hiệu kẻ cướp mà người ta gán cho ông. Ông đã tìm mọi cách chiếm cho được CỬU ÂM CHƠN KINH và đã dùng cách bắt nhốt Châu Bá Thông để nhờ sự tỷ thí với ông này mà học các bí pháp chiến đấu của phái Toàn Chân.
Qua sự mô tả này, Kim Dung đã cho thấy rằng trái với người Trung Hoa thiên về lý thuyết và quay lưng lại khoa học thực nghiệm, người Nhựt đã hướng nhiều hơn về sự thực hành và đã tỏ ra tha thiết học về khoa học thực nghiệm. Họ đã dùng mọi biện pháp để học hay đánh cắp các phương pháp chế tạo hữu hiệu của các dân tộc khác đem về áp dụng trong nước họ. Mặt khác, người Nhựt cũng đã tỏ ra thái quá trong sự tự hào về nòi giống mình cũng như trong ý chí bành trướng thế lực. Thời trước, hải tặc Nhựt đã cướp bóc thương thuyền các nước trên biển, có khi còn đổ bộ lên cướp bóc trên lãnh thổ Trung Hoa. Sau khi canh tân và trở thành cường thạnh, nước Nhựt còn đi xâm chiếm thuộc địa và trước Thế Chiến II, đã nghiễm nhiên xưng danh là Đế Quốc Nhựt Bổn, chớ không xấu hổ khi bị công kích về chánh sách đế quốc của mình.
1. Trong sự đối xử với kẻ khác, Đông Tà nhiều khi tỏ ra gian giảo và tàn độc. Lúc mới gặp Trung Thần Thông lần đầu ở hoang đảo Đông Tà đã dùng lối thổi ống tiêu khích động tâm thần của Trung Thần Thông, nếu ông này định lực yếu kém thì không khỏi bi tẩu hỏa nhập ma, chết ngay tức khắc. Để có CỬU ÂM CHƠN KINH mà nghiên cứu, Đông Tà đã bày mưu gạt Châu Bá Thông đánh cuộc với mình, và dùng thủ đoạn xảo trá để thắng cuộc, với mục đích làm cho Châu Bá Thông phải trao CỬU ÂM CHƠN KINH cho vợ mình đọc. Trong việc làm này, ông đã khai thác tánh ngây thơ của Châu Bá Thông và việc Châu Bá Thông không biết rằng bà vợ của Đông Tà có khả năng thuộc lòng một bản văn khó hiểu sau khi đọc bản văn ấy một lần. Bộ hạ Đông Tà gốc là những người tàn ác bị Đông Tà bắt được rồi cắt lưỡi, đâm lủng tai cho trở thành câm điếc để dùng.
Sau khi hai người đệ tử là Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong trái môn qui tư tình nhau rồi đánh cắp CỬU ÂM CHƠN KINH để trốn đi, Đông Tà đã trừng phạt các đệ tử khác bằng cách cắt đứt gân chơn của họ rồi đuổi ra khỏi đảo Đào Hoa, mặc dầu các đệ tử này vô tội. Khi gặp lại Mai Siêu Phong, mặc dầu đã thấy là lúc nghe tin mình bị hại, bà này tỏ ý sẵn sàng đi báo thù cho mình, Đông Tà vẫn không tha tội và cấy vào khớp xương sổng của bà một cây phụ cốt châm có tẩm chất độc, chất độc này mỗi ngày vận hành sâu lần làm cho người bị hình phạt đau đớn không chịu nổi. Đông Tà chỉ hoãn cho phụ cốt châm này không hành hạ Mai Siêu Phong ngay và đặt ba điều kiện cho Mai Siêu Phong thi hành để được tha hẳn. Trong các điều kiện này, có việc tìm phần CỬU ÂM CHƠN KINH mà vợ chồng bà đã đánh cắp rồi làm một cuộc điều tra để giết tất cả ai đã đọc qua tài liệu này, và việc tự hủy phá công phu mà bà đã học trong CỬU ÂM CHƠN KINH đã đánh cắp. Nhưng tuy khắc nghiệt đổi với đệ tử Đông Tà lại không chấp nhận cho người khác đụng đến đệ tử của mình, dầu cho họ có lỗi lầm sai quẩy.
2. Những điều trên đây cho thấy rằng trong con mắt Kim Dung, nước Nhựt không ngần ngại dùng bất cứ phương tiện nào để đạt các mục tiêu của mình và các thủ đoạn cùng phương pháp hành động bạo tàn của nước ấy đã được áp dụng không những cho người ngoại quốc mà cho cả người công dân Nhựt, mặc dầu lúc nào nước Nhựt cũng tận lực binh vực các công dân của mình đối với người ngoại quốc. Điều đáng để ý là tuy đã bi thầy đối xử một cách hết sức tàn nhẫn ác độc và bắt theo một kỷ luật rất gắt gao, bọn đồ đệ của Đông Tà đều hết sức tôn trọng thầy và tuyệt đối trung thành với thầy. Lục Thừa Phong cũng như Khúc Linh Phong đã hoàn toàn tuân theo môn qui của Đông Tà, không hề dạy con các môn võ mình đã học với ông. Riêng Khúc Linh Phong tuy bị Đông Tà làm cho tàn tật đã lén vào cung vua nhà Tổng đánh cắp các đồ trân bảo và các danh hoạ với mục đích đem dâng cho thầy về sau. Phùng Mặc Phong thì đến già vẫn nhớ đến thầy và tận lực chiến đấu bảo vệ thanh danh của thầy. Ngay đến Mai Siêu Phong cũng đã liều mạng đỡ đòn của Tây Độc thay thầy và do đó mà phải chết. Nhưng trước khi chết, bà đã tự làm cho hai tay bi gãy để hủy diệt các công phu Cửu Âm Bạch Cốt Trảo và Tồi Tâm Chưởng đã học trong CỬU ÂM CHƠN KINH mà vợ chồng bà đã đánh cắp của thầy, theo điều kiện mà Đông Tà đã đặt ra cho bà trước đây. Khi được Đông Tà ngỏ lời khen ngợi và nhìn nhận lại là đệ tử trung thành, bà hết sức vui mừng và lạy thầy đến chết.
Các sự kiện trên đây đã được dùng để mô tả tinh thần ái quốc và sự trung thành không bờ bến mà nước Nhựt đã đào tạo được cho con dân mình bằng một kỳ luật rất nghiêm ngặt và một chánh sách khắc nghiệt. Ta có thể nhận thấy rằng các đệ tử của Đông Tà dầu trước có tên gì thì cũng đều đổi lại tên Phong khi về đảo Đào Hoa. Chữ Phong ở đây có nghĩa là gió, giồng như chữ Phong trong danh từ nổi tiếng của Nhựt làThần Phong (Kamikaze). Thần Phong nguyên là danh từ dùng để chỉ trận bão lớn năm 1281 đã làm đắm nhiều chiến thuyền của hạm đội Mông Cổ được lịnh tiến đánh nước Nhựt, làm cho nước này khỏi nạn bị xâm chiếm. Trong thời Thế Chiến II, người Nhựt đã dùng danh từ Thần Phong để đặt cho các đội phi công cảm tử tình nguyện lao phi cơ chứa đầy chất nổ của mình xuồng các chiến hạm Đồng Minh và nổ tung với các chiến hạm này, với hy vọng giữ cho nước Nhựt khỏi thua trận.
Các tên Huyền Phong, Siêu Phong, Thừa Phong, Linh Phong, Mặc Phong của đám đệ tử Đông Tà đều có liên hệ với danh từ Thần Phong. Nó cho thấy rằng họ tiêu biểu cho tinh thần cảm tử của người Nhựt trong thời từ Thế Chiến II trở về trước. Ngoài họ ra, Đông Tà không còn huấn luyện người đệ tử nào khác trong tinh thần đó. Khi trở về già, Đông Tà có lúc đã tỏ ra hối hận vì đã xử sự quá khắc nghiệt với học trò mình. Những điều này dùng để ám chỉ rằng sau Thế Chiến II, mặc dầu còn tồn tại như một đại quốc, nước Nhựt đã thay đổi chánh sách và không còn quá khắc nghiệt đối với công dân mình như trước.
Một điểm khác đáng lưu ý là Đông Tà có biệt tài dùng ám khí và ám khí thường được ông dùng là các mũi kim vàng. Qua hình ảnh này, Kim Dung có thể muốn nói đến việc người Nhựt dùng kinh tế làm một võ khí đề bành trướng thế lực. Trong lịch sử cận đại, hai lực lượng chi phối chánh sách của nước Nhựt là quân phiệt và tài phiệt. Nhóm tài phiệt được hình thành từ trước khi nước Nhựt canh tân. Không những góp phần vào việc canh tân này, nó còn giúp vào việc bành trưởng thế lực của nước Nhựt. Trong khi chánh sách của quân phiệt dựa vào việc dùng võ lực một cách trắng trợn thì chánh sách của tài phiệt lại dựa vào phương tiện kinh tế và có tính cách kín đáo hơn, nhưng cũng rất có hiệu lực. Bởi đó, Kim Dung đã ví nó như là việc dùng những cây kim vàng làm ám khi đề làm tê liệt địch thủ của mình.
Nói chung lại thì trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung có nói đến Đông Tà, có nhiều chi tiết cho rằng tác giả các bộ truyện ấy đã dùng nhơn vật này để ám chỉ nước Nhựt. Ta có thể nhận thấy rằng trong Võ Lâm Ngũ Bá đã luận võ trên đỉnh núi Hoa Sơn lần đầu chỉ có ông là còn sống đến kỳ luận võ lần chót và vẫn giữ nguyên ngoại hiệu Đông Tà không thay đổi. Chi tiết này được dùng đề chỉ việc chế độ chánh trị Nhựt xây dựng chung quanh uy quyền của Thiên Hoàng đã tồn tại qua dòng thời gian từ đời thượng cổ đến ngày nay.
còn tiếp...
Nhơn Vật Tượng Trưng Cho Các Nước Tây Phương : Tây Độc, Âu Dương Công Tử, Duơng Quá
Trong khi Đông Tà là một nhơn vật chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và tượng trưng cho nước Nhựt thì Tây Độc, Âu Dương Công Tử và Dương Quá lại là những nhơn vật hoàn toàn xa lạ với nền văn hoá này và có thể xem như là những kẻ tượng trưng cho các nước Tây Phương, với Tây Độc và Âu Dương Công Tử tiêu biểu riêng cho các nước Âu Châu và Dương Quá tiêu biểu riêng cho nước Mỹ.
TIÊU BIỂU CHO CÁC NƯỚC TÂY PHUƠNG NÓI CHUNG Và CÁC NƯỚC ÂU CHÂU NÓI RIÊNG.
1. Các dấu hiệu vật chất cho thấy rằng Tây Độc và Âu Dương Công Tử tượng trưng cho các nước Âu Châu. Về mặt vị trí địa lý, các nước Âu Châu vốn ở phía tây Trung Quốc. Do đó, các nước mà nhơn dân có nguồn gốc chủng tộc và văn hóa ở Âu Châu được người Trung Hoa và các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa gọi chung là các nước Tây Phương.
Nhơn vật mang ngoại hiệu Tây Độc được xem là Bạch Đà Sơn Chủ, tức là chúa núi Bạch Đà, mà chữ bạch trong Hán văn lại có nghĩa là màu trắng. Mặt khác, ông ta cũng như Âu Dương Công Tử thường mặc áo trắng, các nô tỳ của họ cũng được trang phục với sắc trắng. Võ khí của Tây Độc là cây đàn tranh đúc bằng thép. Về phần Âu Dương Công Tử thì võ khí là một cây quạt bằng sắt. Theo vũ trụ quan của người Trung Hoa thì màu trắng thuộc hành kim và liên hệ đến phía tây. Việc chú cháu Tây Độc ở Bạch Đà Sơn, thường mặc áo trắng và dùng sắc trắng đề trang phục cho nô tỳ mình, đồng thời dùng một võ khí bằng thép hay sắt tức là chất thuộc kim loại, xác nhận vị tri của các nước Âu Châu ở phía Tây Trung Quốc. Ta lại có thể nhận thẩy rằng chú cháu Tây Độc họ Âu Dương, và trong danh hiệu của họ này có chữ ÂU dùng để ám chỉ Âu Châu.
Trái với nếp sống của Trung Thần Thông và Đông Tà là một nếp sống đạo đức và chịu ảnh hưởng của Đạo Giáo nên hướng về sự thanh tĩnh vô vi, nếp sống của Tây Độc và của Âu Dương Công Tử là một nếp sống hướng về sự hưởng thụ vật chất và thiếu hẳn yếu tố đạo đức. Riêng mối liên hệ giữa Tây Độc với Âu Dương Công Tử đã là một biểu tượng của sự phản đạo đức. Kim Dung đã cho biết rằng Tây Độc vì thông dâm với chị dâu mà ngầm sát hại anh ruột mình, và Âu Dương Công Tử trên danh nghĩa là cháu gọi ông bằng chú, nhưng thật sự lại chính là con ruột của ông. Căn cứ của Tây Độc ở Bạch Đà Sơn có nhiều gái đẹp thuộc nhiều chủng tộc khác nhau. Họ được tập luyện để biết múa hát, và ngoài việc phục vụ cho thú nhục dục của chủ, họ còn được dùng làm một dụng cụ cho cuộc tranh đấu để giành địa vị bá chủ võ lâm mà Tây Độc đeo đuổi. Âu Dương Công Tử lại còn dâm dật hơn Tây Độc. Ngoài việc mua vui với các nữ tỳ đã có, ông còn đi bắt cóc thêm con gái đẹp nhà lành để thỏa mãn thú tánh. Qua tâm tánh trên đây của Tây Độc và Âu Dương Công Tử, Kim Dung đã cho thấy quan niệm của những người Trung Hoa theo truyền thống Đông Phương. Trong con mắt của những người này, đó là một nền văn hóa đặt nền tảng trên sự tự do cá nhơn và thiên về sự hưởng thụ vật chất nên có tánh cách phóng túng và đồi trụy.
Để có phương tiện ăn xài và thực hiện các kế hoạch của mình, Tây Độc đã dùng lối giết người đoạt vật để thâu thập tiền của. Căn cứ của ông ở Bạch Đà Sơn chứa nhiều vàng bạc và ngọc ngà châu báu. Ở đây, ta cần phải nhận thấy chỗ khác nhau giữa Tây Độc với Đông Tà: các bảo vật của Tây Độc toàn là loại bảo vật trân quí về mặt vật chất, trong khi Đông Tà, ngoài các bảo vật loại này, lại còn có những bảo vật trân quí về mặt tinh thần như các bức tranh đẹp, các sách hay v.v... Điều này không có nghĩa là các nước Tây Phương không biết thưởng thức hay không bảo trọng các bảo vật trân quí về mặt tinh thần, vì thật sự các nước ấy không thiếu các loại bảo vật đó và cũng rất trọng nó. Bởi đó, khi mô tả tài sản của Tây Độc, Kim Dung chỉ muốn nhấn mạnh trên tinh thần của người Tây Phương thiên về các quyền lợi vật chất chớ không phải đề cao đời sồng tinh thần như người các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa.
Về mặt khả năng, tài nghệ của Tây Độc có nhiều mối liên hệ với rắn. Họ Âu Dương ở Bạch Đà Sơn vốn chuyên nuôi độc xà ác mãng. Mặt khác, sở dĩ Tây Độc có một nội công thâm hậu là vì lúc trẻ, anh em ông đã may mắn được uống huyết và ăn thịt con Bạch Long Xà là một loại rắn thần hiếm có. Sau đó, họ đã lượm được bộ NGŨ ĐỘC KỲ KINH và dựa vào đó mà luyện những công phu lợi hại. Tây Độc chuyên sử dụng nọc độc của loài rắn. Với môn Độc Xà Thần Công ông có thể cho nọc độc của mười con rắn rút vào cơ thể của ông rồi dồn vào đầu mười ngón tay. Luyện được môn này rồi thì chỉ cần phát ra sức gió của ngón tay cũng đủ làm cho kẻ địch bị thương, và nếu đầu ngón tay xỉa trúng vào kẻ địch thì kẻ địch còn bị nguy hiểm hơn là bị rắn độc cắn. Trong cây đàn tranh mà Tây Độc dùng làm võ khí, có đặt hai con rắn giả nanh sắc bén được tẩm luyện trong nọc rắn độc để ngầm hại địch thủ một cách bất ngờ. Ngoài ra, Tây Độc còn một cây xà trượng có cái nanh thép sắc bén như cái nanh trong cây đàn tranh, đồng thời có hai con rắn độc quấn vào và thay phiên nhau, hễ một con bò lên thì một con bò xuống. Tây Độc cũng có luyện tập rắn để lập thành xà trận, và dùng một số nam nô đề điều khiển bầy rắn của mình. Sau hết, để đối phó với các tay cao thủ võ lâm lợi hại, ông đã ngấm sáng tạo một môn võ đặc biệt là Kim Xà Quyền.
Theo truyền thuyết các nước Tây Phương, con rồng không phải là một thần vật được tôn trọng như con rồng của truyền thuyết Trung Hoa. Con rồng Trung Hoa được xem như là một trong tứ linh là bốn con vật linh nhất trong vũ trụ. Nó có một khả năng biến hóa vô cùng và có nhiệm vụ giúp trời trong nhiều công việc, đặc biệt là công việc làm mưa đề cho nhơn gian có nước mà dùng. Do đó, người Trung Hoa rất tôn trọng con rồng và lấy nó làm biểu tượng cho nhà vua. Phần con rồng Tây Phương thì cũng được xem là một con vật có sức mạnh siêu phàm đáng sợ, nhưng đó là một quái vật chớ không phải là một linh vật. Nó không có nhiều khả năng biến hóa như con rồng Trung Hoa. Nó vẫn chỉ làm những việc có lợi cho nó mà có hại cho loài người, và tài đặc biệt của nó là phun ra lửa để hạ kẻ địch. Trong vũ trụ quan Trung Hoa, lửa thuộc hành hỏa và có liên hệ với màu đỏ. Vậy năm lằn sọc đỏ dưới bụng con Bạch Long Xà có thể đã được Kim Dung dùng để ám chỉ khả năng phun lửa của con rồng Tây Phương.
Con Bạch Long Xà thì tuy mang danh hiệu là rồng, nhưng thật sự chỉ là một con rắn. Loài động vật này được xem là đồng loại với rồng, nhưng lại là một động vật thường không có khả năng siêu việt. Theo quan niệm chung thì con rắn là tiêu biểu cho sự lừa dối và phản bội. Riêng trong Thánh Kinh của người Tây Phương, con rắn lại còn là một hiện thân của quỷ, lúc quỷ xúi giục thỉ tổ của loài người là Bà Eve và Ông Adam, làm cho hai vị đó cãi lời dạy của Đức Chúa Trời và ăn trái cây cấm mọc ở giữa Thiên Đường. Theo Thánh Kinh này, sau khi ăn trái cây cấm thì Eve và Adam biết mình trần trưồng và xấu hổ vì sự trần truồng đó nên hái lá cây sung kết lại để che hạ thể của mình. Vậy, trái cây cấm này là cái giúp người hiểu biết, tức là trí tuệ hay khả năng khoa học và con rắn chính là động cơ tâm lý thúc đẩy con người tìm tòi đề hiểu biết.
Ngoài câu chuyện kể trên đây trong Thánh Kinh, con rắn còn có một vai tuồng quan trọng trong các thần thoại và trong quan niệm của người Tây Phương. Thời cổ, hình hai con rắn quấn trên một cành nguyệt quế hay một cành cảm lãm là biểu hiệu chánh của Hermès (ở Hy Lạp) và Mercury (ở La Mã) là những vị thần chủ sự việc mua bán, du lịch, phát minh, biến chế và trộm cắp và do đó mà trở thành biểu hiệu cho Thương Mãi và Hòa Hợp. Các vị sứ giả và thông tín viên mang dấu hiệu này thì được hưởng quyền bất khả xâm phạm. Mặt khác, hình con rắn lại còn được dùng trong biểu hiệu của nghề y dược. Biểu hiệu của nghề y là một con rắn quấn trên một bó que còn biểu hiệu của nghề dược là một con rắn nhả nọc độc trong một cái ly. Đó là vì con rắn được xem là tượng trưng cho sự lanh lợi mà người y sĩ phải có để đổi phó với các chứng bịnh mình gặp và nọc con rắn tuy độc, nhưng lại có thể dùng để khắc chế chất độc khác theo nguyên lý dĩ độc trị độc.
Vậy nói chung lại thì trong quan niệm Tây Phương, con rắn vừa là động cơ tâm lý thúc đẩy người mở rộng phạm vi tri thức bằng hoạt động trí tuệ, và biểu tượng cho trí thông minh, sự khôn ngoan, khéo léo, lanh lợi cùng khả năng biến chế, vừa là một con vật tuy độc hại nhưng lại có một vai tuồng hữu ích trong vịệc chữa lành bịnh cho người. Như thế, con rắn có liên hệ mật thiết đến nền văn hóa Tây Phương và có thể dùng làm biểu tượng cho nền văn hóa ấy.
Với việc anh em Tây Độc nhờ được uống huyết và ăn thịt con Bạch Long Xà mà tăng thêm công lực, Kim Dung có ý muốn ám chỉ rằng các nước Tây Phương sở dĩ mạnh là nhờ có một nền văn hóa cổ cũng như Trung Hoa. Nhưng nền văn hóa cổ của Tây Phương so với nền văn hóa cổ của Trung Hoa thì không đáng được trọng vọng bằng. Tiềm lực của nền văn hóa cổ Trung Hoa được biểu tượng bằng cái nấm mọc trên bã nhơn sâm nên có tánh cách tinh túy và không mang thú tánh. Về tiềm lực của nền văn hoá cổ Tây Phương, nó được biểu tượng bằng con rắn có tánh cách như con rồng Tây Phương. Tuy cũng có sự hữu dụng, nó còn mang thú tánh và còn chứa đựng những khuynh hướng tàn bạo độc ác có thể mang những mối hại lớn đến cho người.
Với quan niệm nêu ra trong Thánh Kinh và trong các thần thoại của người Tây Phương, liên kết con rắn với trí tuệ hay khả năng khoa học và với sự khôn ngoan, khéo léo, lanh lợi cùng khả năng biến chế ta có thể bảo rằng khi cho biết là kỹ thuật chiến đấu của Tây Độc dựa nhiều vào con rắn, Kim Dung đã có dụng ý nói đến việc nền văn hóa Tây Phương đặt nền tảng trên trí tuệ. Do đó, Ngũ Độc Kỳ Kinh cũng có thể xem như là một quyền sách dạy về kỹ thuật khoa học, đặc biệt là kỹ thuật chế ngự để sử dụng các lực lượng thiên nhiên được biểu tượng bằng bầy rắn độc được luyện tập để lập thành xà trận.
Nói chung, kỹ thuật khoa học của người Tây Phương có thể dùng để phục vụ con người, nhưng cũng có thể dùng vào việc chiến đấu và tàn hại con người. Khi gặp điều kiện bất thuận lợi, nó có thể quay lại hại người sử dụng. Như môn Độc Xà Thần Công khi dùng để tấn công địch mà bị địch phản kích làm cho đòn mình đánh ra bị dội ngược lại, thì chính chất độc mình luyện để hại người lại trở lại hại mình. Ta có thể so sánh việc này với việc dùng bom hơi độc khi có chiến tranh. Người ta có thể dùng bom hơi độc để tàn phá nước địch, nhưng nếu gặp gió mạnh thổi hơi độc trở lại vào nước mình thì nước mình không khỏi bị thiệt hại nặng.
Mặt khác, việc thiên về trí tuệ và khả năng khoa học cũng làm cho các nước Tây Phương thường áp dụng một chánh sách hợp lý. Điều này đã được Kìm Dung nhắc đến khi ông bảo rằng Tây Độc thường thành công trong các mưu đồ của mình là vì ông ta biết hành động đúng lúc, phải chỗ, không để lòng nông nổi lôi cuốn.
Về mặt võ thuật, Tây Độc thường dùng môn Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng Pháp. Nhưng công phu lợi hại nhất của ông là Cáp Mô Công. Cáp Mô là danh từ dùng để chỉ chung loài cóc nhái. Riêng con cóc là một con vật hình dáng xấu xa, da xù xì vì có nhiều mụt nổi lên, mà các mụt này lại có chứa đựng chất độc. Tây Độc không những luyện tập bằng cách hút các chất độc này vào cơ thể rồi hòa hợp nó với chân khí của mình, mà còn bắt chước tư thế con cóc khi sử dụng công phu này. Qua hình ảnh đó, Kim Dung cho thấy rằng võ thuật của người Tây Phương dựa vào sức mạnh một cách cục mịch nên không có sự tế nhị và sự huê dạng của các đòn võ thuật Trung Hoa hay Nhựt. Mặt khác, khi mô tả cuộc hoà tấu giữa Tây Độc với Đông Tà trên đảo Đào Hoa, Kim Dung lại cho biết rằng công phu của Tây Độc thể hiện bằng tiếng đàn tranh thuộc cương tánh. Điều này xác nhận thêm tánh cách thô bạo thuần dựa vào sức lực của môn quyền thuật Tây Phương.
Trong giai đoạn sau của đời mình, Tây Độc đã bị Hoàng Dung gạt và luyện tập CỬU ÂM CHƠN KINH theo nguyên tắc ngược chiều, nên từ kinh mạch đến các chiêu thức đều trái ngược với đường lối bình thường, thậm chí đến dộng đầu xuống đất, trở cẳng lên trời khi di chuyển và đánh nhau với kẻ khác. Với hình ảnh này, Kim Dung đã cho thấy rõ sự di biệt căn bản trong hai nền văn hóa Trung Hoa và Tây Phương. Nền văn hóa Trung Hoa đặt nền tảng trên đạo đức cho nên lúc nào cũng xem tâm quan trọng hơn trí. Nền văn hóa Tây Phương lúc đầu cũng trọng đạo đức nhưng đến mấy thế kỷ sau này, lại thiên về việc mở mang trí tuệ nhiều hơn và lần lần xem trí quan trọng hơn tâm. Theo cái nhìn của Kim Dung, đó là một sự thay đổi trái với thiên lý, chẳng khác nào như việc trở cẳng lên trời, dộng đầu xuống đất.
Trong việc xử sự bình thường cũng như trong việc mưu đồ tranh đoạt ngôi bá chủ võ lâm, Tây Độc đã dùng sự trí trá. Ông không lui bước trước thủ đoạn tàn độc nào để đạt mục đích và không hề nghĩ đến công ơn kẻ khác đối với mình. Điều này hàm ý rằng theo Kim Dung, các nước Tây Phương đã đi xa hơn nước Nhựt trong việc áp dụng nguyên tắc “cứu cánh biện minh cho phương tiện”.
Trong cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn, Tây Độc đã dùng mỹ nhơn trận và xà trận để đối phó với Trung Thần Thông, mà hơi độc do bầy rắn của ông phun ra trong không khí lại có khả năng kết tụ lại chớ không tan. Tiếng đàn tranh ông dùng để điều khiển bầy rắn cũng như để lung lạc tinh thần của đối phương có tánh cách khích động dục tình của con người rất mãnh liệt.
Các hình ảnh này có dụng ý cho thấy rằng người Tây Phương bản tánh bồng bột mà lại đề cho tình cảm tự do biểu lộ chớ không kềm chế nó như người Trung Hoa. Trong sự bành trướng thể lực, người Tây Phương chẳng những đã dùng sức mạnh vật chất mà còng dùng lối phổ biến nếp sống phóng túng của họ đề làm yếu các nước khác. Các tư tưởng của họ được phát thanh cho cả thế giới nghe bị xem như là hơi độc mà bầy rắn của Tây Độc phun ra trong không khí, có thể làm cho người hít phải nó bị ngộ độc mà chết. Ở đây, tư tưởng Kim Dung cũng giống như tư tưởng của các nhà lãnh đạo bảo thủ của Trung Cộng hiện nay, cho rằng Trung Hoa bị nạn “ô nhiễm tinh thần” khi chịu mở cửa tiếp xúc rộng rãi với các nước Tây Phương.
Sự kiện Tây Độc có nhiều nam nô và nữ tỳ (để phục vụ mình nhắc lại ba việc trong lịch sử các nước Tây Phương: một là việc người Tây Phương đã áp dụng chế độ buôn bán nô lệ, hai là họ đã đi chinh phục nhiều thuộc địa, ba là họ đã dùng các nô lệ cũng như dùng người dân ở các thuộc địa của họ trong việc phục vụ nền kinh tế cùng chủ trương bành trướng thế lực của họ. Việc Tây Độc trở mặt đánh Bắc Cái sau khi ông này đã cứu mạng mình có thể là hình ảnh để ám chỉ một cố sự lúc các nhóm dân Âu Châu mới đến Mỹ Châu. Các nhóm này đã gặp những khó khăn nan giải trong việc mưu sinh và tưởng đã phải chết hết, chỉ nhờ người thổ dân giúp lương thực cho, họ mới tồn tại được. Nhưng về sau, họ lại lấn lên, chiếm lấy đất đai và tàn sát những người thổ dân đã từng cứu giúp họ.
Trong cuộc luận võ kỳ hai ở Hoa Sơn, Tây Độc đã vì điên cuồng và có những đòn ngược chiều quá kỳ quặc nên đã làm cho cả Đông Tà lẫn Bắc Cái phải hoang mang sợ hãi. Nhưng vì bị Hoàng Dung trêu chọc, ông đã đồng thời mất trí và không còn nhớ mình là ai. Sự kiện này mang nhiều ý nghĩa khác nhau.
a. Trước hết, nó biểu lộ một sự kiện mà chính các triết gia Tây Phương đã gọi là hiện tượng vong thân: vì bồng bột, lại thiên về trí hơn tâm thành ra có xu hướng nghiêng về sự thái quá chớ không theo đạo trung dung của người Trung Hoa nên người các nước Âu Châu cuối cùng đã để cho các mục tiêu của họ lấn lên làm chủ lấy họ. Họ không phải xem tiền của danh vọng như là các yếu tố giúp vào sự sổng của họ mà lại sống cho mục đích tìm tiền của danh vọng. Điều này đã làm cho dân Âu Châu trải qua một cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng sau Thế Chiến 1. Mặt khác nói chung thì trong quá khứ người Âu Châu đã nhiều lần xung đột mãnh liệt với nhau. Họ đã gây ra những cuộc nội chiến, như các cuộc xung đột đẫm máu giữa người theo Công Giáo La Mã và người theo các hệ phải Tin Lành; họ cũng đã gây ra những trận chiến tranh tàn khốc giữa các nước Âu Châu với nhau làm chết không biết bao nhiêu nhơn mạng. Điều này đã được Kim Dung đặc biệt nói đến qua việc Tây Độc giết anh ruột mình.
b. Ngoài ra, ta còn có thể nhận thấy rằng ban đầu các nước Âu Châu là biểu tượng cho tất cả các nước Tây Phương, nhưng về sau, lúc khối Tây Phương trở thành mạnh nhứt thế giới thì vai tuồng của các nước Âu Châu đã bị lu mờ, và khi nói đến Tây Phương, người ta lại nghĩ nhiều hơn đến nước Mỹ. Tuy phần lớn cũng là do dân Âu Châu mà ra, dân Mỹ lại không phải ở Âu Châu. Việc các nước Âu Châu một vị thế tiêu biểu cho khối Tây Phương đã được Kim Dung ám chỉ khi ông cho biết rằng Tây Độc mất trí, không còn biết mình tên là Âu Dương Phong và tưởng Âu Dương Phong là một nhơn vật khác hơn mình.
Việc người Mỹ cuối cùng vượt lên hơn người Âu Châu để làm tiêu biểu cho cả khối Tây Phương đã được Kim Dung đề cập đến với sự xuất hiện của Dương Quá trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP. Nhơn vật này vốn là đứa con do Tần Nam Cầm sanh ra sau khi bị Dương Khang hãm hiếp, và đã phải sống trong cảnh cô độc không có gia đình từ thuở nhỏ, thành ra đã phải lưu lạc khắp nơi. Phần Tần Nam Cầm thì xuất thân từ một gia đình sống về nghề bắt rắn độc, mà rắn, như chúng ta đã thấy, lại có tánh cách biểu tượng cho nền văn hóa Tây Phương phát xuất từ Âu Châu.
Ngoài ra, Dương Quá lại có mối liên hệ đặc biệt với Tây Độc. Vì quá thương nhớ Âu Dương Công Tử, đứa con của ông đã bị Dương Khang giết chết nên Tây Độc muốn nhận Dương Quá làm con. Phần Dương Quá thì cảm thấy mình cô độc và nhận chân rằng Tây Độc thật sự thương yêu mình nên cũng đã nhận Tây Độc làm nghĩa phụ. Tây Độc đã truyền dạy cho Dương Quá các công phu siêu tuyệt của mình.
Qua nguồn gốc và thân thế Dương Quá, Kim Dung đã nêu lên lánh cách hỗn tạp của nhơn dân Mỹ. Những người đến lập nghiệp ở Mỹ vẫn là những người phiêu lưu đã phải rời bỏ quê cha đất tổ vì đói khó hay vì lý do tôn giáo hoặc chánh trị mà bị đàn áp. Họ thuộc nhiều chủng tộc khác nhau vô cùng. Tuy nhiên, dân Mỹ vẫn mang tánh cách Tây Phương rõ rệt vì đa số các chủng tộc cấu tạo thành nhơn dân Mỹ đã phải xuất từ Âu Châu, và nền văn hóa Mỹ, trong căn bản, cũng cùng tánh chất với nền văn hóa Âu Châu. Dầu vậy dân Mỹ cũng có một số đặc điểm làm cho họ khác với dân Âu Châu.
Được mô tả qua các chi tiết liên hệ đến Tiểu Long Nữ và đến sự giao thiệp giữa Tiểu Long Nữ với Dương Quá.
a.Tiểu Long Nữ là một phụ nữ thường mặc áo màu trắng và dùng làm võ khí một dải lụa trắng có đính trái cầu bằng kim loại. Ngoài ra, nhơn vật này còn nuôi một bầy ong sắc trắng để lấy mật mà dùng, đồng thời bảo vệ chỗ cư trú của mình chống lại sự xâm nhập của người lạ mặt. Màu trắng và chất kim loại của các vật liên hệ đến Tiểu Long Nữ xác nhận rằng nhơn vật này là người thuộc nền văn hóa Tây Phương nói chung. Về phần con ong nó biểu tượng cho sự siêng năng cần mẫn và tinh thần làm việc tập thể. Các đặc tánh trên đây chính là đặc tánh của người Mỹ là giống dân đã phát minh ra phương pháp làm việc lối dây chuyền. Bầy ong trắng của Tiểu Long Nữ có nọc rất độc có thể làm chết người, nhưng người bị loại ong này chích chỉ cần lấy mật của nó để điều trị là thoát hiểm. Với chi tiết trên đây, Kim Dung ám chỉ rằng phương pháp tổ chức và làm việc của xã hội Hoa Kỳ có nhiều tệ hại, nhưng cũng cung phụng được cho người nhiều quyền lợi, đồng thời lại chứa đựng những yếu tố để tự sửa chữa và cải thiện.
b. Từ nhỏ, Tiểu Long Nữ đã học võ thuật của phái Cổ Mộ nên chẳng những sống biệt lập một mình mà còn phải diệt các tình cảm của mình. Tuy nhiên, về sau, bà lại yêu Dương Quá rất mực và tỏ ra chí tình với Dương Quá. Phần Dương Quá là người dồi dào tình cảm và từ nhỏ cũng đã côi cút, nhưng trái với Tiểu Long Nữ, ông đã trôi nổi khắp nơi và thường bị người khác lừa dối, gạt gẫm và chèn ép. Do đó, ông thích phiêu lưu. nhưng có lúc cũng muốn tìm nơi ẩn dạt, xa lánh loài người. Trong thời kỳ 16 năm xa cách Tiểu Long Nữ và sau khi đã luyện được võ công trác tuyệt, ông đã đi khắp đó đây và ra tay tế khổn phò nguy nên đã nổi danh là đại hiệp.
Các chi tiết trên đây về Tiểu Long Nữ và Dương Quá rất phù hợp với đặc tánh của người Mỹ. Lối xử sự của người Mỹ nói chung là một lối xử sự không tình cảm. Trong lịch sử, dân Mỹ nhiều khi đã theo chủ trương cô lập chỉ lo công việc của nước mình và mặc kệ các nước khác mà họ cho là thường hay gây sự đánh nhau một cách phi lý. Nhưng mặt khác, người Mỹ lại nhiều lúc biểu lộ tinh thần hào hiệp, can thiệp vào các vấn đề thế giới và dùng võ lực hoặc tiền của để giúp đỡ các dân tộc bị xâm lăng hay nghèo đói.
c. Sự liên hệ giữa Tiểu Long Nữ với Dương Quá cũng biểu lộ một đặc tánh của dân Mỹ. Trong các cộng đồng người Âu Châu đến Mỹ lập nghiệp đầu tiên cách đây mấy thế kỷ về trước, số phụ nữ ít hơn số đàn ông. Họ lại thường là những người can đảm và tảo tần. Bởi đó, người phụ nữ Mỹ đã được đặc biệt nể nang và đã đóng một vai tuồng quan trọng. Mặt khác, xã hội Mỹ đã do người phiêu lưu thành lập nên không có những câu thúc lễ giáo chặt chẽ như người Âu Châu.
Những điều trên đây đã được Kim Dung ám chỉ khi nói đến Tiểu Long Nữ và Dương Quá. Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Dương Quá đã tuyên bố rằng: người đời trọng nam khinh nữ, nhưng riêng tôi là Dương Quá thì trọng nữ khinh nam. Đó là một câu nói biểu lộ thái độ chung của người dân Mỹ đối với đàn bà. Về việc Dương Quá cũng như Tiểu Long Nữ đều bị xem là học trò mà làm trái lại đạo của thầy mình, nó đã được dùng để ám chỉ sự kiện dân Mỹ tuy theo văn hóa Tây Âu, nhưng lại có những chủ trương ngược lại quan niệm người Âu Châu. Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Tiểu Long Nữ là người lớn tuổi hơn, lại đã từng làm thầy dạy Dương Quá. Nhưng cuối cùng, hai người đã yêu nhau. Chẳng những lấy nhau làm vợ chồng, họ còn nhiều lần biểu lộ tình yêu của họ trước mặt mọi người, bất chấp sự chỉ trích chê bai của dư luận. Điều này biểu lộ tinh thần người Mỹ, vốn phóng túng và không câu nệ lễ giáo như người Âu Châu.
Sự giao thiệp của Dương Quá và Bắc Cái cũng là điều đáng được lưu ý. Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Dương Quá đã tỏ ra rất khâm phục Bắc Cái. Ông đã được Bắc Cái truyền cho một số bí quyết và chiêu thức của Đả Cẩu Bổng Pháp. Như chúng tôi sẽ trình bày trong đoạn nói về Bắc Cái, môn võ này đã được Kim Dung dùng để ám chỉ chủ trương giai cấp tranh đấu. Tuy nhiên. Dương Quá đã nhứt định từ khước không chịu nhận Bắc Cái làm thầy, và đã không thiên về bên nào trong cuộc tranh đấu giữa Bắc Cái với nghĩa phụ mình là Tây Độc.
Các chi tiết trên đây đã được dùng để ám chỉ quan niệm của người Mỹ về mặt xã hội. Nước Mỹ vốn do người phiêu lưu thành lập nên không có sự phân biệt giai cấp theo huyết thống một cách cứng rắn, cũng không có sự đặc biệt tôn kính hạng trí thức khoa bảng như các nước Âu Châu. Nói cách khác, tuy người Mỹ chịu ảnh hưởng văn hóa Âu Châu, xã hội Mỹ lại không có một cánh hữu gồm những nhà quí tộc và khoa bảng được trọng vọng như các xã hội Âu Châu. Điều này đã được Kim Dung nói đến một cách bóng bẩy qua việc Dương Quá bị Quách Phù chặt đứt mất cánh tay mặt nên chỉ còn có cánh tay trái mà thôi. Về mặt pháp lý, người lao động Mỹ được xem bình đẳng với các hạng người khác trong xã hội và khi đã tập họp lại được để có sức mạnh cần thiết, họ đã có thể đương đầu lại các hạng người khác trong xã hội để bảo vệ quyền lợi của mình. Với chủ trương không phân biệt giai cấp, người Mỹ đã có một quan niệm khác với người Âu Châu do Tây Độc tượng trưng, nhưng xã hội Mỹ lại là một xã hội tư bản nên dân Mỹ cũng không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản của Liên Sô mà Bắc Cái là tiêu biểu.
a. Mặt khác, chúng ta có thể nhận thấy rằng Dương Quá có ngoại hiệu là Thần Điêu Đại Hiệp mà chim điêu (tiếng Anh là eagle) lại được người Mỹ dùng làm biểu hiệu cho nước mình và quốc huy của nước Mỹ có vẽ hình loại chim này. Mặt khác, trong cuộc luận võ ở Hoa Sơn lần chót, Dương Quá đã được xem là người kế vị cho Tây Độc làm một bá chủ võ lâm, nhưng vì ông không ác hại như Tây Độc nên được gán cho cái ngoại hiệu Tây Cuồng. Trong số năm cao thủ võ lâm của kỳ luận võ cuối cùng này, Dương Quá là người trẻ nhứt, lại học được hầu hết các môn võ thuật của các cao thủ khác. Bởi đó, tuy không được chánh thức xem là đệ nhứt bá võ lâm, thật sự thì danh hiệu đó chắc chắn là phải lọt vào tay ông. Ngoài ra, trong thời kỳ hành hiệp giang hồ, Dương Quá đã được mọi người tôn trọng và ông đã điều khiển được rất nhiều cao thủ không chấp nhận tùng phục các bá chủ võ lâm khác. Từ các ngoại hiệu Thần Điêu Đại Hiệp và Tây Cuồng đến các dữ kiến liên hệ đến cuộc luận võ ở Hoa Sơn lần cuối cùng, các chi tiết được nêu ra đều cho thấy rõ Dương Quá là biểu tượng của Hoa Kỳ, nước Tây Phương cường thạnh nhứt hoàn cầu sau khi trận Thế Chiến II chấm dứt và nhờ dùng chánh sách viện trợ các nước mà gây được cảm tình của nhiều dân tộc khác trên thế giới.
b. Điểm chót mà chúng ta nên lưu ý là Kim Dung đã viết bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP trước năm 1975 là năm mà người Mỹ đã thất bại ở Việt Nam, khiến cho người Mỹ phải chịu thua trận lần đầu tiên trong lịch sử của mình. Từ khi lập quốc cho đến đó, dân tộc Mỹ đã đánh đâu thắng đó nên Kim Dung đã bảo rằng Dương Quá học được võ thuật của một vị tiền bối võ lâm đã khuất bóng từ lâu nhưng lúc sanh tiền thì không hề thua ai trong một trận chiến đấu thành ra tự mang danh là Độc Cô Cầu Bại. Chi tiết này xác nhận thêm rằng dưới ngòi bút của Kim Dung, Dương Quá quả thật là nhơn vật tượng trưng cho nước Mỹ.
còn tiếp...
(2022-08-10, 12:11 AM)005 Wrote: [ -> ] Đọc quyển này thích khi nào xem xong các truyện chính của ông Kim Dung rồi mới thấy phân tích của cố giáo sư đầy kinh ngạc. Mình đọc truyện chưởng là chỉ để đọc giải trí, còn giáo sư Huy đọc còn nhìn thấy được các tương quan chính trị đọc thấy "rất đã".
chính xác
tôi đọc bài bình của Cao Tuấn cũng hay
Post tới đoạn này và nghĩ tới tấm hình ăn mày của đại đế khi mang quân xâm lược Ukraine thầy cưng posted mà mắc cười quá trời.
...
Nhơn Vật Và Đoàn Thể Tiêu Biểu Cho Liên Sô: Bắc Cái Và Cái Bang
Về phần Bắc-Cái, có nhiều dấu hiệu cho thẩy rằng Kim Dung đã dùng ông để biểu tượng cho Liên Sô và như vậy thì Cái Bang do ông lãnh đạo chính là Đảng Cộng Sản Quốc Tế. Ta nên lưu ý rằng trong thời kỳ viết các bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung còn là một người thiên tả và có cảm tình với xã hội chủ nghĩa. Như chúng tôi sẽ trình bày trong Mục II của sách này, ông đã đổi quan điểm của ông đối với những người theo chủ nghĩa trên đây khi viết các bộ TIẾU NGẠO GIANG HỒ và LỘC ĐỈNH KÝ. Nhưng trong ba bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung đã bộc lộ cảm tình nồng hậu của mình đối với Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế bằng cách mô tả Bắc-Cái như là một nhơn vật anh hùng và nghĩa hiệp rất đáng kính trọng.
1- Vị trí địa lý của Liên Sô đối với Trung Quốc.
Về mặt vị trí địa lý, Liên Sô có biên giới chung với Trung Quốc ở phía bắc và phía tây, nhưng vì hướng tây đã được dùng để chỉ các nước Âu Châu nói chung nên Kim Dung phải dùng hướng bắc để nói đến Liên Sô. Cứ theo vũ trụ quan của người Trung Hoa thì phương bắc liên hệ đến hành thủy và màu đen. Nếu Bắc-Cái chỉ là một nhơn vật võ lâm thông thường thì tác giả VÕ LÂM NGŨ BÁ, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU và THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP đã để ông mặc y phục màu đen và đưa ra những chi tiết liên hệ đến hành thủy khi nói đến tài nghệ của ông. Nhưng vì Bắc-Cái tượng trưng cho Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế nên khi mô tả ông, Kim Dung đã không theo qui tắc chung của các bộ tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa.
Trong các tác phẩm có nói đến Bắc-Cái, vật biểu tượng cho uy quyền Bang Chủ là cây gậy tre màu xanh lá cây, và riêng Bắc-Cái lại có một kỷ vật đặc biệt là cái hồ lô sơn màu đỏ đựng rượu. Đối với thế giới hiện đại, màu đỏ là màu của cuộc tranh đấu cách mạng, và riêng Đảng Cộng Sản Quốc Tế đã lấy nó làm tiêu biểu cho mình. Mặt khác, hệ thống tư tưởng cộng sản lúc đầu chỉ lấy thợ thuyền làm lực lượng nồng cốt cho cuộc tranh đấu cách mạng, đến Lenin lại xem nông dân là một lực lượng không kém thợ thuyền trong cuộc tranh đấu này. Cây gậy màu xanh lá cây tiêu biểu cho uy quyền Bang Chủ Cái Bang là một sản phẩm của đất đai chớ không phải của công nghệ. Ta có thể xem nó là tượng trưng cho nông dân. Cái hồ lô đỏ và cây gậy tre xanh lá cây xác nhận thêm là Kim Dung đã dùng Bắc-Cái và Cái Bang để ám chỉ Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế.
Mặt khác, Bắc-Cái là người họ Hồng. Chữ HỒNG ở đây có nghĩa là lớn rộng mênh mông như trong các từ ngữ hồng thủy, hồng phúc… nhưng nó đồng âm với chữ hồng là màu đỏ. Ngoài ra trong Hán văn, chữ Hồng là họ của Bắc-Cái gồm có hai phần, bên tả là bộ thủy còn bên hữu là chữ CỘNG y như chữ CỘNG trong từ ngữ Cộng Sản. Bắc-Cái là người trong Cái Bang là những kẻ ăn mày, không có nhà cửa, không có tài sản riêng. Họ sống bằng cách ăn xin và không trộm cướp, nhưng đối với hạng tham quan ô lại và cường hào ác bá bóc lột dân chúng và hạng làm giàu bất nhơn hay phi pháp, họ có quyền tự do cướp đoạt tiền của để dùng. Họ thường làm việc cướp đoạt trên đây và đã đem tiền của cướp đoạt được để cứu giúp người nghèo. Họ lại được tổ chức chặt chẽ và có một hệ thống cấp bực được ấn định rõ ràng. Trên hết là Bang Chủ, kế đó là các Trưởng Lão, rồi đến các cấp chỉ huy sắp theo thứ bực cao thấp được biểu thị bằng số túi mà họ mang trên lưng, và dưới hết là Bang chúng. Họ phải theo đúng môn qui và khi phạm kỷ luật thì bị trừng phạt nặng nề. Họ Hồng của Bắc-Cái hàm ý lớn rộng mênh mông, lại đồng âm vói chữ hồng là màu đỏ và viết ra chữ thì có chữ cộng bên trong, cũng như môn qui của Cái Bang đều cho thấy rõ hơn là Kim Dung đã dùng tổ chức này để nói đến Đảng Cộng Sản Quốc Tế là một thứ chánh đảng theo tư tưởng thế giới đại đồng và chủ trương làm một cuộc cách mạng thế giới trong đó lực lượng nồng cốt là người vô sản theo một kỷ luật nghiêm khắc.
1. Đả Cẩu Bổng Pháp, tiêu biểu cho chủ trương giai cấp tranh đấu.
Về mặt võ khí, cây gậy tre xanh tiêu biểu cho uy quyền Bang Chủ Cái Bang mang danh hiệu là Đả Cẩu Bổng, nghĩa đen là cây gậy đánh chó. Trong ngôn ngữ thông thường của những kẻ tay sai phục vụ cho người có thế lực hay tiền bạc thường được gọi là “chó săn”. Trong các tác phẩm của Kim Dung nói đến Bắc-Cái, bọn người làm việc hoặc bợ đỡ nịnh hót hạng hào phú, hạng ác bá hay bọn cường địch xâm lăng đất nước đều bị Cái Bang xem là chó. Cái Bang có môn võ đặc biệt hữu hiệu là Đả Cẩu Bổng Pháp để đối phó với cường địch, và cứ theo Kim Dung thì người của Cái Bang cầm cây Đả Cẩu Bổng có quyền đánh các nhà vua hôn ám, các quan lại gian nịnh và các cường hào ác bá. Qua chi tiết trên đây, ta có thể bảo rằng Kim Dung đã dùng phép gậy này để ám chỉ chủ trương giai cấp tranh đấu của người theo chủ nghĩa Marx nói chung và người Cộng Sản nói riêng. Như mọi người đều biết, chủ trương này chống lại các chánh quyền bảo thủ và các giai cấp bị cho là giai cấp bóc lột.
Riêng Bắc-Cái lại có môn võ đặc biệt của mình là Hàng Long Thập Bát Chưởng gồm 18 chiêu thức mạnh mẽ và vi diệu khôn lường. Tên của 18 chiêu thức này đều có chữ LONG ở trong. Đáng lưu ý hơn hết là các chiêu thức Tiềm Long Vật Dụng, Hiện Long Tại Điền, Phi Long Tại Thiên, Kháng Long Hữu Hối và Long Chiến Vu Dã hoặc Chiến Long Tại Dã, vì các tên này có dính dáng đến các hào trong Kinh Dịch.
a- Kinh Dịch
Bộ Kinh này nguyên là một tác phẩm tối cổ và tối ảo diệu của người Trung Hoa. Các nhà hiền triết đã cấu tạo nên nó có dụng ý dùng đồ biểu để diễn tả sự biến hoá vô cùng của vạn vật. Họ cho rằng trong vũ trụ, thường có hai nguyên tắc đối chiếu lại nhau, và có khi chọi lại nhau là dương và âm. Họ đã dùng vạch liền ____ để biểu tượng dương, và vạch đứt – – để biểu tượng âm, rồi ghép các biểu tượng dương và âm lại theo mô thức để diễn tả các tình thế có thể xảy ra trong vũ trụ bằng số lượng và vị trí của hai biểu tưởng dương và âm đối với nhau. Lúc đầu, họ ghép ba vạch lại làm một đơn vị gọi là Quái, tức là quẻ, và tạo ra cả thảy 8 quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài gọi chung là Bát Quái.. Sau đó họ lại ghép các quẻ trên đây lại thành cặp nằm chồng lên nhau và tạo ra 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép như vậy có 6 vạch, mỗi vạch như vậy gọi là một hào và có một tên chung tùy theo vị trí của mình. Hào dương được gọi là Cửu, tức là số 9, hào âm được gọi là Lục, tức là số 6. Nếu ta đi từ dưới lên trên thì hào ở thấp nhứt gọi là Sơ, kế đó là Nhị, rồi Tam, Tứ, Ngũ và hào ở trên hết gọi là Thương. Hai chữ Sơ và Thương thì đặt trước, còn các chữ Nhị, Tam, Tứ, Ngũ thì đặt sau chữ Cửu hay chữ Lục. Quẻ kép gồm có cả thảy 64 cái, mà mỗi cái có 6 hào như vậy nếu tính chung lại thì có cả thảy 384 hào, mỗi cái trong 384 hào này biểu tượng cho một tình thế và đều có tên riêng cho mình.
Đáng để ý hơn hết trong 64 quẻ kép là quẻ Bát Thuần Càn gồm có 2 quẻ Càn ghép lại và Bát Thuần Khôn gồm có 2 quẻ Khôn ghép lại. Quẻ Càn gồm có ba vạch liền tượng trưng cho trời, quẻ Khôn gồm có ba vạch đứt tượng trưng cho đất. Vậy, Bát Thuần Càn gồm sáu vạch liền tượng trưng cho dương thuần túy và Bát Thuần Khôn gồm sáu vạch đứt tượng trưng cho âm thuần túy. Tên các chiêu thức Tiềm Long Vật Dụng, Hiện Long Tại Điền, Phi Long Tại Thiên, Kháng Long Hữu Hối trong Hàng Long Thập Bát Chưỏng đúng là tên các hào Sơ Cửu, Cửu Nhị, Cửu Ngũ và Thượng Cửu của quẻ kép Bát Thuần Càn. Trong quẻ kép Bát Thuần Khôn thì hào Thượng Lục có tên là Long Chiến Vu Dã rất gần với tên Chiến Long Tại Dã vì cả hai tên này đều hàm ý là rồng đánh nhau ở cánh đồng.
b- Kinh Dịch so với Biện Chứng Pháp Duy Vật.
Với việc dùng một số tên hào trong Kinh Dịch để đặt cho một số chiêu thức của Hàng Long Thập Bát Chưởng, chúng ta có thể nghĩ rằng khi nói đến pho chưởng pháp này Kim Dung đã có ý ám chỉ Duy Vật Biện Chứng Pháp. Như thế là vì Kinh Dịch và Duy Vật Biện Chứng Pháp có những nguyên tắc căn bản giống nhau. Cả hai đều cho rằng trên đời, mọi vật đều biến đổi không ngừng. Mặt khác, theo Kinh Dịch, sự biến đổi này phát xuất từ sự tương sanh tương khắc giữa âm và dương, còn Biện Chứng Pháp Duy Vật thì cho rằng sự biến đổi sở dĩ có là vì trong mọi sự vật đều có những yếu tố mâu thuẩn nhau. Vậy, Kinh Dịch và Biện Chứng Pháp Duy Vật đã có một quan điểm tương tự như nhau về nguyên nhơn sự biến đổi tất yếu của các sự vật.
Ngoài Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng là các kỹ thuật tranh đấu cá nhơn, Cái Bang lại còn có một kỹ thuật tranh đấu tập thể gọi là Kiên Bích Trận. Theo kỹ thuật này, hàng mấy chục ngàn người nối liền nhau lại và góp sức nhau thành một khối vô cùng vững chắc. Hễ đằng đầu bị tấn công thì đằng đuôi tiếp cứu, hễ đằng đuôi bị tấn công thì đằng đầu tiếp cứu, hễ đoạn giữa bị tấn công thì hai đầu ứng phó liền. Kiên Bích Trận này có thể trở thành Xa Luân Kiên Bích Trận, gồm vô số người lan tràn khắp nơi, chỗ nào tiếp nối nhau tấn công kẻ địch trên khắp mặt chiến trường, cứ một đội bị đánh tan thì năm ba đội khác lại xuất hiện. Do đó, dầu có sức khoẻ dồi dào, võ công cực cao minh, đối thủ cũng khó lòng tránh khỏi bị thất bại. Kiên Bích Trận như mô tả trên đây có thể so sánh với lề lối tổ chức của Đảng Cộng Sản Quốc Tế, có mặt ở mọi nước và được phối trí để giúp đỡ cho nhau một cách hữu hiệu, nên dễ nắm phần thắng lợi trong các cuộc tranh đấu với kẻ địch.
Về tánh chất của công phu Bắc-Cái nói chung thì Kim Dung cho biết rằng nó thuộc cương tánh như công phu Tây Độc. Điều này phù hợp với chủ trương tranh đấu bạo tợn của Đảng Cộng Sản Quốc Tế, và hàm ý rằng lề lối tranh đấu của Cộng Sản bắt nguồn từ lề lối tranh đấu của các nước Âu Châu.
Vậy, trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung có nói đến Võ Lâm Ngũ Bá, chúng ta có thể thấy nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng Bắc Cái và tổ chức Cái Bang do ông lãnh đạo đã được tác giả dùng để ám chỉ Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế. Ngoài ra, một số dữ kiện khác làm cho chúng ta có thể nghĩ rằng Bắc Cái đã được dùng để biểu tượng riêng cho nhà lãnh tụ Cộng Sản Quốc Tế Lenin.
Trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, Bắc Cái còn có biệt hiệu là Cửu Chỉ Thần Cái tức là ông ăn mày thần có chín ngón tay. Ông cũng được gọi là Hồng Thất Công, dịch sát nghĩa chữ là Ông Bảy họ Hồng. Hai con số 9 và 7 trên đây rất đáng chú ý.
Chủ nghĩa Cộng Sản vốn do Karl Marx tung ra năm 1848. Đến năm 1864, những người theo chủ trương tranh đấu cho quyền lợi vô sản đã họp nhau lại lập thành một đoàn thể gọi là Quốc Tế Lao Động. Nhưng sau một thời gian hoạt động, đoàn thể này đã tan vỡ. Năm 1889, những người theo tư tưởng Karl Marx lại thành lập một đoàn thể khác gồm các Đảng Xã Hội hay Dân Chủ Xã Hội ở các nước. Đoàn thể này cho là mình kế tiếp công nghiệp của Quốc Tế Lao Động thành lập năm 1864 nên tự gọi là Đệ Nhị Quốc Tế. Lenin đã tham dự Quốc Tế này. Nhưng sau đó, ông cho rằng nó đã phản bội quyền lợi vô sản nên khi cướp chánh quyền ở Nga và thành lập năm 1917, ông đã tổ chức một đoàn thể mới gọi là Đệ Tam Quốc Tế gồm các Đảng Cộng Sản ở các nước. Lúc Lenin chết, Stalin và Trotsky đã tranh nhau quyền kế vị. Stalin nắm phần thắng lợi và trục xuất Trotsky khỏi Liên Sô. Trotsky ra ngoài Liên Sô rồi thì thành lập một đoàn thể Cộng Sản Quốc Tế khác chống lại Stalin và gọi đoàn thể này là Đệ Tứ Quốc Tế.
Hai bàn tay của Bắc Cái còn có 9 ngón vì ngón trỏ trên bàn tay mặt khi có hơi thơm của món ăn thì cứ giựt lên rần rật làm ông bực bội nên ông đã chặt bỏ nó đi. Ngón tay bị chặt này có thể kể như là tiêu biểu cho Quốc Tế Lao Động đầu tiên đã hoàn toàn tan vỡ. Chín ngón còn lại tiêu biểu cho ba đoàn thể hiện còn tồn tại là Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ Quốc Tế, vì đem cộng các số 2, 3 và 4 lại thì thành ra con số 9. Điều này ám chỉ rằng Lenin có liên hệ đến cả ba Quốc Tế này. Mặt khác, tên hiệu Hồng Thất Công của Bắc Cái ám chỉ rằng Lenin là thủy tổ của các phe Cộng Sản Đệ Tam và Đệ Tứ, vì hai con số 3 và 4 cộng lại thì thành ra 7.
Lenin thường hoạt động bí mật, thay đổi chỗ ở một cách bất thường để tránh sự theo dõi của thám tử các nước tư bản. Điều này cũng giống lối hành động của Bắc Cái là một nhơn vật thường được những người có cảm tình so sánh với con giao long, khi ẩn khi hiện không biết đâu mà lường.
Mặt khác, ta có thể nhận thấy rằng lúc Bắc Cái còn là Bang Chủ, trong Cái Bang đã có hai phe ăn mày: một phe áo lành, sạch và phe áo rách, dơ. Hai phe này tuy vẫn cộng tác với nhau, nhưng cũng có sự hiềm khích và chống chọi nhau. Phe áo lành và sạch gồm có ba vị Trưởng Lão, nhưng lại chỉ có hai phần mười Bang chúng. Trong khi đó, phe áo rách và dơ chỉ có một Trưởng Lão, nhưng lại nắm tám phần mười Bang chúng.
Ta có thể nghĩ rằng phe áo lành và sạch là biểu tượng cho phe của Trotsky trong Quốc Tế Cộng Sản: họ gồm có nhiều người lãnh đạo có tên tuổi và có khả năng, nhưng ít có đảng viên ở hạ từng cơ sở. Phe áo rách và dơ thì biểu tượng cho phe của Stalin: họ có ít người lãnh đạo có tên tuổi và có khả năng, nhưng lại gồm đa số đảng viên ở hạ từng cơ sở. Theo Kim Dung, sự xung đột giữa hai phe ăn mày trong Cái Bang không có thể dàn xếp được vì nó không phải phát xuất từ quyền lợi mà vì sự khác nhau về quan điểm nhơn sinh. Điều này ám chỉ việc hai phe Cộng Sản Đệ Tam và Đệ Tứ chống nhau không phải chỉ vì tranh quyền mà vì có lập trường lý thuyết khác nhau xa.
Cả hai phe ăn mày áo lành và ăn mày áo rách đều hết sức tôn kính và tùng phục Bắc Cái. Về phần Bắc Cái, ông cũng xem họ như nhau và để biểu lộ sự cư xử công bằng đối với họ, ông đã thay phiên, cứ một năm mặc áo lành thì một năm mặc áo rách. Điều này có mục đích cho thấy rằng Trotsky và Stalin đều chấp nhận sự lãnh đạo của Lenin, còn Lenin thì bao dung cả hai phe và không tỏ ra thiên về phe nào.
Về mặt tâm tánh, Bắc Cái là người cương trực và có tinh thần nghĩa hiệp binh vực kẻ nghèo yếu như Trung Thần Thông. Nhưng trái với Trung Thần Thông, ông không theo nếp sống thanh đạm mà lại thích các món ăn ngon, các thứ rượu qúi. Ông đã từng vào cung vua để thưởng thức các món được nấu cho nhà vua ăn, và đã ẩn núp trong hoàng cung vì mục đích này ngay trong khi ông đã mất công lực vì bị Tây Độc đánh.
Các chi tiết này đều thích ứng với Lenin. Ông theo lý tưởng thực hiện một xã hội không giai cấp, không có cảnh tượng người bóc lột người, nhưng không phải đặt nền tảng suy luận của mình trên chủ nghĩa duy tâm hay duy linh như một nhà lãnh đạo tôn giáo, mà lại theo chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa này đã được Kim Dung ám chỉ bằng tánh thích ăn ngon. Sau khi lật đổ chế độ Nga Hoàng, Lenin đã vào ở điện Cẩm Linh là hoàng cung của nước Nga, và trong giai đoạn chót của đời ông, ông đã ngoạ bịnh nên không còn điều khiển được Đảng Cộng Sản Liên Sô một cách trực tiếp mặc dầu ông vẫn giữ chức Chủ Tịch của Đảng ấy.
Trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, Kim Dung có nói đến việc Bắc Cái truyền ngôi Bang Chủ cho Hoàng Dung một cách âm thầm khi ông bị mất công lực. Điều này có thể ám chỉ việc Stalin kín đáo chuẩn bị việc kế vị Lenin lúc ông này ngoạ bịnh. Một số dữ kiện liên hệ đến việc Hoàng Dung nối ngôi Bang Chủ của Bắc Cái có thể so sánh với các dữ kiện liên hệ đến cuộc tranh quyền kế vị trong Đảng Cộng Sản Liên Sô.
Hoàng Dung vốn là một phụ nữ, lại là con của Đông Tà và không khỏi bị ảnh hưởng của cha về mặt tinh thần. Do đó, tuy bản chất tốt và khôn ngoan, can đảm, bà vẫn có phần xảo trá và có tánh gian hùng, không kể tiếng thị phi. Bà rất đa nghi, lại dám có những thủ đoạn tàn độc trong những lúc cần thiết chớ không phải hoàn toàn nhân hậu như Bắc Cái. Stalin cũng là người khôn ngoan và can đảm. Nhưng tuy là người phái nam, ông lại gian hiểm, giảo quyệt, thường làm việc ban đêm và thích núp trong bóng tối để hành động. Theo quan niệm cổ của Trung Hoa, đó là tánh tình và lề lối làm việc của phái nữ vốn thuộc âm. Mặt khác, Stalin cũng rất đa nghi. Đã vậy, tuy trung thành với chủ nghĩa cộng sản và đã hoàn toàn làm chủ Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc rế, ông không có được tài đức của Lenin và thường tỏ ra độc ác. Thêm nữa Stalin vốn là người của xứ Georgia. Vậy ông không phải là người Nga chánh gốc, mà thuộc một sắc tộc thiểu số ở Nga và điều này đã được Kim Dung nhắc khéo bằng sự kiện Hoàng Dung là con gái của Đông Tà, nhơn vật tiêu biểu cho nước Nhựt.
Lúc nhỏ, Hoàng Dung đã học một số võ thuật của cha. Sau đó nhơn gặp Bắc Cái bà mới dùng nghệ thuật nấu các món ăn ngon và mưu kế cùng lời lẽ khéo léo để làm cho Bắc Cái mến bà và vui lòng truyền dạy võ công cho bà và cho người tình của bà là Quách Tĩnh. Nhưng bà đã không được học Hàng Long Thập Bát Chưởng như Quách Tĩnh mà chỉ được học một môn võ ít lợi hại hơn là Yến Song Phi. Đến lúc trao quyền ngôi Bang Chủ cho bà, Bắc Cái mới dạy bà bí quyết sử dụng Đả Cẩu Bổng.
Cái tình tiết này có những chỗ tương tự với một số dữ kiện trong thân thế Stalin. Ông này lúc nhỏ đã theo Thiên Chúa Giáo Chánh Thống và đã vào học ở một chủng viện để làm giáo sĩ cho tổ chức tôn giáo này. Nhưng về sau, ông lại bỏ đạo, theo Đảng Cộng Sản và được chỉ định là Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản Liên Sô. Lúc ông mới nắm giữ chức vụ đó, nó chưa có tầm quan trọng lớn lao như về sau này. Nhưng ông đã nhờ nó mà thân cận với Lenin và lấy danh nghĩa Lenin để điều khiển công việc nội bộ của Đảng, đồng thời gài người của mình vào bộ máy Đảng. Những điều này đã làm cho ông thật sự điều khiển được Đảng Cộng Sản Liên Sô lúc Lenin còn sống và nắm phần thắng lợi trong việc tranh quyền kế vị Lenin. Nhưng Stalin không phải là nhà lý thuyết giỏi thông thạo Duy Vật Biện Chứng Pháp như các nhà lãnh đạo cộng sản Đệ Tam Quốc Tế đồng thời. Ông chỉ giỏi trong việc tổ chức Đảng và điều khiển Đảng trong cuộc tranh đấu giai cấp.
so với cuộc tranh đấu của Stalin để nắm quyền Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Sô.
Trước khi ra mặt tranh đấu đề nắm quyền Bang Chủ Cái Bang, Hoàng Dung đã được cảm tình và sự giúp đỡ của phe ăn mày áo rách và bị sự thù ghét hãm hại của phe ăn mày áo lành. Khi đã ra mặt tranh đấu để nắm quyền Bang Chủ, Hoàng Dung lại cũng chỉ tỷ thí với các Trưởng Lão cầm đầu phe ăn mày áo lành. Và khi đã được toàn thể Cái Bang công nhận mình là Quyền Bang Chủ, bà đã phá bỏ lệ cũ, không để cho Bang chúng phun đàm dãi vào người như các Bang Chủ tiền nhiệm. Ngay sau khi được công nhận là Quyền Bang Chủ, bà đã trừng phạt Bành Trưởng Lão là một trong những người lãnh đạo phe ăn mày áo lành đã từng ám hại bà trước khi bà ra mặt tranh quyền Bang Chủ. Vị Trưởng Lão này đã bị hạ thấp cấp bực trong Cái Bang, và theo Kim Dung, sau đó, ông còn phạm tội lợi dụng võ công cao cường để bắt và mưu toan hãm hiếp Tần Nam Cầm là mẹ của Dương Quá. Về sau nữa, Bành Trưởng Lão đã âm mưu với người Mông Cổ để làm cho Cái Bang phân hóa thành nhiều chi.
Về phần Stalin thi từ lúc Lenin còn ngọa bịnh, ông đã phải trực tiếp đương đầu với Trotsky trong việc điều khiển Đảng Cộng Sản Liên Sô và sau đó, trong việc giành quyền kế vị Lenin. Nhờ dàn xếp để cho phe mình chiếm đa số trong các cơ cấu của Đảng nên trong Đại Hội bầu người lãnh đạo thay Lenin ông đã nắm phần thắng lợi mặc dầu đã bị phe Trotsky chống đối mãnh liệt. Sau khi cầm quyền điều khiển Đảng Cộng Sản Liên Sô, ông đã loại trừ và trừng phạt những người theo phe của Trotsky. Những người này về sau đã thành lập ra nhiều chi phái Đệ Tứ Quốc Tế khác nhau. Người theo phe Trotsky tại Liên Sô thì bị đưa ra Tòa Án vì những tội thường phạm hoặc vì bi tố cáo là làm gián điệp cho các nước tư bản. Việc Đệ Tứ Quốc Tế chia ra thành nhiều chi phái và các tội mà Stalin gán cho họ đều phù hợp với các chi tiết liên hệ đến Bành Trưởng Lão. Sau khi Stalin đã củng cố được quyền hành của mình bằng cách loại trừ hết phe Trotsky, các đảng viên cộng sản Liên Sô không ai cỏn dám phê bình chỉ trích người lãnh đạo tối cao của Đảng như thời Lenin còn sống. Thật đúng là hình ảnh của một Bang Chủ làm trái lại tinh thần căn bản của Cái Bang và không cho ai phun đàm dãi lên mặt vị Bang Chủ mới nhậm chức để nhắc cho ông ta nhớ rằng mình cũng là một người ăn mày như thuộc hạ và phải chịu nhuốc để thông cảm nỗi niềm khổ nhục của giới ăn mày.
còn tiếp...