2022-06-16, 01:32 PM
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Kalama (2-2)
https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...h%20Kalama
(3) Chớ có vội tin những gì qua lý luận, suy diễn.
Mình thấy bên Pháp. Có câu chuyện tôi kể hoài. Vào thế kỷ 16, 17 gì đó. Có nhà sinh vật học, ổng đem con cào cào, bỏ trong lọ, ổng gõ nó nhảy tưng tưng, ổng để trong cái lọ, ổng búng cái lọ, con cào cào nhảy, ổng ghi ‘thính giác con cào cào nằm ở đôi chân’ ; xong ổng đem con cào cào bẻ 2 chân sau, nó không nhảy nữa, ổng ghi thêm : ‘Vì thính giác nằm ở 2 chân, nên khi bẻ 2 chân thì không con cào cào không còn nghe được nữa”.
Chuyện này có hay không mình không cần biết. Nhưng nó có cái lý. Rõ ràng. Khi còn 2 chân sau, mình gõ thì nó còn búng tưng tưng, khi mình bẻ 2 cái chân thì nó không còn búng. Vậy rõ ràng, thính giác nó nằm 2 cái chân chớ nằm ở đâu?
Hãy cẩn thận, nhiều khi mình suy diễn mình thấy nó hay. Nhưng chưa chắc đâu. Chưa chắc đâu. Chớ vội tin những lý luận, suy diễn.
(4) Chớ vội tin vì những diễn giải tương tợ, có nghĩa là nghe nó giống giống với cái mình thấy hợp lý.
(5) Chớ vội tin những đánh giá hời hợt, những dữ kiện.
Các vị nhớ bà Eleanor Roosevelt , vợ ông tổng thống Roosevelt của Mỹ đó, bả có câu tôi rất thích: “Những đầu óc vĩ đại người ta chú ý vấn đề. Còn đầu óc bậc trung chú ý con người. Đầu óc tầm thường chú ý dữ kiện .”
Câu này rất là sâu.
Dữ kiện là chú ý vỏ ngoài thôi. Chú ý dữ kiện. Thấy lễ dâng y rần rần, đi theo thấy người ta làm sao làm vậy. Thấy người ta có phong trào tụng kinh cầu vãng sanh, ăn chay, cũng rần rần ; thấy người ta có áo tràng, lần chuỗi cũng đi theo. Họ đi theo sự kiện. Chỗ nào thấy rần rần, ông giảng sư nào đông người bu theo, ca sĩ nào đông người bu theo là họ chạy theo cái đó. Họ chạy theo sự kiện thôi.
Hạng bậc trung, chạy theo con người: Coi người này là ai, ca sĩ, diễn viên đó như thế nào. Ông giảng sư, ông pháp sư, ông thiền sư đó ra sao.
Bậc thượng thừa không quan tâm dữ kiện, không quan tâm con người mà quan tâm vấn đề : Ông pháp sư, thiền sư đó đúng giỏi thiệt, ổng nổi tiếng thiệt, nhưng bài giảng hôm qua là tuyệt, nhưng hôm nay thì quá tệ. Mình phải có cái gan đó.
Hạng đầu tiên là tập trung dữ kiện, ở đâu thấy rần rần là nó theo.
Hạng thứ hai khá hơn chút, nó không bị cuốn hút bởi dữ kiện nhưng nó bị cuốn hút bởi con người. Có nghĩa là ai nổi tiếng thì giờ người đó ho, hay đánh rắm vẫn là ghi âm về nghe lại cho có phước. Đấy.
Nhưng hạng thứ 3 khác. Hạng thứ 3 không. Dữ kiện không quan trọng. Event không quan trọng, cá nhân con người đó cũng không quan trọng, mà từng buổi giảng, từng đề tài, từng câu nói, từng phân tích, từng cái mổ xẻ, có thể hôm qua mình mê ổng, nhưng hôm nay ổng nói không được. Hoặc đầu buổi giảng ổng nói 3 câu nghe được, 1 câu nghe không được, phải có cái gan thấy như vậy. Phải có cái gan đó.
Đằng này chúng ta bị « takkahetu, nayahetu, ākāraparivitakkena » có nghĩa là cứ dựa vào những cái mình thấy coi bộ được, thấy được, cứ mơ hồ như vậy, thấy giống giống cái mình đã biết là không được.
Cái này mới đặc biệt nè.
(6) Diṭṭhinijjhānakkhantiyā. Kiến thức nền Mình tin vì chỉ vì nó giống kiến thức nền của mình.
Mà các vị thấy mà. Kiến thức nền của mỗi người nó không giống nhau.
Kiến thức nền mỗi người của người tốt nghiệp đại học, nó không giống anh tú tài, tốt nghiệp cấp 3. Đấy. Mà, anh tốt nghiệp đại học, tốt nghiệp ngành nào ? Computer hay quản trị kinh doanh hay bang giao quốc tế, hay công an, hay tốt nghiệp bên đại học công an, ảnh học bên luật, hay vật lý. Mỗi cái tốt nghiệp là kiến thức nền mỗi người. Chưa kể. Chưa kể. Bối cảnh gia đình. Gia đình nó quan trọng lắm. Bố, mẹ, anh chị em, cô dì chú bác, thím cậu mợ dượng,… của mình, ở gần họ là họ đã đóng góp một phần không hề nhỏ vào cái gọi là kiến thức nền của mình. Họ có tác động không hề nhỏ lên nhận thức của mình.
Giờ cộng với : trường lớp, sách vở, báo chí, và môi trường làm việc hiện tại. Giờ mình đang làm môi trường công ty hãng xưởng, xí nghiệp nào. Mình thường xuyên gặp gỡ ai. Phải cẩn thận cái đó.
Tất cả cái đó nó thành ra một phần, của cái gọi là kiến thức nền. Thế là, trên nền ấy, mình đi vào đời mình gặp ai, nói gì, đọc trang sách nào mà thấy thuận ứng, nó ăn khớp với với kiến thức nền mình bèn cho nó là chân lý, cái nào hơi khang khác, mình bèn phán là sai.
Mình quên rằng nền của mình vốn dĩ đã có vấn đề. Nhớ cái đó. Vốn dĩ nó đã có vấn đề. Mà mình không màng cái đó. Cái đó là Diṭṭhinijjhānakkhantiyā. Cẩn thận cái đó.
(7) Chớ vội tin vì nghe như hợp lý
Trong Chú giải giải thích thế này.
Là bởi vì có một cá nhân nào đó mình thấy có cảm tình, mình có hảo cảm rồi thì người đó, phán cái gì mình nghe qua mình thấy có lý hết. Mình nghe qua mình thấy có lý, có lý vì nó dựa trên hình thức ngoại diên, ngoại diện. Có nghĩa là vẻ bề ngoài. Cách ăn nói đó, mặt mũi đó, bối cảnh không gian đó, toàn là vẻ ngoài không, nó cho mình cảm giác cái này nghe được.
Thí dụ các vị tưởng tượng có những điều các vị nghe ở sân chùa Việt Nam Quốc Tự, Ấn Quang, Xá Lợi Vĩnh Nghiêm, Già Lam, Dược Sư,... mình nghe nó hơi khó khó chấp nhận. Nhưng bây giờ cũng vấn đề đó mà tôi bê, đem ra không khí của chùa Trúc Lâm Yên Tử, Chùa Bái Đính, Chùa Ba Chúc, chùa Ba Vàng, ở Tràng An Bái Đính, giữa cảnh trời nước bao la của Ninh Bình thì ở đó mình lại thấy được, dễ chấp nhận.
Tôi có biết cô Phật tử, mang tiếng Phật tử nhưng cổ gặp Phật thì chỉ thắp nhang chứ không biết giáo lý, không biết cái gì hết. Thậm chí, cổ coi Phật giáo như điểm họp mặt đồng hương, coi cái chùa là điểm họp mặt đồng hương hơn, nhiều hơn là điểm tựa tâm linh. Có lần lớn tuổi rồi, cổ buồn, bạn bè rủ du lịch Ấn Độ chơi, Bhutan chơi. Cổ đi về, Florida cổ gặp tôi, tại nhà cổ ở đó. Cổ nói: Khi đứng giữa núi rừng Bhutan cổ mới thấy, Đức Phật có thiệt, luân hồi có thiệt, nhân quả báo ứng có thiệt, kinh Phật tin được, chỉ vì bối cảnh núi rừng Bhutan thôi.
Tôi nghe tôi giật mình á.
Có người họ phải đi đến thánh tích Ấn Độ, chỗ Phật thành đạo, Niết Bàn, đản sanh thì họ mới có xúc động và quyết định theo Phật. Có người họ phải nhờ đến bối cảnh, thí dụ : Con người, vị giảng sư đó mặt mũi ra sao, giọng nói ra sao, diễn xuất ra sao, cộng hết mấy cái đó lại, bối cảnh đạo tràng,.. cộng hết mấy cái đó lại họ bèn tin, thấy cái đó tin được. Nhớ cái đó, cái đó cẩn thận.
(8) Chớ vội tin vì người nói ra điều đó là người xưa giờ mình xem là sư phụ.
Cái này kẹt lắm. Nha. Cái này kẹt lắm. Bởi vì, tình trạng đáng buồn của Phật giáo đồ, có nghĩa là tín đồ tăng ni Phật tử hôm nay là chúng ta đang rơi vào một bi kịch, đó là: Chúng ta coi Tổ hơn Phật, coi lệ hơn luật.
Coi tổ hơn Phật là sao? Mình cứ theo sư phụ xong mở miệng ra là « sư phụ nói thế này, sư phụ nói thế kia. » Chứ còn kinh điển mình không trích dẫn, mà mình trích dẫn tổ.
Thí dụ, cho phép, tôi nói cái này dễ hiểu lầm nha. Tôi chỉ ví dụ thôi.
Có rất nhiều người thích trích dẫn hòa thượng Nhất Hạnh - Làng Mai,
có rất nhiều người thích trích dẫn hòa thượng Trí Quảng,
có người thích trích dẫn hòa thượng Nhật Từ,
có người thích trích dẫn hòa thượng Thiện Siêu,
có người thích trích dẫn hòa thượng Nhật Từ,
hòa thượng Nam Trung Bắc gì đó, coi như mỗi vùng miền, mỗi địa phương họ có mỗi vị sư phụ.
Bên Thiền tông cũng vậy, các vị đọc các sách ngữ lục của Phật giáo Bắc truyền các vị thấy, toàn là thiền sư không à.
Phật chỉ là bóng mờ sa mạc thôi. Họ chỉ thích trích dẫn sư phụ thôi.
Người đời nay thích Tổ hơn Phật, thích lệ hơn thích luật.
Coi lệ nặng hơn luật là sao ? (Lệ là lề thói ở địa phương.)
Có nghĩa là Luật là cái được Đức Phật ban hành, quy định, chế định thì họ thờ ơ, mà họ theo cái lệ. Tức là, sư phụ hồi xưa nói vậy, chùa này là vậy, địa phương này nó vậy, họ theo cái đó.
Điều này nổi bật mấy xứ quốc giáo.
Các vị về Thái, Miến Điện (Tích Lan tôi chưa có tới), nhưng Thái, Miến Điện, lệ nó quan trọng lắm. Lệ là lề thói ở địa phương. Dĩ nhiên ở 2 chỗ đó, tạng Luật vẫn được tôn trọng nghe, không phải coi thường, nhưng cái lệ quan trọng lắm. Bởi vậy người ta mới nói « Pháp vua thua lệ làng », nhưng bây giờ còn giờ có « pháp vua thua lệ nàng » có nghĩa là nàng khóc rồi cái gì cũng bỏ hết. Cái đó còn thảm nữa.
Cho nên, chớ vội tin điều gì đó chỉ vì điều đó được phát biểu bởi người mình vẫn xem là sư phụ, hãy cẩn trọng cái đó.
Sau cùng, Ngài đúc kết lại « Chớ vội tin » chứ Ngài không kêu bác. Ngài nói « chớ vội tin » Hãy cẩn trọng khi tiếp thu. Hãy cẩn trọng. Hãy cẩn trọng.
Đừng vội tin vì điều đó nghe qua hợp lý, điều đó trên mặt lý luận thấy logic, điều đó thuận ứng kiến thức nền của mình, điều đó được thiên hạ, quần chúng, dân gian lưu truyền, truyền khẩu, truyền tụng, lâu đời. Còn gì nữa ? Điều này mới đặc biệt.
(9) Chớ vội tin điều gì đó vì điều gì đó được truyền thừa trong thánh điển thiêng liêng.
Vì sách là do con người viết mà. Sách là do con người viết.
Tôi nhớ đã đọc trong internet. Câu trả lời của một vị thượng tọa, cho một câu hỏi, thắc mắc, rằng thì là :
- Hôm nay trên internet có nhiều ý kiến cho rằng kinh điển Bắc Tông, họ kể tên các bộ kinh không phải lời Phật, có phải vậy không ?
Vị thượng tọa này trả lời thế này :
- Sao không phải lời Phật ? Bộ kinh nào Hoa Nghiêm, Lăng Già, Pháp Hoa, Duy Ma cũng nhắc đến Phật, Pháp Tăng, Kinh nào cũng nhắc tới Bát chánh đạo, Duyên khởi, vô ngã, vô thường,… thì làm sao mà không phải lời Phật ?
Câu trả lời đó theo tôi không có thuyết phục. Là bởi vì...
Tôi nhắc lần nữa. Đại kỵ, chúng ta không nên bài xích ai. Nhưng tôi chỉ lấy câu trả lời đó làm một trích dẫn thôi. Có nghĩa là, không phải ở đâu mình thấy thấp thoáng Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế là mình phán cái đó là lời Phật là kẹt. Bởi vì Bát chánh đạo có 1001 cách giải thích. Chớ không phải thấy 3 chữ « Bát – Chánh – Đạo » mình nghĩ lời Phật thì cẩn thận. Bởi vì Chánh Kiến mỗi chỗ giải thích mỗi khác. Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,… được giải thích ra sao, ở mỗi chỗ mỗi khác.
Chứ không phải mình thấy chữ « thuốc bắc » mình tưởng chỗ nào cũng giống nhau. Không chắc. Chỉ riêng vị thuốc bắc là đã thấy khác rồi. Mà bị bệnh hả, theo tôi uống thuốc Bắc tốt hơn, mình quên là : Ai là người bổ thuốc ? Vị trong đó là gì ? Nội người biết chút thuốc Bắc mình thấy, hà thủ ô có hà thủ ô nam, hà thủ ô bắc, hà thủ ô mọc vùng nào đã khác rồi, đỗ trọng, xuyên khung, thục địa, trần bì, táo tàu, nhân sâm, hoài sơn, câu kỷ,… mỗi vùng nó mỗi khác hết. Nó mọc ở đâu, liều lượng. Chưa kể, cách bảo quản mỗi nơi mỗi khác.
Cho nên mình đâu quy chữ thuốc bắc là được. Hoặc là mình thấy đâu có « đỗ trọng, xuyên khung » là giống nhau. Tôi không đồng ý cái đó. Phải cẩn thận.
Cho nên, mình nói, quyển nào nhắc « Bát chánh đạo » « Tứ Diệu Đế »,… đều là kinh Phật thì tôi nghĩ mình phải cẩn trọng cái đó. Mình thấy Thanh Hải vô thượng sư cũng nhắc tới Bát Chánh Đạo. Rồi bây giờ có ông Rumi Trần, rất nhiều người Việt Nam mê. Trong room ai biết ông Rumi Trần không ? Hình như dân Úc mê ông đó lắm. Ông tự nhận là Phật á. Ổng nói ổng là người tu chân thật, không được nói dối. Mà ổng là Phật sao ổng từ chối được. Ổng nhận là Phật luôn. Bởi vì ổng là Phật mà.
Dân Việt Nam mê ổng đó lắm. Dân Úc, ông Kiên, Nhân, Yến, Ngọc, Nhân,… chắc đệ tử ruột. Thấy cái air là biết. Còn Việt Nam thì thôi, cái đám trong room tôi nghĩ chắc đệ tử bà Thanh Hải một tỷ trỏng, nhiều lắm.
Có nghĩa thấy ở đâu có Bát chánh đạo, Tứ diệu đế bèn phán là lời Phật. Mình quên một chuyện Khổ Tập Diệt Đạo ở đó người ta giải thích ra làm sao. Nhớ cái đó.
Và tôi nhắc lại. Kinh sách là do con người chép ra mà.
Giả định như có bộ Kinh nào mà mình nghe nói đích thân do ngài Xá Lợi Phất, ngài Anan chắp bút, có nghĩa là cầm viết mà chép thì mình cũng phải cẩn trọng vì:
1/ Có đúng ngài chép hay không ? Bản thân chuyện nói ngài Xá Lợi Phất viết là có đúng ngài viết hay không ?
2/ Bản gốc ngài viết hôm nay có còn không để mình so sánh và trên hành trình đi từ Ấn Độ, hai ngàn mấy trăm năm trước đi tới đây và bây giờ có bị tam sao thất bổn hay không ? Cẩn thận cái đó. Hãy cẩn thận cái đó.
Đương nhiên, có dịp nào đó chúng ta nói về lịch sử kinh điển.
Và, theo tinh thần Phật pháp nói riêng, tinh thần khoa học nói chung. Sử tính của kinh điển Phật giáo phải được nhắc tới một cách trung thực.
1/ Chú ý xem nội dung có ăn khớp, nhất quán với phần giáo lý còn lại hay không. Thứ nhất, xét nội dung.
2/ Trên nền tảng khoa học. Chẳng hạn như : Khoa học bây giờ có ngành ngành thuyên thích học hay văn bản học (Hermeneutics), người ta cho mình một vài gợi ý rất quan trọng, thí dụ, ngôn ngữ, cấu trúc, ngôn phong của mặt ngôn ngữ trong mỗi bộ sách mỗi thời có cách nói khác. Ngữ nghĩa mỗi thời khác.
Tiếng Việt thời Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên khác thời Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương,… ngay thời Paulus Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký,… nó khác tiếng Việt thời Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh. Rồi Tự lực văn đoàn, Sáng tạo,… Nhớ cái đó. Hôm nay đọc tiếng Việt của ông Nguyễn Chánh Sắc, Hồ Biểu Chánh, nó khác, cũng viết bình dân. Tiếng Việt của Bình Nguyên Lộc, Phi Vân, Sơn Nam, sau này bây giờ có Nguyễn Ngọc Tư, mỗi thời, dầu tiếng việt bình dân nhưng nó cái mùi. hoặc tiếng Việt xưa xửa xửa có cái quyển Thầy Lazaro Phiền, tôi nói cái này bà con ghi âm để đi tìm. Hoặc tiếng việt trong « Phép giảng 8 ngày » của Alexandre de Rhodes. Càng xưa nó càng kỳ nữa.
Mỗi thời, nó có một ngôn phong, ngữ khí riêng. Các vị thử tưởng tượng đi.
Tôi xin nói thiệt, tôi không có ý bài xích, tôi chỉ trích dẫn thôi, tôi đem ra một vài trích dẫn cho bà con tự xét.
Đức Thế Tôn không phải là người chắp bút, không phải là tác giả cầm viết biên soạn. Chắc chắn trong room đồng ý tôi chuyện đó. Đức Phật không phải là người làm chuyện đó, không phải là người cầm bút, ghi chép hết bộ kinh này qua bộ kinh khác mà Đức Thế Tôn, Ngài chỉ khẩu thuyết thôi. Có nghĩa là, gặp ai là người hữu duyên, họ hỏi Ngài cái gì Ngài trả lời cái đó, họ không hỏi thì tùy duyên Ngài thuyết cho họ nghe một pháp thoại nào đó, một thời lượng hợp lý. Theo mình bây giờ mà mình có thể dựa vào trong kinh nữa. Một thời lượng hợp lý của một bài giảng khoảng chừng vài chục phút.
Hồi 8h sáng Ngài gặp 1 người. 9h, 12h, chiều, 3h, 4h,… Ngài gặp một người khác. Mỗi người như vậy mình tính dựa theo kinh mình hiểu, thời lượng tối đa khoảng vài chục phút. Các vị dò lại coi. Có thể có người Ngài chỉ nói 2 phút thôi. Nhưng đại khái, phát thoại nhiều lắm là tính bằng phút thôi.
Và, không hề có sự biên soạn, từ chương, phẩm,… đằng này có quá nhiều bộ kinh đời sau có chương, có phẩm, mà lại bắt đầu bằng câu “như thị ngã văn”. Thì mình ngẫm coi nó hơi kỳ kỳ.
Đức Phật Ngài chỉ để lại những pháp thoại ngắn ngắn thì được. chứ còn nguyên bộ kinh dài xọc mà bắt đầu bằng “như thị ngã văn” thì kẹt lắm. Mà xem kỹ, trong đó toàn kể chuyện không. “Lúc bấy giờ vị đại Bồ Tát tên gì tên gì, trên mình gắn đầy châu báu, vàng ngọc, xuất hiện cùng vô số vị Bồ Tá Ma Ha Tát, Long thần, Hộ pháp, Cưu Bàn Trà, Kim Xí Điểu, tràn ngập Linh Thứu Sơn, đến đảnh lễ Phật,…” Mình ngồi mình ngẫm lại. Cái đó hoàn toàn là của đời sau.
Nguyên bộ kinh mình nói lời Phật thuyết mà phần Ngài nói bao nhiêu? Và, làm sao Ngài khẩu thuyết mà có chương có mục như cuốn sách được, vậy mà vẫn tin sái cổ mới ghê.
Cho nên, hãy cẩn thận cái đó.
Bên Nam truyền, tôi cũng nói luôn, có 1 quyển: Dasa bodhisatta vatthu = mình tạm dịch là “Bồ Tát Dị truyện”, có nghĩa là chuyện kể 10 vị Phật tương lai, sắp thành. Quyển đó cũng được bắt đầu bằng “Evaṁ me sutaṁ”. Đó là trường hợp, tôi thấy hơi sốc. Là bởi vì, rõ ràng quyển đó ra đời sau kỳ kết tập 1. Có nghĩa là, chỉ có kỳ kết tập 1 mới có “Evaṁ me sutaṁ”, có nghĩa là do chính ngài Anan ngài nghe và ngài tường thuật lại trong kỳ kết tập lần 1 “Như vậy tôi nghe” hoặc là “Tôi đã được nghe như vậy nè” .
Sau kỳ kết tập 1 thì không thể nào có người nào đủ thẩm quyền nhắc lại câu đó trước quyển sách của mình hết. Ấy vậy mà, hôm nay chúng ta lật ra chúng ta thấy tùm lum ở đâu cũng “như thị ngã văn”. Ở đâu cũng “Evaṁ me suttaṁ”, ở đâu cũng là “Evaṁ maya suttaṁ” đầy ra hết. Cẩn thận cái đó.
Sau khi Ngài dạy hãy cẩn thận khi tiếp nhận thông tin. Ngài mới đúc kết thế này:
- Không vội tin thì mình phải làm sao? Mình phải xét coi điều mình được nghe, lời dạy đó là tốt hay xấu; Mình thấy lời dạy đó có phải nó dạy mình làm điều bất thiện hay không? Điều bất thiện là gì?
Vì ở đây, cái đám này là đám mù tịt không có biết cái gì hết, cho nên Ngài chỉ đưa ra 2 cơ sở đơn giản nhất.
Điều bất thiện là cái gì? Điều bất thiện là điều các bậc hiền trí ở đời người ta không đồng tình. Có thể điểm này chỗ này người này đồng ý nhưng chỗ kia chưa đồng ý. Cái đó chưa được. Mà điều xấu là gì? Điều xấu là điều tất cả mọi người mọi thời đại đều nhìn nhận nó là bậy, thí dụ chuyện ăn cắp. Mọi người, mọi thời đại, mọi địa phương mọi nơi chốn đều nhìn nhận chuyện trộm cắp là chuyện không nên làm, mọi người, mọi thời đại, mọi địa phương đều nhìn nhận chuyện nói dóc gạt người ta là không tốt, phải bỏ. Chuyện nghiện ngập sa đà, đổ đốn là chuyện mọi người mọi thời đại, mọi địa phương đều chê.
Vậy, Năm giới được xem là điều lành vì năm giới được mọi người, mọi thời đại, mọi địa phương, đều xem năm giới làd chuẩn mực đạo đức căn bản của một con người.
Mọi người, mọi địa phương, mọi thời đại đều nhìn nhận rằng: Chuyện gì đem lại lợi ích cho mình cho người, đem lại nụ cười cho mình. Mà cho mình phải có cho người nữa nha. Không di hại cho mình cho người thì cái đó được xem là điều thiện.
Thí dụ như, bạn bè tụ tập ăn nhậu, hát karaoke, vui vẻ, đánh bài, khiêu vũ,… quá vui. Mình bỏ tiền ra mình vui, mình đãi người ta cũng vui, vậy đó là điều thiện hả? Chưa chắc. Là vì sao?
Việc thiện tối thiểu là 2 tiêu chuẩn:
1 / Tất cả hiền trí trong đời dầu nơi nào lúc nào người ta cũng đồng ý là điều lành, thì mới là lành. Chứ còn một địa phương nào đó là chưa được. Phải là hiền trí ở đời. Không giới hạn không gian thời gian, không giới hạn tầng lớp xã hội. Mọi người đều nhìn nhận chuyện đó. Là chuyện đầu tiên. Chuyện bậc hiền trí ở đời tán thán là điều lành. Mà bậc hiền trí ở đời họ chê là cái đó không được.
2/ Điều lành là điều đem lại niềm vui, an lạc cho mình, cho người, và không di hại. Còn đàn ca hát xướng, nhảy nhót, ăn nhậu, bài bạc, chích hút,… nó có vui thiệt nhưng nó có di họa không? Vô cùng lớn và không hề nhỏ.
Vậy điều này không gọi là điều lành. Vì điều lành là
(1) Tất cả hiền trí ở đời đều tán thán
(2) Nó chỉ đem lại niềm vui trước sau như một không để lại nước mắt thì cái đó mới gọi điều lành.
Cái gì mình thấy trước mắt, tôi vui, anh vui,bạn bè vui, mà họa nó để lại ngoài kiểm soát thì cái đó không được. Cái đó không kể.
Cho nên, ở đây Ngài nói, Ác hay thiện:
1/ phải nhìn nhận xét bậc hiền trí ở đời
2/ hậu quả nó để lại vui hay buồn.
Ngài nói rõ, Ngài hỏi họ: Các ngươi thử nghĩ xem, tham, sân, si mấy cái bất thiện đó khi dây vào có đem lại an lạc cho mình hay không? Nếu mình thấy nó đem lại an lạc thì chuyện đầu tiên là mình sai rồi, vì mình thấy 3 cái đó là nguồn cơn máu lệ của nhân gian. Nhớ cái đó.
Ngài không kêu tin Ngài. Không có nha.. Ngài chỉ nhắc, đừng vội tin điều gì đó… Ngài kể ra một số trường hợp. Cuối cùng Ngà đúc kết, chỉ nên tin / bác sau khi xét kỹ điều đó là thiện hay bất thiện. Chữ xét có 2 trường hợp.
Tôi muốn nói chỗ này chút.
Điều ác nó có 2 trường hợp.
(1) Đam mê bản thân nó là ác.
(2) Dính mắc trong cái thiện một cách nông nổi, bồng bột cũng là điều ác.
Tôi ví dụ, thuở nào mình không có 5 giới, thuở nào mình không có chánh kiến, chánh tín, thuở nào mình không biết bố thí, kham nhẫn, từ tâm, mình chỉ sống chạy theo cái mình thích, chỉ chạy theo cái gì mình làm vui thôi. Giờ biết đạo mình bỏ mấy cái đó. Mình không đánh giá đời sống thông qua cái gì thích, vui, mà xem cái gì lành, cái gì thiện thì làm, cái gì bất thiện thì tránh. Đó là bước 1.
Bước 2, khi mình giữ giới, bố thí, mình tu thiền, mình học giáo lý, … mình tưởng tốt. Chưa chắc. Học giáo lý cầu trí tuệ tiếp tục tu nữa là tốt. Học giáo lý xong trở nên kiêu ngạo, chảnh chẹo, coi thường người không học là sai. Bố thí là tốt, nhưng tự xét coi có phải mình bố thí vì cầu danh cầu lợi, bố thí để nổi tiếng, bố thí để cầu quả nhân thiên hay cầu được giải thoát? Coi kỹ cái đó lại.
Nếu học đạo, ngồi thiền, giữ giới, bố thí, phục vụ, cúng dường mà thấy rằng động cơ chưa có sạch. Thì mình một lần nữa, phải làm cuộc tổng thanh lọc, tổng vệ sinh.
Cho nên, ở đây, bài kinh này sâu lắm.
Thứ nhứt, xét coi thiện hay bất thiện?
Thứ hai, ngay cả khi sống thiện cũng phải tiếp tục xét cái thiện mình có vấn đề hay không? Người tu đúng là luôn nhìn lại dưới chân mình. Đúng là mình phải có định hướng, phải có khả năng nhìn xa, phải biết mục đích mình đến là gì nhưng đừng quên khả năng nhìn xuống bàn chân mình coi mình đang đứng ở đâu? Mình đứng trên cõi đất bất thiện thì là không nên. Nhưng đang sống thiện mà thiện kiểu gì?
Phải nhớ kỹ, đây có 2:
(1) Coi mình có bất thiện hay không?
(2) Phải xét coi mình thiện kiểu gì?
Vì chính trong kinh có nói. Kinh ví dụ con rắn, Trung Bộ kinh, bản cũ là Kinh xà dụ, nói thế này: Kiểu giáo lý có nhiều kiểu học:
(1) Học của người giữ kho, có nghĩa là thích chất thiệt là nhiều vô càng nhiều càng tốt;
(2) Học của người bắt rắn: học để cầu danh cầu lợi, học để thỏa mãn tri thức, học để đi lý luận khoe mẽ là kiểu học của người bắt rắn;
(3) Kiểu học người cầu giải thoát. Nhớ cái đó. Tất cả kiến thức giáo lý, tất hạnh lành mình tu tập chỉ có một tác dụng: Đẩy mình về phía trước, rời xa con người cũ, cảnh giới cũ, để đi về phương trời giải thoát. Thì đó là đúng.
Tất cả cái gì, dầu công đức, kiến thức thiền định trí tuệ gì đó mà nó chỉ có khả năng giam nhốt mình trở lại phương trời tù hãm cũ thì cái đó là sai.
Nãy tôi nhắc rồi. Có một chuyện mà tôi cho là vô cùng quan trọng.
Hãy luôn luôn xem coi mình bị giam nhốt trong cái gì? Trong cái mình thích hay mình ghét? Trong thế gian hay trong đạo? Đừng nghĩ đạo là giải thoát. Chưa chắc đâu.
Học đạo, hành đạo với ý thức buông bỏ là giải thoát.
Học đạo, hành đạo, bố thí, phục vụ, cung kính,… với ý niệm ngã, ngã sở, cầu công đức, thấy mình là số 1 thì thua.
Tất cả mọi công đức chỉ là việc uống thuốc để lành bệnh. Mai này nếu chứng thánh thì hết bệnh. Chỉ vậy thôi. Trong suốt quá trình chữa trị đó, mình hoàn toàn không có gì để khen mình chê người, để tự kiêu, tự mãn, tự tôn, tự đắc, tự đại, hết. Bởi vì sao? Vì tất cả những gì mình học được, mình làm được nó chỉ là những viên thuốc chữa bệnh thôi.
Không ai đi khoe mình đang uống thuốc tiểu đường, không ai đi khoe mình đang uống thuốc ung thư hết. Uống mà nó hết là mừng thấy bà rồi. Chứ không ai chữa lành bệnh mà đi ra ngoài đường cái mặt cà hất, kiêu ngạo vênh vang là không có.
Nhớ cái đó.
Nhưng như vậy ở đây mình phải có 2 khả năng quan sát.
(1) Phải thường xuyên xét coi điều đó, lời rao giảng đó: Hợp lý không? Thiện hay bất thiện?
(2) Tự xét xem: Vì đâu mình chấp nhận nó? Vì đâu mình phủ bác nó. Hãy cẩn thận . Coi chừng mình tin nhận, phủ bác thuần túy dựa trên cảm tính là kẹt lắm. Mình tin điều đó vì: Điều đó được đám đông chấp nhận, mình tin điều đó chỉ vì điều đó được truyền thừa lâu đời, mình tin điều đó vì điều đó được ghi chép trong cái gọi là kinh điển. Mình tin điều đó chỉ vì người nói điều đó mặt mũi coi được. Mình tin điều đó chỉ vì người nói ra là người mình vẫn gọi là sư phụ. Cẩn thận cái đó. Phải vô cùng cẩn thận.
Nhớ. Ngay trong tấm thân sinh học này, ăn uống không cẩn thận nó đổ bệnh và có thể chết le lưỡi, nói gì đời sống tinh thần.
Thì cái đầu mình cũng vậy. Mình muốn an lạc, mình muốn có nhận thức đúng đắn, để rồi có hành trì đúng đắn, thì chuyện đầu tiên: Hãy cẩn trọng với những gì mình nhập vào.
“Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập” là chỗ đó đó. Nhớ nha.
Ok, tôi mệt rồi. Hẹn các vị lại kỳ sau.
Tôi mong, một cuốn còn có 250 trang thôi, mình bỏ 250 trang Pali, mình chỉ còn lại 250 và nếu chỉ 750 trang thì tôi tin trước tuổi 55 tôi giảng xong. Chúng ta hoàn toàn có niềm tin, một ngày nào chúng ta gặp nhau ở Kalama ở sự cảm thông, hiểu biết, chia sẻ, thật là trọn vẹn. Chứ tôi không muốn bà con đến đó ù ù cạc cạc, không biết giáo lý gì hết là không được. Tới đó phải vững.
Tôi thèm thuồng, khao khát được thấy số đông bà con Việt Nam trên đồi, và các vị nói “Tôi đã nghe xong 5 quyển kalama và tôi bước về Kalama như về nhà của tôi”. Cái đó là niềm mơ ước lớn nhất của chúng tôi.
Chúc các vị một ngày vui./.
(Hết)
https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...h%20Kalama
(3) Chớ có vội tin những gì qua lý luận, suy diễn.
Mình thấy bên Pháp. Có câu chuyện tôi kể hoài. Vào thế kỷ 16, 17 gì đó. Có nhà sinh vật học, ổng đem con cào cào, bỏ trong lọ, ổng gõ nó nhảy tưng tưng, ổng để trong cái lọ, ổng búng cái lọ, con cào cào nhảy, ổng ghi ‘thính giác con cào cào nằm ở đôi chân’ ; xong ổng đem con cào cào bẻ 2 chân sau, nó không nhảy nữa, ổng ghi thêm : ‘Vì thính giác nằm ở 2 chân, nên khi bẻ 2 chân thì không con cào cào không còn nghe được nữa”.
Chuyện này có hay không mình không cần biết. Nhưng nó có cái lý. Rõ ràng. Khi còn 2 chân sau, mình gõ thì nó còn búng tưng tưng, khi mình bẻ 2 cái chân thì nó không còn búng. Vậy rõ ràng, thính giác nó nằm 2 cái chân chớ nằm ở đâu?
Hãy cẩn thận, nhiều khi mình suy diễn mình thấy nó hay. Nhưng chưa chắc đâu. Chưa chắc đâu. Chớ vội tin những lý luận, suy diễn.
(4) Chớ vội tin vì những diễn giải tương tợ, có nghĩa là nghe nó giống giống với cái mình thấy hợp lý.
(5) Chớ vội tin những đánh giá hời hợt, những dữ kiện.
Các vị nhớ bà Eleanor Roosevelt , vợ ông tổng thống Roosevelt của Mỹ đó, bả có câu tôi rất thích: “Những đầu óc vĩ đại người ta chú ý vấn đề. Còn đầu óc bậc trung chú ý con người. Đầu óc tầm thường chú ý dữ kiện .”
Câu này rất là sâu.
Dữ kiện là chú ý vỏ ngoài thôi. Chú ý dữ kiện. Thấy lễ dâng y rần rần, đi theo thấy người ta làm sao làm vậy. Thấy người ta có phong trào tụng kinh cầu vãng sanh, ăn chay, cũng rần rần ; thấy người ta có áo tràng, lần chuỗi cũng đi theo. Họ đi theo sự kiện. Chỗ nào thấy rần rần, ông giảng sư nào đông người bu theo, ca sĩ nào đông người bu theo là họ chạy theo cái đó. Họ chạy theo sự kiện thôi.
Hạng bậc trung, chạy theo con người: Coi người này là ai, ca sĩ, diễn viên đó như thế nào. Ông giảng sư, ông pháp sư, ông thiền sư đó ra sao.
Bậc thượng thừa không quan tâm dữ kiện, không quan tâm con người mà quan tâm vấn đề : Ông pháp sư, thiền sư đó đúng giỏi thiệt, ổng nổi tiếng thiệt, nhưng bài giảng hôm qua là tuyệt, nhưng hôm nay thì quá tệ. Mình phải có cái gan đó.
Hạng đầu tiên là tập trung dữ kiện, ở đâu thấy rần rần là nó theo.
Hạng thứ hai khá hơn chút, nó không bị cuốn hút bởi dữ kiện nhưng nó bị cuốn hút bởi con người. Có nghĩa là ai nổi tiếng thì giờ người đó ho, hay đánh rắm vẫn là ghi âm về nghe lại cho có phước. Đấy.
Nhưng hạng thứ 3 khác. Hạng thứ 3 không. Dữ kiện không quan trọng. Event không quan trọng, cá nhân con người đó cũng không quan trọng, mà từng buổi giảng, từng đề tài, từng câu nói, từng phân tích, từng cái mổ xẻ, có thể hôm qua mình mê ổng, nhưng hôm nay ổng nói không được. Hoặc đầu buổi giảng ổng nói 3 câu nghe được, 1 câu nghe không được, phải có cái gan thấy như vậy. Phải có cái gan đó.
Đằng này chúng ta bị « takkahetu, nayahetu, ākāraparivitakkena » có nghĩa là cứ dựa vào những cái mình thấy coi bộ được, thấy được, cứ mơ hồ như vậy, thấy giống giống cái mình đã biết là không được.
Cái này mới đặc biệt nè.
(6) Diṭṭhinijjhānakkhantiyā. Kiến thức nền Mình tin vì chỉ vì nó giống kiến thức nền của mình.
Mà các vị thấy mà. Kiến thức nền của mỗi người nó không giống nhau.
Kiến thức nền mỗi người của người tốt nghiệp đại học, nó không giống anh tú tài, tốt nghiệp cấp 3. Đấy. Mà, anh tốt nghiệp đại học, tốt nghiệp ngành nào ? Computer hay quản trị kinh doanh hay bang giao quốc tế, hay công an, hay tốt nghiệp bên đại học công an, ảnh học bên luật, hay vật lý. Mỗi cái tốt nghiệp là kiến thức nền mỗi người. Chưa kể. Chưa kể. Bối cảnh gia đình. Gia đình nó quan trọng lắm. Bố, mẹ, anh chị em, cô dì chú bác, thím cậu mợ dượng,… của mình, ở gần họ là họ đã đóng góp một phần không hề nhỏ vào cái gọi là kiến thức nền của mình. Họ có tác động không hề nhỏ lên nhận thức của mình.
Giờ cộng với : trường lớp, sách vở, báo chí, và môi trường làm việc hiện tại. Giờ mình đang làm môi trường công ty hãng xưởng, xí nghiệp nào. Mình thường xuyên gặp gỡ ai. Phải cẩn thận cái đó.
Tất cả cái đó nó thành ra một phần, của cái gọi là kiến thức nền. Thế là, trên nền ấy, mình đi vào đời mình gặp ai, nói gì, đọc trang sách nào mà thấy thuận ứng, nó ăn khớp với với kiến thức nền mình bèn cho nó là chân lý, cái nào hơi khang khác, mình bèn phán là sai.
Mình quên rằng nền của mình vốn dĩ đã có vấn đề. Nhớ cái đó. Vốn dĩ nó đã có vấn đề. Mà mình không màng cái đó. Cái đó là Diṭṭhinijjhānakkhantiyā. Cẩn thận cái đó.
(7) Chớ vội tin vì nghe như hợp lý
Trong Chú giải giải thích thế này.
Là bởi vì có một cá nhân nào đó mình thấy có cảm tình, mình có hảo cảm rồi thì người đó, phán cái gì mình nghe qua mình thấy có lý hết. Mình nghe qua mình thấy có lý, có lý vì nó dựa trên hình thức ngoại diên, ngoại diện. Có nghĩa là vẻ bề ngoài. Cách ăn nói đó, mặt mũi đó, bối cảnh không gian đó, toàn là vẻ ngoài không, nó cho mình cảm giác cái này nghe được.
Thí dụ các vị tưởng tượng có những điều các vị nghe ở sân chùa Việt Nam Quốc Tự, Ấn Quang, Xá Lợi Vĩnh Nghiêm, Già Lam, Dược Sư,... mình nghe nó hơi khó khó chấp nhận. Nhưng bây giờ cũng vấn đề đó mà tôi bê, đem ra không khí của chùa Trúc Lâm Yên Tử, Chùa Bái Đính, Chùa Ba Chúc, chùa Ba Vàng, ở Tràng An Bái Đính, giữa cảnh trời nước bao la của Ninh Bình thì ở đó mình lại thấy được, dễ chấp nhận.
Tôi có biết cô Phật tử, mang tiếng Phật tử nhưng cổ gặp Phật thì chỉ thắp nhang chứ không biết giáo lý, không biết cái gì hết. Thậm chí, cổ coi Phật giáo như điểm họp mặt đồng hương, coi cái chùa là điểm họp mặt đồng hương hơn, nhiều hơn là điểm tựa tâm linh. Có lần lớn tuổi rồi, cổ buồn, bạn bè rủ du lịch Ấn Độ chơi, Bhutan chơi. Cổ đi về, Florida cổ gặp tôi, tại nhà cổ ở đó. Cổ nói: Khi đứng giữa núi rừng Bhutan cổ mới thấy, Đức Phật có thiệt, luân hồi có thiệt, nhân quả báo ứng có thiệt, kinh Phật tin được, chỉ vì bối cảnh núi rừng Bhutan thôi.
Tôi nghe tôi giật mình á.
Có người họ phải đi đến thánh tích Ấn Độ, chỗ Phật thành đạo, Niết Bàn, đản sanh thì họ mới có xúc động và quyết định theo Phật. Có người họ phải nhờ đến bối cảnh, thí dụ : Con người, vị giảng sư đó mặt mũi ra sao, giọng nói ra sao, diễn xuất ra sao, cộng hết mấy cái đó lại, bối cảnh đạo tràng,.. cộng hết mấy cái đó lại họ bèn tin, thấy cái đó tin được. Nhớ cái đó, cái đó cẩn thận.
(8) Chớ vội tin vì người nói ra điều đó là người xưa giờ mình xem là sư phụ.
Cái này kẹt lắm. Nha. Cái này kẹt lắm. Bởi vì, tình trạng đáng buồn của Phật giáo đồ, có nghĩa là tín đồ tăng ni Phật tử hôm nay là chúng ta đang rơi vào một bi kịch, đó là: Chúng ta coi Tổ hơn Phật, coi lệ hơn luật.
Coi tổ hơn Phật là sao? Mình cứ theo sư phụ xong mở miệng ra là « sư phụ nói thế này, sư phụ nói thế kia. » Chứ còn kinh điển mình không trích dẫn, mà mình trích dẫn tổ.
Thí dụ, cho phép, tôi nói cái này dễ hiểu lầm nha. Tôi chỉ ví dụ thôi.
Có rất nhiều người thích trích dẫn hòa thượng Nhất Hạnh - Làng Mai,
có rất nhiều người thích trích dẫn hòa thượng Trí Quảng,
có người thích trích dẫn hòa thượng Nhật Từ,
có người thích trích dẫn hòa thượng Thiện Siêu,
có người thích trích dẫn hòa thượng Nhật Từ,
hòa thượng Nam Trung Bắc gì đó, coi như mỗi vùng miền, mỗi địa phương họ có mỗi vị sư phụ.
Bên Thiền tông cũng vậy, các vị đọc các sách ngữ lục của Phật giáo Bắc truyền các vị thấy, toàn là thiền sư không à.
Phật chỉ là bóng mờ sa mạc thôi. Họ chỉ thích trích dẫn sư phụ thôi.
Người đời nay thích Tổ hơn Phật, thích lệ hơn thích luật.
Coi lệ nặng hơn luật là sao ? (Lệ là lề thói ở địa phương.)
Có nghĩa là Luật là cái được Đức Phật ban hành, quy định, chế định thì họ thờ ơ, mà họ theo cái lệ. Tức là, sư phụ hồi xưa nói vậy, chùa này là vậy, địa phương này nó vậy, họ theo cái đó.
Điều này nổi bật mấy xứ quốc giáo.
Các vị về Thái, Miến Điện (Tích Lan tôi chưa có tới), nhưng Thái, Miến Điện, lệ nó quan trọng lắm. Lệ là lề thói ở địa phương. Dĩ nhiên ở 2 chỗ đó, tạng Luật vẫn được tôn trọng nghe, không phải coi thường, nhưng cái lệ quan trọng lắm. Bởi vậy người ta mới nói « Pháp vua thua lệ làng », nhưng bây giờ còn giờ có « pháp vua thua lệ nàng » có nghĩa là nàng khóc rồi cái gì cũng bỏ hết. Cái đó còn thảm nữa.
Cho nên, chớ vội tin điều gì đó chỉ vì điều đó được phát biểu bởi người mình vẫn xem là sư phụ, hãy cẩn trọng cái đó.
Sau cùng, Ngài đúc kết lại « Chớ vội tin » chứ Ngài không kêu bác. Ngài nói « chớ vội tin » Hãy cẩn trọng khi tiếp thu. Hãy cẩn trọng. Hãy cẩn trọng.
Đừng vội tin vì điều đó nghe qua hợp lý, điều đó trên mặt lý luận thấy logic, điều đó thuận ứng kiến thức nền của mình, điều đó được thiên hạ, quần chúng, dân gian lưu truyền, truyền khẩu, truyền tụng, lâu đời. Còn gì nữa ? Điều này mới đặc biệt.
(9) Chớ vội tin điều gì đó vì điều gì đó được truyền thừa trong thánh điển thiêng liêng.
Vì sách là do con người viết mà. Sách là do con người viết.
Tôi nhớ đã đọc trong internet. Câu trả lời của một vị thượng tọa, cho một câu hỏi, thắc mắc, rằng thì là :
- Hôm nay trên internet có nhiều ý kiến cho rằng kinh điển Bắc Tông, họ kể tên các bộ kinh không phải lời Phật, có phải vậy không ?
Vị thượng tọa này trả lời thế này :
- Sao không phải lời Phật ? Bộ kinh nào Hoa Nghiêm, Lăng Già, Pháp Hoa, Duy Ma cũng nhắc đến Phật, Pháp Tăng, Kinh nào cũng nhắc tới Bát chánh đạo, Duyên khởi, vô ngã, vô thường,… thì làm sao mà không phải lời Phật ?
Câu trả lời đó theo tôi không có thuyết phục. Là bởi vì...
Tôi nhắc lần nữa. Đại kỵ, chúng ta không nên bài xích ai. Nhưng tôi chỉ lấy câu trả lời đó làm một trích dẫn thôi. Có nghĩa là, không phải ở đâu mình thấy thấp thoáng Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế là mình phán cái đó là lời Phật là kẹt. Bởi vì Bát chánh đạo có 1001 cách giải thích. Chớ không phải thấy 3 chữ « Bát – Chánh – Đạo » mình nghĩ lời Phật thì cẩn thận. Bởi vì Chánh Kiến mỗi chỗ giải thích mỗi khác. Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,… được giải thích ra sao, ở mỗi chỗ mỗi khác.
Chứ không phải mình thấy chữ « thuốc bắc » mình tưởng chỗ nào cũng giống nhau. Không chắc. Chỉ riêng vị thuốc bắc là đã thấy khác rồi. Mà bị bệnh hả, theo tôi uống thuốc Bắc tốt hơn, mình quên là : Ai là người bổ thuốc ? Vị trong đó là gì ? Nội người biết chút thuốc Bắc mình thấy, hà thủ ô có hà thủ ô nam, hà thủ ô bắc, hà thủ ô mọc vùng nào đã khác rồi, đỗ trọng, xuyên khung, thục địa, trần bì, táo tàu, nhân sâm, hoài sơn, câu kỷ,… mỗi vùng nó mỗi khác hết. Nó mọc ở đâu, liều lượng. Chưa kể, cách bảo quản mỗi nơi mỗi khác.
Cho nên mình đâu quy chữ thuốc bắc là được. Hoặc là mình thấy đâu có « đỗ trọng, xuyên khung » là giống nhau. Tôi không đồng ý cái đó. Phải cẩn thận.
Cho nên, mình nói, quyển nào nhắc « Bát chánh đạo » « Tứ Diệu Đế »,… đều là kinh Phật thì tôi nghĩ mình phải cẩn trọng cái đó. Mình thấy Thanh Hải vô thượng sư cũng nhắc tới Bát Chánh Đạo. Rồi bây giờ có ông Rumi Trần, rất nhiều người Việt Nam mê. Trong room ai biết ông Rumi Trần không ? Hình như dân Úc mê ông đó lắm. Ông tự nhận là Phật á. Ổng nói ổng là người tu chân thật, không được nói dối. Mà ổng là Phật sao ổng từ chối được. Ổng nhận là Phật luôn. Bởi vì ổng là Phật mà.
Dân Việt Nam mê ổng đó lắm. Dân Úc, ông Kiên, Nhân, Yến, Ngọc, Nhân,… chắc đệ tử ruột. Thấy cái air là biết. Còn Việt Nam thì thôi, cái đám trong room tôi nghĩ chắc đệ tử bà Thanh Hải một tỷ trỏng, nhiều lắm.
Có nghĩa thấy ở đâu có Bát chánh đạo, Tứ diệu đế bèn phán là lời Phật. Mình quên một chuyện Khổ Tập Diệt Đạo ở đó người ta giải thích ra làm sao. Nhớ cái đó.
Và tôi nhắc lại. Kinh sách là do con người chép ra mà.
Giả định như có bộ Kinh nào mà mình nghe nói đích thân do ngài Xá Lợi Phất, ngài Anan chắp bút, có nghĩa là cầm viết mà chép thì mình cũng phải cẩn trọng vì:
1/ Có đúng ngài chép hay không ? Bản thân chuyện nói ngài Xá Lợi Phất viết là có đúng ngài viết hay không ?
2/ Bản gốc ngài viết hôm nay có còn không để mình so sánh và trên hành trình đi từ Ấn Độ, hai ngàn mấy trăm năm trước đi tới đây và bây giờ có bị tam sao thất bổn hay không ? Cẩn thận cái đó. Hãy cẩn thận cái đó.
Đương nhiên, có dịp nào đó chúng ta nói về lịch sử kinh điển.
Và, theo tinh thần Phật pháp nói riêng, tinh thần khoa học nói chung. Sử tính của kinh điển Phật giáo phải được nhắc tới một cách trung thực.
- Không thể vì mình là Bắc truyền mình tìm cách bài xích Nam truyền, thồi phồng Bắc truyền,
- cũng không thể mình là Nam truyền mình thổi phồng Nam truyền rồi bài xích Bắc truyền.
1/ Chú ý xem nội dung có ăn khớp, nhất quán với phần giáo lý còn lại hay không. Thứ nhất, xét nội dung.
2/ Trên nền tảng khoa học. Chẳng hạn như : Khoa học bây giờ có ngành ngành thuyên thích học hay văn bản học (Hermeneutics), người ta cho mình một vài gợi ý rất quan trọng, thí dụ, ngôn ngữ, cấu trúc, ngôn phong của mặt ngôn ngữ trong mỗi bộ sách mỗi thời có cách nói khác. Ngữ nghĩa mỗi thời khác.
Tiếng Việt thời Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên khác thời Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương,… ngay thời Paulus Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký,… nó khác tiếng Việt thời Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh. Rồi Tự lực văn đoàn, Sáng tạo,… Nhớ cái đó. Hôm nay đọc tiếng Việt của ông Nguyễn Chánh Sắc, Hồ Biểu Chánh, nó khác, cũng viết bình dân. Tiếng Việt của Bình Nguyên Lộc, Phi Vân, Sơn Nam, sau này bây giờ có Nguyễn Ngọc Tư, mỗi thời, dầu tiếng việt bình dân nhưng nó cái mùi. hoặc tiếng Việt xưa xửa xửa có cái quyển Thầy Lazaro Phiền, tôi nói cái này bà con ghi âm để đi tìm. Hoặc tiếng việt trong « Phép giảng 8 ngày » của Alexandre de Rhodes. Càng xưa nó càng kỳ nữa.
Mỗi thời, nó có một ngôn phong, ngữ khí riêng. Các vị thử tưởng tượng đi.
Tôi xin nói thiệt, tôi không có ý bài xích, tôi chỉ trích dẫn thôi, tôi đem ra một vài trích dẫn cho bà con tự xét.
Đức Thế Tôn không phải là người chắp bút, không phải là tác giả cầm viết biên soạn. Chắc chắn trong room đồng ý tôi chuyện đó. Đức Phật không phải là người làm chuyện đó, không phải là người cầm bút, ghi chép hết bộ kinh này qua bộ kinh khác mà Đức Thế Tôn, Ngài chỉ khẩu thuyết thôi. Có nghĩa là, gặp ai là người hữu duyên, họ hỏi Ngài cái gì Ngài trả lời cái đó, họ không hỏi thì tùy duyên Ngài thuyết cho họ nghe một pháp thoại nào đó, một thời lượng hợp lý. Theo mình bây giờ mà mình có thể dựa vào trong kinh nữa. Một thời lượng hợp lý của một bài giảng khoảng chừng vài chục phút.
Hồi 8h sáng Ngài gặp 1 người. 9h, 12h, chiều, 3h, 4h,… Ngài gặp một người khác. Mỗi người như vậy mình tính dựa theo kinh mình hiểu, thời lượng tối đa khoảng vài chục phút. Các vị dò lại coi. Có thể có người Ngài chỉ nói 2 phút thôi. Nhưng đại khái, phát thoại nhiều lắm là tính bằng phút thôi.
Và, không hề có sự biên soạn, từ chương, phẩm,… đằng này có quá nhiều bộ kinh đời sau có chương, có phẩm, mà lại bắt đầu bằng câu “như thị ngã văn”. Thì mình ngẫm coi nó hơi kỳ kỳ.
Đức Phật Ngài chỉ để lại những pháp thoại ngắn ngắn thì được. chứ còn nguyên bộ kinh dài xọc mà bắt đầu bằng “như thị ngã văn” thì kẹt lắm. Mà xem kỹ, trong đó toàn kể chuyện không. “Lúc bấy giờ vị đại Bồ Tát tên gì tên gì, trên mình gắn đầy châu báu, vàng ngọc, xuất hiện cùng vô số vị Bồ Tá Ma Ha Tát, Long thần, Hộ pháp, Cưu Bàn Trà, Kim Xí Điểu, tràn ngập Linh Thứu Sơn, đến đảnh lễ Phật,…” Mình ngồi mình ngẫm lại. Cái đó hoàn toàn là của đời sau.
Nguyên bộ kinh mình nói lời Phật thuyết mà phần Ngài nói bao nhiêu? Và, làm sao Ngài khẩu thuyết mà có chương có mục như cuốn sách được, vậy mà vẫn tin sái cổ mới ghê.
Cho nên, hãy cẩn thận cái đó.
Bên Nam truyền, tôi cũng nói luôn, có 1 quyển: Dasa bodhisatta vatthu = mình tạm dịch là “Bồ Tát Dị truyện”, có nghĩa là chuyện kể 10 vị Phật tương lai, sắp thành. Quyển đó cũng được bắt đầu bằng “Evaṁ me sutaṁ”. Đó là trường hợp, tôi thấy hơi sốc. Là bởi vì, rõ ràng quyển đó ra đời sau kỳ kết tập 1. Có nghĩa là, chỉ có kỳ kết tập 1 mới có “Evaṁ me sutaṁ”, có nghĩa là do chính ngài Anan ngài nghe và ngài tường thuật lại trong kỳ kết tập lần 1 “Như vậy tôi nghe” hoặc là “Tôi đã được nghe như vậy nè” .
Sau kỳ kết tập 1 thì không thể nào có người nào đủ thẩm quyền nhắc lại câu đó trước quyển sách của mình hết. Ấy vậy mà, hôm nay chúng ta lật ra chúng ta thấy tùm lum ở đâu cũng “như thị ngã văn”. Ở đâu cũng “Evaṁ me suttaṁ”, ở đâu cũng là “Evaṁ maya suttaṁ” đầy ra hết. Cẩn thận cái đó.
Sau khi Ngài dạy hãy cẩn thận khi tiếp nhận thông tin. Ngài mới đúc kết thế này:
- Không vội tin thì mình phải làm sao? Mình phải xét coi điều mình được nghe, lời dạy đó là tốt hay xấu; Mình thấy lời dạy đó có phải nó dạy mình làm điều bất thiện hay không? Điều bất thiện là gì?
Vì ở đây, cái đám này là đám mù tịt không có biết cái gì hết, cho nên Ngài chỉ đưa ra 2 cơ sở đơn giản nhất.
Điều bất thiện là cái gì? Điều bất thiện là điều các bậc hiền trí ở đời người ta không đồng tình. Có thể điểm này chỗ này người này đồng ý nhưng chỗ kia chưa đồng ý. Cái đó chưa được. Mà điều xấu là gì? Điều xấu là điều tất cả mọi người mọi thời đại đều nhìn nhận nó là bậy, thí dụ chuyện ăn cắp. Mọi người, mọi thời đại, mọi địa phương mọi nơi chốn đều nhìn nhận chuyện trộm cắp là chuyện không nên làm, mọi người, mọi thời đại, mọi địa phương đều nhìn nhận chuyện nói dóc gạt người ta là không tốt, phải bỏ. Chuyện nghiện ngập sa đà, đổ đốn là chuyện mọi người mọi thời đại, mọi địa phương đều chê.
Vậy, Năm giới được xem là điều lành vì năm giới được mọi người, mọi thời đại, mọi địa phương, đều xem năm giới làd chuẩn mực đạo đức căn bản của một con người.
Mọi người, mọi địa phương, mọi thời đại đều nhìn nhận rằng: Chuyện gì đem lại lợi ích cho mình cho người, đem lại nụ cười cho mình. Mà cho mình phải có cho người nữa nha. Không di hại cho mình cho người thì cái đó được xem là điều thiện.
Thí dụ như, bạn bè tụ tập ăn nhậu, hát karaoke, vui vẻ, đánh bài, khiêu vũ,… quá vui. Mình bỏ tiền ra mình vui, mình đãi người ta cũng vui, vậy đó là điều thiện hả? Chưa chắc. Là vì sao?
- Là bởi vi mình thấy vui mà xóm làng có vui không?
- Những bậc hiền trí ở đời họ thấy đám đông tụ hợp làm mấy cái chuyện đó, họ có khen hay không?
- Chưa hết, còn nữa. Di họa, hậu hoạn của mấy việc đó lớn vô cùng. Ăn nhậu, ca hát, bài bạc, trước mắt rất vui, đúng, nhưng họa để lại khôn lường.
Việc thiện tối thiểu là 2 tiêu chuẩn:
1 / Tất cả hiền trí trong đời dầu nơi nào lúc nào người ta cũng đồng ý là điều lành, thì mới là lành. Chứ còn một địa phương nào đó là chưa được. Phải là hiền trí ở đời. Không giới hạn không gian thời gian, không giới hạn tầng lớp xã hội. Mọi người đều nhìn nhận chuyện đó. Là chuyện đầu tiên. Chuyện bậc hiền trí ở đời tán thán là điều lành. Mà bậc hiền trí ở đời họ chê là cái đó không được.
2/ Điều lành là điều đem lại niềm vui, an lạc cho mình, cho người, và không di hại. Còn đàn ca hát xướng, nhảy nhót, ăn nhậu, bài bạc, chích hút,… nó có vui thiệt nhưng nó có di họa không? Vô cùng lớn và không hề nhỏ.
Vậy điều này không gọi là điều lành. Vì điều lành là
(1) Tất cả hiền trí ở đời đều tán thán
(2) Nó chỉ đem lại niềm vui trước sau như một không để lại nước mắt thì cái đó mới gọi điều lành.
Cái gì mình thấy trước mắt, tôi vui, anh vui,bạn bè vui, mà họa nó để lại ngoài kiểm soát thì cái đó không được. Cái đó không kể.
Cho nên, ở đây Ngài nói, Ác hay thiện:
1/ phải nhìn nhận xét bậc hiền trí ở đời
2/ hậu quả nó để lại vui hay buồn.
Ngài nói rõ, Ngài hỏi họ: Các ngươi thử nghĩ xem, tham, sân, si mấy cái bất thiện đó khi dây vào có đem lại an lạc cho mình hay không? Nếu mình thấy nó đem lại an lạc thì chuyện đầu tiên là mình sai rồi, vì mình thấy 3 cái đó là nguồn cơn máu lệ của nhân gian. Nhớ cái đó.
Ngài không kêu tin Ngài. Không có nha.. Ngài chỉ nhắc, đừng vội tin điều gì đó… Ngài kể ra một số trường hợp. Cuối cùng Ngà đúc kết, chỉ nên tin / bác sau khi xét kỹ điều đó là thiện hay bất thiện. Chữ xét có 2 trường hợp.
Tôi muốn nói chỗ này chút.
Điều ác nó có 2 trường hợp.
(1) Đam mê bản thân nó là ác.
(2) Dính mắc trong cái thiện một cách nông nổi, bồng bột cũng là điều ác.
Tôi ví dụ, thuở nào mình không có 5 giới, thuở nào mình không có chánh kiến, chánh tín, thuở nào mình không biết bố thí, kham nhẫn, từ tâm, mình chỉ sống chạy theo cái mình thích, chỉ chạy theo cái gì mình làm vui thôi. Giờ biết đạo mình bỏ mấy cái đó. Mình không đánh giá đời sống thông qua cái gì thích, vui, mà xem cái gì lành, cái gì thiện thì làm, cái gì bất thiện thì tránh. Đó là bước 1.
Bước 2, khi mình giữ giới, bố thí, mình tu thiền, mình học giáo lý, … mình tưởng tốt. Chưa chắc. Học giáo lý cầu trí tuệ tiếp tục tu nữa là tốt. Học giáo lý xong trở nên kiêu ngạo, chảnh chẹo, coi thường người không học là sai. Bố thí là tốt, nhưng tự xét coi có phải mình bố thí vì cầu danh cầu lợi, bố thí để nổi tiếng, bố thí để cầu quả nhân thiên hay cầu được giải thoát? Coi kỹ cái đó lại.
Nếu học đạo, ngồi thiền, giữ giới, bố thí, phục vụ, cúng dường mà thấy rằng động cơ chưa có sạch. Thì mình một lần nữa, phải làm cuộc tổng thanh lọc, tổng vệ sinh.
Cho nên, ở đây, bài kinh này sâu lắm.
Thứ nhứt, xét coi thiện hay bất thiện?
Thứ hai, ngay cả khi sống thiện cũng phải tiếp tục xét cái thiện mình có vấn đề hay không? Người tu đúng là luôn nhìn lại dưới chân mình. Đúng là mình phải có định hướng, phải có khả năng nhìn xa, phải biết mục đích mình đến là gì nhưng đừng quên khả năng nhìn xuống bàn chân mình coi mình đang đứng ở đâu? Mình đứng trên cõi đất bất thiện thì là không nên. Nhưng đang sống thiện mà thiện kiểu gì?
Phải nhớ kỹ, đây có 2:
(1) Coi mình có bất thiện hay không?
(2) Phải xét coi mình thiện kiểu gì?
Vì chính trong kinh có nói. Kinh ví dụ con rắn, Trung Bộ kinh, bản cũ là Kinh xà dụ, nói thế này: Kiểu giáo lý có nhiều kiểu học:
(1) Học của người giữ kho, có nghĩa là thích chất thiệt là nhiều vô càng nhiều càng tốt;
(2) Học của người bắt rắn: học để cầu danh cầu lợi, học để thỏa mãn tri thức, học để đi lý luận khoe mẽ là kiểu học của người bắt rắn;
(3) Kiểu học người cầu giải thoát. Nhớ cái đó. Tất cả kiến thức giáo lý, tất hạnh lành mình tu tập chỉ có một tác dụng: Đẩy mình về phía trước, rời xa con người cũ, cảnh giới cũ, để đi về phương trời giải thoát. Thì đó là đúng.
Tất cả cái gì, dầu công đức, kiến thức thiền định trí tuệ gì đó mà nó chỉ có khả năng giam nhốt mình trở lại phương trời tù hãm cũ thì cái đó là sai.
Nãy tôi nhắc rồi. Có một chuyện mà tôi cho là vô cùng quan trọng.
Hãy luôn luôn xem coi mình bị giam nhốt trong cái gì? Trong cái mình thích hay mình ghét? Trong thế gian hay trong đạo? Đừng nghĩ đạo là giải thoát. Chưa chắc đâu.
Học đạo, hành đạo với ý thức buông bỏ là giải thoát.
Học đạo, hành đạo, bố thí, phục vụ, cung kính,… với ý niệm ngã, ngã sở, cầu công đức, thấy mình là số 1 thì thua.
Tất cả mọi công đức chỉ là việc uống thuốc để lành bệnh. Mai này nếu chứng thánh thì hết bệnh. Chỉ vậy thôi. Trong suốt quá trình chữa trị đó, mình hoàn toàn không có gì để khen mình chê người, để tự kiêu, tự mãn, tự tôn, tự đắc, tự đại, hết. Bởi vì sao? Vì tất cả những gì mình học được, mình làm được nó chỉ là những viên thuốc chữa bệnh thôi.
Không ai đi khoe mình đang uống thuốc tiểu đường, không ai đi khoe mình đang uống thuốc ung thư hết. Uống mà nó hết là mừng thấy bà rồi. Chứ không ai chữa lành bệnh mà đi ra ngoài đường cái mặt cà hất, kiêu ngạo vênh vang là không có.
Nhớ cái đó.
Nhưng như vậy ở đây mình phải có 2 khả năng quan sát.
(1) Phải thường xuyên xét coi điều đó, lời rao giảng đó: Hợp lý không? Thiện hay bất thiện?
(2) Tự xét xem: Vì đâu mình chấp nhận nó? Vì đâu mình phủ bác nó. Hãy cẩn thận . Coi chừng mình tin nhận, phủ bác thuần túy dựa trên cảm tính là kẹt lắm. Mình tin điều đó vì: Điều đó được đám đông chấp nhận, mình tin điều đó chỉ vì điều đó được truyền thừa lâu đời, mình tin điều đó vì điều đó được ghi chép trong cái gọi là kinh điển. Mình tin điều đó chỉ vì người nói điều đó mặt mũi coi được. Mình tin điều đó chỉ vì người nói ra là người mình vẫn gọi là sư phụ. Cẩn thận cái đó. Phải vô cùng cẩn thận.
Nhớ. Ngay trong tấm thân sinh học này, ăn uống không cẩn thận nó đổ bệnh và có thể chết le lưỡi, nói gì đời sống tinh thần.
- Đời sống vật chất, mình ăn uống mình biết cẩn thận .
- Tại sao thức ăn tinh thần mình lại ẩu đến vậy? các vị tưởng tượng đi.
Thì cái đầu mình cũng vậy. Mình muốn an lạc, mình muốn có nhận thức đúng đắn, để rồi có hành trì đúng đắn, thì chuyện đầu tiên: Hãy cẩn trọng với những gì mình nhập vào.
“Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập” là chỗ đó đó. Nhớ nha.
Ok, tôi mệt rồi. Hẹn các vị lại kỳ sau.
Tôi mong, một cuốn còn có 250 trang thôi, mình bỏ 250 trang Pali, mình chỉ còn lại 250 và nếu chỉ 750 trang thì tôi tin trước tuổi 55 tôi giảng xong. Chúng ta hoàn toàn có niềm tin, một ngày nào chúng ta gặp nhau ở Kalama ở sự cảm thông, hiểu biết, chia sẻ, thật là trọn vẹn. Chứ tôi không muốn bà con đến đó ù ù cạc cạc, không biết giáo lý gì hết là không được. Tới đó phải vững.
Tôi thèm thuồng, khao khát được thấy số đông bà con Việt Nam trên đồi, và các vị nói “Tôi đã nghe xong 5 quyển kalama và tôi bước về Kalama như về nhà của tôi”. Cái đó là niềm mơ ước lớn nhất của chúng tôi.
Chúc các vị một ngày vui./.
(Hết)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)