Tương Ưng Bộ - Samyutta Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Tập I - Thiên Có Kệ
[01] Chương I
Tương Ưng Chư Thiên
I. Phẩm Cây Lau
https://budsas.net/uni/u-kinh-tuongungbo/tu1-01.htm
https://www.facebook.com/demchepkinh/pos...381947492/
VII. Không Liễu Tri (S.i,4)
--ooOoo--
CHƯƠNG 1. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN l. PHẨM CÂY LAU VII. Không Liễu Tri (S.i,4)
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Tập I - Thiên Có Kệ
[01] Chương I
Tương Ưng Chư Thiên
I. Phẩm Cây Lau
https://budsas.net/uni/u-kinh-tuongungbo/tu1-01.htm
https://www.facebook.com/demchepkinh/pos...381947492/
VII. Không Liễu Tri (S.i,4)
... Ðứng một bên, vị Thiên ấy nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Những ai với các pháp,
Không liễu tri thấu suốt,
Bị hướng dẫn lầm lạc,
Vòng quanh các dị giáo.
Họ mê ngủ triền miên,
Họ không có tỉnh giác,
Nay thật đã đến thời,
Họ cần phải thức tỉnh.
Không liễu tri thấu suốt,
Bị hướng dẫn lầm lạc,
Vòng quanh các dị giáo.
Họ mê ngủ triền miên,
Họ không có tỉnh giác,
Nay thật đã đến thời,
Họ cần phải thức tỉnh.
(Thế Tôn):
Những ai với các pháp,
Khéo liễu tri sáng suốt,
Không bị dẫn lầm lạc,
Vòng quanh các dị giáo,
Họ chứng Chánh đẳng giác.
Họ liễu tri viên mãn,
Trên đường không thăng bằng,
Họ bước thật thăng bằng.
Khéo liễu tri sáng suốt,
Không bị dẫn lầm lạc,
Vòng quanh các dị giáo,
Họ chứng Chánh đẳng giác.
Họ liễu tri viên mãn,
Trên đường không thăng bằng,
Họ bước thật thăng bằng.
--ooOoo--
CHƯƠNG 1. TƯƠNG ƯNG CHƯ THIÊN l. PHẨM CÂY LAU VII. Không Liễu Tri (S.i,4)
(Phần 1: Sư Giảng Kinh Không Liễu Tri . Post tiếp theo là Phầng 2: Sư Giảng Kinh Mê Loạn, ...)
(Quan Trọng: Bài iảng gồm 2 phần: Phần 1 Sư Giảng Kinh Không Liễu Tri, và Phần 2 Sư giảng Kinh Mê Loạn, Mong Muốn Kiêu Mạn, và Rừng Núi)
Bài giảng ngày 27-5-2014: VII. KHÔNG LIỄU TRI (S.i,4)
VII. KHÔNG LIỄU TRI (S.i,4)
“... Ðứng một bên, vị Thiên ấy nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn: Những ai với các pháp, Không liễu tri thấu suốt, Bị hướng dẫn lầm lạc, Vòng quanh các dị giáo. Họ mê ngủ triền miên, Họ không có tỉnh giác, Nay thật đã đến thời, Họ cần phải thức tỉnh.
Nếu diễn dịch theo cách nói ngày nay: vị Trời đứng trước Đức Phật và nói: Hôm nay có Thế Tôn ra đời rồi, đây chính là thời điểm tốt nhất để họ hồi đầu thị ngạn, cơ hội được gặp chánh pháp, Thế Tôn rất là hiếm hoi, hôm nay chính là thời điểm. Nếu hôm nay có người hỏi tôi tìm giùm cho họ một bài kệ thỉnh pháp sư ngắn gọn, thì câu kệ của vị Thiên này đáng được dùng để thỉnh pháp sư.
Việc ra đời của Thế Tôn là một đại sự nhân duyên, nên tất cả những ai còn sanh tử trầm luân, phiền não, thì hãy ghi nhớ rằng đây chính là thời điểm tốt nhất để quay đầu, tu tập, vì thời gian Thế Tôn trụ thế không có bao lâu. Đó là ý nghĩa vắn tắt câu kệ của vị Trời thưa với Thế Tôn.
“(Thế Tôn): Những ai với các pháp, Khéo liễu tri sáng suốt, Không bị dẫn lầm lạc, Vòng quanh các dị giáo, Họ chứng Chánh Đẳng Giác. Họ liễu tri viên mãn, Trên đường không thăng bằng, Họ bước thật thăng bằng”.
Thế Tôn đã trả lời bằng cách dựa vào nguyên văn lời thưa của vị Thiên đó: Phải rồi, trong lúc mọi người đang mê ngủ, đang bị lầm lạc, trên đời này đang có, đã có, sẽ có những vị không có bị cuốn vào dòng xoáy của sinh tử.
Appaṭividita: chưa được tỏ tường, không liễu tri. Pháp: 4 Đế.
dhammā appaṭividitā: Những ai với các pháp chưa được tỏ tường, thông suốt.
paravādesu nīyare: Do người khác hướng dẫn lầm lạc hoặc bản thân mình bị tà kiến dẫn dắt lầm lạc.
Nīyare: được (bị) người khác hướng dẫn.
Paravāda: ‘dị giáo’ (HT Minh Châu dịch), ám chỉ cho 62 tà kiến. Nếu nói 62 tà kiến phải dành hẳn thời gian 3 tháng, một năm hay cả một đời để giảng cũng không đủ. Bài kinh số 1 Trường Bộ kinh - Kinh Phạm Võng, trình bày 62 tà kiến, trong đó Đức Phật xác nhận rằng nội dung của 62 tà kiến này giống như lưới chụp lên trên một cái ao nhỏ. Không một con cá nào nằm ngoài, thoát ra cái lưới đó. Lưới thì lớn mà ao thì nhỏ. Khi Ngài trình bày về 62 tà kiến Ngài nói rất rõ rất đủ trong bài kinh đó.
Tất cả chúng ta ngồi trong room này, kể cả những người tự cho mình là Nam Tông, là chánh pháp, chánh kiến v.v..., chúng ta cũng thấy tất cả các pháp trong đời
- do duyên mà sanh nên chúng ta không mắc vào đoạn kiến,
- do thấy các pháp do duyên mà diệt nên chúng ta không mắc vào thường kiến.
Nói thì nói cho vui vậy thôi chứ tiềm năng về tà kiến trong mỗi chúng ta vẫn trùng trùng điệp điệp, bày ra đấy không thể nào tháo gỡ cho đến bao giờ chúng ta chứng được sơ quả Tu-đà-hoàn mà thôi.
Ví dụ, hôm nay chúng ta tạm thời chưa bắt gặp những giáo thuyết, những tín điều vừa ý mình, chứ còn nếu gặp những giáo thuyết những tín điều vừa ý mình thì mình sẽ lìa bỏ Phật pháp, bởi vì Phật pháp mình hiểu chưa có tới nên mình rất dễ bị cám dỗ, dễ lầm lạc bởi những giáo điều khác. Với duyên lành Ba-la-mật, những gì mình đã học thì nó sẽ không mất, nó là chủng tử, hạt giống cho đời sau kiếp khác, nhưng đó là chuyện xa vời cho một kiếp lai sinh vời vợi nào đó, còn trước mắt chủng tử tà kiến của mình vẫn bày đầy ra đó.
Tri kiến của tất cả chúng sanh phàm phu, nói theo bài kinh đó, thì chúng ta cũng khó mà thoát ra khỏi cái lưới đó. Tương Ưng Bộ Kinh dạy rất rõ, chân lý chỉ có một nhưng tương tự chân lý rất là nhiều.
Có 3 vị thiền sư giảng giáo lý y chang nhau, nhưng vị A có chút gì đó vừa ý mình hơn vị B, thế là mình có khuynh hướng chạy theo vị A.
Chưa kể chuyện đời sau kiếp khác, sau khi nhắm mắt tắt thở, mình sinh vào một gia đình Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Ấn giáo… và lớn lên trong một môi trường tri kiến hoàn toàn khác với những gì chúng ta học trong kiếp này. Nếu mà duyên lành Ba-la-mật khá một chút, chúng ta còn biết nghi ngờ những gì mình đang được hướng dẫn, nhưng nếu lơ tơ mơ, chỉ một chút cơ hội nào đó thôi thì chúng ta sẽ quay lại với tà kiến của mình ngay.
Hôm trước tôi kể chuyện anh chàng cứ chui vô tủ áo mà trốn vì ngỡ mình là hạt thóc sợ bị con gà ăn. Câu chuyện đó đối với tôi rất minh triết, vì cái khùng của anh chàng đó giống hệt phàm tánh của tất cả phàm phu. Tuy hôm nay anh ta nói rõ ràng anh ta không phải là hạt thóc, nhưng cái nhận thức đó vẫn còn mơ hồ và thiếu cơ sở nền tảng, thiếu luận cứ ghê gớm lắm, nên dù tin mình không phải là hạt thóc nhưng vẫn còn sợ con gà vì anh ta vẫn còn mơ hồ về trọng lượng mấy chục ký lô của mình, mơ hồ về hình dáng của mình. Anh ta chìm sâu vào ảo tưởng mình là hạt thóc, sâu đến mức nghĩ mình là con người nhưng vẫn còn sợ con gà không biết.
Ở đây cũng vậy. Khi mình nói các pháp vô thường vô ngã, vạn pháp do duyên sanh, vạn pháp do duyên diệt, nghe rất ngon lành, nhưng mà chỉ cần có một cơ hội nào đó thôi, chúng ta lập tức quay lại với tà kiến của mình ngay. Chỉ cần hôm nay ở một cảnh giới nào đó mà ở đó không có đói lạnh, không có mãnh thú, không có gai góc hầm hố; ở đó muốn gì được nấy, tự thân phi hành, bay nhảy đến mọi nơi mọi chốn mà mình muốn; ở đó mình có thể đời đời kiếp kiếp sống bên cạnh những người mình thân thương, và không có gì trái ý bất toại, thì thử hỏi trong vài chục tỷ năm có còn cảm hứng, hứng thú nghiên cứu Phật pháp hay không? Vấn đề là ở chỗ đó. Thời điểm đó mà có một nhà sư, một tu nữ, một cư sĩ nào đó đến kêu gọi mình đi làm phước, hành thiền, chịu cảnh bát quan trai buổi chiều đói lạnh, thức ăn nguội lạnh ruồi muỗi, thử hỏi lúc đó mình có chịu nổi không?
Hôm nay sở dĩ chúng ta tinh tấn tu hành vì chúng ta sợ chết. Cách đây vài hôm, HT Bửu Phương từ Mỹ có ghé sang trụ xứ chúng tôi ở đây, (nơi biên giới Đức này), HT khỏe mạnh lắm, vậy mà về Mỹ có mấy hôm thôi, thầy trụ trì chùa Phật Pháp có gởi chúng tôi một đoạn clip quay trực tiếp từ bệnh viện, cách đây mấy hôm HT phát hiện mình bị tai biến nhẹ và gọi phone cho Phật tử quen đưa đi bệnh viện. Tôi nghe rất ngậm ngùi, đời sống mong manh như vậy đó, chính mong manh đó là chuyện buồn, nhưng đó là hình ảnh thiên sứ nhắc nhở cho mình.
Bản tiếng Việt (“Những ai với các pháp… Họ cần phải thức tỉnh”)hơi dài nhưng trong bản Pāḷi rất gọn: Những ai chưa hiểu được các pháp (4 Đế), được hướng dẫn trong dị thuyết dị giáo, “Suttā te nappabujjhanti”, đang bị mê ngủ và chưa được giác ngộ thì đã đến thời họ giác ngộ”.
Sutta: ‘ngủ’, Suttā te: “những người đang chìm trong giấc ngủ”, “đang bị mê ngủ”.
nappabujjhanti: không chịu thức giấc.
Có một chữ rất thú vị ở đây là chữ ‘pabujjhanti’, chữ này có nghĩa rất độc đáo: ‘hiểu biết’, ‘nhận thức’. Từ đó chúng ta mới có một dịp để ôn lại một chữ trong Pāḷi, đó là chữ “Buddha”, danh từ là có nghĩa “Đức Phật” (một người đã tỉnh giấc, một người có sự hiểu biết về Bốn Đế), chữ này là quá khứ phân từ của chữ ‘pabujjhanti’, có nghĩa là “một người đã tỉnh giấc từ một cơn mơ, từ một giấc ngủ”, “một người đã hiểu biết”. Từ đó mới ra chữ Buddha, nghĩa là ‘Đức Phật”, và còn có nghĩa là “người tỉnh giấc từ một giấc ngủ”.
Câu trả lời của Đức Phật cũng dựa vào câu hỏi của vị Trời để trình bày: Giữa khi mọi người đang bị hướng dẫn lầm lạc, mê mờ với Bốn Đế, đang ngủ say và chưa tỉnh giấc, thì thật sự trên đời này tồn tại những con người không bị lầm lạc, không bị mê ngủ và họ là những người đã giác ngộ một cách đầy đủ viên mãn và họ bước đi thanh thản tự tại trên một con đường chông chênh gồ ghề.
Ở đây Ngài nói về ai?
[10] Bốn hạng Phật.
Sambuddhā! Ngài ám chỉ cho bậc tự ngộ.
Nhìn vào căn cơ người hỏi, Ngài cố ý nói đến những bậc tự ngộ. Trong chú giải, chỗ này có nói đến hai bậc tự ngộ là Bậc Toàn Giác và Bậc Độc Giác.
Sayam: tự mình. (Viết tắt là sam). Sambuddhā: bậc tự ngộ.
Toàn Giác gồm có 3 hạng:
1- Bồ tát chuyên trí tuệ: tấn mạnh, tín yếu. Hạnh trí tuệ tu Ba-la-mật trong 20 A-tăng-kỳ.
Bậc trí tuệ giác phần chóng đắc
Vì căn cơ xuất sắc hơn thường
Trí nhân tâm tánh như gương
Nên khi quang chiếu vô thường nhận ngay.
2- Bồ tát chuyên đức tin: trí mạnh hơn khả năng tinh tấn. Hạnh đức tin tu Ba-la-mật trong 40 A-tăng-kỳ.
Bậc đức tin lâu ngày hơn trí
Vì tánh nhân ít nghĩ rõ ràng
Tánh nhân cá tánh đoan trang
Lại yêu mến chuộng dị đoan linh thần
3- Bồ tát chuyên tinh tấn: đức tin mạnh hơn trí. Hạnh tinh tấn tu Ba-la-mật trong 80 A-tăng-kỳ.
Bậc tinh tấn thì năng phục vụ
Kém khôn ngoan chẳng đủ niềm tin
Thế nên khó đắc giác minh
Lâu hơn trí tuệ đức tin mấy lần.
Chú giải của bài kinh này có nói về 4 hạng Phật:
1- Bậc Toàn Giác: có thể tự ngộ và có thể độ người
2- Độc Giác: tự ngộ mà không thể độ người
3- Thanh Văn Giác: (Sāvakabuddha) được người độ và cũng có thể độ người nhờ học lý thuyết từ Bậc Toàn Giác.
Chữ ‘Sāvaka’ ở đây còn được gọi là Chatusaccha Buddha.
4- Sutabuddha: Vị uyên thâm Phật ngôn
Theo PG Nam Tông bất cứ vị nào chứng quả A-la-hán đều được gọi là Phật, nhưng trong đó có 3 hạng:
-Phật Toàn Giác cũng là A-la-hán nhưng tự mình đắc chứng quả A-la-hán và giúp người khác chứng quả A-la-hán.
-Hạng thứ hai là Độc Giác, cũng là vị A-la-hán tự ngộ nhưng không có khả năng hướng dẫn người khác đắc A-la-hán. Asayanusayanana: Ngài nhìn căn tánh chúng sanh mà biết người này hợp với đề tài gì. Ví dụ, nhìn một người, vị Độc Giác biết rõ người này đã tu bao nhiêu kiếp, đã từng nghe pháp, từng là tỳ kheo bao nhiêu lần, là cư sĩ bao nhiêu lần, trong mỗi kiếp đã từng học về cái gì, từng thuộc lòng Tam Tạng, từng học Kinh Trung Bộ, Trường Bộ, từng học về A-tỳ-đàm, từng đắc thiền đề mục bất tịnh, đề mục hơi thở, hư không v.v... Vị Độc Giác biết rõ, nhưng khổ một chỗ bây giờ nói gì cho họ đắc đây thì Ngài không biết. Ví dụ như mình biết rõ người đang ngồi trước mặt đã từng đi qua hai chục quốc gia, từng ăn sushi, biết rõ lý lịch quá khứ dĩ vãng của vị này, nhưng vấn đề là chiều nay lựa món gì cho vừa ý người này, thì vị Phật Độc Giác không biết. Trong khi đó vị Phật Chánh Đẳng Giác thì biết rõ, Ngài biết rất rõ người đó từng đi qua chừng đó quốc gia, từng ả chiều nay cho ăn cháo trắng với kho quẹt là tốt nhất là vì người này trong suốt thời gian qua rất ngán dầu mỡ, lại đang ăn kiêng và không thiếu ăn nên không cần đồ ngon vật lạ, và người này mới vừa trúng thực hôm qua vv.. nên chiều nay đến đây người này sẽ đói bụng và món ăn thích hợp là cháo trắng không làm khó bao tử, và là dân miền Tây Nam Bộ nên món kho quẹt bỏ tiêu cho thật nhiều sẽ nuốt được. Điều đó thì vị Phật Độc Giác không biết. Phật Toàn Giác là người tự ngộ và có khả năng độ người khác còn Phật Độc Giác thì chỉ có khả năng tự ngộ chứ không có khả năng thấu suốt người khác như Phật Toàn Giác.
-Hạng thứ ba, Thanh văn giác, là vị A-la-hán đệ tử Phật Toàn Giác tuy không có khả năng tự ngộ nhưng nhờ học hỏi Tam Tạng kinh điển và kinh nghiệm thuyết giảng từ vị Phật Chánh Đẳng Giác nên vị này có chút ít khả năng hướng dẫn người khác.
-Hạng thứ tư là Sutabuddha, vị uyên thâm Phật ngôn cũng gọi là một hạng Phật. Một ví dụ là ngài Ledi Sayadaw, ngài là phàm hay thánh mình không có rõ, nhưng tại sao tôi ví dụ vị này?
Tam Tạng kinh điển được biên tập trong nhiều thời kỳ.
Kinh điển đời 1 gồm Tam tạng Thánh Điển do Phật và các vị đệ tử đích truyền (trực tiếp được trao truyền từ Đức Phật như ngài Ananda, Ca Diếp).
Kinh điển đời 2 gồm các Aṭṭhakathā, tức là chú giải của chánh tạng, kinh điển đời 3 là Tika, Mahatika, Anutika. Tika ra đời để giải thích Aṭṭhakathā. Mahatika, Anutika giải thích chú giải đời trước. Đầu thế kỷ 20, chuyện ra đời và bổ sung các bộ chú giải không còn nữa. Theo chỗ tôi được biết ngài Ledi Sayadaw được xem là vị soạn giả sau cùng của các bộ chú thích trong Tam Tạng và những công trình của ngài được PG Miến Điện kể vào kho tàng kinh điển, tài liệu nghiên cứu Tam Tạng cấp một, nghĩa là tài liệu có thể tin cậy được. Từ sau đó trở đi những vị uyên bác đa văn cách mấy đi nữa cũng chỉ được xem là tài liệu tham khảo cấp hai. Tài liệu cấp một theo tôi được biết thì ngài Ledi Sayadaw là đời cuối cùng. Ngài Ledi Sayadaw sinh 1846, tịch năm 1924. Mấy năm trước khi tịch ngài bị mù, do điều kiện làm việc thiếu ánh sáng, và do bịnh mắt bẩm sinh. Trước khi viên tịch ngài kịp thời trao truyền một phần kinh nghiệm thiền quán cho một đệ tử tên Saya Thetgyilh kinh nghiệm thiền quán học được từ ngài Ledi cho ông U Ba Khin, ông U Ba Khin trao truyền cho ông Satya Narayan Goenka.
Sở dĩ tôi đề cập bốn hạng Phật vì trong bài kệ này có chữ “Chánh Giác”
Những ai với các pháp,
Khéo liễu tri sáng suốt,
Không bị dẫn lầm lạc,
Vòng quanh các dị giáo,
Họ chứng Chánh đẳng giác
Chữ “chánh đẳng giác” ở đây mình dễ hiểu lầm chỉ cho Đức Phật, nhưng không phải. Ở đây chỉ cho hai vị tự ngộ là Toàn Giác và Phật Độc Giác, nhân đó chú giải mới nói thêm bốn hạng Phật mà tôi đang giải thích: Thứ nhất là Toàn Giác có khả năng tự ngộ và có thể độ người, thứ hai là Độc Giác có khả năng tự ngộ nhưng không thể độ người, hạng thứ ba là Thanh Văn Giác không có khả năng tự ngộ, phải có thầy, nhưng bản thân mình cũng có thể làm thầy cho người khác chứng quả giác ngộ và hạng thứ tư có thể ít khi Phật tử được nghe hay được đọc thấy, đó là hạng gọi là Sutabuddha (Tạng Giác).
Trong đây giải thích là Bahussuto có nghĩa là vị uyên thâm Phật ngôn, cũng gọi là một hạng Phật. Khả năng nhận thức của vị này suýt soát chạm biên giới rồi, vì vậy từ đó mới có cái thành ngữ Culla Sotāpatti (Tiểu Tu-đà-hoàn). Cái này thì do đời sau chế thôi chứ tôi thấy hễ còn phàm thì cứ nhận là phàm đi chứ còn mấp mé làm chi cho nó rối. Nhưng có điều cũng hay, những sáng chế này mang tính khích lệ. Người VN mình mấy cái vụ này chỉ có lợi bất cập hại. Nghĩa là người ta nói có cái hạng Sutabuddha chỉ cho những vị uyên thâm Phật ngôn. Mình nghe vậy thì học được ba mớ rồi len lén mua xi măng đúc tòa sen ngồi vì tưởng mình cũng giỏi rồi.
Cái giỏi của người ta là như thế nào? Đó là khả năng vô ngại trong tất cả các vấn đề của kinh điển. Giỏi Abhidhamma thiệt nhưng hỏi qua Luật họ không bị kẹt. Giỏi Luật, Abhidhamma thiệt nhưng hỏi qua Tạng kinh họ không bị kẹt. Cái quan trọng nhất là cái hiểu Phật ngôn của họ thật sự có ảnh hưởng rất lớn đối với phiền não và thiện tâm của họ. Nghĩa là nhận thức Phật pháp của họ đủ để làm cho họ được an lạc thật sự. Ví dụ nói vô ngã thì họ có đời sống thực sự an lạc của một người nhận thức được lý vô ngã. Còn cái kiểu học chữ một nơi mà mình một nẻo thì chưa được gọi là tiểu Tu-đà-hoàn, Sutabuddha hay là Tạng Giác đâu. Tuy người ta còn phàm nhưng cái uyên thâm của họ đạt đến mức trọn vẹn niềm tin vào cái họ học hiểu, họ nhận thức được. Sở dĩ họ được gọi là tiểu Tu-đà-hoàn chứ không phải Tu-đà-hoàn là bởi vì hai lý do:
- Họ vẫn còn là phàm chưa có thánh trí.
- Đã là phàm thì khi tắt thở họ thành cái gì chỉ có trời mới biết. Gọi là Phật nhưng chỉ vì lòng tôn kính của thiên hạ đối với nhân vật này thôi, chứ nhân vật này tắt thở thì đi đâu có trời mà biết.
Một vị Phạm thiên sống ly dục vô sân trong cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, cõi cao nhất trên tầng thiền Vô Sắc, ấy vậy mà sau khi đủ tuổi trời trên đó rồi, trở xuống nhân gian thì vị đó chỉ được có một kiếp độn thôi. Sau khi từ trên Phạm thiên xuống vị đó không có bị đọa. Vị đó có thể sanh vào các cõi Dục Thiên hay các cõi Nhân Loại một lần xem như gọi là “đền nghì trúc mai”, vì anh sống sạch sẽ quá lâu nên kiếp đầu tiên quay trở lại cõi tục lụy này anh không thể nào hòa mình được, anh phải trải qua một kiếp trung gian, giống như một trạm trung chuyển. Sau trạm trung chuyển đó rồi con người anh như thế nào chỉ có trời biết, anh cũng không biết nổi đâu, anh có thể trở thành một thợ săn, có thể là con trùn, con dế, ngư phủ, ông vua, hoàng hậu, gái điếm, ăn cướp... không gì lạ hết, bởi vì tập khí sanh tử nhiều đời luôn chầu chực chờ cơ hội mà nó xì ra, nó trào ra, nó ập ra, nó tan chảy ra, cho nên người ta nói tội khổ trầm luân là chỗ đó. Nếu chưa là thánh, thì từ cõi nào đi nữa, khả năng sa đọa vẫn cực lớn và hoàn toàn có thể. Đó là điều đáng sợ.
Cho nên trong bài kệ này vị Trời đó nói: Bạch Thế Tôn những ai chưa hiểu được bốn đế, nhiều đời nhiều kiếp bị dắt dẫn quẩn quanh trong các tín điều, tà kiến; tự mình bị tà kiến của mình dắt dẫn hoặc người khác nắm tai kéo đi cũng có; bị chìm đắm trong giấc ngủ phiền não chưa tỉnh thức thì nay là thời họ phải thức tỉnh vì Thế Tôn đã ra đời, vì chánh pháp đã được thuyết giảng, vì chúng sanh đang tồn tại. Đức Phật xác định: Đúng rồi, ai phàm cứ phàm nhưng hãy biết rằng trên đời thực sự vẫn tồn tại những người hiểu được 4 Đế không còn bị dắt dẫn trong các tà kiến, bản thân của họ đã chứng được Chánh Đẳng Giác.
Điểm hay ở chỗ là trong bài kệ của vị Trời có nhắc đến chữ “mê ngủ” (Suttā).
“Yesaṃ dhammā susammuṭṭhā, paravādesu nīyare;
Suttā te nappabujjhanti, kālo tesaṃ pabujjhitu’’nti.
“Yesaṃ dhammā asammuṭṭhā, paravādesu na nīyare;
Te sambuddhāsammadaññā, caranti visame sama’’nti.
Khi Đức Phật trả lời, ngay chỗ này, Ngài đã xài chữ ‘sambuddhā’. Cách dùng chữ thật tuyệt vời, theo tiếng VN mình gọi là “chơi chữ”.
“Caranti visame saman” là bước đi thăng bằng, thoải mái thanh thản trên một con đường gồ ghề.
Viasame (=uneven): không bằng phẳng. Theo chú giải “không bằng phẳng” là do chủng loại chúng sanh phức tạp, mà phiền não cũng nhiều loại phức tạp; nhưng giữa cuộc đời phức tạp chông gai khúc khuỷu đó, đã là bậc thánh, bậc tự ngộ rồi thì bước đi thanh thản. Với một người có đôi chân ngon lành, có khả năng đi đứng ngon lành thì con đường cỡ nào đi cũng được.
Còn mình thì sao? Mình là người tàn tật, đi thì phải chống nạng, thậm chí đi phải bò, với một người không có khả năng đi đứng như vậy thì con đường càng xấu chừng nào thì càng khó đi khó trườn khó bò, khó lê lết, khó chống gậy chống nạng, khó đi xe lăn.
(Hết bài giảng về Kinh VII. Kinh Liễu Tri, tiếp theo là phần 2, giảng VIII. Kinh Mê Loạn)
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)