2022-03-28, 04:25 PM
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
29. Kinh Thanh tịnh
(Pàsàdika sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong29.htm
--ooOoo--
29. KINH THANH-TỊNH.
--ooOoo--
Digha Nikaya
29. Kinh Thanh tịnh
(Pàsàdika sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong29.htm
--ooOoo--
29. KINH THANH-TỊNH.
136. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH THANH-TỊNH?
Vào môt thời kia, đức Phật ngụ tại vườn xoài của ông Vedhannà, thuộc bộ-tộc Sakya (Thích-ca). Lúc bấy giờ có vị Sa-di Cunda (Thuần-đà) cùng đi với Tôn-giả A-nan (Ananda) đến yết-kiến đức Phật, để báo tin vị Sư-trưởng ngoại-đạo loã-thể Nigantha Nàthaputta ( Ni-kiền-tử) đã từ-trần và giáo-phái của ông ta bị chia-rẽ trầm-trọng.
Nhơn đó, đức Phật mới giảng Kinh Thanh-Tịnh nầy, nêu rõ lý-do thất-bại của giáo-phái loã-thể là vì giáo-lý và pháp-luật đã ''trình-bày, tuyên-bố một cách vụng-về, không có hiệu-năng hướng-dẫn, không đưa đến an-tịnh, không do một vị Chánh-Đẳng-Giác tuyên-thuyết.'' Kế đó, Ngài giải-thích trong giáo-lý của Ngài, các Tỳ-kheo sống đúng theo phạm-hạnh đầy-đủ, tu-tập bốn pháp Niệm-xứ, bốn pháp Thiền-định, nhờ đó mọi tà-kiến về quá-khứ, về tương-lai, về bản-ngã, đều được vẹt qua một bên, cùng hướng về an-tịnh và giải-thoát.
137. NỘI-DUNG KINH THANH-TỊNH.
A.- Ý Chánh: Phái loã-thể bị tan-rã sau khi vị sư-trưởng từ-trần, vì giáo-lý được truyền-dạy vụng-về, chẳng đưa đến an-tịnh. Trái-lại, Chánh-Pháp của đức Phật, do bực Chánh-Đẳng-Giác tuyên-thuyết, có đầy-đủ phạm-hạnh, được các đệ-tử khéo hành-trì, đưa đến sự thanh-tịnh và giải-thoát.
B.- Phân đoạn: Kinh có thể chia làm hai phần:
1. Phần I: Các lý-do đưa đến sự tan-rã của phái loã-thể khi vị sư-trưởng ngoại-đạo Ni-kiền-tử từ-trần.
- Cunda trình-bày sự thảm-bại của phái loã-thể, chia-rẽ thành hai nhóm, chống-đối nhau bằng miệng và binh-khí, sau khi đạo-sĩ Ni-kiền-tử từ-trần;
- Đức Phật giải-thích sự thất-bại đó, do: (1) vị đạo-sư chưa đắc Chánh-Đẳng-Giác, (2) thuyết pháp vụng-về, chẳng đưa đến an-tịnh; (3) chẳng có đệ-tử hay tín-đồ nào sống đúng theo chánh-hạnh.
2. Phần II: Đức Phật nêu sự thanh-tịnh của Giáo-Pháp hướng đến an-tịnh, giác-ngộ và giải-thoát:
- Trước hết, đức Phật nêu ra hai trường-hợp về tình-trạng của giáo-phái khi vị sư-trưởng từ-trần:
. Trường-hợp vị đạo-sư chưa đắc Chánh-Đẳng-Giác thuyết pháp vụng-về, chẳng đưa đến an-tịnh, thì khi chết, chẳng có vị đệ-tử nào sống đúng chánh-hạnh, nên giáo-phái bị chia-rẽ và tan-rã;
. Trường-hợp vị đạo-sư đã đắc Chánh-Đẳng-Giác khéo thuyết chánh-pháp, hướng đến an-tịnh, khi từ-trần đã có các đệ-tử tinh-thông giáo-lý, sống đúng phạm-hạnh đầy-đủ, khỏi phải quá ưu-tư vì bị phân-hoá.
- Sau đó, Ngài bảo, đối với hiện-tại, là bậc đạo-sư Chánh-Đẳng-Giác, Ngài khéo thuyết các pháp hướng đến an-tịnh, và các đệ-tử của Ngài tinh-thông diệu-pháp, phạm-hạnh hoàn-toàn viên-mãn:
. 37 Phẩm Trợ-đạo do Ngài tự chứng-tri và tuyên-bố cho các Tỳ-kheo, nên hội-họp lại và tụng-đọc, chớ cãi nhau, hãy so-sánh nghiã-lý và lời văn với nhau... để cho phạm-hạnh nầy được tồn-tại, an-trú lâu dài, vì hạnh-phúc cho muôn loài ở đời;
. các giới-luật mà Ngài thuyết-giảng là chỉ để ngăn chặn các lậu-hoặc ngay trong hiện-tại và trong tương-lai: y-thực, nhà cửa, dược-phẩm, là để dưỡng nuôi thân-thể, ngăn chặn sự nóng lạnh của thời-tiết, sự xúc-chạm của các loài ruồi muỗi, chống các bịnh-tật...
. Thích-tử chẳng sống đam-mê các dục-lạc thấp kém (như khi sát-sanh, trộm-cắp, tà-dâm, nói dối) mà tầm-cầu hỷ-lạc (đưa đến yếm-ly) của bốn cấp Thiền với bốn quả-vị: Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-lai, A-la-hán khi tâm và tuệ được hoàn-toàn giải-thoát.
- Đối với tương-lai, Như-Lai có trí do tuệ sanh: ''Đây là đời sống cuối cùng, nay không còn đời sống nào khác.'' Nếu những gì thuộc vị-lai là hư-vọng, không thật, không lợi-ích, thì Như-Lai không trả lời ...
- Đối với các pháp quá-khứ, vị-lai, hiện-tại, Như-Lai là vị nói phải thời, nói chơn-chánh, nói như thật, nói có lợi-ích, nói đứng Pháp, nói đúng Luật.
- Trong thế-giới nầy, những gì được thấy, nghe, tìm cầu, suy-đạt với ý, tất cả đều được Như-Lai biết rõ. Nhưng Ngài chẳng nói về các vấn-đề không có liên-hệ đến Pháp, đến căn-bản phạm-hạnh, không hướng đến an-tịnh, giác-ngộ và Niết-bàn.-- ''Đây là Khổ, Khổ-Tập, Khổ-diệt, con đường đưa đến Khổ-diệt,'' đó mới là các điều được Thế-Tôn nói đến.
- Phật bảo: ''Nầy Cunda, với mục-đích đoạn-trừ và vượt qua những biện-luận về các tà-kiến liên-hệ đến quá-khứ tối-sơ, đến tương-lai nầy, mà bốn pháp Niệm-xứ được Ta tuyên-thuyết, trình-bày.''
- Lúc bấy giờ, Tôn-giả Upavàna đang quạt hầu Thế-Tôn, thốt lên: ''Kỳ-diệu thay ! Pháp-thoại nầy thật là thanh-tịnh ! '' Do đó, Kinh nầy được Phật đặt tên là Kinh Thanh-Tịnh.
138. TRÍCH-ĐOẠN: ''THẤY MÀ KHÔNG THẤY''.
- Nầy Cunda, Uddaka, con của Ràma thường nói: ''Thấy mà không thấy''. Thấy cái gì mà không thấy? Với một con dao sắc-bén, chỉ thấy lưỡi dao, không thấy khiá cạnh sắc-bén của dao. Nầy Cunda, ở đây Uddaka, con của Ràma, đề-cập đến một vật đê-tiện, hạ-liệt, thuộc về phàm-phu, không xứng bậc Thánh, không có lợi-ích, nói về con dao. Nầy Cunda, nếu nói đúng-đắn câu ''Thấy mà không thấy'', thời phải nói như sau: ''Thấy mà không thấy'', vị ấy thấy cái gì mà không thấy? Một phạm-hạnh, thành-tựu hết thảy tướng, đầy-đủ hết thảy tướng, không thiếu-sót, không quá đáng, được khéo tuyên-bố một cách viên-mãn, được khéo trình-bày. Chính vị ấy thấy phạm-hạnh nầy. Nếu vị ấy trừ bớt một phương-diện nào tại một chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ-ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Nếu vị ấy thêm vào một phương-diện nào tại chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ-ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy. Nếu vị ấy thêm vào một phương-diện nào tại một chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy được viên-mãn hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Như vậy gọi là ''Thấy mà không thấy' ...
139. TRÍCH-ĐOẠN: ''DO VẬY, MỚI GỌI LÀ NHƯ-LAI''
... Nầy Cunda, đối với các pháp quá-khứ, vị-lai, hiện-tại, Như-Lai là vị nói phải thời, nói chơn-chánh, nói như thật, nói có lợi-ích, nói đúng Pháp, nói đúng Luật. Do vậy mới gọi là Như-Lai ...
... Trong thế-giới nầy, ... với chư Thiên và loài Người, những gì được thấy, được nghe, được cảm-giác, được phân-biệt, được đạt đến, được tìm cầu, được suy-đạt với ý, tất cả đều được Như-Lai biết rõ. Do vậy mới gọi là Như-Lai.
Này Cunda, trong thời-gian giữa đêm Như-Lai chứng-ngộ Vô-thượng Chánh-Đẳmh-Giác và đêm Như-Lai nhập Vô-dư-y Niết-bàn giới, trong thời-gian ấy những gì Như-Lai nói trong khi thuyết-giảng, nói chuyện hay trình-bày, tất cả là như vậy, chớ không gì khác. Do vậy mới gọi là Như-Lai.
Nầy Cunda, Như-Lai nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy, nên được gọi là Như-Lai ...
Đối với thế-giới, với chư Thiên và loài Người, Như-Lai là bậc Toàn-Thắng, không ai có thể thắng nổi, bậc Toàn-Kiến, bậc Tự-Tại.
140. TRÍCH-ĐOẠN: PHẠM-HẠNH ĐÃ THÀNH .
...Nầy Cunda, các du-sĩ ngoại-đạo có thể nói: ''Các Sa-môn Thích-tử sống không giữ vững lập-trường.'' Họ cần được trả lời như sau: ''Nầy Hiền-giả, Thế-Tôn, vị đã biết, đã thấy, là bậc A-la-hán Chánh-Đẳng-Giác đã thuyết, đã trình-bày những pháp cho các đệ-tử cho đến trọn đời ... Nầy Hiền-giả, một vị Tỳ-kheo là bậc A-la-hán, đã diệt-trừ các lậu-hoặc, phạm-hạnh đã thành, các việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục-tiêu đã đạt, hữu-kết-sử đã diệt-trừ, chánh-trí giải-thoát, không thể làm chín việc sau đây: không thể tước-đoạt sanh-mạng của loài hữu-tình,... không thể lấy của không cho, ... không thể hành dâm, ... không thế biết mà nói láo, ... không thể cất chứa tiền-của để hưởng-thọ dục-lạc, như khi còn tại-gia,... không thể đi con đường hành tham, ... hành sân,... hành si,... không thể đi con đường hành theo sợ-hãi ...
141. HỌC KINH THANH-TỊNH, CHÚ-Ý ĐIỂM NÀO?
Trọng-điểm của Kinh Thanh-Tịnh nầy dạy ta ý-nghiã của câu: ''Thấy mà không thấy.'' Thấy một con dao sắc-bén, mà chỉ thấy có con dao, chưa nhận thấy chỗ sắc-bén của con dao, đó là còn chưa thấy được gì. Thấy chư vị Tỳ-kheo giữ giới đầy-đủ, mà chưa nhận ra giới-hạnh ngăn-ngừa các tội-ác, khiến cho thân-tâm được thanh-tịnh, đó là còn chưa thấy được gì. Học Kinh Thanh-Tịnh phải ''thấy'' sự thanh-tịnh của các Pháp do Thế-Tôn giảng-dạy, đều đưa đến an-tịnh và giải-thoát.
--ooOoo--
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Thanh Tịnh (1-2)
Kinh Thanh Tịnh
Quote:Kalama tri ân bạn buithibuukim ghi chép.
13/03/2022 - 10:09 - buithibuukim
KINH THANH TỊNH
Chúng ta bắt đầu vào bài Kinh số 29 của Trường Bộ (Kinh Thanh Tịnh). Trường Bộ Kinh có tất cả 34 bài mà chúng ta đã học hết 28 bài. Còn 6 bài. Chúng tôi xin thưa thêm là sau khi giảng xong Trường Bộ, chính quý vị quyết định là sẽ nghe tiếp bộ Kinh nào. Chúng ta đã học xong Tương Ưng rồi, sắp sửa kết thúc Trường Bộ thì tiếp theo sẽ là Tăng Chi hay Tiểu Bộ là tùy ở quý vị.
Bây giờ mình học bài 29: Kinh Thanh Tịnh.
Chú giải cho biết rằng thời Đức Phật có rất nhiều tông phái tín ngưỡng. Đặc biệt trong đó có 6 tông phái lớn, là Lục đại môn phái. Trong đó phái Ni Kiền Tử là một trong 6 phái lớn. Quan điểm tư tưởng của 6 phái này được nhắc đến tương đối đầy đủ trong Kinh Sa Môn Quả (Trường Bộ Kinh) chúng ta đã học rồi. Ở đây chúng tôi chỉ nhắc sơ.
Nigantha là tên của giáo phái này. Tàu dịch là Ly Phệ hay Ly Phược. Họ chủ trương làm ác thì bị khổ, làm thiện thì được vui. Nghe qua thì giống Phật Pháp nhưng khác ở chỗ họ chủ trương cực đoan trong vấn đề tu tập. Nghĩa là họ hạn chế việc đào đất, quét tước, tưới tẩm cây cỏ vườn tược. Họ nói mình sống càng hoạt động nhiều chừng nào mình càng có cơ hội làm tổn thương các loài chúng sinh khác.
Khi ông giáo chủ Nigantha này chết thì môn đồ ổng chia làm hai phe: phe Digambara (Thiên y). Phái này nói mình sanh ra hình hài ra sao thì cứ để vậy cho đến chết, chớ không quần là áo lụa gì hết. Phái thứ hai là Setambara (Bạch y), mặc toàn đồ trắng không thôi. Bởi họ nói mặc đồ còn phải nhuộm cũng là cơ hội làm tổn hại chúng sanh khác. Muốn nhuộm mình phải có thuốc nhuộm, rồi phải nấu nước, phải nhóm lửa, rồi có củi, rất nhiều chuyện. Họ nói ăn, mặc, ở phải ở trong điều kiện đơn giản nhứt, vì họ chủ trương mình càng nhiều nhu cầu sẽ càng có cơ hội làm phiền chúng sanh khác. Dĩ nhiên, đây là một cách nghĩ cực đoan. Bởi có ai trên đời này từ bi hơn vị Chánh Đẳng Giác ? Nhưng ngay cả vị Chánh Đẳng Giác, các Ngài cũng không chủ trương cực đoan như vậy.
Chúng ta biết sau khi một đệ tử lớn của ông Nigantha này đến gặp Phật với mục đích vấn nạn và được Đức Phật cảm hóa. Upali trở về thưa chuyện, kể lại với sư phụ nghe tất cả cuộc đối thoại của mình, đồng thời kín đáo xác nhận rằng kể từ bây giờ trong lòng ổng Đức Phật mới là bậc Đạo sư số một. Ông giáo chủ giờ xuống số hai rồi. Trong Kinh nói ổng nghe như vậy, ổng uất khí xung thiên bị trào máu mồm ra. Chính vì chuyện trào máu mồm vậy, dẫn đến ổng lâm bạo bịnh. Có một điều ông giáo chủ này là một người rất biết chuyện. Ổng trào máu vì trong một phút cơ đồ sự nghiệp một đời của ổng tan nát. Nhưng trong giây phút cận tử sắp đến, ổng còn chút tỉnh táo để ổng thấy rằng giáo lý của ổng là ‘aniyyanika’, nghĩa là ‘không thể dẫn đến giải thoát’. Ổng thấy rằng chuyện ổng mất mát mọi thứ là điều đáng tiếc, điều không nên xảy ra. Nhưng ổng cũng ngầm hiểu rằng tông phái ổng, giáo lý ổng không giúp được ai hết. Và ổng chân thành thiết tha mong mỏi nguyên cái đám giáo chúng ổng quay về với Đức Phật. Tôi nhớ tôi đã lấy tình tiết này viết nên câu chuyện ‘Lãng Minh’ trong ‘Chuyện phiếm thầy tu’. (see post #892, p. 60)
Thì trước khi ổng mất ổng mới kêu mấy đệ tử vô, chia thành hai đợt. Đợt đầu ổng nói rằng cái gì trên đời này cũng là phù du, lúc có lúc không; nhưng cái tôi của mỗi người thì đời đời bất diệt. Có một cái tôi làm thiện và một cái tôi được hưởng vui. Có một cái tôi làm ác và một cái tôi chịu khổ. Cái tôi đó đời đời không mất. Nhưng tới cái đám đệ tử thứ hai vô thì ổng nói khác. Ổng nói rằng cái gì có mặt trên đời này cũng vô thường hết, đúng như lời sa môn Gotama nói.
Tại sao ổng cố ý làm động thái lạ lùng như vậy? – Bởi ổng muốn nội bộ đệ tử xảy ra sự chia rẽ, vì ai cũng nghĩ mình được đích thân sư phụ trao truyền yếu chỉ tông môn, thế là nội bộ rạn nứt. Ổng nghĩ nếu bây giờ mình kêu mọi người về với Đức Phật thì có thể phản tác dụng. Bởi vì:
Cầm vàng mà lội qua sông.
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng.
Một đời theo đuổi mối quan hoài về chính trị, tôn giáo, xã hội. Đùng một cái một sớm mai hồng có người kêu mình rũ bỏ hết để đi theo một đường lối khác thử hỏi chúng ta có đủ cam tâm hay không!
Chuyện đó không dễ đâu quý vị. Nhiều khi biết nó sai đó nhưng lòng chưa sẵn sàng. Đây cũng vậy. Thì thôi bây giờ ổng làm cho môn đồ giáo chúng chia rẽ nhau thì tự động trong cơn rối rắm đó họ sẽ tìm về bến đỗ chỗ nương. Và xét về mặt giáo lý thì Phật giáo gần với giáo phái Ni Kiền Tử nhứt. Cho nên ổng biết chắc sẽ có một số người về với Phật. Chuyện đại khái vậy.
Thì đúng như ổng dự tính, sau khi ổng mất đệ tử chia ra hai phe. Một phe không mặc gì hết là nhóm Thiên Y. Nhóm thứ hai là Bạch Y cũng theo tinh thần tu học của ổng và mặc đồ trắng. Hôm nay chúng ta sang Ấn Độ sẽ gặp đầy đủ hai tông phái này, phái mặc đồ trắng và phái không mặc gì hết mà hôm nay gọi là Jain. Chữ ‘Jain’ xuất phát từ chữ ‘Jina’ – là tên giáo chủ. Đặc biệt nữa là chữ ‘Jina’ = chữ ‘Buddha’ = người chiến thắng. Ông Jina này còn có một tên nữa là Mahavira = anh hùng. Đây cũng là một trong những hồng danh của Đức Phật.
Chuyện nữa là hôm nay về Ấn Độ, chúng ta sẽ gặp vô số những bức tượng y hệt tượng Đức Phật mình: tóc thì xoắn, trên đỉnh đầu có nhục kế, mặt mũi trang nghiêm, hiền lành từ bi, minh triết. Khác một điều là bức tượng đó không có mặc gì hết. Các vị vào Google đánh chữ Jain sẽ thấy giống y hệt, y chang nghe, như tượng Phật mình vậy đó. Xếp bằng cũng có, đứng cũng có, nằm cũng có, gọi là một bức tượng Phật hoàn hảo, có một điều là không mặc gì hết. Đó chính là tượng của ông giáo chủ Nigantha.
Bây giờ là nội dung quan trọng bài Kinh.
Từ đoạn số 4 -> số 7 có nội dung như sau:
Nếu sư phụ là một người không có đường lối tu hành ngon lành mà đệ tử lại cúc cung tận tụy trung thành thì đó là điều đáng tiếc. (4 điều tôi gom lại thành 2 điều). Nếu giáo chủ không có cương lĩnh giáo lý tốt thì sự trung thành và tinh tấn của môn đồ giáo chúng là đáng trách.
Nếu đó là hệ thống giáo pháp ngon lành (nghĩa là dẫn đến giải thoát) thì sự tinh tấn của đệ tử là đáng khen.
Bên Tàu chúng ta cũng biết có từ ‘ngu trung’. Ngu trung có nghĩa trung thành một cách thiếu thông minh. Ta cũng biết khi đã đi sai đường thì ta đi càng nhanh thì càng rời xa mục đích chừng đó.
Ngược lại, nếu đi đúng hướng, ta đi càng nhanh thì mình càng gần mục đích. Từ đoạn 4 tới đoạn 7 là nội dung trên.
Đoạn 8 và 9:
Nếu một vị đạo sư có giáo lý ngon lành và có người kế thừa thì vị Đạo sư đó có ra đi thì mọi sự vẫn tiếp tục duy trì ở tình trạng tốt như cũ, các đệ tử không có gì phải âu lo.
Nhưng nếu một giáo pháp ngon lành mà không có người kế thừa thì sự ra đi của bậc Đạo sư lại là dấu chấm hết cho đoàn thể đó.
Như vậy hai đọan 8 và 9 này có nội dung rất sâu. Trong rất nhiều lần Đức Phật dạy thế này: “Này các tỳ kheo, hãy học tập 37 Phẩm trợ Đạo (phẩm trợ Bồ đề: Thất Giác Chi, Ngũ căn, Ngũ lực, Tứ chánh cần,Tứ như ý túc, Tứ Niệm Xứ). Hãy học tập và hành trì vì lợi ích cho bản thân, vì lợi ích cho nhân, thiên, trời người.”
Đặc biệt có câu kết thế này: “Đừng có trở thành người tối hậu sau ta”.
‘Tối hậu’ nghĩa là ‘last one’. Có nghĩa là Phật đi rồi, các vị tỳ kheo, tôn túc cao đồ cũng tịch luôn thì giáo Pháp coi như chấm hết. Đó là một điều rất đáng tiếc cho chúng sinh, nhân thiên ba cõi.
Ngài rất nhiều lần nói câu đó. Quý vị có thể vào Google, đánh ‘Chớ thành người tối hậu sau ta’ thì Google sẽ dắt quí vị tới những bài Kinh có câu này. Trong văn hóa VN cũng có câu: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Chúng ta dĩ nhiên không thể nào bằng được Đức Phật thì sao có thể hơn. Nhưng ít ra chúng ta có thể giữ lại những gì bậc Đạo sư để lại tùy theo khả năng của mình. Chớ còn không gì bậy cho bằng gia tài của ông cha thì tuyệt vời, mà con cháu không khả năng duy trì, thì đó là điều rất đáng tiếc.
Trong Kinh có nói đến ba hạng con, mà tôi lấy làm tiếc là người Việt Nam mình cả trăm triệu mà năm nào cũng như năm nào đến rằm tháng bảy thì theo văn hóa của Tàu tổ chức Vu Lan. Mà trong khi đó Vu Lan hiểu theo tinh thần của cứ cho là Phật giáo Tàu đi, thì cứ cho đó là ngày tưởng nhớ cha mẹ, cửu huyền thất tổ.
- Chúng ta hãy nhớ rằng ngày nào cũng là ngày chúng ta tưởng nhớ ông bà cha mẹ hết, chớ không cứ riêng gì ngày đó. Cho nên cứ đợi tới Vu Lan mới trả hiếu thì đó là một chuyện đáng tiếc.
- Cái đáng tiếc thứ hai nữa là trong ngày Vu Lan mà cứ nhằm chuyện Mục Liên Thanh Đề mà kể hoài. Nó còn tang thương chỗ nữa là các chùa Bắc Tông kể thì mình không ức. Đằng này có không ít những vị Pháp sư Nam Tông mà cứ rằm tháng bảy là cứ lôi chuyện Vu Lan, chuyện nào là con phải hiếu thảo cha mẹ bla bla bla. …
Trong khi đó, có vấn đề này mà tôi gần như không nghe, không thấy quý vị nhắc tới. Theo tôi, muốn nhắc tới cha mẹ quý vị nên nhắc tới ba hạng con này đây:
1- Hạng avajata là con thua cha mẹ. Các vị đừng tưởng tôi lạc đề. Ở đây đức Phật dạy rằng ‘Chớ thành người tối hậu sau ta’, tức là sau khi ta đi rồi các con tiếp tục ở lại tìm người kế thừa. Từ chỗ này chúng tôi mới nói đến ba hạng con.
2- Hạng thứ hai là anujata: con bằng cha mẹ.
3- Hạng thứ ba là adhijata: con hơn cha mẹ.
Ở đây các hàng tứ chúng đệ tử Thế Tôn dứt khoát không cách nào hơn Phật được rồi – tôi nhấn mạnh lần nữa. Ngài Xá Lợi Phất không cách chi bằng Đức Phật được hết.Tuy nhiên trong tinh thần tu học và kế thừa thì chúng ta phải nhớ đến ba hạng con này.
Chúng ta không cách nào hơn Đức Phật mà ít ra chúng ta đừng để cách xa Ngài nhiều quá. Ngài chủ trương tu học hành trì 37 Phẩm trợ Đạo, mà nếu hôm nay Ngài đi mất rồi thì người còn ở lại cũng thường xuyên canh cánh đau đáu trong lòng ba hạng con này để mình không cô phụ tấm lòng của Ngài. Có rất nhiều người khi nghĩ về Đức Phật họ nghĩ bằng cái đầu duy lý. Họ nghĩ Ngài là bậc tối tôn, là vô thượng, Ngài là số một bla bla bla … Nhưng khi nghĩ nhiều chuyện đó mình quên chuyện khác. Cái đó là lý thôi, còn cái tình nữa. Đúng Đức Phật là người đáng để mình tôn thờ thần tượng.
Tôi nhắc lại, Đức Phật là đấng tối tôn, đấng vô thượng đáng để mình tôn thờ tôn kính. Khoảng cách giữa Ngài với chúng ta rất là xa. Tuy nhiên còn một cách nghĩ khác về Đức Phật nữa.
Tôi nghĩ rằng tuyệt đối không thể quên, đó là ngoài chuyện khả kính ra, Đức Phật đáng là người để mình phải thương phải yêu bằng tất cả tấm lòng.
Cách đây 4 a tăng kỳ về trước, lẽ ra nếu Ngài đổi nguyện, Ngài đừng nghĩ tới cái đám của mình bây giờ là Ngài đã đi lâu rồi. Mà Ngài nghĩ đến chúng ta hôm nay – Chúng ta đây là tôi và quý vị đang ngồi trong room này nè – chớ không phải ai hết. Chính mình nè. Ngài nghĩ đến mình, trong đó có mình, tôi bảo đảm 1.000% có mình. Các vị đi hỏi các bậc tôn túc, tôn kính coi có đúng vậy không. Ngài nghĩ đến chúng sinh đời sau. Cho nên lẽ ra Ngài đã chứng La Hán, Thinh Văn Ngài đi mất rồi. Nhưng Ngài nghĩ: Luân hồi là cái dòng sông. Có người dư sức lội qua sông một mình. Có người có thể đóng bè đóng tàu để mà đi. Còn có kẻ chỉ muốn mãi mãi ở lại bờ này, hạng này mình không nói tới chi. Nhưng cái hạng muốn qua sông dư sức bơi một mình và đã chọn cách bơi một mình qua bên kia bờ. Hạng thứ hai muốn qua bên kia bờ nhưng không đành lòng, không cam tâm mà đi một mình, mà phải đóng bè đóng tàu càng lớn càng tốt để chở theo người khác. Đó chính là vị Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật Độc Giác là muốn đi, muốn bơi một mình.
Phật Toàn giác muốn qua sông chở theo nhiều người khác.
Thế là vì tâm nguyện đóng tàu đó mà suốt 4 a tăng kỳ không biết bao nhiêu lần Ngài vào sinh ra tử, lên rừng xuống biển, bao nhiêu lần chết đói, đi lạc trên hoang đảo sa mạc, núi cao rừng thẳm. Bao nhiêu lần bị chết chém chết cháy chết đuối. Bao nhiêu lần bị giam, bị tù ngục. Rồi bao nhiêu lần bị đói lạnh, bịnh hoạn, đói không có cơm ăn,bịnh không có thuốc uống, lạnh không có áo quần, không có nhà cửa. Dòng luân hồi mà quý vị. Dòng luân hồi, bao nhiêu lần bị oan ức, bao nhiêu lần chết thảm trong dòng sanh tử. Máu mà Ngài đổ ra trong dòng sanh tử nhiều như sông. Thịt xương mà Ngài đổ ra hành ba la mật nhiều như rừng như biển như núi. Mà rồi thì sao? – Cuối cùng, thành Phật chỉ trụ thế 45 năm thôi. Mà biết được cái này thương lắm quý vị: những ngày Ngài đi độ người ta, ôm cái bát đứng trước mặt nghe người ta chửi, chửi tan nát. Chửi xong chờ người ta lắng cái cơn xuống Ngài nói một câu cho người ta đắc quả. Rồi ôm bát về bữa đó đói. Nghe, chuyện đó rất bình thường, bình thường lắm! Chưa hết, một người 80 tuổi, đêm cuối cùng sắp đi rồi, mà cũng vì lòng từ bi với một con người cũng xa lạ chưa biết mặt, mà tới đó để cho người ta thấy mặt mình, để mình độ cho họ đắc A La Hán. Quý vị nghĩ coi: một người 80 tuổi, thân mình không có lo mà đi lo nghĩ đến người ta như vậy! Chưa hết đâu. Biết là khuya nay mình đi, biết là mình ăn cái này vô sẽ bị trọng bịnh mà phải ăn. Ăn xong rồi còn dặn là cái phần dư lại đừng để ai ăn hết. Phải đem đi đổ bỏ bởi vì người khác ăn cái này vô sẽ bị bịnh. Rồi còn dặn dò ngài A Nan đủ điều: Mai này ta đi rồi, nếu người cúng bữa cơm đó, ông Cunda mà ổng nghe người ta nói rằng vì bữa ăn đó mà Thế Tôn lâm trọng bịnh thì hãy an ủi ổng. Nói ổng rằng trong đời Thế Tôn có hai bữa ăn công đức vô lượng: là bữa ăn của nàng Sujata trước khi Bồ tát thành Đạo và thứ hai là bữa ăn của ông thợ rèn Cunda trước khi Thế Tôn Niết bàn. Hãy nói cho ổng biết bữa ăn của ổng là một trong hai bữa ăn mà công đức không sao nghĩ bàn. Các vị tưởng tượng khuya nay mình đi rồi mà giờ này còn dặn dò đủ thứ chuyện mà toàn là chuyện người ta không. Một con người như vậy, một nhân cách như vậy, một tấm lòng như vậy, một trái tim như vậy! Đúng! Đức Phật là người đáng kính, nhưng Ngài còn là người để mình thương, mình yêu như yêu cha yêu mẹ.
Cho nên chuyện mình tu tập là chuyện cho mình, không mắc gì Ngài. Chuyện tu hay không tu là chuyện của mình. Nhưng phải nói đọc bài Kinh mình thấy thương chớ, xúc động chớ.
Khi bài Kinh này được thuyết giảng lúc đó Thế Tôn gần viên tịch rồi, cận kề lắm rồi, mà Ngài nhắc:
“ Các ngươi may mắn có bậc Đạo sư là vị Chánh Đẳng Chánh Giác, người được cơ hội như vậy mà không nỗ lực tu hành thì đó là điều rất đáng tiếc. Trường hợp đó là một người đệ tử đáng bị chê trách”. Người ta có đạo sư không ra gì thì không nói. Đằng này có một Đạo sư như là Như Lai, nếu mà dễ duôi không tinh tiến tu tập thì đó là điều đáng trách.
Ngài còn dặn kỹ một điều nữa, là cho dầu Giáo Pháp có xuất sắc đến cỡ nào đi nữa; cho dầu bậc Đạo sư có xuất sắc đến cỡ nào đi nữa, nhưng nếu các đệ tử không có người kế thừa thì sự ra đi của bậc Đạo sư sẽ để lại khoảng trống không sao lấp đầy được.
Chúng ta biết rồi, giá trị của một con người lớn bằng khoảng trống mà người đó để lại sau khi người đó vắng mặt. Đúng vậy. Giá trị của Thế Tôn là vô bờ bến, bởi vì Ngài đi rồi Ngài để lại trong vô lượng thế giới một khoảng trống không sao lấp đầy. Chúng ta đọc lại trong Kinh Đại bát Niết Bàn sẽ thấy. Trong đêm cuối cùng chư thiên mười muôn triệu vũ trụ về lạy Phật. Trong đó có nhiều người cách đây 80 năm họ đã có lòng muốn xuống gặp Phật mà họ cứ ầu ơ ví dầu. Cuối cùng ngày mà họ xuống gặp Phật được là đêm cuối. Họ đều có câu nói giống nhau: ‘Đêm nay là đêm cuối cùng Đức Như Lai sẽ vĩnh viễn ra đi không bao giò trở lại nữa’. Đặc biệt như vậy!
Cho nên nếu gặp được bậc Đạo sư như vậy mà chúng ta không biết tranh thủ mà trở thành người ‘tối hậu’, thành người sau cùng biết được Ngài thì đó là điều rất đáng tiếc. Ngài tu hành tới 20 a tăng kỳ mà Ngài hoằng Đạo chỉ 45 năm thôi, mà Ngài dạy rõ các vị tỳ kheo “Đừng bao giờ trở thành người tối hậu sau ta” là vậy đó.
Tiếp theo, nguyên đoạn sau Đức Phật Ngài xác nhận rằng ngày hôm nay (hôm nay tức là lúc Ngài giảng Kinh này) thì Ngài đã có các đệ tử tăng và tục, xuất gia và cư sĩ có đủ kinh nghiệm, có đủ nhận thức, có đủ trí tuệ đức hạnh để kế thừa đoạn đường Ngài để lại. Tức là Ngài đã dắt người ta đi rồi. Đi rồi đoạn đường vẫn còn người kế thừa. Và chúng ta đọc kỹ thấy thương lắm. Ngài dạy rằng cả đời ta ta chỉ dạy 37 Phẩm trợ Đạo thì các vị hãy tiếp tục. Mai này dầu ta không còn nữa thì tiếp tục học tập. Gặp nhau là luận bàn, cùng nhau hành trì.
Từ đọan 17 trở đi chúng ta thấy có cái này rất quan trọng. Ngài cho biết trước, sau này sẽ có lúc trong anh em sẽ có những bất hòa về giáo lý. Tức là tôi thấy như vậy mà you không thấy như vậy thì này các tỳ kheo trong trường hợp đó phải ngồi lại với nhau để xác định xem sự khác biệt đó là trên từ ngữ hay là trên ý nghĩa. Nhớ nghe: từ ngữ hay là trên ý nghĩa. Nếu xét thấy sự khác biệt đó là về ý nghĩa, về tinh thần giáo lý thì cùng nhau ngồi lại để mà thương thảo. Còn nếu đó là sự khác biệt về từ ngữ thì hãy nhớ rằng đó là chuyện nhỏ mà thôi.
Có thể nói rằng bài Kinh này nếu chúng ta đọc bản dịch của ngài Minh Châu chúng ta có tâm cảm khác. Nhưng nếu bài Kinh này mà mình đọc chậm mình ghi cái note xuống mình thấy bài Kinh này nội dung rất là đặc biệt. Đó là ở trên Ngài xác nhận rằng
- một giáo lý mà có nội dung giải thoát thì tinh tấn là điều cần thiết,
- một giáo lý mà có nội dung tào lao thì tinh tấn chỉ là điều đáng tiếc.
Tiếp theo Ngài dạy rằng
- với một hệ thống giáo lý hoàn hảo thì rất cần có người kế thừa,
- trên quan điểm nhận thức, tiếp nhận và hành trì giáo lý, trao đổi giáo lý thì chúng ta chỉ nên quan tâm vấn đề ý nghĩa và nội dung mà thôi.
Tôi nhớ tôi có kể bà con nghe một câu chuyện. Là có một bà hành giả người VN bả có thói quen lạ lắm. Bả đang đi kinh hành chung với mấy người nữa. Đang đi vậy tự nhiên bả thụt lùi. Thay vì đi tới tự nhiên bả thụt lùi. Trong room nghe hiểu không ta? Mấy người bạn tu bên cạnh thấy lạ mới hỏi bả. Nói chứ thấy kỳ quá mà hỏng dám hỏi, bữa nay hỏi thiệt bà nghe. Tại sao cùng đi kinh hành mà lâu lâu thấy bà đi lùi là sao? Bả trả lời: Tại vì thiền sư dạy rồi, khi mình thất niệm đó thì mình cứ làm lại từ đầu coi như chưa có gì xảy ra! Thì bả hiểu ‘làm lại từ đầu’ đây có nghĩa mình đang đi mà mình quên niệm thì mình phải thụt lùi trở lại để mình niệm! Các vị nghe có chịu nổi không? Bả hiểu như vậy đó. Lẽ ra làm lại từ đầu không có nghĩa là đi thụt lùi. Thí dụ mình đi tới cái bước thứ 118 – 19 – 20 – 21 mà trong bốn bước đó mà tôi quên niệm thì cái bước 122 trở đi bắt đầu tôi niệm trở lại giống như chưa hề thất niệm. Cái đó là làm lại từ đầu, đằng này bả lùi trở lại để bả niệm. Bả còn trích dẫn thiền sư nữa!
Chưa hết, có một chuyện mà tôi kể hoài, bữa nay tôi kể lại nghe. Chuyện có thiệt. Là một bà mẹ người VN mình nè, bả dắt một thằng bé đi vô cái tiệm tạp hóa. Thằng bé đòi mẹ nó mua cho nó ba bốn lon nước nó thích. Bà má kêu nó lấy đi rồi bả trả tiền. Trong lúc bà má trả tiền thì nó đứng ở đây nó khui một lúc 4 lon luôn. Má nó hết hồn, má nó hỏi con uống mấy lon mà con khui hết trơn vậy? Nó trả lời nó nói Mam không thấy ở trên lon họ để open here. Open here có nghĩa là mình mua ở đây mình mở hết ở đây luôn! Các vị trong room có nghe kịp không? Cái chữ open here mà nó hiểu như vậy đó. Nó khổ chỗ này: thằng bé hiểu open here không có sai. Nó không sai mới ghê chứ. Nó vừa sai nó vừa đúng, mà nó vừa đúng nó vừa sai! Chữ ‘here’ nó hiểu theo cái nghĩa là ‘this grocery’ = ngay cái tiệm này nè. Còn chữ ‘here’ người lớn hiểu là ngay cái chỗ này trên cái lon!
Thì ở đây Kinh điển cũng vậy. Đức Phật Ngài dạy rằng khi giữa anh em với nhau mà có một sự mâu thuẫn, có một trục trặc trong tranh luận thì phải ngồi lại thương thảo. Ngồi lại để trao đổi bàn luận xem sự khác biệt đó, sự mâu thuẫn, trục trặc, lấn cấn đó thuộc về từ ngữ hay ý nghĩa. Nếu xét theo giáo lý mà nó không có gì tương phản với Kinh thì ok.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có nhắc lại chuyện này: “Khi giữa các tỳ kheo nổ ra cuộc tranh luận thì các ngươi phải xem coi những điều hai bên tuyên bố, coi quan điểm của hai bên có tương ứng với Kinh, có tương đồng với Luật hay không. Nếu nó không tương ứng với Kinh, không tương đồng với Luật thì điều đó phải xét lại. Còn nếu họ nói cách gì đi nữa mà nó không phản lại tinh thần của Giáo Pháp thì ok.
Tiếp theo Đức Phật ngài còn dạy một điều nữa là : Này các tỳ kheo, những điều ta giảng dạy cho các ngươi rất có thể có người nghĩ rằng Thế Tôn dạy một cái Pháp xa vời, một cái Pháp đâu ở trên mây. Trong đây có nói thế này, đoạn 22:
“Này các tỳ kheo, ta không chỉ thuyết giảng để ngăn chặn lậu hoặc. Không chỉ thuyết giảng để các ngươi đối phó với phiền não mà ta còn thuyết giảng để giúp cho các ngươi có một đời sống an lạc nữa”.
Đoạn 22 này tôi xin chân thành thiết tha đề nghị các vị nào mà xưa giờ cứ cắm đầu cắm cổ ôm bản tiếng Việt thì chỗ này các vị phải ngó kỹ lại: “Này Cunda, ta không thuyết giảng chỉ để ngăn chặn các lậu hoặc trong hiện tại hay trong tương lai mà thôi. Này Cunda ta thuyết pháp vừa để ngăn chặn các lậu hoặc ngay trong hiện tại mà cũng để diệt trừ các lậu hoặc trong tương lai”.
Tôi biết rõ mười mươi trong room này, nhiều người cứ thấy chữ ‘lậu hoặc’ cứ tưởng lậu hoặc là phiền não là chết, nghe!
Chữ ‘lậu hoặc’ có hai nghĩa:
- một là phiền não.
- Hai là những tuế toái phiền phức, những cái bất tiện, những cái khổ thân khổ tâm trong đời sống thì cũng được Đức Phật gọi là những lậu hoặc.
Nếu bà con nào có lòng ngờ chúng tôi thì đề nghị các vị hãy giở lại Trung Bộ Kinh bài số 2 xem có phải như vậy không.
Đức Phật dạy rằng chữ ‘lậu hoặc’ có hai nghĩa.
- Một là ám chỉ cho phiền não tham sân si,
- mà nó còn một nghĩa nữa là chỉ cho những khổ nạn mà vị tỳ kheo gặp phải trên đường tu học.
Thí dụ như nắng gió, mưa sương, côn đồ ác đảng, thú dữ, hầm hố gai góc trên đường đi khất thực… thì tất thảy những phiền phức đó cũng được gọi là lậu hoặc. Cho nên đoạn 22 này cần phải được hiểu như sau:
“Này các tỳ kheo, ta không chỉ thuyết pháp, ta không chỉ dạy dỗ, ta không chỉ hướng dẫn cho các ngươi cái phương thức đối phó phiền não, mà ta còn tạo ra cho các ngươi một điều kiện sống, một điều kiện vật chất để sống thoải mái ngay trong hiện tại, để tránh những khổ nạn không cần thiết”.
Bài Kinh phải đươc diễn dịch như vậy đó. Ở đây Ngài nói rất rõ, ngoài chuyện dạy cho các ngươi 37 Phẩm trợ Đạo, Như Lai còn có quan tâm rất nhiều đến đời sống vật chất của các tỳ kheo. Đó là gì? – Như Lai quan tâm đến 4 nhu cầu vật chất thiết yếu tối thiểu của một người sống hạnh không nhà, không thân thích. Đó là Như Lai quan tâm làm sao các ngươi khi đói có cái ăn, khi lạnh có cái mặc, khi nắng mưa có chỗ trú thân và khi bịnh hoạn có thuốc men chữa trị. Rõ ràng Đức Thế Tôn có quan tâm đến chuyện đó. Lát nữa, dưới đây có đoạn Kinh mà nếu chỉ biết ôm cái bản dịch tiếng Việt thì không tài nào hiểu được chỗ đó. Mà hỏng lẽ giờ tôi đi quảng cáo tôi thì nó kỳ, chớ cái lớp này của mình nếu mà không có, nhiều bà con đọc Kinh Tạng thì chảy máu mắt mà không hiểu nói cái gì. Chẳng hạn cũng bài Kinh này, chỗ đoạn dưới nói thế này:
“Này các tỳ kheo, Utthaka con của Ramaputta từng có một cái như sau thấy mà không thấy. Rồi ông ta mới ví dụ như con dao ta thấy được lưỡi dao, thấy được cán dao mà không thấy được cái bén của nó trừ phi ta sử dụng nó, ta sờ vào chỗ bén của nó. Còn nếu lấy mắt mà nhìn thì ta chỉ thấy được con dao mà không thấy được cái bén của nó. Này các tỳ kheo, Ramaputta dùng thành ngữ ‘thấy mà không thấy’ để chỉ cho con dao. Mà riêng ta, ta muốn dùng chữ đó để chỉ cho Giáo pháp của ta. Giáo pháp của ta có những điều mà người ngoài lấy mắt nhìn vào không thấy, nhưng mà khi có dấn thân tu tập hành trì thì mới cảm nhận được những điều mà ta không sao lấy mắt mà nhìn được”.
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh