2022-03-28, 03:37 PM
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Khởi Thế Nhân Bổn (2-2)
Cho nên mình chỉ cần nhớ một cách đơn giản thôi:. Là trong Kinh Vô Ngã Đức Phật ngài dạy: “Dầu sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn xa gần, thô tế, thắng liệt, quá khứ hiện tại vị lai, trong hay ngoài tất thảy đều là vô ngã vô thường. Cái gì cũng do duyên mà có. Có rồi phải bị mất (vô thường). Mà cái gì vô thường thì cái đó bất toàn, bất toại (khổ). Mà cái gì bất toàn bất toại, lại vô thường nữa thì cái đó không đáng để mình gọi nó là ‘tôi’ là ‘của tôi’. Bây giờ mình có đặt chưn đến bao nhiêu cái vũ trụ, bao nhiêu cái thiên hà đi nữa thì nó cũng chỉ quẩn quanh chừng đó”
Trong Kinh nói mỗi trái lựu ( mỗi một thế giới) có nhiều hột. Mỗi hột là một cõi nhỏ trong đó. Thí dụ trái lựu mình có 4 hành tinh nhân loại, có 6 cõi Dục thiên, 16 cõi Sắc giới, 4 cõi Vô sắc thì ở các trái lựu khác cũng y chang như vậy đó. Dĩ nhiên có những thay đổi cần thiết. Thí dụ như ở trái lựu này đang có nền văn minh chuyên về không gian, thì ở hành tinh ở trái lựu khác thì nhân loại ở đó người ta đang thành tựu những bước đi khoa học về biển. Rồi có những hành tinh có những thành tựu khoa học về phương diện khác nữa. Có vô số chuyên ngành về khoa học được phát triển ở vô lượng vũ trụ. Cho nên dựa theo Kinh thì chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng nền văn minh của chúng ta không phải là nền văn minh cô đơn duy nhứt trong vũ trụ bao la. Có điều là xa quá nên chúng ta không thể tìm đến với nhau mà thôi.
Trong Kinh nói rằng trong vô lượng vũ trụ đó, xa lắm. Có nhiều group mà mỗi group có ngàn tỷ vũ trụ. Mà có nhiều ngàn tỷ như vậy, xa thiệt là xa mới có một Phật ra đời. Chúng ta biết có những vị Đạo sĩ đắc thiên nhãn. Khả năng thiên nhãn của họ có hai nhóm: nhóm một, họ thấy những trái lựu khác ngoài trái lựu này mình đang ở. Các vị đâu có tin rằng mặt trời, mặt trăng rồi sao Venus rồi Mars … tất cả cái đó đều nằm trong một trái lựu thôi. Dễ sợ chưa? Rồi có những vị Đạo sĩ đắc thiền họ nhìn xuyên qua vỏ trái lựu đó. Họ thấy còn vô số những trái lựu khác. Họ mới nói thế giới này là vô biên.
Mà tại sao Đức Phật nói rằng thấy thế giới vô biên là một tà kiến? – Là bởi vì họ nhìn thấy cái vô biên đó bằng góc nhìn ngã chấp: “Tôi thấy, khả năng thấy đó là của tôi, tôi đang sống trong trái lựu của tôi, thiền định thần thông này là thành quả tu học của tôi, và tôi là người sở hữu những thành quả đó.Tôi đang quan sát thế giới. Tôi có những khả năng mà người khác không có” bla bla bla … Nghĩ như vậy được gọi là tà kiến.
Rồi có những Đạo sĩ họ không có khả năng nhìn xuyên qua lớp vỏ trái lựu đó. Trong Kinh nói mỗi một thế giới như vậy được bao bọc bằng một lớp vỏ hợp kim bên ngoài. Còn bên trong lòng trái lựu đó (tôi gọi trái lựu cho quý vị dễ hình dung) có mặt trời mặt trăng. Có những vị Đạo sĩ thiên nhãn họ khả năng không thể nhìn xuyên qua được thì họ nói thế giới này là hữu biên. Nghĩa là thế giới này bị nhốt trong cái lồng, trái cầu tròn. (Chúng tôi đang giảng quý vị nghe vừa Chánh Kinh vừa Chú giải nghe).
Gom gọn lại nội dung bài Kinh, Đức Phật ngài kể từ chỗ hình thành trái đất có những chúng sanh đầu tiên xuất hiện. Sau đó khi đời sống người ta có nhiều nhu cầu, nhiều đam mê thì dần dần con người mất đi linh giác: hào quang mất, khả năng bay nhảy mất, phải đi bằng chân, làm việc bằng tay. Dần dần mới để ý những cái khác nhau như cơ thể mình không giống người kia, rồi gọi là nam là nữ, (giống như chuyện Thánh Kinh Adam và Eva). Buổi đầu thức ăn có sẵn trước mắt. Rồi từ từ nảy sinh vấn đề sở hữu, rồi trộm cắp, ý niệm chủ quyền. Từ khi có sở hữu mới nảy ý niệm chủ quyền => nảy sinh các tệ nạn. Để giải quyết tệ nạn nảy sinh vấn đề pháp luật. (Trang Tử,Lão Tử (Trung Hoa) nói sống trở về với thiên nhiên thì không cần tới pháp luật). Nhưng khi có toan tính (cơ tâm) thì đời sống chuyển qua cơ khí và cơ giới, từ đó hình thành cơ xảo. ‘Cơ khí cơ giới’ đây không hiểu theo nghĩa bây giờ là technology, industry mà phải hiểu theo từ Hán xưa. Cơ khí là biết nghĩ đến các phương tiện làm việc. Từ những tính toán (cơ trí) phương tiện làm việc đó dẫn đến cơ xảo. Nghĩa là con người bắt đầu nghĩ đến đủ thứ chuyện: phòng vệ, cảnh giác, lừa đảo, tấn công người khác bằng đủ trò này nọ, ma mãnh lật lọng.
Đam Mê và Bất Mãn
Đó là nói thế giới ở mức độ vĩ mô. Còn ở mức vi mô, ngay trong bản thân mình, nếu mình sống đơn giản thì mình sẽ không có nhiều rối rắm. Chính vì con người có đam mê nên có bất mãn.
Như vậy, toàn bộ đời sống chúng sinh từ góc độ triết học hay đạo học thì nó là một chuỗi dài, là hành trình theo đuổi cái mình muốn và chạy trốn cái mình ghét, thế là hình thành nên nền văn hóa, văn minh, rồi có pháp luật, có khoa học.
Ban đầu khoa học đơn giản là tìm cách thỏa mãn nhu cầu vật chất như làm sao có thể đi nhanh hơn, chuyển tải hàng hóa, vật dụng nặng, chở nhiều hơn. Từ đó nghĩ ra bánh xe. Chuyện nghĩ ra cái bánh xe là nhân loại đã mất bao nhiêu triệu năm, quý vị biết không? Rồi nghĩ ra thùng xe, trục xe, chiếc xe. Tóm gọn, văn hóa văn minh, chính trị, tâm lý học, triết học, đạo học, tôn giáo v.v…là nảy sinh ra từ nhu cầu vật chất của chúng sinh.
Thì nội dung theo Chánh Kinh bà con thấy rồi, tôi chỉ đúc kết chung lại như vậy thôi. Đức Phật ngài cho biết rằng có vô lượng trái lựu trôi nổi trong vũ trụ. Mội trái lựu có kiểu vô thường thành, trụ, hoại, không. Cái cũ mất đi nhường chỗ cho cái mới. Thế giới loài người hình thành từ một đời sống đơn giản theo năm tháng với sự tác động của phiền não, với sức đẩy của cái gọi là tập khí sanh tử đã nảy sinh nhu cầu trốn khổ tìm vui. Nảy sinh nhu cầu theo đuổi cái mình thích và trốn chạy lìa bỏ cái mình ghét. Chỉ từ hai chuyện này, chạy theo cái thích, trốn bỏ cái ghét mà chúng ta có nguyên một lịch sử nhân loại mấy ngàn năm với bao nhiêu thứ trong đó. Nào là chính trị, văn hóa, khoa học, tôn giáo… Mỗi lần chư Phật ra đời thì chúng ta – những người hữu duyên mới có cơ hội nhìn thấy à thì ra mình có mặt một cách vô ích trong một cái cõi tào lao! Tất cả những thứ mình thích - ghét cũng tào lao. Mình có thỏa mãn được cái thích, trốn được cái ghét thì cuối cùng cũng chỉ là tào lao! Chỉ là sự vô vị tẻ nhạt.
‘Samsara’ là vòng luân hồi. Nghĩa đen là sự trùng phục, tái hiện, lập lại mãi hoài những thứ vô vị tẻ nhạt từ đời này sang kiếp khác.
Người hữu duyên là gì?
– Người hữu duyên là những người ngay trong cái tẻ nhạt triền miên đó họ có lúc ngồi yên lại, họ nhận ra và họ chán nó, sợ nó. Giây phút chán sợ đó được gọi là giây phút họ gieo trồng chủng tử giải thoát.
Khi không có Phật ra đời thì những người chán sợ sanh tử đó lại chia ra nhiều phái nhiều hạng.
Có nghĩa là cũng sống trong dòng chảy miên viễn của dòng luân hồi, nhưng kẻ hữu duyên và người thỉnh thoảng biết dừng lại để biết nhìn quanh tìm cách nhảy ra khỏi dòng chảy đó.
Còn đa phần, thậm chí là tuyệt đại đa số chúng sinh phàm phu là tận hưởng hết mình trong cảnh giới của mình.
Chúng ta quên mất một chuyện đã là LÁ thì sớm muộn gì cũng MỤC. Và đã là lá trên dòng chảy thì mình chỉ là một phiêu vật trên đó mà thôi. Chẳng có gì đáng để đắm đuối đam mê, nắm níu hết.
Nhưng khổ thay chúng ta không thấy được cái đó. Nên lâu lâu có một Đức Phật ra đời Ngài mới nói cho mình biết, thì mình tu hành để lìa bỏ dòng chảy đó. Nếu không có Phật ra đời hoặc có Phật ra đời mà mình không đủ duyên. Vì cái chán của mình chưa đủ nên chưa đủ công đức (ba la mật). Cái chán chưa đủ thì hành trang giải thoát cũng không đủ.
Phật là gì?
– Phật tiếng Pali là ‘sattasaro’ là tinh hoa của chúng sinh. Phật cũng là Buddha.
Sattasaro là: Satta: chúng sinh, sara: cốt lõi, tinh hoa => ‘Sattasara’ là tinh hoa của chúng sinh. Ngài Minh Châu dịch là ‘hữu tình tinh hoa’. Tức là trái đất này có đất đá cát, bùn sình nhưng cũng có kim cương. Chư Phật chính là kim cương trong cái đám chúng sinh.
Có nghĩa là trong vô lượng chúng sinh trôi nổi tự nhiên có người thấy chán: ‘Ủa mình ăn vậy hoài rồi mình chết hả? Mình đi làm rồi về ăn, ăn xong rồi đi làm. Đi làm cuối cùng rồi già thì vô nhà già nằm đó chờ ngáp ngáp rồi đi luôn?’ Họ nghĩ họ nản. Trong đám nản đó lại chia nhiều nhóm: có người rượu chè be bét tìm quên thế sự, tìm quên thực tại không tìm ra lời đáp. Hạng thứ hai, họ chán đời quá tìm quên bằng cách đi hưởng thụ.Hưởng thụ cũng là cách để quên. Rồi có kẻ tìm quên ở tôn giáo, ở những hướng dẫn tâm linh mà cũng tào lao thuộc giới cấm thủ: tin ông này bà kia, thờ cúng khấn nguyện tùm lum hết.
Trong số hàng tỷ người mới có một người thật sự nhàm chán sanh tử.
Tôi xin bà con bình tĩnh lại nghe chỗ này. Thật ra những người miệng nói tin Phật chớ chưa chắc biết sợ sanh tử.
Chẳng qua họ nói đời là khổ vì họ thấy bịnh họ ngán. Họ thấy nghèo, thấy nợ nần, thấy thù oán, thấy pháp luật, họ thấy nóng lạnh, gai góc hầm hố… họ ngán thôi. Chớ nếu mà bây giờ họ sống được 8.000 tỷ năm, muốn gì cũng được thì quý vị tưởng tượng đi sẽ có bao nhiêu người chán sợ hiện hữu?
Cho nên phải xét lại. Cho nên nói hàng tỷ người mới có một người thực sự chán sợ sanh tử là vậy.
Khổ là sao?
– Khổ có ba:
Chính vì thấy chỗ này các bậc thượng căn mới chán. Trong khi mình, trong room này nè, even me, mình chỉ sợ cái gì làm thân tâm mình khó chịu thôi. Chớ lúc đang vui, đang yêu đời làm sao mình thấy khổ được ? Làm sao mình thấy sự có mặt này là tẻ nhạt, là vô vị, vô nghĩa, vô ích cho được?
Cho nên tôi nói trên đời này có bao nhiêu người tin Phật?
– Rất là ít.
Mà trong số những người tin Phật đó có bao nhiêu người hiểu được chữ ‘khổ’ ĐÚNG như Đức Phật đề nghị?
Trong room mình nãy giờ có nghe chỗ này không ta? – Nghe để hiểu chữ KHỔ trong đạo Phật, để hiểu tới nơi nó khó như vậy, nghe!
Cho nên quý vị nghe sơ quý vị ngạc nhiên tại sao giảng Kinh ‘Khởi thế nhân bổn’ mà nãy giờ tôi nói cái gì không mắc mớ gì hết? – Mắc mớ chứ sao không mắc mớ. Mình nói sự hình thành đời sống và vũ trụ. Và mình nói luôn cả đường thoát.
Có một chuyện vô cùng quan trọng.
Để đúc kết bài Kinh này Đức Phật có nhắc rằng để kết thúc cái khổ, chúng ta chỉ có một con đường duy nhứt ĐÓ LÀ TU TẬP.
Tu tập cái gì? Tu 37 phẩm trợ đạo (tức 37 bồ đề phần)
– Chánh Kinh đoạn 30 có ghi: “Sau khi tu tập bảy pháp Giác Chi”! Động trời chưa?
Các vị nghĩ như thế nào khi Đức Phật ngài dạy rằng giá trị con người nằm ở giá trị Chánh Pháp mà họ hàm dưỡng được, chớ không nằm ở giai cấp, ở xuất thân.
Thế giới này được hình thành do bởi phiền não của chúng sanh, do nhu cầu của chúng sanh, nên muốn hết khổ phải tu tập Thất Giác Chi . Các vị thấy có ác hay không?
Tại sao Thất Giác Chi mà tôi nói là ‘ác’?
Cái chữ Pali ‘Bodhipakkhiya’ (Bồ đề phần).
Thất Giác Chi là gì?
– Là Niệm giác chi, Trạch giác chi, Hỷ giác chi, Tĩnh giác chi, Cần giác chi, Định giác chi, Xả giác chi .
Mà ở đây nói diệt trừ các phiền não thì phải tu bảy pháp Giác chi. Các vị nghe có ác không?
– Trong khi bản Pali của người ta cái Thất Giác Chi là ‘Bojhanga’.
Còn ở đây: Bodhipakkhiya’ là ‘Bồ đề phần’. Ở đây Đức Phật ngài nói 37 Bồ đề phần – 7 nhóm pháp Bồ đề phần.
Xin hỏi trong room này có ai còn giữ bản tiếng Việt in trước 1975 hay không? Bản in Trường bộ Kinh, màu bordeux đỏ đỏ? Các vị giở lại bản in, ở đây tôi không có, thì không biết trong đó chỗ này ghi chữ gì? Chứ trong Pali rõ ràng người ta kêu ‘Bodhipakkhiya’: bảy nhóm pháp, chớ không phải 7 pháp. Mà trong bản tiếng Việt này để là Bảy pháp Giác Chi coi có chết không! Những gì tôi nói các vị có nghe kịp không?
Bảy Giác Chi là: Niệm – Trạch – Cần – Hỷ – Tĩnh – Định – Xả giác chi.
Còn 7 nhóm pháp Bồ đề phần là: Tứ niệm xứ – Tứ chánh cần – Tứ như ý túc – Ngũ căn – Ngũ lực – Thất Giác Chi – Bát chánh Đạo.
Thất Giác Chi chỉ là một nhóm trong 37 phẩm Bồ đề (37 chia có 7 nhóm). Vậy mà trong đây để là tu tập Thất giác chi, có ‘ác’ không!!!
Bây giờ tôi cho là đã giảng xong bài Kinh Khởi Thế Nhân Bổn với những điều cần nói. Hẹn các vị lại ngày mai. Nếu được ngày mai mình nói tiếp, còn không mai mình qua bài Kinh khác, bài Tự Hoan Hỷ, nội dung cũng có điểm tương tự bài Kinh này.
Tôi cho rằng bài Kinh giảng hôm nay là cái kiểu giảng có lẽ kỳ cục nhứt , là chúng tôi giảng không bám chặt vào Chánh Kinh. Ok, chúc các vị một ngày vui, một đêm an lành nhiều mộng đẹp./.
Mục Lục các Bài Giảng
(hết)
Cho nên mình chỉ cần nhớ một cách đơn giản thôi:. Là trong Kinh Vô Ngã Đức Phật ngài dạy: “Dầu sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn xa gần, thô tế, thắng liệt, quá khứ hiện tại vị lai, trong hay ngoài tất thảy đều là vô ngã vô thường. Cái gì cũng do duyên mà có. Có rồi phải bị mất (vô thường). Mà cái gì vô thường thì cái đó bất toàn, bất toại (khổ). Mà cái gì bất toàn bất toại, lại vô thường nữa thì cái đó không đáng để mình gọi nó là ‘tôi’ là ‘của tôi’. Bây giờ mình có đặt chưn đến bao nhiêu cái vũ trụ, bao nhiêu cái thiên hà đi nữa thì nó cũng chỉ quẩn quanh chừng đó”
Trong Kinh nói mỗi trái lựu ( mỗi một thế giới) có nhiều hột. Mỗi hột là một cõi nhỏ trong đó. Thí dụ trái lựu mình có 4 hành tinh nhân loại, có 6 cõi Dục thiên, 16 cõi Sắc giới, 4 cõi Vô sắc thì ở các trái lựu khác cũng y chang như vậy đó. Dĩ nhiên có những thay đổi cần thiết. Thí dụ như ở trái lựu này đang có nền văn minh chuyên về không gian, thì ở hành tinh ở trái lựu khác thì nhân loại ở đó người ta đang thành tựu những bước đi khoa học về biển. Rồi có những hành tinh có những thành tựu khoa học về phương diện khác nữa. Có vô số chuyên ngành về khoa học được phát triển ở vô lượng vũ trụ. Cho nên dựa theo Kinh thì chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng nền văn minh của chúng ta không phải là nền văn minh cô đơn duy nhứt trong vũ trụ bao la. Có điều là xa quá nên chúng ta không thể tìm đến với nhau mà thôi.
Trong Kinh nói rằng trong vô lượng vũ trụ đó, xa lắm. Có nhiều group mà mỗi group có ngàn tỷ vũ trụ. Mà có nhiều ngàn tỷ như vậy, xa thiệt là xa mới có một Phật ra đời. Chúng ta biết có những vị Đạo sĩ đắc thiên nhãn. Khả năng thiên nhãn của họ có hai nhóm: nhóm một, họ thấy những trái lựu khác ngoài trái lựu này mình đang ở. Các vị đâu có tin rằng mặt trời, mặt trăng rồi sao Venus rồi Mars … tất cả cái đó đều nằm trong một trái lựu thôi. Dễ sợ chưa? Rồi có những vị Đạo sĩ đắc thiền họ nhìn xuyên qua vỏ trái lựu đó. Họ thấy còn vô số những trái lựu khác. Họ mới nói thế giới này là vô biên.
Mà tại sao Đức Phật nói rằng thấy thế giới vô biên là một tà kiến? – Là bởi vì họ nhìn thấy cái vô biên đó bằng góc nhìn ngã chấp: “Tôi thấy, khả năng thấy đó là của tôi, tôi đang sống trong trái lựu của tôi, thiền định thần thông này là thành quả tu học của tôi, và tôi là người sở hữu những thành quả đó.Tôi đang quan sát thế giới. Tôi có những khả năng mà người khác không có” bla bla bla … Nghĩ như vậy được gọi là tà kiến.
Rồi có những Đạo sĩ họ không có khả năng nhìn xuyên qua lớp vỏ trái lựu đó. Trong Kinh nói mỗi một thế giới như vậy được bao bọc bằng một lớp vỏ hợp kim bên ngoài. Còn bên trong lòng trái lựu đó (tôi gọi trái lựu cho quý vị dễ hình dung) có mặt trời mặt trăng. Có những vị Đạo sĩ thiên nhãn họ khả năng không thể nhìn xuyên qua được thì họ nói thế giới này là hữu biên. Nghĩa là thế giới này bị nhốt trong cái lồng, trái cầu tròn. (Chúng tôi đang giảng quý vị nghe vừa Chánh Kinh vừa Chú giải nghe).
Gom gọn lại nội dung bài Kinh, Đức Phật ngài kể từ chỗ hình thành trái đất có những chúng sanh đầu tiên xuất hiện. Sau đó khi đời sống người ta có nhiều nhu cầu, nhiều đam mê thì dần dần con người mất đi linh giác: hào quang mất, khả năng bay nhảy mất, phải đi bằng chân, làm việc bằng tay. Dần dần mới để ý những cái khác nhau như cơ thể mình không giống người kia, rồi gọi là nam là nữ, (giống như chuyện Thánh Kinh Adam và Eva). Buổi đầu thức ăn có sẵn trước mắt. Rồi từ từ nảy sinh vấn đề sở hữu, rồi trộm cắp, ý niệm chủ quyền. Từ khi có sở hữu mới nảy ý niệm chủ quyền => nảy sinh các tệ nạn. Để giải quyết tệ nạn nảy sinh vấn đề pháp luật. (Trang Tử,Lão Tử (Trung Hoa) nói sống trở về với thiên nhiên thì không cần tới pháp luật). Nhưng khi có toan tính (cơ tâm) thì đời sống chuyển qua cơ khí và cơ giới, từ đó hình thành cơ xảo. ‘Cơ khí cơ giới’ đây không hiểu theo nghĩa bây giờ là technology, industry mà phải hiểu theo từ Hán xưa. Cơ khí là biết nghĩ đến các phương tiện làm việc. Từ những tính toán (cơ trí) phương tiện làm việc đó dẫn đến cơ xảo. Nghĩa là con người bắt đầu nghĩ đến đủ thứ chuyện: phòng vệ, cảnh giác, lừa đảo, tấn công người khác bằng đủ trò này nọ, ma mãnh lật lọng.
Đam Mê và Bất Mãn
Đó là nói thế giới ở mức độ vĩ mô. Còn ở mức vi mô, ngay trong bản thân mình, nếu mình sống đơn giản thì mình sẽ không có nhiều rối rắm. Chính vì con người có đam mê nên có bất mãn.
- Khi có đam mê thì theo đuổi những cái mình thích.
- Có bất mãn thì tìm đủ cách để mình chạy trốn cái mình ghét.
Như vậy, toàn bộ đời sống chúng sinh từ góc độ triết học hay đạo học thì nó là một chuỗi dài, là hành trình theo đuổi cái mình muốn và chạy trốn cái mình ghét, thế là hình thành nên nền văn hóa, văn minh, rồi có pháp luật, có khoa học.
Ban đầu khoa học đơn giản là tìm cách thỏa mãn nhu cầu vật chất như làm sao có thể đi nhanh hơn, chuyển tải hàng hóa, vật dụng nặng, chở nhiều hơn. Từ đó nghĩ ra bánh xe. Chuyện nghĩ ra cái bánh xe là nhân loại đã mất bao nhiêu triệu năm, quý vị biết không? Rồi nghĩ ra thùng xe, trục xe, chiếc xe. Tóm gọn, văn hóa văn minh, chính trị, tâm lý học, triết học, đạo học, tôn giáo v.v…là nảy sinh ra từ nhu cầu vật chất của chúng sinh.
- Khổ thay, nhu cầu vật chất thì biết bao giờ đủ.
- Còn nhu cầu tâm linh thì khổ thay, chủng tử tà kiến ở phàm phu quá mạnh đi.
Thì nội dung theo Chánh Kinh bà con thấy rồi, tôi chỉ đúc kết chung lại như vậy thôi. Đức Phật ngài cho biết rằng có vô lượng trái lựu trôi nổi trong vũ trụ. Mội trái lựu có kiểu vô thường thành, trụ, hoại, không. Cái cũ mất đi nhường chỗ cho cái mới. Thế giới loài người hình thành từ một đời sống đơn giản theo năm tháng với sự tác động của phiền não, với sức đẩy của cái gọi là tập khí sanh tử đã nảy sinh nhu cầu trốn khổ tìm vui. Nảy sinh nhu cầu theo đuổi cái mình thích và trốn chạy lìa bỏ cái mình ghét. Chỉ từ hai chuyện này, chạy theo cái thích, trốn bỏ cái ghét mà chúng ta có nguyên một lịch sử nhân loại mấy ngàn năm với bao nhiêu thứ trong đó. Nào là chính trị, văn hóa, khoa học, tôn giáo… Mỗi lần chư Phật ra đời thì chúng ta – những người hữu duyên mới có cơ hội nhìn thấy à thì ra mình có mặt một cách vô ích trong một cái cõi tào lao! Tất cả những thứ mình thích - ghét cũng tào lao. Mình có thỏa mãn được cái thích, trốn được cái ghét thì cuối cùng cũng chỉ là tào lao! Chỉ là sự vô vị tẻ nhạt.
‘Samsara’ là vòng luân hồi. Nghĩa đen là sự trùng phục, tái hiện, lập lại mãi hoài những thứ vô vị tẻ nhạt từ đời này sang kiếp khác.
Người hữu duyên là gì?
– Người hữu duyên là những người ngay trong cái tẻ nhạt triền miên đó họ có lúc ngồi yên lại, họ nhận ra và họ chán nó, sợ nó. Giây phút chán sợ đó được gọi là giây phút họ gieo trồng chủng tử giải thoát.
Khi không có Phật ra đời thì những người chán sợ sanh tử đó lại chia ra nhiều phái nhiều hạng.
- Thường kiến: Có người theo tà kiến đi tôn thờ một đấng chí tôn vô thượng nào đó, mong sanh về một cõi nào đó, tin rằng mình có một cái tôi thế nào đó, bla bla bla …
- Đoạn kiến: Còn có người cũng chán sợ cuộc đời nhưng do tác động của đoạn kiến: khuynh hướng tâm lý cho rằng cái gì tôi không chứng minh được thì cái đó không có. Cho nên họ nghĩ thích thì cứ thích nhưng chết rồi là hết. Là vì họ không thấy được nhân quả báo ứng luân hồi không thấy được kiếp trước kiếp sau. Không thấy hàng khuất mày khuất mặt. Không tin trên đời có những người do công phu tu tập hàm dưỡng mà trở thành thánh nhân, chấm dứt phiền não, chấm dứt sanh tử. Họ chỉ tin những gì họ có thể nhìn thấy, sờ chạm chứng minh được mà thôi.
Có nghĩa là cũng sống trong dòng chảy miên viễn của dòng luân hồi, nhưng kẻ hữu duyên và người thỉnh thoảng biết dừng lại để biết nhìn quanh tìm cách nhảy ra khỏi dòng chảy đó.
Còn đa phần, thậm chí là tuyệt đại đa số chúng sinh phàm phu là tận hưởng hết mình trong cảnh giới của mình.
- Con giòi thấy đống phân là số một.
- Con chó thấy khúc xương là số một.
- Con mèo thấy con chuột,
- con rắn thấy ếch nhái là số một.
- Trong mắt người nam, người nữ mình thương là số một.
- Trong mắt người nữ, người nam mình thương là số một.
- Kẻ ham tiền thấy tiền,
- tham ăn thấy thức ăn,
- kẻ thích quyền lực thấy quyền lực là số một, bla bla bla…
Chúng ta quên mất một chuyện đã là LÁ thì sớm muộn gì cũng MỤC. Và đã là lá trên dòng chảy thì mình chỉ là một phiêu vật trên đó mà thôi. Chẳng có gì đáng để đắm đuối đam mê, nắm níu hết.
Nhưng khổ thay chúng ta không thấy được cái đó. Nên lâu lâu có một Đức Phật ra đời Ngài mới nói cho mình biết, thì mình tu hành để lìa bỏ dòng chảy đó. Nếu không có Phật ra đời hoặc có Phật ra đời mà mình không đủ duyên. Vì cái chán của mình chưa đủ nên chưa đủ công đức (ba la mật). Cái chán chưa đủ thì hành trang giải thoát cũng không đủ.
Phật là gì?
– Phật tiếng Pali là ‘sattasaro’ là tinh hoa của chúng sinh. Phật cũng là Buddha.
Sattasaro là: Satta: chúng sinh, sara: cốt lõi, tinh hoa => ‘Sattasara’ là tinh hoa của chúng sinh. Ngài Minh Châu dịch là ‘hữu tình tinh hoa’. Tức là trái đất này có đất đá cát, bùn sình nhưng cũng có kim cương. Chư Phật chính là kim cương trong cái đám chúng sinh.
Có nghĩa là trong vô lượng chúng sinh trôi nổi tự nhiên có người thấy chán: ‘Ủa mình ăn vậy hoài rồi mình chết hả? Mình đi làm rồi về ăn, ăn xong rồi đi làm. Đi làm cuối cùng rồi già thì vô nhà già nằm đó chờ ngáp ngáp rồi đi luôn?’ Họ nghĩ họ nản. Trong đám nản đó lại chia nhiều nhóm: có người rượu chè be bét tìm quên thế sự, tìm quên thực tại không tìm ra lời đáp. Hạng thứ hai, họ chán đời quá tìm quên bằng cách đi hưởng thụ.Hưởng thụ cũng là cách để quên. Rồi có kẻ tìm quên ở tôn giáo, ở những hướng dẫn tâm linh mà cũng tào lao thuộc giới cấm thủ: tin ông này bà kia, thờ cúng khấn nguyện tùm lum hết.
Trong số hàng tỷ người mới có một người thật sự nhàm chán sanh tử.
Tôi xin bà con bình tĩnh lại nghe chỗ này. Thật ra những người miệng nói tin Phật chớ chưa chắc biết sợ sanh tử.
Chẳng qua họ nói đời là khổ vì họ thấy bịnh họ ngán. Họ thấy nghèo, thấy nợ nần, thấy thù oán, thấy pháp luật, họ thấy nóng lạnh, gai góc hầm hố… họ ngán thôi. Chớ nếu mà bây giờ họ sống được 8.000 tỷ năm, muốn gì cũng được thì quý vị tưởng tượng đi sẽ có bao nhiêu người chán sợ hiện hữu?
Cho nên phải xét lại. Cho nên nói hàng tỷ người mới có một người thực sự chán sợ sanh tử là vậy.
Khổ là sao?
– Khổ có ba:
- sự có mặt của cái làm mình khó chịu là khổ.
- Sự vắng mặt của cái làm mình dễ chịu cũng là khổ (hồi nãy nó mát giờ hết mát, đó là khổ).
- Thứ ba, mọi sự có mặt trên đời bằng cách lệ thuộc vào vô số điều kiện nhân duyên. Chính sự lệ thuộc đó là một cái khổ. Cái khổ này không phải là cái feeling nữa mà là cái tình trạng. Không có bao nhiêu Phật tử chịu hiểu cái này. Thật ra cái khổ về cảm giác (khó chịu của thân tâm) chỉ là một trong ba cái khổ thôi.
Chính vì thấy chỗ này các bậc thượng căn mới chán. Trong khi mình, trong room này nè, even me, mình chỉ sợ cái gì làm thân tâm mình khó chịu thôi. Chớ lúc đang vui, đang yêu đời làm sao mình thấy khổ được ? Làm sao mình thấy sự có mặt này là tẻ nhạt, là vô vị, vô nghĩa, vô ích cho được?
Cho nên tôi nói trên đời này có bao nhiêu người tin Phật?
– Rất là ít.
Mà trong số những người tin Phật đó có bao nhiêu người hiểu được chữ ‘khổ’ ĐÚNG như Đức Phật đề nghị?
Trong room mình nãy giờ có nghe chỗ này không ta? – Nghe để hiểu chữ KHỔ trong đạo Phật, để hiểu tới nơi nó khó như vậy, nghe!
Cho nên quý vị nghe sơ quý vị ngạc nhiên tại sao giảng Kinh ‘Khởi thế nhân bổn’ mà nãy giờ tôi nói cái gì không mắc mớ gì hết? – Mắc mớ chứ sao không mắc mớ. Mình nói sự hình thành đời sống và vũ trụ. Và mình nói luôn cả đường thoát.
--ooOoo--
Có một chuyện vô cùng quan trọng.
Để đúc kết bài Kinh này Đức Phật có nhắc rằng để kết thúc cái khổ, chúng ta chỉ có một con đường duy nhứt ĐÓ LÀ TU TẬP.
Tu tập cái gì? Tu 37 phẩm trợ đạo (tức 37 bồ đề phần)
– Chánh Kinh đoạn 30 có ghi: “Sau khi tu tập bảy pháp Giác Chi”! Động trời chưa?
Các vị nghĩ như thế nào khi Đức Phật ngài dạy rằng giá trị con người nằm ở giá trị Chánh Pháp mà họ hàm dưỡng được, chớ không nằm ở giai cấp, ở xuất thân.
Thế giới này được hình thành do bởi phiền não của chúng sanh, do nhu cầu của chúng sanh, nên muốn hết khổ phải tu tập Thất Giác Chi . Các vị thấy có ác hay không?
Tại sao Thất Giác Chi mà tôi nói là ‘ác’?
Cái chữ Pali ‘Bodhipakkhiya’ (Bồ đề phần).
Thất Giác Chi là gì?
– Là Niệm giác chi, Trạch giác chi, Hỷ giác chi, Tĩnh giác chi, Cần giác chi, Định giác chi, Xả giác chi .
Mà ở đây nói diệt trừ các phiền não thì phải tu bảy pháp Giác chi. Các vị nghe có ác không?
– Trong khi bản Pali của người ta cái Thất Giác Chi là ‘Bojhanga’.
Còn ở đây: Bodhipakkhiya’ là ‘Bồ đề phần’. Ở đây Đức Phật ngài nói 37 Bồ đề phần – 7 nhóm pháp Bồ đề phần.
Xin hỏi trong room này có ai còn giữ bản tiếng Việt in trước 1975 hay không? Bản in Trường bộ Kinh, màu bordeux đỏ đỏ? Các vị giở lại bản in, ở đây tôi không có, thì không biết trong đó chỗ này ghi chữ gì? Chứ trong Pali rõ ràng người ta kêu ‘Bodhipakkhiya’: bảy nhóm pháp, chớ không phải 7 pháp. Mà trong bản tiếng Việt này để là Bảy pháp Giác Chi coi có chết không! Những gì tôi nói các vị có nghe kịp không?
Bảy Giác Chi là: Niệm – Trạch – Cần – Hỷ – Tĩnh – Định – Xả giác chi.
Còn 7 nhóm pháp Bồ đề phần là: Tứ niệm xứ – Tứ chánh cần – Tứ như ý túc – Ngũ căn – Ngũ lực – Thất Giác Chi – Bát chánh Đạo.
Thất Giác Chi chỉ là một nhóm trong 37 phẩm Bồ đề (37 chia có 7 nhóm). Vậy mà trong đây để là tu tập Thất giác chi, có ‘ác’ không!!!
Bây giờ tôi cho là đã giảng xong bài Kinh Khởi Thế Nhân Bổn với những điều cần nói. Hẹn các vị lại ngày mai. Nếu được ngày mai mình nói tiếp, còn không mai mình qua bài Kinh khác, bài Tự Hoan Hỷ, nội dung cũng có điểm tương tự bài Kinh này.
Tôi cho rằng bài Kinh giảng hôm nay là cái kiểu giảng có lẽ kỳ cục nhứt , là chúng tôi giảng không bám chặt vào Chánh Kinh. Ok, chúc các vị một ngày vui, một đêm an lành nhiều mộng đẹp./.
Mục Lục các Bài Giảng
(hết)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)