2022-03-20, 06:02 PM
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Đại Điển Tôn và Kinh Đại Hội (2-4)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=bhhreUUtIa0&abt=Đại+Điển+Tôn+-+Đại+Hội
Đó là 8 Pháp mà ngài Minh Châu dịch là Tám Pháp như thật:
1/ Pháp như thật đầu tiên không ai chối cãi, phủ nhận được, là sự có mặt của Đức Thế Tôn trong thế gian này hoàn toàn là vì lòng đại bi.
Chú giải có ghi rõ, ở đây chúng tôi nói sơ thôi, là Thế Tôn từ thời sơ phát Bồ đề tâm thì trong các tấm thân sanh tử của Ngài, dầu là voi là rồng, là con người thì trong mọi hình thức tái sinh Ngài thường xuyên hy sinh thân mạng của mình để hoàn thành Đạo nghiệp Phật quả.
Để chi?
– Để giúp ích cho vô lượng chúng sinh.
Chớ chỉ riêng Ngài thì
Tại sao chúng tôi phải nói rõ cái này?
– Bởi chúng tôi muốn nói rằng vì lòng đại bi, không nghĩ tới mình mà nghĩ tới người khác cho nên các Ngài mới tiếp tục đi thêm một quãng đường dài thăm thẳm, để cuối cùng thành Phật, độ cho nhiều người khác. Chớ còn riêng phần Ngài muốn dứt sanh tử thì đã dứt rồi.
2/ Pháp như thật thứ hai Thế Tôn thuyết giảng luôn luôn có nội dung hướng thượng chớ không hướng hạ. Đưa người ta đi lên và đi ra sanh tử, chớ không đưa người ta đi xuống hoặc đi vô.
‘Akalico’ có nghĩa ở đời này nhân và quả có thể cần đến một ngày hai ngày, một đời hai đời, nhưng khoảng cách nhân quả giữa Đạo với Thánh quả thì chỉ một sát na trước và một sát na sau.
'Akalicó có 2 nghĩa:
'Sanditthikó nghĩa là tự mình thấy: tức là không có cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, thầy trò, bè, bạn, thân nhân, láng giềng thân quen cỡ nào cũng không có chuyện người này đắc dùm người kia, mà phải tự mình thân chứng thể nghiệm.
Đạo này phải là đạo của người có trí, đến để mà thấy chớ không phải đến để mà tin. Tinh thần Phật Pháp là ‘Phúc thay cho kẻ nào tìm hiểu rồi mới tin và tin rồi vẫn tiếp tục tìm hiểu’, chớ không phải ‘Phúc thay cho kẻ nào chưa thấy đã tin’.
3/ Đặc điểm thứ ba Pháp như thật của Thế Tôn là Thế Tôn đã hướng dẫn con đường rõ ràng. Toàn bộ Phật Pháp tám muôn bốn ngàn pháp môn được giảng trong 45 năm hoằng hóa độ sinh .
Ngài nói đến cả tỷ vấn đề nhưng nội dung gom lại chỉ có hai:
- Người có nghe Pháp sẽ bỏ dục bỏ ác. Chuyển hóa từ ác qua thiện.
- Nhờ nghe Pháp, người ta sẽ chuyển hóa từ thiện thô sang thiện tế (Nâng cấp cái thiện).
- Nhờ nghe Pháp mà thấy rõ rằng thiện hơn ác nhưng cái thiện thấp thì thua cái thiện cao, nhưng rốt ráo không còn thiện ác mới là cứu cánh cao nhứt (Bỏ hết thiện ác).
4/ Đức Thế Tôn dạy cho đệ tử cứu cánh con đường luôn nhất quán nhau:
Trong Kinh điển Pali nói rõ:
Ăn khớp như thế nào?
– Các vị nghe lại:
Diệt Đế là gì? – Diệt Đế là sự vắng mặt của Tập Đế.
Đạo Đế là gì? – Đạo Đế là con đường đi ngược lại tinh thần của Tập Đế.
Tôi nhắc lại .
– Là anh không tiếp tục thích trong 3 khổ nữa.
Niết bàn là gì?
– Niết bàn là sự vắng mặt của tham ái.
Tứ niệm xứ là gì?
– Tứ niệm xứ là sự kịp thời ghi nhận phiền não đang xảy ra. Nó phải ăn khớp từ con đường hành trì cho đến cứu cánh như vậy.
5/ “Thế Tôn đã đào tạo một chúng thiện hữu, một chúng hữu học đi trên nẻo Đạo và các lậu tận đã hoàn tất. Ngài và các đệ tử là một”.
Nghĩa là có rất nhiều Đạo sư . Nhiều giáo chủ nhìn thì tốt, nhưng giữa Đạo sư và các đệ tử có một khoảng cách rất lớn: phàm phu không bao giờ chạm vào nhau.
Đây cũng vậy: Chỉ có thánh nhân mới hòa tan vào nhau, còn phàm phu thì không.
Vì phàm phu
Thế Tôn là bậc đã lìa khỏi phiền não.
Nghĩa là
Chúng ta có đoàn kết, có hòa hợp, có Giới hòa đồng tu, có Kiến hòa đồng giải đến mức nào đi nữa thì các vị phải đồng ý với tôi: ngày nào chưa bỏ thân kiến thì vẫn còn có ‘cái tôi’ và ‘của tôi’.
Mà hễ còn có cái tôi và của tôi, khi mình đã xác định cái tôi là mình đã kín đáo xác nhận thằng Tý nó là thằng Tý, mà thằng Tèo nó là thằng Tèo.
Nhưng ở đây thì giữa Ngài và các đệ tử là những giọt nước biển trong một đại dương. Trong tiếng Pali là ekaramata, nghĩa là ‘chung vui’ (giang sơn thu về một mối, thiên hạ nhất thống).
6/ Thế Tôn được kính lễ cúng dường nhưng Ngài luôn luôn nhận những thứ đó với tâm buông bỏ.
Trong Chú giải nói dài lắm, nói những chuyện hơi phong thần nhưng ở đây tôi kể vắn tắt. Là chư thiên, Càn thát bà, Long vương, Kim sí điểu, Dạ xoa, nhân loại, thiên long bát bộ, tám chúng, sa môn, Bà la môn, chư thiên, Ma vương, Phạm thiên … tất cả những người có chánh kiến (số người không thích Thế Tôn thì không nói), chỉ nói những người kính mến Thế Tôn thì con số đó không thể tính đếm được. Nhưng Thế Tôn trước sau như một .
Chẳng hạn tới đây tôi giảng Kinh Đại Hội các vị sẽ thấy khiếp. Trong đại hội đó thiên chúng đổ về không thể đếm bằng số được. Chỉ đếm bằng các hội chúng thôi: hội chúng Càn thát bà, hội chúng Long vương…Riêng trong đó hội chúng nào mà gọi là tam nhân (tái sinh bằng tâm có trí) thì có số người chứng La Hán là một tỷ!
Trong khi đó mình thấy thời gian Ngài giảng A Tỳ Đàm trên cõi trời là 800 triệu (non một tỷ), trong đó có đủ các tầng thánh. Có vị đắc Sơ, nhị, tam, tứ quả lung tung.
Riêng đêm này trong bài Kinh Đại Hội (Ngài giảng 6 lục đại chân Kinh). Tôi xin lạc đề chỗ này: Chúng tôi rất muốn in lại 6 bài Kinh đó để chiêm nghiệm, để cho Phật tử đọc tụng mỗi lần họ đến đạo tràng Viet Theravada bên Đức (mà có điều cái đám đó mặt họ khờ quá không biết đọc có hiểu hay không.).
Bài Kinh Đại Hội đó chỉ diễn ra đến nửa khuya thôi mà số người chứng Quả là một tỷ (kotisatasahassa arahattappatta):
- koti: 10 triệu (7 số zero)
- sata: 100 (2 zero)
- sahassa 1.000 (3 zero) -> tổng cộng kotisatasahassa là 1 tỷ (12 số zero).
Một tỷ vị chứng La hán! Các vị tưởng tượng chỉ riêng quả vị La hán một tỷ người thì cái hội chúng đó đông cỡ nào?
Một lát nữa tôi giảng Kinh Đại Hội các vị mới thấy hết hồn. Chư thiên sắc tế đó nghe, mà đông đến mức có những vị họ đứng nghe Pháp mà phải đứng bên đảo Tích Lan. Bởi một phần là không gian chật chội, một phần những vị mà oai lực họ kém họ gặp những vị đức độ nhiều họ thấy nóng nảy khó chịu. Họ không ngồi gần được. Họ phải lùi, lùi riết mà Đức Phật ở trên núi Hymalaya ngài giảng mà coi như số chư thiên về họ tránh, họ lấn lấn riết mà có một cô tiên nữ phải đứng bên đảo Tích Lan cổ nghe mới ghê . Đông vậy đó!
Thế Tôn trước sau như một, nét mặt không bao giờ thay đổi. Ngài ở một mình cũng nét mặt đó. Có một bà lão ăn mày quỳ đảnh lễ Ngài cũng nét mặt đó. Một bà hoàng hậu, một ông tướng quân, một đại gia, một hoàng đế, cả một triều đình quỳ lạy dưới chân Ngài cũng nét mặt đó. Tám ngàn vị tỳ kheo quỳ lạy dưới chân Ngài cũng nét mặt đó. Hàng triệu Phạm thiên, chư thiên lạy Ngài cũng nét mặt đó. Cả một hội chúng hàng tỷ thiên chúng về lễ Phật thì gương mặt Ngài cũng như vậy đó, không hề thay đổi. Ngài luôn luôn nhận sự kính lễ và cúng dường của chư thiên và nhân loại bằng một trạng thái tâm buông bỏ tuyệt đối.
Bởi vậy trong đêm sắp thành Đạo, Kinh nói Ngài nằm thấy 5 điềm đại mộng, trong room còn nhớ không?
Ngài thấy Ngài đi kinh hành trên một ngọn núi toàn là phân người mà coi như bàn chân không có dính. Sau này khi thành Phật rồi Ngài mới kể đó là điềm báo Ngài nhận được lễ bái cúng dường của vô số chúng sinh trong các cõi, trong vô lượng vũ trụ, vô lượng thế giới nhưng tâm Ngài không bị dao động.
7/ Nói và làm đi đôi:
Thế Tôn nói sao thì làm vậy, làm sao thì nói vậy, có nghĩa là các vị La Hán không hề giả dối, nhưng có những điều vị Thinh Văn chỉ có thể nói dùm vị khác. Nghĩa là có những hạnh lành các ngài không bì được với người khác, nên các ngài chỉ nói dùm thôi. Các vị có nghe kịp không?
Thí dụ như một vị La Hán luôn luôn tán thán hạnh lành của vị khác.
Nhưng riêng chư Phật thì không.
Chư Phật đúng:
Trong giới Thinh Văn, ngài Ca Diếp là vua đầu đà, nhưng phải nói so với bản hạnh của Thế Tôn thì bản hạnh của ngài Ca Diếp không bằng một phần tỷ. Bởi Thế Tôn thực hành hạnh đầu đà không biết vô số kiếp. Chẳng những vậy, đầu đà mà để hoàn tất Phật quả thì cái đó mới ghê.
Tức là nói sao làm vậy, làm sao nói vậy là vậy đó.
(Con tiep)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=bhhreUUtIa0&abt=Đại+Điển+Tôn+-+Đại+Hội
Đó là 8 Pháp mà ngài Minh Châu dịch là Tám Pháp như thật:
1/ Pháp như thật đầu tiên không ai chối cãi, phủ nhận được, là sự có mặt của Đức Thế Tôn trong thế gian này hoàn toàn là vì lòng đại bi.
Chú giải có ghi rõ, ở đây chúng tôi nói sơ thôi, là Thế Tôn từ thời sơ phát Bồ đề tâm thì trong các tấm thân sanh tử của Ngài, dầu là voi là rồng, là con người thì trong mọi hình thức tái sinh Ngài thường xuyên hy sinh thân mạng của mình để hoàn thành Đạo nghiệp Phật quả.
Để chi?
– Để giúp ích cho vô lượng chúng sinh.
Chớ chỉ riêng Ngài thì
- cách đây 20 a tăng kỳ về trước nếu muốn thì Ngài đã chứng quả La Hán và Niết bàn. Thậm chí Chú giải cũng xác định là
- cách đây 4 a tăng kỳ, nghĩa là gần hơn một chút, ngay dưới chân Đức Phật Nhiên Đăng, Bồ tát Sumedha đã trải mình cúng dường cho Đức Phật, thì lúc đó nếu muốn, Ngài chỉ cần xê dịch cái ý muốn một chút thôi là Ngài không nghĩ tới chúng sinh mà chỉ nghĩ tới bản thân thôi thì ngay dưới chân đức Phật Nhiên Đăng Ngài đã hoàn toàn đủ sức để trở thành một vị La Hán lục thông Tam minh và Tứ tuệ phân tích.
- một vị Bồ tát trong hạnh trí tuệ (pannadhika) thì trong lần thọ ký (được chư Phật chánh đẳng giác xác nhận) đầu tiên, thì trong lần thọ ký đó, nếu nói về cơ duyên giác ngộ thì vị đó nếu muốn có thể chứng La Hán cùng Tứ tuệ phân tích (vô ngại).
- Còn cái hạnh đức tin (saddhadhika) thì lần đầu tiên được thọ ký vị đó đủ duyên để chứng lục thông.
- Còn vị hạnh tinh tấn (viriyadhika) thì trong lần thọ ký đầu tiên vị đó đủ duyên để chứng La Hán Tam minh.
Tại sao chúng tôi phải nói rõ cái này?
– Bởi chúng tôi muốn nói rằng vì lòng đại bi, không nghĩ tới mình mà nghĩ tới người khác cho nên các Ngài mới tiếp tục đi thêm một quãng đường dài thăm thẳm, để cuối cùng thành Phật, độ cho nhiều người khác. Chớ còn riêng phần Ngài muốn dứt sanh tử thì đã dứt rồi.
2/ Pháp như thật thứ hai Thế Tôn thuyết giảng luôn luôn có nội dung hướng thượng chớ không hướng hạ. Đưa người ta đi lên và đi ra sanh tử, chớ không đưa người ta đi xuống hoặc đi vô.
‘Akalico’ có nghĩa ở đời này nhân và quả có thể cần đến một ngày hai ngày, một đời hai đời, nhưng khoảng cách nhân quả giữa Đạo với Thánh quả thì chỉ một sát na trước và một sát na sau.
'Akalicó có 2 nghĩa:
- Một là thời gian nhân quả giữa Đạo và Quả không xen kẽ. Đây là một chuyện mà trên đời này không có trường hợp nào khít rịt nhau như vậy.
- Thứ hai, Giáo Pháp của Ngài có giá trị ngàn đời, không vì thời gian mà giá trị lời dạy phai phôi, nên cũng gọi là akalico.
'Sanditthikó nghĩa là tự mình thấy: tức là không có cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, thầy trò, bè, bạn, thân nhân, láng giềng thân quen cỡ nào cũng không có chuyện người này đắc dùm người kia, mà phải tự mình thân chứng thể nghiệm.
Đạo này phải là đạo của người có trí, đến để mà thấy chớ không phải đến để mà tin. Tinh thần Phật Pháp là ‘Phúc thay cho kẻ nào tìm hiểu rồi mới tin và tin rồi vẫn tiếp tục tìm hiểu’, chớ không phải ‘Phúc thay cho kẻ nào chưa thấy đã tin’.
3/ Đặc điểm thứ ba Pháp như thật của Thế Tôn là Thế Tôn đã hướng dẫn con đường rõ ràng. Toàn bộ Phật Pháp tám muôn bốn ngàn pháp môn được giảng trong 45 năm hoằng hóa độ sinh .
Ngài nói đến cả tỷ vấn đề nhưng nội dung gom lại chỉ có hai:
- một là chuyện nên tránh,
- hai là chuyện nên làm.
- Người có nghe Pháp sẽ bỏ dục bỏ ác. Chuyển hóa từ ác qua thiện.
- Nhờ nghe Pháp, người ta sẽ chuyển hóa từ thiện thô sang thiện tế (Nâng cấp cái thiện).
- Nhờ nghe Pháp mà thấy rõ rằng thiện hơn ác nhưng cái thiện thấp thì thua cái thiện cao, nhưng rốt ráo không còn thiện ác mới là cứu cánh cao nhứt (Bỏ hết thiện ác).
4/ Đức Thế Tôn dạy cho đệ tử cứu cánh con đường luôn nhất quán nhau:
- Có những hướng dẫn trong cuộc đời này nghe thì hay nhưng hỏi dẫn về đâu thì ông đạo sư, giáo chủ ấm a ấm ớ.
- Cũng có trường hợp đưa ra một cứu cánh tu hành nghe đã thiệt nhưng con đường hành trì lại mơ hồ, không đưa ra rõ ràng.
Trong Kinh điển Pali nói rõ:
- một là mình không biết gì hết,
- còn hai thì phải biết rõ ràng Sơ thiền là gì, Nhị thiền là gì, Thân quán niệm xứ là gì, Tâm quán niệm xứ là gì, Sắc uẩn là gì …phải nói rõ ràng . Dầu cho mình trả lời như con két nhưng mà phải nói rõ ràng.
Ăn khớp như thế nào?
– Các vị nghe lại:
Diệt Đế là gì? – Diệt Đế là sự vắng mặt của Tập Đế.
Đạo Đế là gì? – Đạo Đế là con đường đi ngược lại tinh thần của Tập Đế.
Tôi nhắc lại .
- Mọi hiện hữu là Khổ Đế vì mọi hiện hữu nằm trong ba khổ.
- Tập đế là nguyên nhân sanh khổ. Định nghĩa Tập đế là niềm đam mê trong Khổ đế. Mà Khổ đế là mọi hiện hữu, thì Tập đế là niềm đam mê trong các hiện hữu.
- Diệt Đế là sự vắng mặt của Tập Đế.
- Và Đạo Đế là con đường hành trì đi ngược lại Tập Đế. Có nghĩa là anh hành trì Bát chánh đạo, hành trì Tam học.
– Là anh không tiếp tục thích trong 3 khổ nữa.
- Đủ duyên, anh thành thánh,
- Thiếu duyên thì anh cũng được an lạc hiện tiền, hiện tại lạc trú.
Niết bàn là gì?
– Niết bàn là sự vắng mặt của tham ái.
Tứ niệm xứ là gì?
– Tứ niệm xứ là sự kịp thời ghi nhận phiền não đang xảy ra. Nó phải ăn khớp từ con đường hành trì cho đến cứu cánh như vậy.
5/ “Thế Tôn đã đào tạo một chúng thiện hữu, một chúng hữu học đi trên nẻo Đạo và các lậu tận đã hoàn tất. Ngài và các đệ tử là một”.
Nghĩa là có rất nhiều Đạo sư . Nhiều giáo chủ nhìn thì tốt, nhưng giữa Đạo sư và các đệ tử có một khoảng cách rất lớn: phàm phu không bao giờ chạm vào nhau.
Đây cũng vậy: Chỉ có thánh nhân mới hòa tan vào nhau, còn phàm phu thì không.
Vì phàm phu
- hễ cùng lo một việc thì thương nhau, mà cùng thích một món thì ghét nhau, đó là một quy luật.
- Thứ hai, là mỗi người theo đuổi một cái tôi riêng thì làm sao có thể hòa tan vào nhau.
Thế Tôn là bậc đã lìa khỏi phiền não.
- Ngài không còn cái gì Ngài thích, cũng không còn cái gì ghét.
- Mà đệ tử Ngài cũng không còn cái gì ghét, không còn cái gì thích.
- Giữa các vị hoàn toàn không có một biên giới, vì giữa các Ngài hoàn toàn không có ý niệm ‘tôi là’, ‘của tôi’. Không có ý niệm ông A bà B, thằng Tý thằng Tèo gì hết.
- Tất cả chỉ là nhất thiết pháp giới vô ngã vô thường.
- Tất cả chỉ là những giọt nước trong một đại dương không bờ mé, không giới tuyến.
Nghĩa là
- thương người mà không phân biệt thân, sơ, thù, bạn là mình đã làm không nổi, nói chi
- sự quán chiếu danh sắc,
- quán chiếu năm uẩn, 12 Xứ, 18 giới .
Chúng ta có đoàn kết, có hòa hợp, có Giới hòa đồng tu, có Kiến hòa đồng giải đến mức nào đi nữa thì các vị phải đồng ý với tôi: ngày nào chưa bỏ thân kiến thì vẫn còn có ‘cái tôi’ và ‘của tôi’.
Mà hễ còn có cái tôi và của tôi, khi mình đã xác định cái tôi là mình đã kín đáo xác nhận thằng Tý nó là thằng Tý, mà thằng Tèo nó là thằng Tèo.
Nhưng ở đây thì giữa Ngài và các đệ tử là những giọt nước biển trong một đại dương. Trong tiếng Pali là ekaramata, nghĩa là ‘chung vui’ (giang sơn thu về một mối, thiên hạ nhất thống).
6/ Thế Tôn được kính lễ cúng dường nhưng Ngài luôn luôn nhận những thứ đó với tâm buông bỏ.
Trong Chú giải nói dài lắm, nói những chuyện hơi phong thần nhưng ở đây tôi kể vắn tắt. Là chư thiên, Càn thát bà, Long vương, Kim sí điểu, Dạ xoa, nhân loại, thiên long bát bộ, tám chúng, sa môn, Bà la môn, chư thiên, Ma vương, Phạm thiên … tất cả những người có chánh kiến (số người không thích Thế Tôn thì không nói), chỉ nói những người kính mến Thế Tôn thì con số đó không thể tính đếm được. Nhưng Thế Tôn trước sau như một .
Chẳng hạn tới đây tôi giảng Kinh Đại Hội các vị sẽ thấy khiếp. Trong đại hội đó thiên chúng đổ về không thể đếm bằng số được. Chỉ đếm bằng các hội chúng thôi: hội chúng Càn thát bà, hội chúng Long vương…Riêng trong đó hội chúng nào mà gọi là tam nhân (tái sinh bằng tâm có trí) thì có số người chứng La Hán là một tỷ!
Trong khi đó mình thấy thời gian Ngài giảng A Tỳ Đàm trên cõi trời là 800 triệu (non một tỷ), trong đó có đủ các tầng thánh. Có vị đắc Sơ, nhị, tam, tứ quả lung tung.
Riêng đêm này trong bài Kinh Đại Hội (Ngài giảng 6 lục đại chân Kinh). Tôi xin lạc đề chỗ này: Chúng tôi rất muốn in lại 6 bài Kinh đó để chiêm nghiệm, để cho Phật tử đọc tụng mỗi lần họ đến đạo tràng Viet Theravada bên Đức (mà có điều cái đám đó mặt họ khờ quá không biết đọc có hiểu hay không.).
Bài Kinh Đại Hội đó chỉ diễn ra đến nửa khuya thôi mà số người chứng Quả là một tỷ (kotisatasahassa arahattappatta):
- koti: 10 triệu (7 số zero)
- sata: 100 (2 zero)
- sahassa 1.000 (3 zero) -> tổng cộng kotisatasahassa là 1 tỷ (12 số zero).
Một tỷ vị chứng La hán! Các vị tưởng tượng chỉ riêng quả vị La hán một tỷ người thì cái hội chúng đó đông cỡ nào?
Một lát nữa tôi giảng Kinh Đại Hội các vị mới thấy hết hồn. Chư thiên sắc tế đó nghe, mà đông đến mức có những vị họ đứng nghe Pháp mà phải đứng bên đảo Tích Lan. Bởi một phần là không gian chật chội, một phần những vị mà oai lực họ kém họ gặp những vị đức độ nhiều họ thấy nóng nảy khó chịu. Họ không ngồi gần được. Họ phải lùi, lùi riết mà Đức Phật ở trên núi Hymalaya ngài giảng mà coi như số chư thiên về họ tránh, họ lấn lấn riết mà có một cô tiên nữ phải đứng bên đảo Tích Lan cổ nghe mới ghê . Đông vậy đó!
Thế Tôn trước sau như một, nét mặt không bao giờ thay đổi. Ngài ở một mình cũng nét mặt đó. Có một bà lão ăn mày quỳ đảnh lễ Ngài cũng nét mặt đó. Một bà hoàng hậu, một ông tướng quân, một đại gia, một hoàng đế, cả một triều đình quỳ lạy dưới chân Ngài cũng nét mặt đó. Tám ngàn vị tỳ kheo quỳ lạy dưới chân Ngài cũng nét mặt đó. Hàng triệu Phạm thiên, chư thiên lạy Ngài cũng nét mặt đó. Cả một hội chúng hàng tỷ thiên chúng về lễ Phật thì gương mặt Ngài cũng như vậy đó, không hề thay đổi. Ngài luôn luôn nhận sự kính lễ và cúng dường của chư thiên và nhân loại bằng một trạng thái tâm buông bỏ tuyệt đối.
Bởi vậy trong đêm sắp thành Đạo, Kinh nói Ngài nằm thấy 5 điềm đại mộng, trong room còn nhớ không?
Ngài thấy Ngài đi kinh hành trên một ngọn núi toàn là phân người mà coi như bàn chân không có dính. Sau này khi thành Phật rồi Ngài mới kể đó là điềm báo Ngài nhận được lễ bái cúng dường của vô số chúng sinh trong các cõi, trong vô lượng vũ trụ, vô lượng thế giới nhưng tâm Ngài không bị dao động.
7/ Nói và làm đi đôi:
Thế Tôn nói sao thì làm vậy, làm sao thì nói vậy, có nghĩa là các vị La Hán không hề giả dối, nhưng có những điều vị Thinh Văn chỉ có thể nói dùm vị khác. Nghĩa là có những hạnh lành các ngài không bì được với người khác, nên các ngài chỉ nói dùm thôi. Các vị có nghe kịp không?
Thí dụ như một vị La Hán luôn luôn tán thán hạnh lành của vị khác.
- Vị đó nói rằng tôn giả A, tôn giả B, sư A sư S gì đó tâm từ bi vô lượng tế độ chúng sanh không ngại nắng gió mưa sương, dãi dầu sương tuyết đi hoằng Pháp, đó là vị khả kính … Nói tùm lum, cuối cùng bản thân ngài, phiền não ngài thì hết rồi nhưng ngài khen vị kia thì thôi, riêng ngài thì chuyện hoằng Pháp ngài không mặn mà lắm.
- Hoặc một vị La Hán khen như khen ngài A Nan, đó là vị đa văn, học tập không biết mỏi mệt, trí nhớ không giới hạn. Ngài khen ngài Rahula đệ nhất hiếu học v.v… và v.v… Khen, nhưng bản thân mình thì chỉ hết phiền não.
Nhưng riêng chư Phật thì không.
Chư Phật đúng:
- không giả dối
- nhưng còn thêm nữa là bất cứ điều tốt lành nào Ngài nói ra cũng đều hoàn toàn làm được.
- Không có bất cứ điều gì tốt trên thế gian này mà đệ tử có thể sánh bằng chớ đừng nói hơn Ngài.
Trong giới Thinh Văn, ngài Ca Diếp là vua đầu đà, nhưng phải nói so với bản hạnh của Thế Tôn thì bản hạnh của ngài Ca Diếp không bằng một phần tỷ. Bởi Thế Tôn thực hành hạnh đầu đà không biết vô số kiếp. Chẳng những vậy, đầu đà mà để hoàn tất Phật quả thì cái đó mới ghê.
Tức là nói sao làm vậy, làm sao nói vậy là vậy đó.
(Con tiep)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh