2022-03-18, 06:09 PM
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
18. Kinh Xa-ni-sa
(Janavasabha sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong18.htm
Digha Nikaya
18. Kinh Xa-ni-sa
(Janavasabha sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong18.htm
--ooOoo--
18. KINH XÀ-NI-SA
092. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH XÀ-NI-SA?
Vào một thời kia, đức Phật cùng với các Tỳ-kheo trên đường đi từ núi Linh-Thứu đến thành Câu-thi-na, để nhập Niết-Bàn.Ngài dừng ở làng Na-đề-ca (Nàdika), nước Ma-kiệt-đà (Magadha). Bấy giờ, Tôn-giả A-nan thưa hỏi đức Phật về các tu-sĩ và cư-sĩ đã mất tại đây, nay được tái-sanh về đâu. Nhơn đó, đức Phật giảng Kinh nầy, thuật lại lời của vị Dạ-xoa tên là Janavasabha (Xà-Ni-Sa) đã trình với đức Phật về chuyện tái-sanh đó.
Xà-Ni-Sa vốn đời trước là vua Tần-bà-sa-la (Bimbisàra) của nước Ma-kiệt-đà, nhờ tu-tập theo Chánh-Pháp mà được sanh lên Thiên-giới. Xà-Ni-Sa có tham-dự buổi họp tại Thiện-Pháp-đường để nghe vị Đại-Phạm Thiên-vương nhắc lại (1) ba con đường tắt hướng đến an-lạc, (2) bốn pháp quán-niệm và (3) bảy pháp Định tư-lương để tu-tập Chánh-định. Vị nầy còn cho biết, những ai tin-tưởng Phật, Pháp, Tăng, tin tưởng không có thoái-chuyển, đầy-đủ giới-hạnh, sẽ được hoá-sanh lên cõi Trời, và tất cả hơn hai trăm bốn mươi vạn cư-sĩ ở Magadha đã từ-trần, diệt các kết-sử, đã chứng được các quả Dự-lưu, Nhất-Lai và Bất-Lai.
Thế-Tôn sau khi nghe câu chuyện của Xà-Ni-Sa, chấp-nhận lời nói của vị Đại-Phạm Thiên, và tự mình chứng-tri rồi mới thuật lại cho Tôn-giả A-nan nghe.
093. NỘI-DUNG KINH XÀ-NI-SA.
Kinh Xà-Ni-Sa bàn về việc tái-sanh của các tu-sĩ và cư-sĩ ở nước Ma-kiệt-đà, tu-tập theo Chánh-Pháp, khi chết được sanh lên cõi Trời Phạm.
A.- Ý Chánh: Nhờ tu-tập theo Chánh-Pháp do đức Phật đã giảng-dạy ở cõi Người mà được tái-sanh lên cõi Trời Phạm.
B.- Phân đoạn: Kinh có thể chia ra hai phần:
1. Phần I: Tôn-giả A-nan hỏi Phật việc tái-sanh của các tu-sĩ và cư-sĩ ở nước Ma-kiệt-đà.
- Tôn-giả A-nan thắc-mắc tại sao đức Phật chưa nói đến việc tái-sanh của tu-sĩ, cư-sĩ mất ở Ma-kiệt-đà.
- Đức Phật nhập-định, thấy chỗ thọ-sanh của các tín-đồ ở Magadha và được vị Trời Xà-Ni-Sa tới yết-kiến.
2. Phần II: Xà-Ni-Sa tường-trình buổi pháp-thoại của Đại-Phạm Thiên-vương tại Thiện-Pháp-đường:
- Xà-Ni-Sa chính là vua Tần-bà-sa-la đời trước đã cai-trị nước Ma-kiệt-đà trong Chánh-Pháp;
- Xà-Ni-Sa trình với Phật, sở dĩ mình được sanh Thiên là nhờ tu-tập theo Giáo-Pháp của đức Phật;
- Quang-cảnh chư Thiên hội-họp ngày lễ Bố-tát tại Thiện-pháp-đường ở cõi Tam-thập-tam thiên.
- Vị Đại-Phạm Thiên-vương xuất hiện giảng pháp: (1) ba con đường tắt hướng đến an-lạc; (2) bốn pháp Tứ-niệm-xứ, (3) bảy pháp tu Định tư-lương, đã được đức Phật tuyên-giảng.
094. TRÍCH-ĐOẠN: BA PHÁP HƯỚNG ĐẾN AN-LẠC.
... ''Chư Thiên-hữu, qúi vị nghĩ thế nào (về) ba con đường tắt hướng đến an-lạc... Thế nào là ba?
Chư Thiên-hữu, ở đây có người thân-cận dục-lạc, ... bất-thiện-pháp ... Và khi nghe được Chánh-pháp, như-lý tác-ý, ... vị nầy không thân-cận dục-lạc, bất-thiện-pháp. Nhờ sống không thân-cận dục-lạc, bất-thiện-pháp, an-lạc khởi lên, và hơn cả an-lạc, hoan-hỷ khởi lên ... Đó là con đường tắt thứ nhứt hướng đến an-lạc, đã được Thế-Tôn, ... , chứng-ngộ.
Chư Thiên-hữu, ở đây có người thân-hành thô-lậu, chưa được an-tịnh, khẩu-hành, ý-hành thô-lậu, chưa an-tịnh... Sau một thời-gian, vị nầy nghe được Chánh-pháp, và như-lý tác-ý... thì thân-hành,... khẩu-hành,... ý-hành thô-lậu được an-tịnh, an-lạc khởi lên, và hơn thế nữa, hoan-hỷ khởi lên... Đó là con đường tắt thứ hai hướng đến an-lạc, đã được Thế-Tôn chứng-ngộ.
Chư Thiên-hữu, lại nữa ở đây có người không như-thật biết: ''Đây là thiện, đây là bất-thiện....'' Sau khi được nghe Chánh-Pháp, như-lý tác-ý, chứng-đắc Chánh-Pháp... vị nầy như-thật biết: ''Đây là thiện, đây là bất-thiện... '', ... nhờ biết như vậy mà vô-minh của vị nầy được trừ-diệt, minh được sanh-khởi, an-lạc khởi lên. ... Đó là con đường tắt thứ ba hướng đến an-lạc...''
095. TRÍCH-ĐOẠN: BẢY PHÁP ĐỊNH TƯ-LƯƠNG.
... Thế nào là bảy pháp Định tư-lương (Samàdhi-parikkhàrà)? (Đó là)... Chánh tri-kiến, chánh tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh mạng, chánh tinh-tấn, chánh-niệm.
Chư Thiên-hữu, nhứt-cảnh-tánh của tâm do bảy chi nầy sửa-soạn, được gọi là thánh-chánh-định cùng với các y-chỉ và cùng với các tư-lương. Chư Thiên-hữu, chánh tư-duy vừa đủ để chánh tri-kiến sanh-khởi, chánh-ngữ vừa đủ để chánh tư-duy sanh-khởi, chánh-nghiệp vừa đủ để chánh-ngữ sanh-khởi, chánh-mạng vừa đủ để chánh-nghiệp sanh-khởi, chánh tinh-tấn vừa đủ để chánh-mạng sanh-khởi, chánh-niệm vừa đủ để chánh tinh-tấn sanh-khởi, chánh-định vừa đủ để chánh-niệm sanh-khởi, chánh-trí vừa đủ để chánh-định sanh-khởi, chánh giải-thoát vừa đủ để chánh-trí sanh-khởi ...
096. HỌC KINH XÀ-NI-SA, NÊN CHÚ-Ý ĐIỂM NÀO?
1. Học Kinh Xà-Ni-Sa, đừng tìm hiểu kẻ khác đã chứng đến mức nào; trái lại, phải biết tự xét đường-tu của chính mình đã đến đâu, để nỗ-lực tiến lên nữa.
2. Ba con đường tắt hướng đến an-lạc bắt đầu bằng (1) xa-rời các dục-lạc (thú-vui vật-chất), (2) giữ thân, khẩu, ý cho thanh-tịnh,, (3) phân-biệt rõ thiện và bất-thiện. - Tu bốn phép quán-niệm (tứ niệm-xứ), phải biết khi (1) quán thân, thấy thân bất-tịnh; (2) quán thọ, biết cảm-thọ là khổ; (3) quán tâm, hiểu tâm là vô-thường; (4) quán pháp (sự-vật), thấu rõ muôn pháp đều vô-ngã. - Tập bảy pháp Định tư-lương, trước nên dồn nỗ-lực vào chánh-niệm, trong Bát-Chánh-Đạo.
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong-tn2.htm
--ooOoo--
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Xa-Ni-Sa - Trường Bộ 18 (1-3)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=X6NOZe-mko4&abt=Kinh+Xa-Ni-Sa
Kinh Xa-Ni-Sa
04/02/2022 - 07:31 - buithibuukim
Quote:Kalama tri ân bạn buithibuukim ghi chép.
04/02/2022 - 07:31 - buithibuukim
KINH TRƯỜNG BỘ - KINH XA-NI–SA (Janavasabhasuttam)
Chào quí vị. Hôm nay chúng ta học Kinh Janavasabha.
Chữ ‘jana’: thiên hạ, đám đông, con người.
Chữ ‘usabha, osabha, avasabha’: con bò chúa, bò đầu đàn = kiệt xuất, xuất chúng, quán thế, cái thế.
Janavasabha: nhân kiệt (nhân vật kiệt xuất đứng đầu đám đông).
Trong tiếng Hán vua của loài cây = sở, vua của loài thú = hùng, vua của loài hoa = anh. -> anh hùng: vừa mạnh vừa đẹp. Đứng đầu đám đông loài người = kiệt
Hậu thân của vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) có tên là Janavasabha vì ông đứng đầu 110.000 người thính chúng. Trong buổi giảng đó ổng chứng Tu đà hườn, sau đó bị giết chết. Khi ổng sanh về cõi Tứ thiên vương thì làm Dạ Xoa phụ tá cho Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vessavana: Tỳ Sa Môn = vị Đại Lực Quỷ Vương hầu cận) và được hội chúng Dạ Xoa cõi Tứ Thiên Vương gọi ổng cũng là tên Janavasabha vì xuất thân rất đặc biệt của ổng: 7 kiếp làm vua ở cõi người liên tục. Sau đó làm Đại Quỷ Vương 7 kiếp liên tục ở cõi Tứ Thiên Vương, tổng cộng 14 kiếp liên tục không bị đọa.
Trong đây chúng tôi giải thích theo Sớ giải. Tôi nhớ có lần giảng Kinh Đại Bát Niết Bàn chúng tôi có nhắc qua chuyện này. Tức là có lúc cả hai xứ Anga và Magadha (Ma Kiệt Đà) cư sĩ chứng Thánh rất đông, hàng triệu người. Với phước báo đó họ không mang thân nhân loại nữa mà họ từ trần hàng loạt. Cho nên có một thời gian dài mấy chục năm hai xứ này hoang vắng giống như không người. Bà con có thấy trong Chánh Kinh có câu đó hay không? Ngài A Nan tận mắt thấy người ta lũ lượt đi chùa nghe Pháp, rồi cúng dường Đức Phật và chư Tăng, rồi làm các công đức lớn nhỏ ngoài xã hội. Ngài thấy vậy nên ngài tin họ có một chỗ đi về không tệ. Tuy nhiên muốn chắc ăn nên ngài vào hỏi Phật. Ngài hỏi hết người này người kia, trong đó ngài nhớ đến một người ngài hỏi: Bạch Thế Tôn có một số cư sĩ ở đây, có một số cư sĩ ở kia, một số cư sĩ ở chỗ nọ, đặc biệt trong đó có vua Tần Bà Sa La là một minh quân, thánh chúa, làm phước độ dân giúp bá tánh, bây giờ chết rồi ổng đi về đâu, những chuyện này chứa được nghe Thế Tôn nói đến sanh thú (chỗ đi về, chỗ tái sanh) của mấy người này.
Phật nghe vậy ngài không trả lời gì. Ngày hôm sau đi bát về Ngài ghé một chỗ thanh vắng vào nghỉ trưa trong một ngôi nhà gạch bỏ hoang. Xong chiều về gặp ngài A Nan Ngài mới kể lại: Hôm qua A Nan có hỏi Như Lai chỗ tái sanh của mấy người kia. Hôm nay sau giờ khất thực Như Lai về chỗ ngôi nhà gạch bỏ hoang. Rồi Ngài kể một chi tiết đặc biệt là lúc Ngài nhập định quan sát chỗ tái sanh của những người cư sĩ trong các xứ lân cận, thì Ngài nghe tiếng nói: “Bạch Thế Tôn, con là Janavasabha” thì Đức Phật biết ngay đó là hậu thân của vua Tần Bà Sa La.
Ổng kể hầu Phật câu chuyện một buổi gặp mặt của chư Thiên, Phạm thiên cõi Đao Lợi. Trong Chánh Kinh bà con thấy rồi,ở đây tôi kể thêm một số chi tiết thôi. Đó là chư thiên cõi thấp không thể nhìn thấy chư thiên cõi cao. Dục thiên không thể nhìn thấy Phạm thiên. Nên vị ở cõi cao muốn cho vị cõi thấp thấy mình thì phải hóa hiện thô tướng (sắc pháp của các chúng sinh ngũ uẩn lên cõi càng cao thì càng vi tế) . Làm cho nó thô giống như cõi mình đang có mặt. Thí dụ cõi Tứ thiên vương thô hơn cõi Đao Lợi nhưng nó tế hơn cõi người. Cõi Đao Lợi thô hơn cõi Dạ Ma nhưng tế hơn cõi Tứ thiên vương. Tế có nghĩa là thành phần vật chất khó thấy hơn. Phạm thiên mà muốn cho Dục thiên thấy thì phải hóa hiện thân tướng thô lậu một chút, nặng nề một chút.
Trong Chánh Kinh có kể một chuyện. Trước hết ổng nói về ổng trước, là con đã 17 kiếp liên tục không bị đọa. Nhờ Thế Tôn mà lúc còn phàm phu con đã chứng Dự lưu. Bây giờ con đang nỗ lực tu tập để chứng quả vị cao hơn. (Chỗ này nói rằng khi vua đến gặp Phật thì vua đã là Tu đà hườn, nhưng ở chỗ khác thì nói trước khi vua chết, lúc trong nhà ngục vua đã đắc Nhất Lai. Báo trước cho bà con biết có hai dị bản như vậy).
Ở đây xác định rằng vua nói con đang tha thiết để trở thành vị Nhất Lai. Chú giải nói một câu thú vị đáng để mình lưu ý: thế nào là tha thiết? – Tha thiết trong sự tu tập đây có nghĩa là mỗi ngày hành giả phải có niềm tin rằng hôm nay mình sẽ chứng Đạo: Ajjeva ajjeva pativijjhissami. Với tâm niệm đó mới gọi là tha thiết, (asa: niềm tha thiết = mỗi ngày hành giả phải tâm niệm rằng hôm nay mình sẽ chứng Đạo. Với tâm niệm đó mới được gọi là tha thiết). Mình thì không tin lắm. Như mình nghĩ kiếp này đắc không được, tu là để gieo duyên thôi.
Tôi cũng nhớ tôi đã nói rất nhiều lần là tại sao mình phải tu tập chánh niệm thường trực trong từng sinh hoạt lớn nhỏ. Là vì 3 lý do:
- Một là mình không biết thực ra mình có khả năng chứng Đạo lúc nào. Cho nên mình dễ duôi là mình đã bỏ lỡ cơ hội. Trường hợp này trong Kinh có nói rất nhiều. Có những trường hợp người ta đến hầu Phât xong người ta đi. Thì đức Phật ngài dạy là : Này các tỳ kheo, LẼ RA khi nãy cái người hồi nãy họ có thể đủ duyên chứng quả, nhưng vì làm sao, làm sao đó…. Lẽ ra …
Chẳng hạn lần đó vua A Xà Thế đến hầu Phật, nghe Kinh xong lạy Phật rồi vua đi về. Đức Phật nói với chư tăng là hồi nãy nếu A Xà Thế không bị tội giết cha thì A Xà Thế đã đủ duyên chứng Sơ quả. Hoặc trong Kinh nói con voi Nalagiri là Phật tương lai. Khi voi bị chuốc rượu cho say chạy đến chặn đường Thế Tôn lúc Ngài đang đi khất thực, Ngài nói một vài câu với voi (nói bằng năng lực của một vị Phật). Ngài nói ngắn gọn là “Voi chúa không có hại voi chúa. Hãy nhớ kể từ nay ngươi không phải là ‘ngọn đồi lau’ nữa (Nalagiri) mà là tên Anatthapala (người giữ của). Ngươi có nhiều tài sản quý lắm, có chiều dầy ba la mật rất là sâu, còn một đoạn đường đi nữa”. Kinh nói nếu mà mang thân người và nếu không có tâm nguyện thành Phật thì ngay khi đó Tu đà hườn rồi. Kinh khủng vậy, sức nhận thức của con voi lúc đó đủ để Tu đà hườn! Dĩ nhiên chuyện đó không bao giờ có, bởi vì voi là vị Bồ tát mà, sẽ thành vị Phật tương lai.
Còn vua A Xà Thế mãi đến khi gặp Phật Thích Ca Mâu Ni thì vua vẫn chưa có tâm nguyện Độc giác. Nhưng vì vua bị cản trở bởi trọng nghiệp quá nặng là giết cha mà cha lại là đấng Từ Phụ, người cha lành mà lại là một bậc Thánh nữa. Nghiệp quá nặng nên kiếp này vua không đắc chứng được. Đã vậy sau khi trái đất này hủy rồi, hoại mất rồi trải qua một a tăng kỳ không có Phật ra đời, nên lúc đó dầu công phu tu hành của vua A Xà Thế có ghê gớm cách mấy cũng không đắc Đạo, bởi vì không có Chánh Đẳng Giác thì đắc với ai. Thế là khi duyên lành sâu dầy quá thì tự động đương sự sẽ chuyển nguyện. Có những vị khởi đầu là muốn Độc Giác. Cũng có những vị do chờ lâu quá, ba la mật dầy quá thì vị đó tự nhiên chuyển nguyện. ‘Chuyển’ đây có nghĩa là tự nhiên chỉ mong đắc càng sớm càng tốt thôi. Không mong chờ đợi gặp vị Phật nào hết. Nếu vị đó tu rốt ráo thì sẽ thành Độc Giác. Còn nếu tu tà tà thì phải chờ hết a tăng kỳ đó có vị Phật nào ra đời thì mới chứng Thinh Văn. Tôi đã giảng phần này không biết bà con còn nhớ không?
Thì ông này kể lại có một lần đó trên cõi trời có một cuộc đại hội. Kinh ghi: “Bạch Thế Tôn những ngày xưa nhân đêm rằm thì trong tháng nhập an cư mùa mưa toàn thể chư thiên”.
Trong Chú giải có nói, trong thời kỳ có Phật ra đời, thì chư thiên Đao Lợi có 4 trường hợp tụ hội:
- Một là trước mùa an cư của chư tăng (Vassupanayikasangahattha).
- Hai là ngày ra hạ của chư tăng (Pavaranatthasangahattha).
- Ba là tụ hội mỗi tháng để nghe vị nào đó thuyết Pháp (Dhammassavanattha)
- Bốn là để cùng nhau vui chơi dưới gốc cây Paricchattaka (Paricchattakakilanubhavanattha).
Tụ hội trước mùa an cư của chư tăng, thì ‘chư tăng’ đây phải hiểu ngầm là chơn tăng, Thánh tăng, là những vị trong sạch 100% mới cảm được chư thiên trên đó. Trước mùa an cư chư thiên mới tụ họp lại, để coi năm nay chư tăng nhập hạ ở đâu, được bao nhiêu vị để cùng nhau hộ trì các vị đó.
Trường hợp 2 là chư tăng ra hạ, là ngày các vị về hầu Phật và trình lên Phật là mình đã đắc chứng cái gì. Chư thiên cũng để ý cái đó. Họ tụ họp ở trển để để ý chuyện đó dưới này.
Tiếng Pali kêu ‘pavarana’ là ngày tự tứ . Từ động từ là ‘pavareti’ nghĩa là ‘yêu cầu’.
Tức mỗi lần an cư 3 tháng xong thì các vị tỳ kheo ngồi lại với nhau, đọc câu Kinh Pali yêu cầu nhau chỉ lỗi cho mình, là trong suốt 3 tháng qua tôi có làm gì, có nói gì mà chư tăng thấy phạm luật, thấy cần nhắc nhở thì xin chư tăng chỉ điểm cho để tôi sửa chữa. Từng vị từng vị phải nói lên lời yêu cầu rõ ràng cụ thể điển hình như vậy. Chư tăng nhắc ờ 3 tháng qua chư tăng nhắc sư làm sao làm sao đó hoặc là 3 tháng đó sư ok, thí dụ vậy. Nếu chư tăng im lặng thì thôi không có gì hết.
Chữ ‘paravana’ Tàu dịch là ‘Tự tứ’, ở đây tôi dịch đơn giản là ngày ra Hạ thôi, nhưng mình phải hiểu ngầm tại sao ngày họ coi nặng cái này. Bởi ngày đó chư tăng sám hối với nhau, đồng thời cũng là ngày các vị về hầu Phật, trình lên Phật thành quả tu học của mình trong hơn ba tháng qua.
Trường hợp ba là Dhammassavanattha là vì một thiên tử nào đó, (thiên tử là một vị trời có nhiều phước báo) hay Phạm thiên thuyết Pháp mỗi tháng. Dưới dây mình có Pháp lệ thì trên đó cũng có. Có vị nào chia sẻ với thiên chúng thì vị đó sẽ ngồi ở chỗ trang trọng nhứt để thuyết Pháp. Có khi không phải chư thiên ở cõi Đao Lợi mà là một vị Phạm thiên nào đó có mặt để thuyết Pháp.
Trong bài Kinh này nói lần đó khi chư thiên tụ họp vậy thì họ thấy một luồng ánh sáng từ phương Bắc xuất hiện. Đây là dấu hiệu cho biết Phạm thiên sẽ có mặt. Họ dặn nhau Phạm thiên tới muốn ngồi chỗ nào thì cứ để vị đó ngồi, và họ hiểu ngầm với nhau là Phạm thiên lựa chỗ nào ngồi gần mình nhứt mình sẽ được vui, bởi họ coi Phạm thiên là khách quý. Ở cõi trời khác cõi người chỗ này: Ở cõi người thằng Tèo giỏi hơn thằng Tý thì đôi khi thằng Tý nó không biết, trừ phi nó tiếp xúc lâu ngày hoặc cái tâm nó để ý thì thằng Tý biết thằng Tèo giỏi hơn nó. Rồi thằng Tý phước báo nhiều hơn thằng Tèo thì Tèo đôi khi cũng không biết.
Trong khi trên cõi trời lại khác. Chuyện người ta nhiều vật chất hơn mình thì mình nhìn mình biết đã đành, nhưng mình biết rõ người này nè đức hạnh nhiều hơn mình. Còn ở cõi người không có. Ở cõi người nếu không vì người đó nổi tiếng hoặc do mình tiếp xúc lâu ngày, hoặc không phải do tiếng đồn, dư luận thì mình gặp người đó ngoài đường lơ lơ lần đầu tiên gặp mặt thì mình không biết. Chư thiên thì lần đầu gặp nhau đã biết ngay người đó hơn, thua mình về mặt nào. Đó là lý do tại sao chư thiên cõi Đao Lợi họ đối với Phạm thiên có sự tôn trọng. Là bởi vì họ biết vị này ly dục. Họ biết những vị này trí tuệ hơn mình, đức hạnh hơn mình sống lâu hơn mình mấy trăm ngàn lần. Người ta tuổi thọ tính bằng kiếp trái đất, còn mình tính bằng số triệu. 36 triệu năm nhân loại mà so với tuổi thọ 1 kiếp trái đất thì chẳng nghĩa lý gì hết, bởi tuổi thọ trái đất tính bằng tỷ; nên họ nể lắm!
Hôm nay trong Pháp Hội này tại cõi Đao Lợi, theo lời ông Dạ Xoa Janavasabha kể hầu Phật rằng, lần đó Phạm thiên Sanankumara xuất hiện và thuyết Pháp một loạt đề tài giáo lý quan trọng:
1/ Nội dung Phạm thiên Sanakumara thuyết giảng thứ nhứt: Thế Tôn đã giúp nhiều người sinh thiên, thấp nhất cũng là Càn thát Bà (gandhabba).
Phạm thiên này ngồi vào ngai vàng của vua Đế Thích (ngai vàng có tên đặc biệt là kambali. Kinh nói ngai này không có người ngồi thì nó cao lắm, nhưng có người ngồi thì nó có thể lún xuống 50 do tuần.
Vị này xác định rằng Thế Tôn đã giúp nhiều người sinh thiên, thấp nhất cũng là Càn thát Bà (gandhabba). Càn thát bà gồm nhiều hạng. Sở thích là chìm đắm trong âm thanh và mùi hương. Về âm thanh họ là những nhạc sĩ thiên giới. Còn mùi hương họ thích mùi hương của các thứ hoa, trái, lá, củ, rễ thực vật và sống trong đó.
Chữ ‘gandha’ là ‘mùi’. Chữ gandhabba cũng có nhiều nghĩa. Về trú xứ họ là người đặc biệt thích mùi hương các loại trái, các loài hoa, lá, củ, rễ thực vật, có khi họ sống trong đó. Dĩ nhiên Càn thát bà ở cõi cao như Đao Lợi hoặc cõi tứ thiên vương, họ có lâu đài riêng họ chỉ thích nhạc thôi. Nhưng Càn thát bà từ cõi Tứ thiên vương trở xuống cõi người thì họ có thể sống trong các củ, lá, hoa trái, rễ cây. Nhiều khi mình đốn cái cây đó là mình đã phá chỗ ở của họ. Nếu họ có phước riêng thì họ sẽ có một trú xứ mới. Còn nếu phước họ kém quá thì họ sẽ đi theo cái cây đó họ về nhà mình. Có nghĩa là mình đóng tủ, bàn, giường thì họ sống luôn trong đó.
Đây cũng là lý do để ta thấy rằng trong Kinh cấm vị tỳ kheo không được đốn cây.
Do
- một là xâm phạm chỗ ở của chúng sanh khác mà mình không thấy.
- Thứ hai là mình không tôn trọng mầm sống, như vị tỳ kheo ăn trái cây mà hủy hoại cái hột trong trái đó cũng không được. Nên theo Luật, thí chủ muốn cúng dường cho đúng thì khi dâng trái cây phải làm động tác nhỏ gọi là tịnh tác (kappiya), nghĩa là lấy dao gọt nhẹ ngang chút xíu trên cái chóp giống như đã hủy rồi.
- Thứ ba vị tỳ kheo nếu sống đúng theo tinh thần nguyên thủy là vị đó có lý do nào để tàn phá thực vật? Bởi vì tỳ kheo sống chủ yếu bằng đi bát, sau đó về chuyên tâm thiền định, còn trú xứ chỉ là chỗ qua đêm, trú mưa nắng, còn ngoài ra thì thôi cũng không ăn đời ở kiếp một chỗ, cũng không mất thì giờ để chăm sóc thân thể, y áo, chỗ ở của mình. Bản thân tỳ kheo chỉ cần sạch sẽ, gọn gàng. Vật dụng tỳ kheo chỉ có 8 món (tam y quả bát, kim chỉ, vải lược nước, dao cạo tóc). Do đó tỳ kheo không có nhu cầu đốn phá, hủy hoại cây này cây kia. (Coi thêm quyển “Chúng sanh và sanh thú’ – Giác Nguyên)
2/ Nội dung thứ hai Phạm thiên thuyết giảng: bốn thần túc
Notes:
Bốn thần túc: (còn gọi là [b]Bốn [/b]như ý túc)
- Dục thần túc thiền định phát sanh do năng lực của ý muốn, tư tưởng mà đạt được thần thông. Dục ở đây chỉ cho ước muốn, mong cầu một cách thiết tha, mong muốn đạt được những gì mình chưa có; hay mong cầu và tìm cách đạt được những sở nguyện.
- Cần thần túc còn gọi là Tinh tấn thần túc là thiền định phát sanh nhờ vào sức tinh tấn nỗ lực tu tập. Khi đã có mong cầu thì phải tinh tấn nổ lực để tu tập làm thiện, đoạn trừ các ác.
- Tâm thần túc là thiền định phát sinh nhờ sức mạnh của tâm niệm. Một lòng chuyên tâm nhất niệm trụ nương vào sức mạnh của tâm, nên định dẫn phát sanh (thiền định do tâm niệm phát sanh).
- Quán thần túc là có trí tuệ, thiền định phát sinh nhờ sức mạnh tư duy quán sát Phật lý, nương vào sức mạnh tư duy quán sát nên phát sanh sức định.
Nói về bốn thần túc (Iddhipada) những nhân tố tối cần để hoàn thành Đạo nghiệp. Đạo nghiệp đây là thiền định, Đạo quả và cả Pháp học Pháp hành nói chung tất cả Thiện Pháp.
Có nghĩa là muốn hoàn tất cái gì thì trước tiên phải có: chanda: là sự tha thiết + viriya: sự nỗ lực đúng mức + citta: dụng tâm đúng mức.
Dụng tâm đây theo A Tỳ Đàm là tất cả tâm thiện hiệp thế và siêu thế. Nghĩa là mỗi vị phàm hay Thánh muốn làm gì là phải có cái chủ tâm. Phàm phu mình học Đạo bằng tâm cầu danh cầu lợi tức là học bằng tâm tham. Nếu là tâm tham thì không gọi là tâm như ý túc được. Bởi Tâm như ý túc là tâm thiện (tâm thiện hiệp thế và siêu thế). Mình đi qua Miến Điện dựng chùa, cất liêu, xây cốc, học Tam Tạng, học Pali, học giáo lý rồi đi hoằng Pháp, hướng dẫn vận động chỗ này chỗ kia mà bằng cái tâm cầu danh cầu lợi thì cái đó không phải là Tâm như ý túc.
Do đó muốn hoàn thành Đạo nghiệp:
- Trước hết là phải có lòng tha thiết.
- Hai là phải có sự nỗ lực đúng mức.
- Ba là có dụng tâm đúng mức.
- Bốn là phải có trí tuệ đúng mức (vimamsa).
Kinh nói muốn đắc thiền tối thiểu là Cận định thì cũng phải có Tứ như ý túc này:
Iddhi: ý muốn, thần thông
Pada: nền tảng, cơ sở
Pada: nền tảng, cơ sở
-> Iddhipada: nền tảng hay cơ sở để hoàn thành tâm nguyện nào đó trong thiện pháp. Sở dĩ Hán Tạng dịch là ‘Thần túc’ bởi vì ‘iddhi’ là thần thông cũng là ý muốn của người đắc Ngũ thiền sắc giới.
- Muốn đắc Ngũ thiền phải có Tứ, Tam, Nhị và Sơ thiền.
- Muốn đắc Sơ thiền thì phải tu thiền Chỉ. Mà muốn tu thiền Chỉ phải có bốn cái Dục, Cần, Tâm, Thẩm:
- Dục như ý túc (chanda): sự thiết tha hành Đạo.
- Cần như ý túc (viriya): sự nỗ lực đúng mức. Chớ xìu xìu ển ển ầu ơ ví dầu làm sao mà được?
- Tâm như ý túc (citta): Phải thực hiện việc đó bằng tâm lành, phải có lý tưởng tốt.
- Thẩm như ý túc (vimamsa): làm gì cũng phải có trí tuệ (ngay cả những việc nhỏ nhặt như đi vệ sinh hay xỉa răng cũng phải có cái trí trong đó).
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Phật cũng đã xác nhận: Ta – Như Lai đã tu tập thành mãn cụ túc bốn pháp này (Dục, cần, tâm, thẩm) cho nên nếu ta muốn ta có thể kéo dài tuổi thọ. Các vị có nhớ cái này không? Ngài nói hoài mà ngài A Nan không thỉnh Đức Phật trụ thế thêm nữa.
Như vậy bất cứ Đạo nghiệp lớn nhỏ, cao thấp, sâu cạn, rộng hẹp nào trong Phật pháp hay trong cuộc đời thì cũng thảy đều dựa vào 4 thành tố tâm lý rất đỗi quan trọng này.
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh