2022-03-05, 08:15 PM
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Thành Tố Ý Thức (3-3)
https://www.toaikhanh.com/videotext.php?vid=jP5U-K8Zq9s&abt=Th%C3%A0nh+t%E1%BB%91+%C3%BD+th%E1%BB%A9c
Nội dung chép (tt):
(Xúc, thọ, tưởng, tư, mạng quyền, tác ý). Mấy cái này có mặt trong tất cả các tâm, nó là biến hành. Nó đi trong tất cả các tâm.
- XÚC là sao? – Xúc là touch, đụng chạm. Tôi suy nghĩ về một người nào đó là coi như ý thức của tôi gắn với hình ảnh người đó. Trong Kinh nói mình suy nghĩ về cái gì thì cái tâm mình hướng về cái đó, gắn vào cái đó. Thì cái ‘gắn’ đó gọi là xúc.
- THỌ: không bao giờ có một dòng tư tưởng mà không có cảm giác. Chuyện đó không có. Dòng tư tưởng nào cũng có cảm giác cả: vui, buồn hoặc nó lửng lửng. Vui là hỷ, buồn là ưu,lửng lửng là xả. Cho nên không có một cái tâm nào mà không có cảm giác, cũng giống như không có một thức ăn nào mà không có hương vị cả. Ít nhứt nó phải có mùi vị chứ. Tệ nhứt là nước mưa mà nó cũng hơi lạt lạt, còn bào ngư thì nó nhạt nhạt dai dai. Có chứ, chứ không có một thức ăn nào không có mùi vị.
Đó là xúc, thọ. Tức là không có một tâm nào khi biết cảnh mà nó thiếu khía cạnh xúc. Xúc tạm nói một cách thô thiển là đụng chạm. Còn Thọ tức là khía cạnh cảm giác.
-TƯỞNG: tưởng là kinh nghiệm hay hồi ức. Không có bài nào các vị viết mà các vị không dùng hồi ức. Mình có biết cái gì mà mình không dựa trên ý thức không? Không có. Kể cả cái người chưa từng gặp mà các vị cũng dùng hồi ức nữa. Tôi thí dụ như bác sĩ Minh tôi chưa gặp ổng lần nào, mà tôi biết ổng là đàn ông bởi cái hồi ức nó dạy tôi là ông nào có râu là đàn ông. Có cái bụng phệ vậy là đàn ông. Tuy tôi chưa gặp ổng nhưng cái chuyện râu ria tôi biết chứ, thì đó là tưởng. Tôi nhìn ổng, nếu không phải là bác sĩ tôi kêu bằng chú được vì chắc ổng nhỏ hơn ông già tôi. Chính cái ký ức cho tôi biết rằng mắt có đuôi chim, tóc lốm đốm muối tiêu. Cái mà cho tôi biết như vậy là ký ức chớ gì nữa. Đó là tưởng.
- TƯ: ‘tư’ là không có một dòng tư tưởng nào mà không có sự đầu tư của ý thức. Các vị dầu thích tôi hay không thích tôi thì khi gặp tôi dứt khoát các vị cũng phải có một chút gì đó suy nghĩ về tôi chớ. Thí dụ các vị đang đi mà trong trăm ngàn âm thanh khác tại sao các vị không chú ý mà chú ý cái tên của mình? Người ta nói rằng không có âm thanh nào dễ thương bằng cái tên của mình.Tôi thấy rằng cái tên Giác Nguyên là chữ đẹp nhứt trong từ điển! Tôi nói thật. Thí dụ bây giờ các vị cúng đồ cho chùa, để hòa thượng, thượng tọa, trụ trì các vị khác tôi thấy không có gì hay mà thấy cái tên tôi cái chữ nó đẹp liền! Thấy chưa, tức là tôi có đầu tư ý thức trong đó. Hoặc là tôi ghét cái anh này, trong trăm ngàn thiên hạ tôi không nhìn mà tôi đang ăn nghe cái tiếng ảnh cười tôi bực mình liền. Đó là sự đầu tư ý thức. Cái tâm mình ghim vào. Tôi tin chắc trong đời sống các vị có cái đó.
- MẠNG QUYỀN: mạng quyền chính là tuổi thọ của mỗi thought moment. Tức là mỗi chập tư tưởng dầu nó ngắn ngủi cách mấy nó cũng phải có cái tuổi thọ của nó. Và cái tuổi thọ đó chính là cái mạng quyền của một dòng tư tưởng. Cái tâm nó sanh diệt nhanh nhưng vẫn có thời gian của nó. Thời gian đó là tuổi thọ, và tuổi thọ đó chính là sở hữu mạng quyền.
- TÁC Ý : Tư là sự đầu tư của ý thức. Còn tác ý là sự chú ý. Chú ý vào cảnh. Trong Kinh nói người không biết đạo thì nói là ‘tôi nhìn thấy cái bông, nghe máy nó hát’. Nhưng trong Phật giáo nói rằng, như nãy tôi nói, ngay lúc tôi thấy ông A, tôi nhìn ông A và kêu tên ông A thì ngay đó tôi đã trải qua ít nhứt là 6 chập tâm. Mỗi chập là 17. Tức là 6 x 17 cái sát na đó. Nhưng nếu không học Vi Diệu Pháp mình không biết chuyện đó. Mình không biết cái tâm mình nó vô thường như vậy, như dòng nước chảy vậy. Phật còn nói thêm các con không phải khơi khơi các con thấy được, mà phải có ít nhứt những yếu tố sau đây:
-Trước hết đương sự nào muốn nhìn thấy là đương sự đó phải có cặp mắt tốt, tức có thị giác hoàn toàn, chứ mình cận lờ mờ thì thấy cái chi. Tức là thị giác còn.
-Thứ hai là phải đủ ánh sáng, chớ tối thui sao thấy. Hoặc sáng quá cũng bị lóa mắt. Tức là có ánh sáng thích hợp.
-Thứ ba là có cảnh sắc, tức là có cái gì để mình thấy. Như mình ngó vào khoảng không không thấy gì, nếu không có mây thì không thấy gì.
Nên Đức Phật nói sự thấy phải có 4 tiêu chuẩn:
Đây là những sở hữu biến hành. Dầu cái biết của mắt của tai, mũi, lưỡi, thân hay là của ý; cái biết của bất cứ giác quan nào trong 6 giác quan này đều cần có những cái sở hữu vừa kể. Cho nên nó mới được gọi là sở hữu biến hành, bởi vì từ Đức Phật cho đến một người tầm thường nhất trên hành tinh này cũng đều phải có các tâm sở hữu vừa kể.
Nội dung chép (tt):
Và các sở hữu biệt cảnh, chữ Pali nó tương đương chữ private, special, là riêng tư, lẻ tẻ, rời rạc. Các sở hữu này bản thân nó không là thiện, không là ác nhưng mà không phải lúc nào nó cũng có. Sở hữu biệt cảnh gồm: tầm, tứ, thắng giải, cần, hỷ, dục.
-TẦM là sao? Trong Kinh nói tâm mình giống như con ong nó nghe mùi hoa, như con bướm. Sách sinh vật học nói có loài bướm châu Phi con đực và con cái nhận ra hơi nhau 10 km. Hoặc một số loài ó trên thảo nguyên Mông Cổ bay ở trên mà có thể phát hiện ra xác chết của con thỏ nằm bên dưới vực sâu cả cây số.
Kinh nói tâm mình giống như con ong hoặc con bướm. Không biết Phật Pháp thì các vị không thấy điều đó, nhưng khi các vị ngồi thiền thì thấy cái tâm mình y như con bướm đi kiếm này kiếm cái kia: nhớ cái bà đó hồi sáng mới chửi lộn, rồi nhớ lớp học hồi tối, nhớ hòa thượng nói cái gì, nhớ chùa Pháp Luân, nhớ chợ búa, xe cộ, nhớ cảnh sát, nhớ bill, nhớ ngân hàng, nhớ tá lả. Lúc đó tâm mình giống như con bướm nó bay tùm lum. Nên lúc đó minh mới thấm thía là ‘tâm viên ý mã’, nó lộn xộn dữ lắm. Nên nhiều người nói sao con càng hành thiền thì cái tâm con càng động. Tôi nói không phải. Chính vì tâm cô yên quá cô mới biết nó động. Mà bình thường nó động cô không biết, bởi nó có yên đâu. Lúc hành thiền chính là lúc mình moi tâm mình ra trong đó có bao nhiêu đậu đen bao nhiêu đậu trắng. Rồi nhiều người nói hành thiền sao nghe nó khó chịu, ngứa ngáy. Lý do là cái tâm mình quá tịnh.
Đức Phật nói thế này: “Ta nói các con biết không có một phút giây nào mà cái thân của các con được an lạc”.
Khi mình không hành thiền mình không hiểu được câu đó đâu. Nói thật với đại chúng vậy. Mình thấy sướng quá, tối tắm sạch sẽ trùm chăn nếu trời lạnh coi tivi, nó sướng chớ đâu có đau đớn gì đâu. Mà không phải. Lúc đó cái tâm mình nó đang loạn!
Bây giờ nhắm mắt lại, tập trung hơi thở, chánh niệm một lúc sẽ thấy là nó nhột, nó đau nó nhức, ngứa. Rồi cái tâm mình nó nhớ lung tung.
Nói chung thân tâm mình luôn luôn có vấn đề, tôi xin nói như vậy. Luôn luôn có vấn đề mà mình không biết. Mình không biết vì mình đâu có cái trình độ định tĩnh lắng yên. Mặt hồ mình nó luôn xao động mà rác rến, đất đá nằm ở dưới mình không thấy. Chừng sóng yên gió lặng rồi nhìn xuống thấy lung tung là lổm ngổm ở dưới. Không phải mặt hồ yên hồ nó dơ hơn mà bởi vì chính mặt hồ yên mình mới thấy rõ. Còn lúc mặt hồ lăn tăn quá mình có thấy gì đâu.
Cho nên ‘tầm’ là sao?
-THẮNG GIẢI: Thắng giải là niềm tin. Niềm tin là một chất keo gắn.
Khi suy nghĩ một vấn đề thì có những trường hợp người ta phải dùng đến đức tin. Đức tin giống như một kim chỉ nam hoặc cái la bàn. Dầu tôi chưa thấy cái đồng hồ này nằm ở đâu, nhưng lúc đi tìm tôi phải có niềm tin là sẽ tìm thấy nó phải không ạ? Đây là một khía cạnh mà đó giờ nếu mình chưa học Phật Pháp mình nghĩ ở đâu có tín ngưỡng ở đó có niềm tin; Ở đâu có niềm tin thì ở đó có tín ngưỡng. Vậy suy nghĩ về vấn đề gì hay đi tìm món đồ gì đó tại sao phải có đức tin. Trong Kinh nói phải có. Việc gì cũng phải có niềm tin. Khi tôi sắp nói sắp làm cái gì tôi cũng phải có niềm tin trong đó. Niềm tin đây không hề có ý nghĩa tôn giáo, mà chính là cái kỳ vọng của tôi, kỳ vọng vào vấn đề: niềm tin có nghĩa rộng như vậy, mà không phải lúc nào cũng có, lúc có lúc không.
- CẦN: Cần là sự cố gắng hoặc là sự năng nổ. Trong ý thức mình luôn luôn có sự cố gắng. Như mình đi với tốc độ rất chậm, nhưng có cái gì cản thì cái ‘bốp’, sưng liền. Thấy đi chậm nhưng mà nó có một sức đẩy, phải không ạ. Bình thường cái tay mình để xuội lơ vầy, nhưng các vị đưa tôi cây viết, tôi nhấn mạnh là cây viết thôi, chớ không phải món gì lớn lao, nhưng nếu các vị có cái máy chụp hình xuyên qua gân cốt da thịt, những tế bào mình các vị sẽ thấy là nếu tôi chỉ đưa tay lên để diễn tả thì không hề có sự cố gắng nào hết. Nhiều khi các vị đưa tôi một món đồ nào đó lúc tôi đưa lên nó có sự cố gắng trong đó liền. Dứt khoát như vậy. Cái tay để xuội lơ vầy nhưng mỗi lần mình nhấc nó lên là trong đó có sự cố gắng mà mình không để ý thấy được. Mình không tin được vì tâm mình nó loạn nên mình không thấy. Cái tay mình để tự nhiên vầy. Mỗi lần tôi muốn nhấc nó lên là ở trên đây phải có sự cố gắng, sự vận động tôi mới nhúc nhích lên được. Nhưng nếu tôi chỉ giơ lên thế này thôi thì còn ít. Nếu các vị đưa tôi món đồ nào đó thì cái sức của tôi nó còn phấn đấu nhiều hơn nữa. Đó là nói về vật lý. Cái tâm lý mình cũng tương tự vậy. Trong bất cứ dòng tư tưởng, suy nghĩ nào của chúng ta thì nó luôn luôn có yếu tố là sự cố gắng, cái khía cạnh năng động và khía cạnh tích cực ở trong dòng tư tưởng mình. Kể cả suy nghĩ ‘Thôi tôi mệt quá rồi tôi đi ngủ”. Thì lúc tôi nghĩ ‘tôi sẽ đi ngủ’ cũng có thể trong lúc đó tôi có ‘cần’, tôi có cái quyết tâm đi ngủ, mặc dầu ngủ là một trạng thái dã dượi, thụ động. Đó là một khía cạnh của tâm lý.
- HỶ: lúc có lúc không chớ không phải lúc nào cũng có. Nó mang tính private chớ không phải lúc nào cũng có. Cái suy nghĩ nào mang tính niềm vui trong đó thì có khía cạnh này.
- DỤC: Dục là ý muốn. Muốn làm gì cũng phải có cái ý muốn. Ý muốn chính là khía cạnh.
Tôi xin thưa với đại chúng những điều này là mình đang học bằng biết, đang học bằng lý thuyết, bằng bảng đen phấn trắng, mình khó mà thấm thía được nó. Một lúc nào đó khi các vị ngồi yên lại với chính mình các vị sẽ thấy đâu là tầm, đâu là tứ, là thắng giải, là cần, là hỷ, đâu là dục. Nó ghê gớm như vậy. Một lúc nào đó các vị sẽ thấy rằng khi hòa thượng trụ trì hoặc thượng tọa hoặc chúng tôi hướng dẫn thì các vị sẽ thấy bình thường mình đâu có cố gắng thở phải không ạ? Vậy các vị chú ý hơi thở đi: thở ra, hít vào. Khi mình tập trung tư tưởng vậy mình là người điều khiển hơi thở chớ không phải theo dõi hơi thở. Tối nay mình về làm thử coi. Tôi nói các vị biết hành thiền đề mục hơi thở dứt khoát là thường là điều khiển hơi thở, chẳng có phải theo dõi. Cái khó hay cái dễ của đề mục hơi thở đều nằm ở chỗ đó./.
Mục Lục các Bài Giảng
(Hết)
https://www.toaikhanh.com/videotext.php?vid=jP5U-K8Zq9s&abt=Th%C3%A0nh+t%E1%BB%91+%C3%BD+th%E1%BB%A9c
Nội dung chép (tt):
(Xúc, thọ, tưởng, tư, mạng quyền, tác ý). Mấy cái này có mặt trong tất cả các tâm, nó là biến hành. Nó đi trong tất cả các tâm.
- XÚC là sao? – Xúc là touch, đụng chạm. Tôi suy nghĩ về một người nào đó là coi như ý thức của tôi gắn với hình ảnh người đó. Trong Kinh nói mình suy nghĩ về cái gì thì cái tâm mình hướng về cái đó, gắn vào cái đó. Thì cái ‘gắn’ đó gọi là xúc.
- THỌ: không bao giờ có một dòng tư tưởng mà không có cảm giác. Chuyện đó không có. Dòng tư tưởng nào cũng có cảm giác cả: vui, buồn hoặc nó lửng lửng. Vui là hỷ, buồn là ưu,lửng lửng là xả. Cho nên không có một cái tâm nào mà không có cảm giác, cũng giống như không có một thức ăn nào mà không có hương vị cả. Ít nhứt nó phải có mùi vị chứ. Tệ nhứt là nước mưa mà nó cũng hơi lạt lạt, còn bào ngư thì nó nhạt nhạt dai dai. Có chứ, chứ không có một thức ăn nào không có mùi vị.
Đó là xúc, thọ. Tức là không có một tâm nào khi biết cảnh mà nó thiếu khía cạnh xúc. Xúc tạm nói một cách thô thiển là đụng chạm. Còn Thọ tức là khía cạnh cảm giác.
-TƯỞNG: tưởng là kinh nghiệm hay hồi ức. Không có bài nào các vị viết mà các vị không dùng hồi ức. Mình có biết cái gì mà mình không dựa trên ý thức không? Không có. Kể cả cái người chưa từng gặp mà các vị cũng dùng hồi ức nữa. Tôi thí dụ như bác sĩ Minh tôi chưa gặp ổng lần nào, mà tôi biết ổng là đàn ông bởi cái hồi ức nó dạy tôi là ông nào có râu là đàn ông. Có cái bụng phệ vậy là đàn ông. Tuy tôi chưa gặp ổng nhưng cái chuyện râu ria tôi biết chứ, thì đó là tưởng. Tôi nhìn ổng, nếu không phải là bác sĩ tôi kêu bằng chú được vì chắc ổng nhỏ hơn ông già tôi. Chính cái ký ức cho tôi biết rằng mắt có đuôi chim, tóc lốm đốm muối tiêu. Cái mà cho tôi biết như vậy là ký ức chớ gì nữa. Đó là tưởng.
- TƯ: ‘tư’ là không có một dòng tư tưởng nào mà không có sự đầu tư của ý thức. Các vị dầu thích tôi hay không thích tôi thì khi gặp tôi dứt khoát các vị cũng phải có một chút gì đó suy nghĩ về tôi chớ. Thí dụ các vị đang đi mà trong trăm ngàn âm thanh khác tại sao các vị không chú ý mà chú ý cái tên của mình? Người ta nói rằng không có âm thanh nào dễ thương bằng cái tên của mình.Tôi thấy rằng cái tên Giác Nguyên là chữ đẹp nhứt trong từ điển! Tôi nói thật. Thí dụ bây giờ các vị cúng đồ cho chùa, để hòa thượng, thượng tọa, trụ trì các vị khác tôi thấy không có gì hay mà thấy cái tên tôi cái chữ nó đẹp liền! Thấy chưa, tức là tôi có đầu tư ý thức trong đó. Hoặc là tôi ghét cái anh này, trong trăm ngàn thiên hạ tôi không nhìn mà tôi đang ăn nghe cái tiếng ảnh cười tôi bực mình liền. Đó là sự đầu tư ý thức. Cái tâm mình ghim vào. Tôi tin chắc trong đời sống các vị có cái đó.
- MẠNG QUYỀN: mạng quyền chính là tuổi thọ của mỗi thought moment. Tức là mỗi chập tư tưởng dầu nó ngắn ngủi cách mấy nó cũng phải có cái tuổi thọ của nó. Và cái tuổi thọ đó chính là cái mạng quyền của một dòng tư tưởng. Cái tâm nó sanh diệt nhanh nhưng vẫn có thời gian của nó. Thời gian đó là tuổi thọ, và tuổi thọ đó chính là sở hữu mạng quyền.
- TÁC Ý : Tư là sự đầu tư của ý thức. Còn tác ý là sự chú ý. Chú ý vào cảnh. Trong Kinh nói người không biết đạo thì nói là ‘tôi nhìn thấy cái bông, nghe máy nó hát’. Nhưng trong Phật giáo nói rằng, như nãy tôi nói, ngay lúc tôi thấy ông A, tôi nhìn ông A và kêu tên ông A thì ngay đó tôi đã trải qua ít nhứt là 6 chập tâm. Mỗi chập là 17. Tức là 6 x 17 cái sát na đó. Nhưng nếu không học Vi Diệu Pháp mình không biết chuyện đó. Mình không biết cái tâm mình nó vô thường như vậy, như dòng nước chảy vậy. Phật còn nói thêm các con không phải khơi khơi các con thấy được, mà phải có ít nhứt những yếu tố sau đây:
-Trước hết đương sự nào muốn nhìn thấy là đương sự đó phải có cặp mắt tốt, tức có thị giác hoàn toàn, chứ mình cận lờ mờ thì thấy cái chi. Tức là thị giác còn.
-Thứ hai là phải đủ ánh sáng, chớ tối thui sao thấy. Hoặc sáng quá cũng bị lóa mắt. Tức là có ánh sáng thích hợp.
-Thứ ba là có cảnh sắc, tức là có cái gì để mình thấy. Như mình ngó vào khoảng không không thấy gì, nếu không có mây thì không thấy gì.
Nên Đức Phật nói sự thấy phải có 4 tiêu chuẩn:
- thị giác,
- ánh sáng vừa đủ,
- có object rõ ràng và
- thứ tư là tác ý.
Đây là những sở hữu biến hành. Dầu cái biết của mắt của tai, mũi, lưỡi, thân hay là của ý; cái biết của bất cứ giác quan nào trong 6 giác quan này đều cần có những cái sở hữu vừa kể. Cho nên nó mới được gọi là sở hữu biến hành, bởi vì từ Đức Phật cho đến một người tầm thường nhất trên hành tinh này cũng đều phải có các tâm sở hữu vừa kể.
Nội dung chép (tt):
Và các sở hữu biệt cảnh, chữ Pali nó tương đương chữ private, special, là riêng tư, lẻ tẻ, rời rạc. Các sở hữu này bản thân nó không là thiện, không là ác nhưng mà không phải lúc nào nó cũng có. Sở hữu biệt cảnh gồm: tầm, tứ, thắng giải, cần, hỷ, dục.
-TẦM là sao? Trong Kinh nói tâm mình giống như con ong nó nghe mùi hoa, như con bướm. Sách sinh vật học nói có loài bướm châu Phi con đực và con cái nhận ra hơi nhau 10 km. Hoặc một số loài ó trên thảo nguyên Mông Cổ bay ở trên mà có thể phát hiện ra xác chết của con thỏ nằm bên dưới vực sâu cả cây số.
Kinh nói tâm mình giống như con ong hoặc con bướm. Không biết Phật Pháp thì các vị không thấy điều đó, nhưng khi các vị ngồi thiền thì thấy cái tâm mình y như con bướm đi kiếm này kiếm cái kia: nhớ cái bà đó hồi sáng mới chửi lộn, rồi nhớ lớp học hồi tối, nhớ hòa thượng nói cái gì, nhớ chùa Pháp Luân, nhớ chợ búa, xe cộ, nhớ cảnh sát, nhớ bill, nhớ ngân hàng, nhớ tá lả. Lúc đó tâm mình giống như con bướm nó bay tùm lum. Nên lúc đó minh mới thấm thía là ‘tâm viên ý mã’, nó lộn xộn dữ lắm. Nên nhiều người nói sao con càng hành thiền thì cái tâm con càng động. Tôi nói không phải. Chính vì tâm cô yên quá cô mới biết nó động. Mà bình thường nó động cô không biết, bởi nó có yên đâu. Lúc hành thiền chính là lúc mình moi tâm mình ra trong đó có bao nhiêu đậu đen bao nhiêu đậu trắng. Rồi nhiều người nói hành thiền sao nghe nó khó chịu, ngứa ngáy. Lý do là cái tâm mình quá tịnh.
Đức Phật nói thế này: “Ta nói các con biết không có một phút giây nào mà cái thân của các con được an lạc”.
Khi mình không hành thiền mình không hiểu được câu đó đâu. Nói thật với đại chúng vậy. Mình thấy sướng quá, tối tắm sạch sẽ trùm chăn nếu trời lạnh coi tivi, nó sướng chớ đâu có đau đớn gì đâu. Mà không phải. Lúc đó cái tâm mình nó đang loạn!
Bây giờ nhắm mắt lại, tập trung hơi thở, chánh niệm một lúc sẽ thấy là nó nhột, nó đau nó nhức, ngứa. Rồi cái tâm mình nó nhớ lung tung.
Nói chung thân tâm mình luôn luôn có vấn đề, tôi xin nói như vậy. Luôn luôn có vấn đề mà mình không biết. Mình không biết vì mình đâu có cái trình độ định tĩnh lắng yên. Mặt hồ mình nó luôn xao động mà rác rến, đất đá nằm ở dưới mình không thấy. Chừng sóng yên gió lặng rồi nhìn xuống thấy lung tung là lổm ngổm ở dưới. Không phải mặt hồ yên hồ nó dơ hơn mà bởi vì chính mặt hồ yên mình mới thấy rõ. Còn lúc mặt hồ lăn tăn quá mình có thấy gì đâu.
Cho nên ‘tầm’ là sao?
- Tầm là đi tìm cảnh.
- Còn ‘tứ’ là chăm chú vào cảnh.
- tầm’ là sự hướng tâm đến cảnh,
- còn ‘tứ’ là sự chăm sóc cảnh.
-THẮNG GIẢI: Thắng giải là niềm tin. Niềm tin là một chất keo gắn.
Khi suy nghĩ một vấn đề thì có những trường hợp người ta phải dùng đến đức tin. Đức tin giống như một kim chỉ nam hoặc cái la bàn. Dầu tôi chưa thấy cái đồng hồ này nằm ở đâu, nhưng lúc đi tìm tôi phải có niềm tin là sẽ tìm thấy nó phải không ạ? Đây là một khía cạnh mà đó giờ nếu mình chưa học Phật Pháp mình nghĩ ở đâu có tín ngưỡng ở đó có niềm tin; Ở đâu có niềm tin thì ở đó có tín ngưỡng. Vậy suy nghĩ về vấn đề gì hay đi tìm món đồ gì đó tại sao phải có đức tin. Trong Kinh nói phải có. Việc gì cũng phải có niềm tin. Khi tôi sắp nói sắp làm cái gì tôi cũng phải có niềm tin trong đó. Niềm tin đây không hề có ý nghĩa tôn giáo, mà chính là cái kỳ vọng của tôi, kỳ vọng vào vấn đề: niềm tin có nghĩa rộng như vậy, mà không phải lúc nào cũng có, lúc có lúc không.
- CẦN: Cần là sự cố gắng hoặc là sự năng nổ. Trong ý thức mình luôn luôn có sự cố gắng. Như mình đi với tốc độ rất chậm, nhưng có cái gì cản thì cái ‘bốp’, sưng liền. Thấy đi chậm nhưng mà nó có một sức đẩy, phải không ạ. Bình thường cái tay mình để xuội lơ vầy, nhưng các vị đưa tôi cây viết, tôi nhấn mạnh là cây viết thôi, chớ không phải món gì lớn lao, nhưng nếu các vị có cái máy chụp hình xuyên qua gân cốt da thịt, những tế bào mình các vị sẽ thấy là nếu tôi chỉ đưa tay lên để diễn tả thì không hề có sự cố gắng nào hết. Nhiều khi các vị đưa tôi một món đồ nào đó lúc tôi đưa lên nó có sự cố gắng trong đó liền. Dứt khoát như vậy. Cái tay để xuội lơ vầy nhưng mỗi lần mình nhấc nó lên là trong đó có sự cố gắng mà mình không để ý thấy được. Mình không tin được vì tâm mình nó loạn nên mình không thấy. Cái tay mình để tự nhiên vầy. Mỗi lần tôi muốn nhấc nó lên là ở trên đây phải có sự cố gắng, sự vận động tôi mới nhúc nhích lên được. Nhưng nếu tôi chỉ giơ lên thế này thôi thì còn ít. Nếu các vị đưa tôi món đồ nào đó thì cái sức của tôi nó còn phấn đấu nhiều hơn nữa. Đó là nói về vật lý. Cái tâm lý mình cũng tương tự vậy. Trong bất cứ dòng tư tưởng, suy nghĩ nào của chúng ta thì nó luôn luôn có yếu tố là sự cố gắng, cái khía cạnh năng động và khía cạnh tích cực ở trong dòng tư tưởng mình. Kể cả suy nghĩ ‘Thôi tôi mệt quá rồi tôi đi ngủ”. Thì lúc tôi nghĩ ‘tôi sẽ đi ngủ’ cũng có thể trong lúc đó tôi có ‘cần’, tôi có cái quyết tâm đi ngủ, mặc dầu ngủ là một trạng thái dã dượi, thụ động. Đó là một khía cạnh của tâm lý.
- Tầm là sự đi tìm cảnh.
- Tứ là sự chăm sóc cảnh.
- Thắng giải là niềm tin trong mọi suy nghĩ.
- Cần là sự cố gắng.
- HỶ: lúc có lúc không chớ không phải lúc nào cũng có. Nó mang tính private chớ không phải lúc nào cũng có. Cái suy nghĩ nào mang tính niềm vui trong đó thì có khía cạnh này.
- DỤC: Dục là ý muốn. Muốn làm gì cũng phải có cái ý muốn. Ý muốn chính là khía cạnh.
Tôi xin thưa với đại chúng những điều này là mình đang học bằng biết, đang học bằng lý thuyết, bằng bảng đen phấn trắng, mình khó mà thấm thía được nó. Một lúc nào đó khi các vị ngồi yên lại với chính mình các vị sẽ thấy đâu là tầm, đâu là tứ, là thắng giải, là cần, là hỷ, đâu là dục. Nó ghê gớm như vậy. Một lúc nào đó các vị sẽ thấy rằng khi hòa thượng trụ trì hoặc thượng tọa hoặc chúng tôi hướng dẫn thì các vị sẽ thấy bình thường mình đâu có cố gắng thở phải không ạ? Vậy các vị chú ý hơi thở đi: thở ra, hít vào. Khi mình tập trung tư tưởng vậy mình là người điều khiển hơi thở chớ không phải theo dõi hơi thở. Tối nay mình về làm thử coi. Tôi nói các vị biết hành thiền đề mục hơi thở dứt khoát là thường là điều khiển hơi thở, chẳng có phải theo dõi. Cái khó hay cái dễ của đề mục hơi thở đều nằm ở chỗ đó./.
Mục Lục các Bài Giảng
(Hết)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh