2021-10-17, 06:30 PM
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Trung Bộ Kinh 3 - Kinh Thừa Tự Pháp (2-2)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=F-LyY1XtLwE&abt=Th%E1%BB%ABa+t%E1%BB%B1+ph%C3%A1p
Tôi muốn nói một chuyện là khi mình biết nhiều về Đức Phật, đó là bài Kinh nói về tướng hảo, cái tế hạnh uy nghi của Đức Phật nhưng mà chưa đủ. Mình hiểu về Phật pháp của Ngài, mỗi khi mình có một cơn nóng giận mà mình không control được, mình chực nhớ Đức Phật đối với những cơn giận này Ngài không có. Hoặc những lần lửa tham dục mình nó cháy phừng mình nhớ rằng Phật không có cái đó. Các vị hãy tưởng tượng , một lần mình nhịn nó khó cỡ nào, mà Ngài đã nhịn như vậy từ vô số kiếp rồi. Khi nghĩ về Đức Phật như vậy, sự niệm Phật của mình mới có hiệu quả.
Nói chung mỗi lần mình gặp chướng duyên thì phải nhớ tới Ngài. Mấy bữa mình nghĩ lửa có thể cháy trong tim mình được, nó đốt cháy cả người mình mình phải nhớ là Ngài không có cái đó.
Có một lần một vị cư sĩ bị bịnh nặng Đức Phật đến thăm, (gia đình mời), Ngài nói một câu thế này:
“Bây giờ con chỉ cần nhớ ba điều:
Đây là kinh nghiệm mai mốt bị bịnh nhớ. Đau quá thì hãy nhớ:
“Đức Phật là người đã vượt qua nỗi đau này. Giáo Pháp Đức Phật là con đường dẫn đến sự vắng mặt nỗi đau này. Tăng chúng, tăng già đệ tử Thế Tôn là người đang đi trên con đường dẫn đến sự chấm dứt nỗi đau này”.
Mình truyền đăng tục diệm là làm sao kế thừa ngọn lửa, ngọn đuốc mà Đức Phật đã để lại cho mình. Cuộc đời nó vốn lạnh lẽo, tăm tối. Lòng người lạnh lẽo. Quan trọng là lúc nào mình thấy trong lòng mình vắng mặt ngọn lửa mình không thấy đường, hãy nhớ rằng tại sao mình còn tha thiết với chùa, tha thiết với Tam Bảo, thì lúc đó là trong lòng mình còn có một Đức Phật. Đời tu mình ra sao cũng được nhưng hãy nhớ: dầu mình có phạm lỗi lầm gì thì thời gian phạm lỗi đó chỉ mười mấy hai chục phút thôi. Nhưng cái quan trọng là ngọn lửa đó mình không được 100% thì nghĩ rằng trong một ngày mình dành cho Đức Phật năm ba tiếng đồng hồ ngọn lửa của Ngài cháy trong lòng mình thì coi như mình đã làm được bài Kinh Thừa Tự Pháp.
Khi Đức Phật nói rằng hãy làm người thừa tự Pháp, đừng làm kẻ thừa tự tài sản Như Lai thì ngài Xá Lợi Phật đã giảng rằng: Thừa tự Pháp có nghĩa là Đức Phật là bậc Đạo sư của mình, ngài tán thán sống viễn ly, hạnh một mình thì mình đệ tử cũng phải viễn ly, điều gì Đức Phật dạy bỏ mình bỏ. Điều thứ ba nữa là - . Lúc ngài Rahula được 7 tuổi, Đức Phật về thăm hoàng cung. Bà Dadu đứng ở trên lầu nhìn xuống nói con đi theo xin Ngài, Ngái có nhiều gia tài, vì Ngài là người duy nhứt ở quốc gia này biết được các hầm châu báu chôn ở đâu. Đức Phật thấy ngài Rahula đi theo màNgài im lặng. Ngài Rahula nói: “Bạch Thế Tôn, con đi bên Thế Tôn bóng mát của Ngài con thấy mát hơn một ngàn bóng cây trong rừng”. Rahula làm theo lời mẹ đến bên chân Đức Phật thỏ thẻ “Thế Tôn - ánh Đạo vàng. Bóng cha sao mát hơn ngàn bóng cây”. Đức Phật ngài nói “Đi về chùa nghe”, thì ngài Rahula lấp sấp lấp sấp đi theo. Về đến nơi Ngài nói với ngài Xá Lợi Phất “Cho tu đi”. Thì Rahula hiếu học lắm, một ngày ra trước chùa có đống cát, nắm mớ cát thảy lên “Bữa nay tôi sẽ học bao nhiêu đây”. Đệ nhất về hiếu học là ngài Rahula.
(dò tới đây 0:48:53)
Có đêm chư tăng về đông lắm không có chỗ ngủ. Lúc đó luật cấm không cho sa di ngủ với tỳ kheo, ngài ra ngoài xin ngủ. Khuya Phật đi Phật gõ cửa, luật cấm là không được phép bước vào nhà tắm nhà tiêu mà quên gõ cửa. Luật của Đức Phật rất giống cách lịch sự của hoàng phái bởi vì Đức Phật là một ông vua, cho nên tỳ kheo giữ đúng luật bản thân tỳ kheo đã là sang rồi. Tỳ kheo giữ 250 là sang lắm. Ăn không khua. Ăn mà khua là phạm, húp rột rột là phạm. Hồi nhỏ tôi học là ‘Ăn là không húp rột rột. Ta phải học tập là ta không ăn mà lách chách cái miệng’. Một ngàn ông ăn mà êm re.
Vua A Xà Thế một đêm thấy trăng đẹp quá vua nói đêm nay ta muốn đi tìm vị tu sĩ nào đó để hỏi Đạo, trăng thơ mộng quá chớ còn hưởng dục lạc thì trẫm đã chán rồi. Thì mỗi ông quan hướng dẫn lại ông thầy này thầy kia. Trong đó có một ông nói ‘Lại gặp đức Phật đi’. Do duyên lành vua nghe tới chữ ‘Phật’ vua thích, đi thử. Vua ngồi trên xe đi đến cái chỗ mà xe không chạy được nữa thì vua xuống vua đi bộ. Vua đi một hồi từ từ tới chỗ vắng quá vua sợ, vua hỏi tới chưa. Quan nói còn chút nữa. Đi càng vô sâu ổng nắm chặt hỏi tới chưa. –Tới rồi. Vua hỏi ‘ Đức Thế Tôn ở chỗ nào?’.
-Ngài đang ngồi chỗ đó đó.
-Hồi nãy ngươi nói với ta là đông đảo chư tăng lắm mà.
-Phải, trên một ngàn vị.
Vua nói Trời, hơn một ngàn người ngồi đây. Có phải khanh muốn hại trẫm không (vì dắt vua tới chỗ vắng). Trên 1.000 người chỗ đó mà không có một tiếng ho. Tức là cái hội chúng của Đức Phật ngài huấn luyện, cách ăn mặc thì huấn luyện theo Hoàng phái, mà kỷ luật trong hội chúng thì theo kỷ luật của quân đội. Các vị tưởng tượng, một người vừa hoàng phái mà cộng với quân đội thì xuất sắc cỡ nào. Đó là lý do khi mình tiếp xúc với vị hòa thượng nó không giống như ngoài đời. Như ngày xưa tôi đi dự lễ các chùa cái ông sư xuất gia lúc lớn tuổi nó khác với vị hòa thượng. Cách đi đứng không giống, có nhiều vị lên ăn, ăn xong có cái bánh ít ngon quá, bỏ vô trong túi đem về. Chớ hòa thượng thì không có. Các vị hòa thương không có. Lạ lắm, cái con mắt không giống người ta. Cái cách đi đứng không giống người ta. Mà các vị phản ứng khi mình đến mình chào cũng không giống. Nó có cái oai của ổng.
Tôi biết một vị sĩ quan hồi đó ổng đi Biệt động, một lần có ông tướng vùng xuống thị sát mà không báo trước. Ổng ở trên xe Jeep ổng đi xuống bốn người, một tài xế với ba người nữa đều mặc uniform giống nhau, không sao không siếc gì hết. Nhưng ông trung úy ổng nói với tôi: nhìn cái mặt biết sư. Đi đứng không giống ai hết trơn. Mới nhìn không biết. Nhưng lúc ổng đi vô ăn uống, cách ổng đi ổng nhìn, ác cái là ông đó còn thấp hơn người đi chung nữa, tướng hơi nhỏ con, mà nhìn không lầm được. Con mắt người ta bậc chính nhân con mắt không láo liên. Nhìn thẳng hà, chỉ nhìn chỗ đáng nhìn, chỗ nên nhìn, nói cái đáng nói và đi như đáng đi. Tàu nói “Quân tử bất nhập trù phòng” (Quân tử không xuống bếp). Nói như vậy không có nghĩa chúng tôi xuống bếp thì chúng tôi là tiểu nhân. Nhưng đại khái là không xuống chỗ của phụ nữ nếu nó không cần thiết.
Tôi kể các vị nghe một chuyện, nó vừa xảy ra trong đầu thì tôi kể. Hồi nãy tôi kể chuyện ông sư bạn, giờ kể chuyện ông anh ruột ở VN, sư huynh của sư trụ trì. Chỉ có cặp mắt sư mà sư độ được cả gia đình, quí vị có nghe chuyện đó không? Sư thuyết Pháp trong vườn sâu, đi bằng đò vô mà nhà đó toàn con gái không. Sư ăn xong, các vị nhìn vị đó thì sẽ thương, sư nhỏ mà sư đi đẹp lắm. Ngồi hồi sư nói ‘Sư muốn đi nhà tắm chút’. Thì gia đình chỉ đường cho đi. Hồi nãy họ mời sư thuyết Pháp vì sư là vị Pháp sư duy nhứt ở miền Tây VN. Nhưng sau khi từ rest room sư đi ra trở vô thì cả nhà, bà má bà cụ của nhà đó bả khen hoài. Từ đó sư thành một ứng cử viên sáng giá. Bả khen kiểu bà già trầu: ‘Người ta vậy mới là một ông sư chớ’. Từ ở nhà trên đi xuống nhà dưới không ngó hai bên phòng, không nhìn là không nhìn, cửa phòng thì cái mở cái khép, không nhìn. Trên đi xuống dưới đúng cái chỗ làm việc gì của mình xong rồi đi lên, hai bên không có nhìn.
Trong đời tôi có gặp một số vị, ngài Hộ Giác cái cách mà ngài đi ra chỗ đám đông mình học được. Một vị nữa là hòa thượng Minh Châu, vị này đặc biệt. Ngài nhỏ người, thấp, ngũ đoản mà cái gì cũng ngắn ngắn mà cách đi đứng chỉ vừa đủ thôi. Tôi nói hoài tu là gì? Tu là cái gì cũng vừa đủ cả, đó là tu. Dùng cặp mắt vào cái việc phải dùng, lỗ tai chỉ dùng vào việc phải dùng. Mũi, lưỡi, thân cũng dùng vào việc phải dùng. Tâm mình cũng dùng vào việc phải dùng. Ngoài ra cái gì không cần thiết, bỏ. Nếu ai hỏi tu là gì, ta có thể nói:
“Tu là dùng lục căn đúng chỗ. Chỗ nào không cần thiết không dùng”.
Muốn giải thoát đừng nói ông Tư bà Tám đạo gì đạo khoai đạo chuối , đạo dừa, không cần. Chỉ nói tu theo Đức Phật là chỉ dùng sáu căn vào chỗ nên dùng, ngoài ra không dùng. Ngài Nan Đa đệ nhất thu thúc lục căn, ngài có hạnh thế này: khi Ngài đi ngài muốn ngước lên nhìn thì trong bụng, trong đầu Ngài có suy nghĩ ‘Ta sẽ không có phiền não khi ta nhìn’. Nghĩ vậy xong Ngài mới ngước. Rồi khi xoay người lại Ngài nghĩ trong bụng ‘Ta sẽ không có phiền não khi ta nhìn về hướng này’. Nghĩ như vậy thì Ngài mới nhìn. Người mà sống trong tình trạng nó warming liên tục như vậy thật là thanh tịnh. Nói chung là mình đừng có bàn thiền gì cao siêu. Thiền là vậy. Chỉ sử dụng lục căn vào chỗ cần sử dụng đúng mức cần thiết. Các vị có giảng về Bát Thánh Đạo, về Thất Giác Chi cho nó cao siêu. Không cần cao siêu, cứ nói gọn thôi: Tu thiền, nội dung Phật Pháp chính là tu Tứ Niệm Xứ, mà nội dung Tứ Niệm Xứ đó là sử dụng lục căn đúng như mức cần thiết. Cái gì dư không dùng.
Có lần Đức Phật nói: “Thà mắt không thấy đường còn tốt hơn dùng mắt để khởi tham sân. Thà tai không nghe còn hơn để tai khởi tham sân. Thà mũi bị nghẹt còn hơn vì nó mà khởi tham sân. Thà để lưỡi mình bị mất vị giác còn hơn . Thà nằm ngủ còn hơn để khởi tham sân”.
Đức Phật nói với ông Bahya: “Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ là nếm”.
Tại sao mình không thành thánh, là bởi vì mình không làm được những gì mình đã học, không làm được những gì mình đã hiểu. Thật ra tất cả những điều mình vừa nói, bây giờ dầu mình có học hết Tam Tạng, mình nói về Pháp tu thì cũng nói bao nhiêu đó thôi. Còn các vị có nghe tôi nói rằng dùng lục căn đúng chỗ là sao? Tức là con mắt để thấy đường thì cái gì cần thiết nhìn thì nhìn. Còn lỗ tai cũng chỉ dùng ở đúng mức cần thiết thôi. Thí dụ , nói ‘Nhìn mặt sư sao tôi không ưa’, mình nghĩ ‘Ờ không ưa thì thôi’. Chớ mình không cần thiết về suy nghĩ tại sao người ta không ưa mình. Trên đời này làm sao mình sống vừa lòng hết mọi người. Hoặc các vị biết có lúc tôi bị sốc mắc cười. Chuyện này là chuyện riêng của tôi. Có bữa ngài hòa thượng ngồi đây, sư huynh, ngài Bửu Phương, sư Trí Tịnh với tôi, ngồi nói chuyện bình thuờng thôi. Có vị Phật tử (tôi giấu tên người đó) họ rót nước cho mỗi người một ly, đến ly của tôi vừa nhỏ vừa mẻ. Buồn chứ! Hồi nãy cô hỏi tôi nhìn vừa đủ là nhìn sao, thì tôi nói trường hợp đó. Cái ly là đựng nước, mà quả thật mình có nước uống là được rồi, là hết rồi, không cần phải bàn là tại sao họ lấy cái ly xấu nhứt cho mình. Khi mà mình nghĩ tới chuyện tại sao họ lấy ly xấu nhứt cho mình, chắc là họ ghét mình , lúc đó là mình dùng lục căn nó over rồi. Vấn đề là chỗ đó. Tức là đến đây thôi, chớ mình đi mình nghĩ xa rồi mình buồn.
Tôi muốn mượn chuyện này nói là nếu tôi đúng là vị hành giả tôi thấy tôi biết là tôi thấy thì tôi không buồn. Nhưng vì tôi thấy mà tôi dùng lục căn tôi quá mức cần thiết, cho nên tôi buồn. Tôi chỉ mượn câu chuyện để nói là tu thiền nghĩa là mình dùng lục căn của mình đúng và đủ. Đúng là đúng chỗ và đủ là nó không vượt qua cái mức mình phải bớt khổ. Tôi vẫn nói trên mấy thời Pháp. Chúng ta khổ là vì chúng ta không phân biệt được cái mình cần và cái mình thích. Tu thiền chính là mình biết cái nào là mình cần, cái nào là mình thích. Nên nhớ tu thiền là dùng lục căn đúng chỗ. Cái chỗ nào thấy nó không cần dùng thì mình . Tôi dám bảo đảm 99% cái khổ trên cuộc đời này là do mình dùng lục căn nó over, nó sai. Chớ thật ra đời sống nó không ngọt cũng không đắng. Tại vì mình dùng over mình thấy nó ngọt hoặc thấy nó đắng. Như Đức Phật, ngài Xá Lợi Phất, các Ngài không ham sống cũng không sợ chết. Đối với các ngài cái gì nó đúng thì thôi.
Tôi nhớ Tàu có câu “Quân tử tình như đạm thủy”, câu đó họ dùng trong chỗ khác, nhưng ở đây tôi muốn nói trong ý nghĩa khác. Quân tử tình như đạm thủy là cái tình của người quân tử giống như nước lạnh. Tức là chè cháo ngon thiệt, thơm thiệt nhưng mình để qua hai đêm là nó thiu, trừ ra mình để trong tủ lạnh. Tui nói để ngoài nhe, thì chè cháo hai đêm là hư, nhưng nước lạnh chỉ cần quí vị đậy lại thôi, đừng để bụi lọt vô, thì 10 năm sau 20 năm sau cũng ok.
Mình tu mình giữ lòng mình như nước vậy đó, tức là mình không cần thiết phải bỏ thêm gia vị: tôi phải tế nhị, tôi phải lịch sự, tôi phải mua lòng người này làm vừa lòng người kia. Thật ra những cái đó trong đời sống nó là con dao hai lưỡi, nó làm cho mình vui được thì cũng chính nó làm cho mình buồn được. Thí dụ các vị giúp đỡ tôi giúp chỉ để mà giúp thôi, không có cái hậu ý gì trong đó hết, khi tôi nhận sự giúp đỡ chỉ là nhận mà không có ý gì khác, thì giống như nước lạnh không có gì hết. Nhưng nếu mình bỏ vào đó những gia vị: ờ chắc họ thương mình, họ có vấn đề với mình. Chỉ cần lúc cư xử với tôi các vị có ý đó và lúc tôi nhận sự giúp đỡ tôi cũng có ý đó thì cái ân tình bấy giờ không còn là nước lạnh mà nó là chè với cháo, nó hấp dẫn nhưng mà nó không bền.
Còn đối với Đức Phật và các vị La hán các vị không màu mè, cho nên muôn đời các vị vẫn vậy. Dù Đức Phật có sống triệu tuổi, mình ở gần Ngài ngàn năm thì Ngài cũng đối với mình như vậy không thêm không bớt. Ông Đề Bà Đạt Đa ổng nóng nảy lắm. Ổng nói với Kokalica: ‘Ta muốn gặp Thế Tôn’. Kokalica không hiểu, nói ‘Thế Tôn làm sao tha thứ được cho thầy’. Đề Bà Đạt Đa mới nói ‘Ngươi không biết Ngài bằng ta đâu. Ta hại Ngài mà trong lòng Thế Tôn thì ta hay Rahula không có khác’. Ổng ghét Ngài nhưng ổng hiểu Ngài. Mình sống trên đời mình không thể khiến cho mọi người thương mình, nhưng có thể khiến cho mọi người không khinh mình. Đức Phật không phải là người được tất cả chúng sanh thương mến. Điều đó chắc quí vị biết mà. Sao cô dòm tôi với ánh mắt nghi ngờ chuyện đó à. Cô có biết chuyện đó không? Đức Phật không phải một người mà ai cũng thương Ngài đâu nhưng họ không khinh Ngài vì Ngài không làm gì họ khinh hết. Đức Phật và chư thánh chỉ đơn giản một chuyện là đời cần tới đâu Ngài làm tới đó. Đời sống của Ngài cái gì cần phải làm, cái gì cần phải nói, cần phải suy tư thì Ngài cũng nói gì cần nói, làm gì cần làm, suy tư gì cần suy tư, ngoài ra không gì. Còn đối với người không over như vầy thì buồn vui của đời sống không tác động được họ. Vì cái nhận nó tới đó thôi, không nhận hơn nữa. Cái tâm hồn các vị giống như cái miệng mình. Còn tâm hồn mình giống như thùng rác. Cái miệng mình chỉ nhận cái gì ngon ngọt và nó cần thiết, còn cái lòng phàm phu mình giống như cái thùng rác. Cái thùng rác có thể bỏ vào đó những đồ ngon những đồ dở, đồ thơm đồ thúi. Còn lòng các bậc thánh giống như cái miệng: về lượng thì không nhận over, về phẩm chỉ nhận cái gì thôi. Còn phàm phu mình , cái thùng rác có thể chứa over. Thùng rác chùa Pháp Luân nó chứa một tấn. Rồi có lúc xe nó tới đổ, sư huynh mấy ngài đi vắng, nhằm khi chùa không có lễ, tới lúc nó vô đổ trời ơi mình thấy mình tiếc đó. Cũng một lần đổ mà loe hoe hai ba cọng thun gì ở trỏng.
Trả lời Phật tử: (học tới bữa nay còn hỏi nữa). Tựa đề bài Kinh là Thừa Tự Pháp. Trong mỗi bài Kinh có hai phần: số I là duyên khởi (nhân duyên Ngài thuyết Kinh), số II là nội dung Kinh. Rồi trong lòng nó có gì mình cần kể ra thì mình gạch đầu dòng xài số Ả Rập./.
(Hết)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=F-LyY1XtLwE&abt=Th%E1%BB%ABa+t%E1%BB%B1+ph%C3%A1p
Tôi muốn nói một chuyện là khi mình biết nhiều về Đức Phật, đó là bài Kinh nói về tướng hảo, cái tế hạnh uy nghi của Đức Phật nhưng mà chưa đủ. Mình hiểu về Phật pháp của Ngài, mỗi khi mình có một cơn nóng giận mà mình không control được, mình chực nhớ Đức Phật đối với những cơn giận này Ngài không có. Hoặc những lần lửa tham dục mình nó cháy phừng mình nhớ rằng Phật không có cái đó. Các vị hãy tưởng tượng , một lần mình nhịn nó khó cỡ nào, mà Ngài đã nhịn như vậy từ vô số kiếp rồi. Khi nghĩ về Đức Phật như vậy, sự niệm Phật của mình mới có hiệu quả.
Nói chung mỗi lần mình gặp chướng duyên thì phải nhớ tới Ngài. Mấy bữa mình nghĩ lửa có thể cháy trong tim mình được, nó đốt cháy cả người mình mình phải nhớ là Ngài không có cái đó.
Có một lần một vị cư sĩ bị bịnh nặng Đức Phật đến thăm, (gia đình mời), Ngài nói một câu thế này:
“Bây giờ con chỉ cần nhớ ba điều:
- Đức Thế Tôn là người đã vượt qua nỗi khổ mà con đang chịu.
- Thứ hai, giáo Pháp là con đường dẫn đến sự chấm dứt nỗi khổ mà con đang chịu.
- Chư tăng là người đang thực hành con đường dẫn đến sự chấm dứt những nỗi khổ mà con đang chịu”.
Đây là kinh nghiệm mai mốt bị bịnh nhớ. Đau quá thì hãy nhớ:
“Đức Phật là người đã vượt qua nỗi đau này. Giáo Pháp Đức Phật là con đường dẫn đến sự vắng mặt nỗi đau này. Tăng chúng, tăng già đệ tử Thế Tôn là người đang đi trên con đường dẫn đến sự chấm dứt nỗi đau này”.
Mình truyền đăng tục diệm là làm sao kế thừa ngọn lửa, ngọn đuốc mà Đức Phật đã để lại cho mình. Cuộc đời nó vốn lạnh lẽo, tăm tối. Lòng người lạnh lẽo. Quan trọng là lúc nào mình thấy trong lòng mình vắng mặt ngọn lửa mình không thấy đường, hãy nhớ rằng tại sao mình còn tha thiết với chùa, tha thiết với Tam Bảo, thì lúc đó là trong lòng mình còn có một Đức Phật. Đời tu mình ra sao cũng được nhưng hãy nhớ: dầu mình có phạm lỗi lầm gì thì thời gian phạm lỗi đó chỉ mười mấy hai chục phút thôi. Nhưng cái quan trọng là ngọn lửa đó mình không được 100% thì nghĩ rằng trong một ngày mình dành cho Đức Phật năm ba tiếng đồng hồ ngọn lửa của Ngài cháy trong lòng mình thì coi như mình đã làm được bài Kinh Thừa Tự Pháp.
Khi Đức Phật nói rằng hãy làm người thừa tự Pháp, đừng làm kẻ thừa tự tài sản Như Lai thì ngài Xá Lợi Phật đã giảng rằng: Thừa tự Pháp có nghĩa là Đức Phật là bậc Đạo sư của mình, ngài tán thán sống viễn ly, hạnh một mình thì mình đệ tử cũng phải viễn ly, điều gì Đức Phật dạy bỏ mình bỏ. Điều thứ ba nữa là - . Lúc ngài Rahula được 7 tuổi, Đức Phật về thăm hoàng cung. Bà Dadu đứng ở trên lầu nhìn xuống nói con đi theo xin Ngài, Ngái có nhiều gia tài, vì Ngài là người duy nhứt ở quốc gia này biết được các hầm châu báu chôn ở đâu. Đức Phật thấy ngài Rahula đi theo màNgài im lặng. Ngài Rahula nói: “Bạch Thế Tôn, con đi bên Thế Tôn bóng mát của Ngài con thấy mát hơn một ngàn bóng cây trong rừng”. Rahula làm theo lời mẹ đến bên chân Đức Phật thỏ thẻ “Thế Tôn - ánh Đạo vàng. Bóng cha sao mát hơn ngàn bóng cây”. Đức Phật ngài nói “Đi về chùa nghe”, thì ngài Rahula lấp sấp lấp sấp đi theo. Về đến nơi Ngài nói với ngài Xá Lợi Phất “Cho tu đi”. Thì Rahula hiếu học lắm, một ngày ra trước chùa có đống cát, nắm mớ cát thảy lên “Bữa nay tôi sẽ học bao nhiêu đây”. Đệ nhất về hiếu học là ngài Rahula.
(dò tới đây 0:48:53)
Có đêm chư tăng về đông lắm không có chỗ ngủ. Lúc đó luật cấm không cho sa di ngủ với tỳ kheo, ngài ra ngoài xin ngủ. Khuya Phật đi Phật gõ cửa, luật cấm là không được phép bước vào nhà tắm nhà tiêu mà quên gõ cửa. Luật của Đức Phật rất giống cách lịch sự của hoàng phái bởi vì Đức Phật là một ông vua, cho nên tỳ kheo giữ đúng luật bản thân tỳ kheo đã là sang rồi. Tỳ kheo giữ 250 là sang lắm. Ăn không khua. Ăn mà khua là phạm, húp rột rột là phạm. Hồi nhỏ tôi học là ‘Ăn là không húp rột rột. Ta phải học tập là ta không ăn mà lách chách cái miệng’. Một ngàn ông ăn mà êm re.
Vua A Xà Thế một đêm thấy trăng đẹp quá vua nói đêm nay ta muốn đi tìm vị tu sĩ nào đó để hỏi Đạo, trăng thơ mộng quá chớ còn hưởng dục lạc thì trẫm đã chán rồi. Thì mỗi ông quan hướng dẫn lại ông thầy này thầy kia. Trong đó có một ông nói ‘Lại gặp đức Phật đi’. Do duyên lành vua nghe tới chữ ‘Phật’ vua thích, đi thử. Vua ngồi trên xe đi đến cái chỗ mà xe không chạy được nữa thì vua xuống vua đi bộ. Vua đi một hồi từ từ tới chỗ vắng quá vua sợ, vua hỏi tới chưa. Quan nói còn chút nữa. Đi càng vô sâu ổng nắm chặt hỏi tới chưa. –Tới rồi. Vua hỏi ‘ Đức Thế Tôn ở chỗ nào?’.
-Ngài đang ngồi chỗ đó đó.
-Hồi nãy ngươi nói với ta là đông đảo chư tăng lắm mà.
-Phải, trên một ngàn vị.
Vua nói Trời, hơn một ngàn người ngồi đây. Có phải khanh muốn hại trẫm không (vì dắt vua tới chỗ vắng). Trên 1.000 người chỗ đó mà không có một tiếng ho. Tức là cái hội chúng của Đức Phật ngài huấn luyện, cách ăn mặc thì huấn luyện theo Hoàng phái, mà kỷ luật trong hội chúng thì theo kỷ luật của quân đội. Các vị tưởng tượng, một người vừa hoàng phái mà cộng với quân đội thì xuất sắc cỡ nào. Đó là lý do khi mình tiếp xúc với vị hòa thượng nó không giống như ngoài đời. Như ngày xưa tôi đi dự lễ các chùa cái ông sư xuất gia lúc lớn tuổi nó khác với vị hòa thượng. Cách đi đứng không giống, có nhiều vị lên ăn, ăn xong có cái bánh ít ngon quá, bỏ vô trong túi đem về. Chớ hòa thượng thì không có. Các vị hòa thương không có. Lạ lắm, cái con mắt không giống người ta. Cái cách đi đứng không giống người ta. Mà các vị phản ứng khi mình đến mình chào cũng không giống. Nó có cái oai của ổng.
Tôi biết một vị sĩ quan hồi đó ổng đi Biệt động, một lần có ông tướng vùng xuống thị sát mà không báo trước. Ổng ở trên xe Jeep ổng đi xuống bốn người, một tài xế với ba người nữa đều mặc uniform giống nhau, không sao không siếc gì hết. Nhưng ông trung úy ổng nói với tôi: nhìn cái mặt biết sư. Đi đứng không giống ai hết trơn. Mới nhìn không biết. Nhưng lúc ổng đi vô ăn uống, cách ổng đi ổng nhìn, ác cái là ông đó còn thấp hơn người đi chung nữa, tướng hơi nhỏ con, mà nhìn không lầm được. Con mắt người ta bậc chính nhân con mắt không láo liên. Nhìn thẳng hà, chỉ nhìn chỗ đáng nhìn, chỗ nên nhìn, nói cái đáng nói và đi như đáng đi. Tàu nói “Quân tử bất nhập trù phòng” (Quân tử không xuống bếp). Nói như vậy không có nghĩa chúng tôi xuống bếp thì chúng tôi là tiểu nhân. Nhưng đại khái là không xuống chỗ của phụ nữ nếu nó không cần thiết.
Tôi kể các vị nghe một chuyện, nó vừa xảy ra trong đầu thì tôi kể. Hồi nãy tôi kể chuyện ông sư bạn, giờ kể chuyện ông anh ruột ở VN, sư huynh của sư trụ trì. Chỉ có cặp mắt sư mà sư độ được cả gia đình, quí vị có nghe chuyện đó không? Sư thuyết Pháp trong vườn sâu, đi bằng đò vô mà nhà đó toàn con gái không. Sư ăn xong, các vị nhìn vị đó thì sẽ thương, sư nhỏ mà sư đi đẹp lắm. Ngồi hồi sư nói ‘Sư muốn đi nhà tắm chút’. Thì gia đình chỉ đường cho đi. Hồi nãy họ mời sư thuyết Pháp vì sư là vị Pháp sư duy nhứt ở miền Tây VN. Nhưng sau khi từ rest room sư đi ra trở vô thì cả nhà, bà má bà cụ của nhà đó bả khen hoài. Từ đó sư thành một ứng cử viên sáng giá. Bả khen kiểu bà già trầu: ‘Người ta vậy mới là một ông sư chớ’. Từ ở nhà trên đi xuống nhà dưới không ngó hai bên phòng, không nhìn là không nhìn, cửa phòng thì cái mở cái khép, không nhìn. Trên đi xuống dưới đúng cái chỗ làm việc gì của mình xong rồi đi lên, hai bên không có nhìn.
Trong đời tôi có gặp một số vị, ngài Hộ Giác cái cách mà ngài đi ra chỗ đám đông mình học được. Một vị nữa là hòa thượng Minh Châu, vị này đặc biệt. Ngài nhỏ người, thấp, ngũ đoản mà cái gì cũng ngắn ngắn mà cách đi đứng chỉ vừa đủ thôi. Tôi nói hoài tu là gì? Tu là cái gì cũng vừa đủ cả, đó là tu. Dùng cặp mắt vào cái việc phải dùng, lỗ tai chỉ dùng vào việc phải dùng. Mũi, lưỡi, thân cũng dùng vào việc phải dùng. Tâm mình cũng dùng vào việc phải dùng. Ngoài ra cái gì không cần thiết, bỏ. Nếu ai hỏi tu là gì, ta có thể nói:
“Tu là dùng lục căn đúng chỗ. Chỗ nào không cần thiết không dùng”.
Muốn giải thoát đừng nói ông Tư bà Tám đạo gì đạo khoai đạo chuối , đạo dừa, không cần. Chỉ nói tu theo Đức Phật là chỉ dùng sáu căn vào chỗ nên dùng, ngoài ra không dùng. Ngài Nan Đa đệ nhất thu thúc lục căn, ngài có hạnh thế này: khi Ngài đi ngài muốn ngước lên nhìn thì trong bụng, trong đầu Ngài có suy nghĩ ‘Ta sẽ không có phiền não khi ta nhìn’. Nghĩ vậy xong Ngài mới ngước. Rồi khi xoay người lại Ngài nghĩ trong bụng ‘Ta sẽ không có phiền não khi ta nhìn về hướng này’. Nghĩ như vậy thì Ngài mới nhìn. Người mà sống trong tình trạng nó warming liên tục như vậy thật là thanh tịnh. Nói chung là mình đừng có bàn thiền gì cao siêu. Thiền là vậy. Chỉ sử dụng lục căn vào chỗ cần sử dụng đúng mức cần thiết. Các vị có giảng về Bát Thánh Đạo, về Thất Giác Chi cho nó cao siêu. Không cần cao siêu, cứ nói gọn thôi: Tu thiền, nội dung Phật Pháp chính là tu Tứ Niệm Xứ, mà nội dung Tứ Niệm Xứ đó là sử dụng lục căn đúng như mức cần thiết. Cái gì dư không dùng.
Có lần Đức Phật nói: “Thà mắt không thấy đường còn tốt hơn dùng mắt để khởi tham sân. Thà tai không nghe còn hơn để tai khởi tham sân. Thà mũi bị nghẹt còn hơn vì nó mà khởi tham sân. Thà để lưỡi mình bị mất vị giác còn hơn . Thà nằm ngủ còn hơn để khởi tham sân”.
Đức Phật nói với ông Bahya: “Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ là nếm”.
Tại sao mình không thành thánh, là bởi vì mình không làm được những gì mình đã học, không làm được những gì mình đã hiểu. Thật ra tất cả những điều mình vừa nói, bây giờ dầu mình có học hết Tam Tạng, mình nói về Pháp tu thì cũng nói bao nhiêu đó thôi. Còn các vị có nghe tôi nói rằng dùng lục căn đúng chỗ là sao? Tức là con mắt để thấy đường thì cái gì cần thiết nhìn thì nhìn. Còn lỗ tai cũng chỉ dùng ở đúng mức cần thiết thôi. Thí dụ , nói ‘Nhìn mặt sư sao tôi không ưa’, mình nghĩ ‘Ờ không ưa thì thôi’. Chớ mình không cần thiết về suy nghĩ tại sao người ta không ưa mình. Trên đời này làm sao mình sống vừa lòng hết mọi người. Hoặc các vị biết có lúc tôi bị sốc mắc cười. Chuyện này là chuyện riêng của tôi. Có bữa ngài hòa thượng ngồi đây, sư huynh, ngài Bửu Phương, sư Trí Tịnh với tôi, ngồi nói chuyện bình thuờng thôi. Có vị Phật tử (tôi giấu tên người đó) họ rót nước cho mỗi người một ly, đến ly của tôi vừa nhỏ vừa mẻ. Buồn chứ! Hồi nãy cô hỏi tôi nhìn vừa đủ là nhìn sao, thì tôi nói trường hợp đó. Cái ly là đựng nước, mà quả thật mình có nước uống là được rồi, là hết rồi, không cần phải bàn là tại sao họ lấy cái ly xấu nhứt cho mình. Khi mà mình nghĩ tới chuyện tại sao họ lấy ly xấu nhứt cho mình, chắc là họ ghét mình , lúc đó là mình dùng lục căn nó over rồi. Vấn đề là chỗ đó. Tức là đến đây thôi, chớ mình đi mình nghĩ xa rồi mình buồn.
Tôi muốn mượn chuyện này nói là nếu tôi đúng là vị hành giả tôi thấy tôi biết là tôi thấy thì tôi không buồn. Nhưng vì tôi thấy mà tôi dùng lục căn tôi quá mức cần thiết, cho nên tôi buồn. Tôi chỉ mượn câu chuyện để nói là tu thiền nghĩa là mình dùng lục căn của mình đúng và đủ. Đúng là đúng chỗ và đủ là nó không vượt qua cái mức mình phải bớt khổ. Tôi vẫn nói trên mấy thời Pháp. Chúng ta khổ là vì chúng ta không phân biệt được cái mình cần và cái mình thích. Tu thiền chính là mình biết cái nào là mình cần, cái nào là mình thích. Nên nhớ tu thiền là dùng lục căn đúng chỗ. Cái chỗ nào thấy nó không cần dùng thì mình . Tôi dám bảo đảm 99% cái khổ trên cuộc đời này là do mình dùng lục căn nó over, nó sai. Chớ thật ra đời sống nó không ngọt cũng không đắng. Tại vì mình dùng over mình thấy nó ngọt hoặc thấy nó đắng. Như Đức Phật, ngài Xá Lợi Phất, các Ngài không ham sống cũng không sợ chết. Đối với các ngài cái gì nó đúng thì thôi.
Tôi nhớ Tàu có câu “Quân tử tình như đạm thủy”, câu đó họ dùng trong chỗ khác, nhưng ở đây tôi muốn nói trong ý nghĩa khác. Quân tử tình như đạm thủy là cái tình của người quân tử giống như nước lạnh. Tức là chè cháo ngon thiệt, thơm thiệt nhưng mình để qua hai đêm là nó thiu, trừ ra mình để trong tủ lạnh. Tui nói để ngoài nhe, thì chè cháo hai đêm là hư, nhưng nước lạnh chỉ cần quí vị đậy lại thôi, đừng để bụi lọt vô, thì 10 năm sau 20 năm sau cũng ok.
Mình tu mình giữ lòng mình như nước vậy đó, tức là mình không cần thiết phải bỏ thêm gia vị: tôi phải tế nhị, tôi phải lịch sự, tôi phải mua lòng người này làm vừa lòng người kia. Thật ra những cái đó trong đời sống nó là con dao hai lưỡi, nó làm cho mình vui được thì cũng chính nó làm cho mình buồn được. Thí dụ các vị giúp đỡ tôi giúp chỉ để mà giúp thôi, không có cái hậu ý gì trong đó hết, khi tôi nhận sự giúp đỡ chỉ là nhận mà không có ý gì khác, thì giống như nước lạnh không có gì hết. Nhưng nếu mình bỏ vào đó những gia vị: ờ chắc họ thương mình, họ có vấn đề với mình. Chỉ cần lúc cư xử với tôi các vị có ý đó và lúc tôi nhận sự giúp đỡ tôi cũng có ý đó thì cái ân tình bấy giờ không còn là nước lạnh mà nó là chè với cháo, nó hấp dẫn nhưng mà nó không bền.
Còn đối với Đức Phật và các vị La hán các vị không màu mè, cho nên muôn đời các vị vẫn vậy. Dù Đức Phật có sống triệu tuổi, mình ở gần Ngài ngàn năm thì Ngài cũng đối với mình như vậy không thêm không bớt. Ông Đề Bà Đạt Đa ổng nóng nảy lắm. Ổng nói với Kokalica: ‘Ta muốn gặp Thế Tôn’. Kokalica không hiểu, nói ‘Thế Tôn làm sao tha thứ được cho thầy’. Đề Bà Đạt Đa mới nói ‘Ngươi không biết Ngài bằng ta đâu. Ta hại Ngài mà trong lòng Thế Tôn thì ta hay Rahula không có khác’. Ổng ghét Ngài nhưng ổng hiểu Ngài. Mình sống trên đời mình không thể khiến cho mọi người thương mình, nhưng có thể khiến cho mọi người không khinh mình. Đức Phật không phải là người được tất cả chúng sanh thương mến. Điều đó chắc quí vị biết mà. Sao cô dòm tôi với ánh mắt nghi ngờ chuyện đó à. Cô có biết chuyện đó không? Đức Phật không phải một người mà ai cũng thương Ngài đâu nhưng họ không khinh Ngài vì Ngài không làm gì họ khinh hết. Đức Phật và chư thánh chỉ đơn giản một chuyện là đời cần tới đâu Ngài làm tới đó. Đời sống của Ngài cái gì cần phải làm, cái gì cần phải nói, cần phải suy tư thì Ngài cũng nói gì cần nói, làm gì cần làm, suy tư gì cần suy tư, ngoài ra không gì. Còn đối với người không over như vầy thì buồn vui của đời sống không tác động được họ. Vì cái nhận nó tới đó thôi, không nhận hơn nữa. Cái tâm hồn các vị giống như cái miệng mình. Còn tâm hồn mình giống như thùng rác. Cái miệng mình chỉ nhận cái gì ngon ngọt và nó cần thiết, còn cái lòng phàm phu mình giống như cái thùng rác. Cái thùng rác có thể bỏ vào đó những đồ ngon những đồ dở, đồ thơm đồ thúi. Còn lòng các bậc thánh giống như cái miệng: về lượng thì không nhận over, về phẩm chỉ nhận cái gì thôi. Còn phàm phu mình , cái thùng rác có thể chứa over. Thùng rác chùa Pháp Luân nó chứa một tấn. Rồi có lúc xe nó tới đổ, sư huynh mấy ngài đi vắng, nhằm khi chùa không có lễ, tới lúc nó vô đổ trời ơi mình thấy mình tiếc đó. Cũng một lần đổ mà loe hoe hai ba cọng thun gì ở trỏng.
Trả lời Phật tử: (học tới bữa nay còn hỏi nữa). Tựa đề bài Kinh là Thừa Tự Pháp. Trong mỗi bài Kinh có hai phần: số I là duyên khởi (nhân duyên Ngài thuyết Kinh), số II là nội dung Kinh. Rồi trong lòng nó có gì mình cần kể ra thì mình gạch đầu dòng xài số Ả Rập./.
(Hết)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)