2021-06-05, 08:15 PM
U Silananda - MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN – TƯƠNG QUAN THỨ NĂM (1-2)
https://theravada.vn/muoi-hai-nhan-duyen...n-thu-nam/
Tương Quan Thứ Năm
Xúc chịu điều kiện bởi các căn nào trong trường hợp này?
Nhãn Xúc chịu điều kiện của cả ba căn gồm nhãn căn (cakkhu pasāda), sắc trần và ý căn. Nhãn căn là phần nhạy cảm của mắt làm điều kiện cho nhãn thức sanh khởi, sắc trần là đối tượng thấy được thuộc sắc pháp, và ý căn là nhãn thức.
(còn tiếp)
https://theravada.vn/muoi-hai-nhan-duyen...n-thu-nam/
Tương Quan Thứ Năm
Do Lục Nhập Làm Điều Kiện, Xúc Sanh Khởi (Salāyatanam-paccayā phasso = Lục Nhập Duyên Xúc)
Tương quan thứ năm trong Mười Hai Nhân Duyên liên hệ đến Lục Nhập và Xúc có công thức là “Do Lục Nhập làm điều kiện, Xúc sanh khởi.”
Trong tương quan trước, Lục Nhập là sáu nội căn (ajjhattikāyatana) như nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn. Nhưng trong tương quan này có hai quan điểm về Lục Nhập:
- Một số Pháp Sư nói rằng vì Mười Hai Nhân Duyên liên hệ đến chúng sanh hữu tình nên Lục Nhập chỉ là sáu nội căn.
- Tuy nhiên, một số Pháp Sư khác nói tuy Mười Hai Nhân Duyên đề cập đến chúng sanh hữu tình nhưng chúng sanh hữu tình là pháp hữu vi hay pháp do điều kiện tạo thành và điều kiện có thể ở ngoài hay ở trong. Do đó, theo quan điểm của họ, Lục Nhập bao gồm 12 căn tức là sáu nội căn và sáu ngoại căn (bahiddhāyatana) hay sáu căn và sáu trần. Sáu trần là sáu đối tượng tương ưng với sáu nội căn chẳng hạn như vật thấy được, âm thanh, mùi, vị, sự đụng chạm và các pháp. Và như vậy tương quan này tổng quát sẽ là “Do sáu căn và sáu trần làm điều kiện, Xúc sanh khởi”.
Xúc là gì? Tiếng Pali là phassa có nghĩa là tiếp xúc. Xúc là một trạng thái của tâm hay tâm sở (cetasika) riêng biệt.
Xúc cùng với sáu tâm sở khác gồm
- thọ (vedanā),
- tưởng (sañña),
- tư hay ý muốn (cetanā),
- nhất tâm (ekaggata),
- mạng căn (jivita) và
- tác ý (manasikāra)
luôn luôn có mặt với các loại tâm vương. Đặc tính của Xúc là tiếp xúc hay đụng chạm. Tuy nhiên, Xúc không thuộc về sắc pháp hay vật chất nhưng là về tâm hay danh pháp. Vì thế, Xúc thật sự không phải là đụng chạm theo ý nghĩa thông thường. Chẳng hạn, khi thấy đối tượng mạnh mẽ khiến quí vị bị ảnh hưởng thì đó là kết quả của Xúc.
Trong Kinh, các ví dụ về Xúc dựa theo cách biểu hiện của tiếp xúc hay đụng chạm. Ví dụ khi thấy một người đang ăn trái cây như xoài, miệng quí vị chảy nước miếng. Đó là tác dụng của Xúc. Khi thấy vật hay người bị hành hạ, ai có lòng bi mẫn sẽ đau lòng, đôi khi run sợ. Đó cũng là tác dụng của Xúc. Một người nhút nhát đứng trên mặt đất coi một người khác đang chú tâm giữ thăng bằng trên cành cây cao bỗng thấy đầu gối mình bị run rẩy. Đó là do tác dụng của Xúc. Khi coi xiệc thấy người diễn trò đi dây hay những người nhào lộn trên cao, ta cảm thấy hồi hộp trong tim. Đó cũng là tác dụng của Xúc. Khi thấy một điều kỳ dị kinh hoàng như ma hay thú dữ, chân như mất hết năng lực không thể nào di chuyển được nữa. Đó là kết quả của Xúc. Sư còn nhớ một tu viện dành riêng cho tăng ni tọa lạc trên một ngọn đồi gần giống như một khu rừng có nhiều beo ở Sagaing gần Mandalay. Ban đêm beo đến dòng sông uống nước và khi chó đánh mùi beo, chúng đứng bất động và trở thành mồi ngon cho beo. Đó là tác dụng của Xúc. Quí vị có thể tìm thêm nhiều thí dụ nữa về Xúc từ chính kinh nghiệm riêng của mình.
Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi có giải thích về khác biệt giữa tâm vương (citta) và tâm sở (cetasika) Xúc. Tâm vương là nhận biết đơn thuần sự có mặt của đối tượng trong khi Xúc là kinh nghiệm đối tượng. Trong trường hợp thấy, tâm vương là nhãn thức. Đây là nhận biết đơn thuần về sự có mặt của đối tượng thấy được khi đối tượng này lọt vào tầm nhìn của mắt đang chú ý. Cùng sanh khởi với Nhãn Thức là kinh nghiệm rõ ràng về đối tượng thấy được và kinh nghiệm này theo cố Hòa Thượng chính là đặc tính của Xúc.
Xúc sanh khởi đồng thời với tâm vương có công năng đưa tâm vương hay thức và đối tượng lại với nhau để chúng ta có kinh nghiệm mạnh mẽ về đối tượng. Do đó, bất cứ khi nào nhận biết đối tượng, quí vị có thêm kinh nghiệm rõ ràng này chứ không phải chỉ thuần có tâm vương không mà thôi.
Trong thời gian hành thiền, nếu chú tâm khắn khít đề mục và có định tâm mạnh mẽ, quý vị có thể thấy Xúc.
- Khi có chánh niệm về đối tượng, quí vị thấy đối tượng rõ ràng và kinh nghiệm mạnh mẽ này về đối tượng chính là đặc tính của Xúc.
- Khi có cơn đau nơi cơ thể, quí vị ghi nhận và cơn đau trở nên rõ ràng, đó là Xúc.
- Đôi khi thiền sinh giật mình và sợ hãi vì một tiếng động yếu ớt như tiếng thằn lằn chẳng hạn, đó là tác dụng của Xúc.
- Các căn lúc đó rất nhạy có thể khám phá những đối tượng nhỏ nhoi hay vi tế. Chẳng hạn một tiếng động rất yếu ớt trở thành tiếng động lớn trong tâm khiến thiền sinh giật mình. Rất nhiều thiền sinh kinh nghiệm loại Xúc này.
Bây giờ chúng ta xem thử các điều kiện nào cần phải có để cho Xúc sanh khởi.
Khi thấy một cái gì, có nghĩa là các điều kiện đã hội đủ cho sự thấy xảy ra. Các điều kiện này bao gồm mắt tốt, đối tượng có thể thấy được, chú tâm và nhận biết đơn thuần về sự có mặt của đối tượng tức là nhãn thức. Như vậy có ít nhất ba yếu tố: giác quan, đối tượng và thức. Khi ba yếu tố này gặp gỡ, Xúc sanh khởi để điều hợp chúng lại với nhau. Do đó, Xúc không chỉ là sự gặp gỡ của ba yếu tố này nhưng còn là một cái gì sanh lên từ sự gặp gỡ đó giống như ba trái banh đụng với nhau và tiếng động sanh ra. Vì thế, Xúc là một trạng thái tâm hay tâm sở riêng biệt sanh khởi dựa vào ba điều kiện vừa được đề cập.
Như thế, khi thấy đối tượng, tâm của quí vị như chạm vào đối tượng và kinh nghiệm rõ ràng đối tượng. Đó là đặc tánh (lakkhana) của Xúc. Công năng (rasa) của Xúc là đánh vào hay tạo sự gặp gỡ đối tượng. Mặc dầu Xúc không bám chặt vào một chỗ đặc biệt nào nơi đối tượng vì Xúc không thuộc sắc pháp nhưng nó đem Thức và đối tượng lại với nhau. Đôi khi công năng của Xúc được dùng để chỉ cho Xúc vì công năng của Xúc là tạo sự gặp gỡ của các điều kiện. Biểu hiện (paccupatthana) của Xúc chính là sự gặp gỡ hay là tính cách đồng thời của các yếu tố. Đây chính là kết quả của Xúc. Chẳng hạn hành giả thấy trong tâm có một cái gì sanh khởi từ sự gặp gỡ của ba yếu tố như nhãn căn, đối tượng thấy được và nhãn thức thì đó là biểu hiện của Xúc. Nguyên nhân kế cận (padathāna) của Xúc là đối tượng đã lọt vào sự tập trung của các căn như đối tượng nằm ngay tầm nhìn của mắt. Không có gì ngăn cản được Xúc sanh khởi một khi đối tượng đã được chú ý. Đây là lý do vì sao đối tượng được chú ý là nguyên nhân kế cận của Xúc.
Xúc là điều kiện cho cảm thọ (vedanā) sanh khởi. Xúc rõ rệt có thể là điều kiện cho cảm thọ mạnh mẽ sanh khởi và cảm thọ mạnh mẽ này có thể là điều kiện gây ra những nghiệp thiện hay bất thiện. Ví dụ, quí vị thấy và kinh nghiệm mạnh mẽ một vật và bị thu hút bởi vật đó. Trong trường hợp này, quý vị dính mắc vào đối tượng đến nỗi quí vị có thể làm điều sai lầm như cướp của hay sát sanh để được sở hữu đối tượng. Như vậy các điều bất thiện này bị điều kiện bởi Xúc. Ngược lại, khi quí vị ngắm nhìn và thấy rất rõ hình tượng Đức Phật và sanh khởi những tư tưởng thiện lành thì đó là tác dụng tốt đẹp của Xúc.
Vì thế, Xúc được ví như là con bò không da. Một con bò bị lột da sẽ là nơi côn trùng bám vào để cắn thịt. Bất cứ ở đâu con bò không da cũng bị các loài trùng chiếu cố đến. Vì vậy, con bò không thể nào tránh bị cắn dù ở trên cạn hay dưới nước. Tương tự như vậy, bất cứ lúc nào có Xúc sẽ có Thọ nên chúng ta sẽ không tránh khỏi cảm thọ nếu có Xúc sanh khởi. Vì thế, Xúc là nơi ở của cảm thọ nên được ví như là bò không da là nơi bám của các loài côn trùng.
Xúc có sáu loại:
- Nhãn Xúc là xúc sanh khởi với tâm thấy hay nhãn thức,
- Nhĩ Xúc là xúc sanh khởi với tâm nghe hay nhĩ thức,
- Tỉ Xúc là xúc sanh khởi với tâm ngửi hay tỉ thức,
- Thiệt Xúc là xúc sanh khởi với tâm nếm hay thiệt thức,
- Thân Xúc là xúc sanh khởi với tâm đụng hay thân thức, và
- Ý Xúc là xúc sanh khởi với ý thức.
Bây giờ chúng ta hãy xem như thế nào Xúc chịu điều kiện bởi các căn theo tương quan thứ năm “Do Lục Nhập làm điều kiện, Xúc sanh khởi”.
Lấy sự thấy làm ví dụ.
Khi chúng ta thấy một đối tượng, diễn trình của sự thấy xảy ra như thế nào?
Trước khi thấy trong tâm hiện diện một loại tâm kết quả thụ động gọi là Hữu Phần hay Luồng Hộ Kiếp (bhavanga) có mục đích duy trì sự liên tục của dòng tâm thức. Thức Hữu Phần này sanh khởi liên tiếp trong suốt cuộc đời của chúng ta. Nó chỉ tạm dừng nghỉ khi chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng và nghĩ đến đối tượng. Sau đó, khi các tâm hay thức năng động này hoại diệt, hữu phần sanh khởi trở lại và tiếp tục như vậy. Chúng ta có thể gọi hữu phần là loại thức tiêu cực hay thụ động so với những loại thức tích cực hay năng động khác như nhãn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức xảy ra trong đời sống của chúng ta.
Khi đối tượng thấy được (rupāramana) lọt vào thị trường hay tầm nhìn của mắt hoặc đối tượng đánh vào nhãn căn, nó cũng đánh vào hữu phần.
- Hữu phần bị rung chuyển trong hai khoảnh khắc rồi dừng nghỉ.
- Sau đó, một chập tâm hay thức sanh khởi hướng đến cửa mắt gọi là Nhãn Môn Hướng Tâm (cakkhudvārāvajjanacitta) để tìm xem đối tượng. Nhãn môn hướng tâm là một trong năm tâm hướng đến năm cửa giác quan gọi là Ngũ Môn Hướng Tâm (pañcadvārāvajjanacitta).
- Sau đó là Nhãn Thức (cakkhu viññana) hay tâm thấy tức là thức thuần nhận biết sự có mặt của đối tượng.
- Kế đến là chập tâm tiếp nhận đối tượng gọi là Tiếp Nhận Tâm (sampaticcana).
- Tiếp theo là chập tâm xem xét đối tượng gọi là Suy Đạc Tâm (santirana).
- Rồi theo sau là Quyết Định Tâm (votthabbana) xem thử đối tượng tốt hay xấu hoặc thực hay giả…
- Kế đến là Tốc Hành Tâm hay Luồng Xung Lực (javana) kinh nghiệm hoàn toàn đối tượng.
- Cuối cùng là Đăng Ký Tâm (tadarammana) theo sau tốc hành tâm để đăng ký đối tượng kinh nghiệm được vào tâm thức.
Đó là tổng quát về diễn trình tâm (citta vithi) của sự thấy.
Chuyện gì xảy ra khi chúng ta thấy đối tượng?
Thấy đối tượng có nghĩa là tâm thấy hay nhãn thức sanh khởi. Cùng với tâm thấy hay nhãn thức có Xúc, Thọ và một số các tâm sở khác. Các tâm sở này sanh khởi đồng thời với nhãn thức. Nói một cách khác, nhãn thức và các tâm sở hiện diện đồng thời với nhãn căn và tùy thuộc vào nhãn căn.
Xúc chịu điều kiện bởi các căn nào trong trường hợp này?
Nhãn Xúc chịu điều kiện của cả ba căn gồm nhãn căn (cakkhu pasāda), sắc trần và ý căn. Nhãn căn là phần nhạy cảm của mắt làm điều kiện cho nhãn thức sanh khởi, sắc trần là đối tượng thấy được thuộc sắc pháp, và ý căn là nhãn thức.
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)