2021-05-22, 04:50 AM
Thập Nhị Nhân Duyên
(Paticca Samuppàda) (3-4)
Piyadassi Maha Thera
Phạm Kim Khánh dịch (1972)
https://www.budsas.org/uni/u-ngan/12nhanduyen.htm
VIII. Ái (Tanhà) - Hiện Tại
Vedanà paccayà tanhà (skt. trsnà), tùy thuộc nơi Thọ phát sanh Ái. Ái, bắt nguồn, khởi nguyên, và phát sanh từ Thọ.
Ái (Tanhà) bao gồm tất cả những hình thức thèm khát, tham ái, khát vọng, ước mong, dục vọng, ham muốn, nóng lòng, bám bíu, luyến ái, thiên về.
Ðó là một ít, trong rất nhiều ý nghĩa của danh từ tanhà mà, theo lời của Ðức Phật, là nguyên nhân đưa đến Hữu (bhavanetti, sự trở thành, sự biến đổi). Hữu biểu hiện dưới hình thức dukkha, đau khổ, băn khoăn, và đó là loại Thọ mà chính ta đang chứng nghiệm.
Kẻ thù của toàn thể thế gian là Ái (Tanhà).
Kẻ thù của toàn thể thế gian là Ái (Tanhà). Xuyên qua Ái tất cả phiền não đến với chúng sanh. Nhơn loại bị vướng víu trong cảnh bấn loạn rối reng.
Cách thoát khỏi Ái
Do sự thấu hiểu rõ ràng và minh bạch
Ái là nguồn gốc của Tái sanh:
Vậy, Ái là gì? Chính Ái làm cho chúng sanh "trở thành trở lại", "sanh trở lại", nay đây mai đó, cùng với khát vọng đi tìm dục lạc, mãi mãi chạy theo những thú vui mới.
Ba loại Ái
Có ba loại Ái (Tanhà) là
H: "Ái bắt nguồn từ đâu, và phát sanh ở đâu?
Đ:
Ái trở thành phẫn nộ
Khi Ái bị chướng ngại thì trở thành phẫn nộ và bất toại nguyện.
Con người luôn luôn bị thích thú và dục lạc thu hút. Trong khi mưu tìm thích thú và dục lạc, con người không ngừng chạy theo, và cố bám lấy những đối tượng tương ứng của Lục Căn, tức Lục Trần. Nhưng ít khi con người nhận thức rằng không có số lượng sắc, thinh, hương, hay vị, xúc, pháp, nào có thể hoàn toàn thỏa mãn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Trong khi mãnh liệt khát khao được có quyền sở hữu, hay được thỏa mãn tham vọng, con người càng tự ràng buộc mình vào bánh xe luân hồi, càng bị giày vò xô xát và khổ sở quằn quại, vướng mắc trong những cây căm của vòng bánh xe. Và chính con người đã khóa chặt cánh cửa đưa vào trạng thái giải thoát cuối cùng. Ðức Phật rất thiết tha trong việc chận đứng cuộc chạy đua điên rồ để rượt bắt dục lạc này. Ngài khuyên dạy:
"Dục lạc là trói buộc, là thỏa thích trong chốc lát
Mà không mùi vị, và dẫn đến đau khổ.
Bậc trí giả nhận thức rằng
Ðó là miếng mồi đã được móc vào lưỡi câu".
-- (Sutta Nipàta, câu 61)
Tất cả khoái lạc trần tục đều tạm bợ, nhứt thời. Giống như những viên thuốc độc bọc đường, nó chỉ làm cho ta thất vọng, chỉ lừa phỉnh ngầm hại ta.
3 loại Ái: Ái Dục, Thường Kiến, Đoạn Kiến
Như đã được ghi nhận ở phần trên,
Tóm tắt,
Tất cả đều bị thiêu đốt. Tất cả đều nằm trên ngọn lửa.
Và cái "tất cả" ấy là gì mà nằm trên ngọn lửa và đang bị thiêu đốt?
Ngày nào còn nhiên liệu thì lửa còn cháy. Càng châm nhiều nhiên liệu thì lửa càng cháy mạnh. Ngọn lửa của đời sống cũng dường thế ấy.
Ái dục là một ngọn lửa không bao giờ biết thỏa mãn. Không bao giờ có ngọn lửa nào biết tri túc. Mặc dầu cháy to đến đâu, nếu ta châm thêm nhiên liệu thì nó càng cháy to thêm nữa .
Bản chất của ô nhiễm ái dục:
ái dục theo liền với ta mãi đến cảnh giới cao nhất của kiếp sinh tồn (trong tam giới).
Còn về luồng tâm thì
nó đeo dính theo ta đến ngưỡng cửa của các bậc Thánh Nhơn, chí đến tâm chuyển tánh (gotrabhu citta), tức loại tâm chuyển tiếp từ phàm đến thánh.
Nơi nào không có Ái (Tanhà) tức nhiên cũng không có "ái dục duyên theo ngũ trần"
và nơi nào không còn Ái nơi ấy tất cả phiền não cũng lụn tàn, không khác nào ngọn lửa đã cạn nhiên liệu.
Ta chỉ nhận thức tánh cách tai hại của loại dây leo ái dục đượm nhuần chất độc này khi đau khổ đến với ta. Trước đó ta không biết. Và loại dây này đeo dính và quấn tròn quanh tất cả những ai chưa phải là A La Hán, tức là bậc hoàn toàn trong sạch, đã diệt tận gốc rễ mọi mầm móng si mê. Ái dục càng mạnh, đau khổ càng sâu đậm. Khao khát bao nhiêu, phiền não bấy nhiêu. Sầu muộn là moín nợ mà nhất định ta phải trả khi đã nuôi dưỡng ái dục. Vậy, hãy nhận thức ngay từ bây giờ rằng ái dục là kẻ thù độc hại nhứt của chúng ta ở đây, trong vòng luân hồi, và chính nó đã lôi cuốn ta vào những kiếp sinh tồn liên tục lập đi lập lại, chính nó đã "xây dựng cái nhà cho ta".
Khi Ðức Phật đắc quả Vô Thượng, Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ngài thốt lên những lời hoan hỉ sau đây:
"Xuyên qua nhiều kiếp sống, Như Lai thênh thang đi trong vòng luân hồi để tìm, nhưng không gặp, người thợ cất nhà này. Phiền muộn thay, đời sống triền miên tiếp diễn.
Này hỡi người thợ làm nhà! Ngươi đã bị bắt gặp. Ngươi không con cất nàh nữa. Tất cả rui mè của ngươi đã gãy. Cây đòn dông của ngươi cũng bị phá tan.
Tâm của Như Lai đã thành đạt trạng thái vô vi (Niết Bàn).
Mọi hình thức ái dục đã hoàn toàn chấm dứt".
-- Kinh Pháp Cú, câu 153, 154.
IX. THỦ (Upàdàna) - Hiện Tại
Tanhà paccayà upàdànam (skt cũng vậy), tùy thuộc nơi Ái phát sanh Thủ.
Thủ là Ái ở cao độ
Ðó là trạng thái tâm (tâm sở) luyến ái, bám vào, và nắm chặt lấy đối tượng.
Thủ là Ái ở cao độ.
Thủ là cái lưới mình tự dệt để tự trói mình vào trong
Vì Thủ mà con người phải
Thủ (Upàdàna, sự bám bíu, đeo níu) có bốn là:
1. Bám bíu vào khoái lạc vật chất (kàmma-upàdàna);
2. Bám bíu vào những quan kiến sai lầm và bất thiện (ditthi-upàdàna);
3. Bám bíu vào những nghi thức bề ngoài, cúng tế và lễ bái (sìlabbata-upàdàna), tin rằng những nghi thức này có thể đưa đến giải thoát;
4. Bám bíu vào tự ngã, xem như một thực thể đơn thuần trường tồn bất biến (attavà upàdàna).
Tóm lại, upàdàna là gắn bó, bám chặt vào sự thỏa thích (kama-upàdàna), trong tất cả những cảnh giới sinh tồn và gắn bó, bám chặt vào tà kiến (ditthi-upàdàna). Hai điểm, thứ ba và thứ tư (sìlabbata và attavàda) đã được hàm xúc trong điểm thứ nhì (ditthi-upàdàna).
Khoái lạc vật chất (kàmma-upàdàna)
Danh từ kàma trong kàma-upàdàna bao gồm cả hai ái dục, tức
Ta càng không nhận diện được những tư tưởng ái dục ấy thì chúng càng tăng trưởng, càng trở nên hùng mạnh, đến độ ngoan cố, ương ngạnh, càng cố bám chặt, Thủ (upàdàna).
2 loại tà kiến
Tất cả những quan kiến sai lầm (ditthi, tà kiến) vào thời Ðức Phật có thể xếp vào hai loại là
"Tất cả đều không có một tự ngã đơn thuần (attà) hoặc cái gì khác mà có bản chất của một tự ngã đơn thuần".
Sunnam idam attena và attaneiyena và.
Nếu quan kiến sai lầm này được dứt bỏ, tất cả những tà kiến khác đương nhiên cũng chấm dứt.
X. HỮU (Bhava) - Hiện Tại
Upàdàna paccayà bhavo (skt cũng cùng một chữ), tùy thuộc nơi Thủ phát sanh Hữu (Bhava).
Hữu có hai, và phải được xem là hai tiến trình:
Về phương diện nghiệp báo, đó là phần "tích cực của đời sống",
Upapatti bhavalà, tiến trình tái sanh phần tiêu cực, về phương diện nghiệp báo và vô ký, về phương diện đạo đức của đời sống". Ðó là tiến trình tái sanh trong kiếp sống kế, xem như hậu quả của nghiệp.
Kiếp sống kế có thể diễn tiến trong bất luận cảnh giới nào:
Bốn loại Tái sanh (Patisandhi)
Vì tâm thức, các tâm sở và sắc uẩn (citta, cetasikas, rupa) khởi lên vào lúc tái sanh (patisandhi), đều là hậu quả của nghiệp lực (kamma), cho nên tùy theo các loại nghiệp tốt xấu mà phân biệt ra thành bốn loại tái sanh. Bốn loại tái sanh là:
http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=3994&pid=349273#pid349273
Hành là nghiệp đã làm trong kiếp quá khứ, kamma bhava là nghiệp làm trong kiếp hiện tại
H: Trong câu avijjà paccayà sankhàrà, tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành phát sanh, chữ Hành được giải thích là những hành động thiện và bất thiện (kamma, nghiệp). Nếu vậy, có phải chăng ở đây ta lập lại một giai đoạn đã có trải qua, vì kamma bhava, Hữu, được ghi nhận ở đây cũng là hành động thiện và bất thiện?
Đ: Nên hiểu rằng pháp Tùy Thuộc - Phát Sanh, Paticca - Samuppàda, không phải chỉ đề cập vỏn vẹn đến kiếp sống hiện tại mà cũng liên quan đến ba kiếp: quá khứ, hiện tại, và tương lai.
Ở câu trước, Hành là nghiệp, tức những hành động thiện và bất thiện, trong quá khứ. Kiếp sống hiện tại tùy thuộc những hành động quá khứ ấy.
Trong câu này, upàdàna paccayà bhavo, Hữu là nghiệp, tức hành động thiện và bất thiện, thuộc kiếp sống hiện tại, và những hành động trong hiện tại này tạo điều kiện cho kiếp sống tương lai. Upàdàna paccayà bhavo có nghĩa:
Thủ là điều kiện để tiến trình nghiệp và tiến trình tái sanh xem như hậu quả của nghiệp khởi phát.
XI. SANH (Jàti) - Tương Lai
Sanh là sự phát hiện của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) trong lòng bà mẹ ngay lúc thọ thai
Bhava paccayà jàti (skt cũng cùng một chữ), tùy thuộc nơi Hữu, Sanh khởi phát. Ở đây chữ Sanh không có nghĩa là hành động lâm bồn, hay cái sanh thật sự, ra em bé, mà là sự phát hiện của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) trong lòng bà mẹ ngay lúc thọ thai. Chính kamma bhava, tiến trình của nghiệp, tạo điều kiện cho tiến trình Sanh này.
Ái và Thủ (hay tác ý bám bíu) trong kiếp quá khứ đưa đến tái sanh ở hiện tại. Ái và Thủ (Tanhà Upàdàna) trong kiếp hiện tại đưa đến tái sanh trong tương lai
Ái và Thủ (hay tác ý bám bíu) trong kiếp quá khứ đưa đến tái sanh ở hiện tại. Ái và Thủ (Tanhà Upàdàna) trong kiếp hiện tại đưa đến tái sanh trong tương lai. Theo giáo lý của Ðức Phật, chính tác ý (cetanà) phân chia, làm cho chúng sanh cao hay thấp.
"Chúng sanh là người thừa kế của chính hành động mình, là người mang theo hành động của mình, và hành động của mình là cái bào thai từ đó chúng sanh được sanh ra" -- (Majjhima 135).
Chỉ xuyên qua hành động của mình chúng sanh mới có thể tự biến cải từ xấu ra tốt, tự tạo trở lại, và thành đạt giải thoát của chính mình ra khỏi phiền não. Ðó là con đường duy nhứt.
Chúng ta đang gặt hái những gì chính ta đã gieo trồng trong quá khứ. Ðôi khi ta cũng đang gặt hái ở đây những gì ta gieo trong chính kiếp sống này, và ta cũng hiểu biết như thế. Cùng một lối ấy, hành động của chúng ta trong hiện tại đang uốn nắn tương lai của chúng ta, và chúng ta bắt đầu thấu hiểu vị trí của mình trong võ trụ bí hiểm này. Nếu trong đêm tối dài dẳng của vòng luân hồi chúng ta không tự tạo cho mình hoàn cảnh hiện tại, xuyên qua Vô Minh, Ái Dục và Thủ, thì tại sao có sự chênh lệch rất xa giữa các chúng sanh mà ta có thể nhìn thấy trong thế gian ngày nay? Có thể quan niệm được chăng một cái tâm, duy nhứt, đủ vĩ đại, đủ bao quát và khúc chiết, để tạo nên thế gian muôn mặt, muôn màu sắc, và thiên hình vạn trạng, đang bao quanh chúng ta?
Nghiệp báo là hệ luận của tái sanh. Ðàng khác, tái sanh là hệ luận của nghiệp báo . Làm sao tiến trình của nghiệp có thể đưa đến tái sanh?
Như vậy, nghiệp báo là hệ luận của tái sanh. Ðàng khác, tái sanh là hệ luận của nghiệp báo. Ðến đây ta có thể tự hỏi: nếu nghiệp là nguyên nhân tạo duyên đưa đến tái sanh và nếu Phật Giáo quả quyết phủ nhận một linh hồn hay một tự ngã siêu việt thì làm sao tiến trình của nghiệp có thể đưa đến tái sanh?
"Không bao giờ có một năng lực nào tan biến mất tiêu. Và không có lý do nào để nghĩ rằng năng lực đã biểu hiện trong mỗi chúng sanh dưới hình thức tâm và thể xác, danh và sắc, lại có thể tan biến mất tiêu. Năng lực ấy phải luôn luôn biến đổi. Chính ngay trong hiện tại, vào giờ phút này, nó cũng đang biến đổi, từng chập, từng khoảng khắc, trong đời sống của chúng ta. Ðến lúc ta chết nó cũng không chấm dứt. Luồng sinh lực tâm linh chỉ được đặt trở lại vào vị trí mới, được đặt trở lại trong những điều kiện hòa hợp, tương ứng với tính chất của nó, cũng như âm thanh, phát ra từ một máy phát thanh được thâu, hay đặt trở lại vào máy thâu thanh, theo đúng băng tầng của nó. Mỗi chúng sanh tái sanh bắt đầu kiếp sống của mình với những khả năng tiềm tàng và những kinh nghiệm đã tích tụ trong quá khứ. Vì lẽ ấy, mỗi người có một tâm tánh khác nhau, mỗi người có những tài năng khác nhau, và những khả năng vô cùng tận". [15]
Không có cái gì đơn thuần và nguyên vẹn được truyền sang, hay chuyển qua, từ kiếp sống này đến kiếp kế, như sự chuyển sinh linh hồn. Từ một ngọn đèn đang cháy, mồi lửa sang ngọn đèn khác (đang tắt), có phải là ta đem ngọn lửa của cây đèn này truyền sang, hay chuyển qua, cây đèn kia không? Ta có thấy sự liên tục cháy của ngọn đèn không? Không phải hoàn toàn là cùng một ngọn lửa, cũng không tuyệt nhiên là hai ngọn khác nhau.
Như vậy, tiến trình nghiệp (kamma bhava) là "một năng lực dựa theo đó phản ứng của hành động tiếp nối theo hành động"; đó là động năng từ kiếp sống hiện tại tạo điều kiện cho kiếp sống tương lai, theo một sự liên tục không gián đoạn.
"Lòng ham muốn đưa đến hành động. Hành động đưa đến hậu quả. Hậu quả tự biểu hiện như một cơ thể mới mang theo ham muốn mới. Hậu quả của hành động nhứt định phải theo hành động, không thể tránh, cũng như bóng theo hình. Ðó chỉ là định luật thiên nhiên của võ trụ, trong phạm vi đạo đức, để bảo tồn năng lực. Cũng như trong võ trụ không bao giờ năng lực tan biến mất tiêu, bên trong mỗi cá nhơn không có cái gì còn lại của năng lực tích tụ do lòng tham muốn mà biến tan tiêu mất. Năng lực tích tụ ấy luôn luôn được chuyển sang một kiếp sống mới và chúng ta vĩnh viễn sống vì lòng khao khát, bám bíu vào sự sống. Tuy nhiên, cái mà làm cho đời sống khả dĩ có là nghiệp (kamma). -- (Paul Dahlke, Buddhist Essays, London, 1908, trang 115)
XII. LÃO và TỬ (Jaràarana) - Tương Lai
Jàti paccayà jaràmaranam (skt cũng cùng một chữ), tùy thuộc nơi Sanh, Lão và Tử khởi phát. Và cùng với Lão và Tử, phát sanh phiền não ta thán, đau khổ, âu sầu và tuyệt vọng.
Ðã có sanh tức nhiên phải có trưởng thành và chết. Không có sanh ắt không có trưởng thành và chết. Như vậy, toàn thể khối đau khổ này khởi phát tùy thuộc ở pháp Thập Nhị Nhân Duyên chia làm mười hai giai đoạn. Sanh tiếp nối theo già và chết. Ðàng khác già và chết tiếp nối theo sanh. Và cặp này liên tục nối nhau triền miên mãi mãi.
(Paticca Samuppàda) (3-4)
Piyadassi Maha Thera
Phạm Kim Khánh dịch (1972)
https://www.budsas.org/uni/u-ngan/12nhanduyen.htm
VIII. Ái (Tanhà) - Hiện Tại
Vedanà paccayà tanhà (skt. trsnà), tùy thuộc nơi Thọ phát sanh Ái. Ái, bắt nguồn, khởi nguyên, và phát sanh từ Thọ.
Ái (Tanhà) bao gồm tất cả những hình thức thèm khát, tham ái, khát vọng, ước mong, dục vọng, ham muốn, nóng lòng, bám bíu, luyến ái, thiên về.
Ðó là một ít, trong rất nhiều ý nghĩa của danh từ tanhà mà, theo lời của Ðức Phật, là nguyên nhân đưa đến Hữu (bhavanetti, sự trở thành, sự biến đổi). Hữu biểu hiện dưới hình thức dukkha, đau khổ, băn khoăn, và đó là loại Thọ mà chính ta đang chứng nghiệm.
Kẻ thù của toàn thể thế gian là Ái (Tanhà).
Kẻ thù của toàn thể thế gian là Ái (Tanhà). Xuyên qua Ái tất cả phiền não đến với chúng sanh. Nhơn loại bị vướng víu trong cảnh bấn loạn rối reng.
Cách thoát khỏi Ái
Do sự thấu hiểu rõ ràng và minh bạch
- bản chất của Ái,
- nguồn gốc của Ái,
- sự chấm dứt Ái,
- và con đường chơn chánh đưa đến sự chấm dứt Ái,
Ái là nguồn gốc của Tái sanh:
Vậy, Ái là gì? Chính Ái làm cho chúng sanh "trở thành trở lại", "sanh trở lại", nay đây mai đó, cùng với khát vọng đi tìm dục lạc, mãi mãi chạy theo những thú vui mới.
Ba loại Ái
Có ba loại Ái (Tanhà) là
- kàma-tanhà, Ái duyên theo nhục dục ngũ trần,
- bhava-tanhà, Ái duyên theo sự sinh tồn,
- và vibhava-tanhà, Ái duyên theo sự tuyệt diệt. [12]
H: "Ái bắt nguồn từ đâu, và phát sanh ở đâu?
Đ:
- Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có Ái bắt nguồn và phát sanh.
- Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, có thỏa thích và dục lạc.
Ái trở thành phẫn nộ
Khi Ái bị chướng ngại thì trở thành phẫn nộ và bất toại nguyện.
- "Ái dục sanh sầu muộn.
- Ái dục sanh lo sợ.
Con người luôn luôn bị thích thú và dục lạc thu hút. Trong khi mưu tìm thích thú và dục lạc, con người không ngừng chạy theo, và cố bám lấy những đối tượng tương ứng của Lục Căn, tức Lục Trần. Nhưng ít khi con người nhận thức rằng không có số lượng sắc, thinh, hương, hay vị, xúc, pháp, nào có thể hoàn toàn thỏa mãn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Trong khi mãnh liệt khát khao được có quyền sở hữu, hay được thỏa mãn tham vọng, con người càng tự ràng buộc mình vào bánh xe luân hồi, càng bị giày vò xô xát và khổ sở quằn quại, vướng mắc trong những cây căm của vòng bánh xe. Và chính con người đã khóa chặt cánh cửa đưa vào trạng thái giải thoát cuối cùng. Ðức Phật rất thiết tha trong việc chận đứng cuộc chạy đua điên rồ để rượt bắt dục lạc này. Ngài khuyên dạy:
"Dục lạc là trói buộc, là thỏa thích trong chốc lát
Mà không mùi vị, và dẫn đến đau khổ.
Bậc trí giả nhận thức rằng
Ðó là miếng mồi đã được móc vào lưỡi câu".
-- (Sutta Nipàta, câu 61)
Tất cả khoái lạc trần tục đều tạm bợ, nhứt thời. Giống như những viên thuốc độc bọc đường, nó chỉ làm cho ta thất vọng, chỉ lừa phỉnh ngầm hại ta.
3 loại Ái: Ái Dục, Thường Kiến, Đoạn Kiến
Như đã được ghi nhận ở phần trên,
- Khi Ái duyên theo nhục dục ngũ trần thì gọi là "ái dục",
- Khi Ái có liên quan đến sự tin tưởng vào tánh cách trường tồn vĩnh cửu của kiếp sinh tồn thì được gọi là "ái duyên theo kiếp sinh tồn vĩnh cửu", đó là sassata ditthi, thuyết vĩnh cửu (thường kiến).
- Khi Ái có liên quan đến sự tin tưởng vào tánh cách tuyệt diệt của kiếp sinh tồn, sau kiếp này, tức là tin rằng sau kiếp sống này không có gì còn tồn tại, sau khi chết thì tất cả đều trở nên hư vô, thì được gọi là "ái duyên theo sự tuyệt diệt", hay uccheda-ditthi, thuyết tuyệt diệt (đoạn kiến).
- Không phải chỉ có Thọ lạc, hay cảm giác vui và sung sướng, mới tạo điều kiện cho Ái phát sanh.
- Ái cũng phát sanh tùy thuộc nơi Thọ khổ, tức buồn và đau đớn.
Tóm tắt,
- người nghèo nàn thiếu thốn, người bịnh hoạn, ươn yếu, tật nguyền - những người đau khổ - khao khát (tức Ái) được vui vẻ, an toàn.
- Còn người giàu có, khỏe mạnh, và đã có nếm mùi hạnh phúc, người đã phần nào lướt qua khỏi đau khổ và thất vọng, cũng nuôi dưỡng ái dục. Hạng người sau này vẫn khao khát được có thêm thích thú, và có thêm nữa.
Tất cả đều bị thiêu đốt. Tất cả đều nằm trên ngọn lửa.
Và cái "tất cả" ấy là gì mà nằm trên ngọn lửa và đang bị thiêu đốt?
- Ngũ quan và ngũ trần đang bị thiêu đốt.
- Tâm và tư tưởng,
- ý và pháp, đang bị thiêu đốt.
- Ngũ uẩn có đặc tánh cố bám và bảo thủ (panca upàdànakkhandhà) đang bị thiêu đốt.
Ngày nào còn nhiên liệu thì lửa còn cháy. Càng châm nhiều nhiên liệu thì lửa càng cháy mạnh. Ngọn lửa của đời sống cũng dường thế ấy.
Ái dục là một ngọn lửa không bao giờ biết thỏa mãn. Không bao giờ có ngọn lửa nào biết tri túc. Mặc dầu cháy to đến đâu, nếu ta châm thêm nhiên liệu thì nó càng cháy to thêm nữa .
Bản chất của ô nhiễm ái dục:
- không bao giờ biết là đủ,
- không bao giờ tự mình biết ngừng, khi còn nhiên liệu.
ái dục theo liền với ta mãi đến cảnh giới cao nhất của kiếp sinh tồn (trong tam giới).
Còn về luồng tâm thì
nó đeo dính theo ta đến ngưỡng cửa của các bậc Thánh Nhơn, chí đến tâm chuyển tánh (gotrabhu citta), tức loại tâm chuyển tiếp từ phàm đến thánh.
Nơi nào không có Ái (Tanhà) tức nhiên cũng không có "ái dục duyên theo ngũ trần"
và nơi nào không còn Ái nơi ấy tất cả phiền não cũng lụn tàn, không khác nào ngọn lửa đã cạn nhiên liệu.
Ta chỉ nhận thức tánh cách tai hại của loại dây leo ái dục đượm nhuần chất độc này khi đau khổ đến với ta. Trước đó ta không biết. Và loại dây này đeo dính và quấn tròn quanh tất cả những ai chưa phải là A La Hán, tức là bậc hoàn toàn trong sạch, đã diệt tận gốc rễ mọi mầm móng si mê. Ái dục càng mạnh, đau khổ càng sâu đậm. Khao khát bao nhiêu, phiền não bấy nhiêu. Sầu muộn là moín nợ mà nhất định ta phải trả khi đã nuôi dưỡng ái dục. Vậy, hãy nhận thức ngay từ bây giờ rằng ái dục là kẻ thù độc hại nhứt của chúng ta ở đây, trong vòng luân hồi, và chính nó đã lôi cuốn ta vào những kiếp sinh tồn liên tục lập đi lập lại, chính nó đã "xây dựng cái nhà cho ta".
Khi Ðức Phật đắc quả Vô Thượng, Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ngài thốt lên những lời hoan hỉ sau đây:
"Xuyên qua nhiều kiếp sống, Như Lai thênh thang đi trong vòng luân hồi để tìm, nhưng không gặp, người thợ cất nhà này. Phiền muộn thay, đời sống triền miên tiếp diễn.
Này hỡi người thợ làm nhà! Ngươi đã bị bắt gặp. Ngươi không con cất nàh nữa. Tất cả rui mè của ngươi đã gãy. Cây đòn dông của ngươi cũng bị phá tan.
Tâm của Như Lai đã thành đạt trạng thái vô vi (Niết Bàn).
Mọi hình thức ái dục đã hoàn toàn chấm dứt".
-- Kinh Pháp Cú, câu 153, 154.
IX. THỦ (Upàdàna) - Hiện Tại
Tanhà paccayà upàdànam (skt cũng vậy), tùy thuộc nơi Ái phát sanh Thủ.
Thủ là Ái ở cao độ
Ðó là trạng thái tâm (tâm sở) luyến ái, bám vào, và nắm chặt lấy đối tượng.
Thủ là Ái ở cao độ.
Thủ là cái lưới mình tự dệt để tự trói mình vào trong
Vì Thủ mà con người phải
- làm nô lệ cho khát vọng của mình
- và rơi vào cái lưới mà chính mình đã dệt
- bằng lòng khao khát dục lạc,
- giống như con nhộng nằm trong cái kén rối nùi mà chính nó đã làm ra.
Thủ (Upàdàna, sự bám bíu, đeo níu) có bốn là:
1. Bám bíu vào khoái lạc vật chất (kàmma-upàdàna);
2. Bám bíu vào những quan kiến sai lầm và bất thiện (ditthi-upàdàna);
3. Bám bíu vào những nghi thức bề ngoài, cúng tế và lễ bái (sìlabbata-upàdàna), tin rằng những nghi thức này có thể đưa đến giải thoát;
4. Bám bíu vào tự ngã, xem như một thực thể đơn thuần trường tồn bất biến (attavà upàdàna).
Tóm lại, upàdàna là gắn bó, bám chặt vào sự thỏa thích (kama-upàdàna), trong tất cả những cảnh giới sinh tồn và gắn bó, bám chặt vào tà kiến (ditthi-upàdàna). Hai điểm, thứ ba và thứ tư (sìlabbata và attavàda) đã được hàm xúc trong điểm thứ nhì (ditthi-upàdàna).
Khoái lạc vật chất (kàmma-upàdàna)
Danh từ kàma trong kàma-upàdàna bao gồm cả hai ái dục, tức
- lòng khao khát dục lạc (kilesa kàma), và
- đối tượng của dục lạc (vatthukàma).
Ta càng không nhận diện được những tư tưởng ái dục ấy thì chúng càng tăng trưởng, càng trở nên hùng mạnh, đến độ ngoan cố, ương ngạnh, càng cố bám chặt, Thủ (upàdàna).
2 loại tà kiến
Tất cả những quan kiến sai lầm (ditthi, tà kiến) vào thời Ðức Phật có thể xếp vào hai loại là
- đoạn kiến (uccheda ditthi), chủ trương thuyết tuyệt diệt, tức cho rằng chết là hết, sau kiếp sống này là hư vô, không còn gì sẽ tồn tại, và
- thường kiến (sassata ditthi), chủ trương có linh hồn trường cửu, bất diệt. Ðối với một vài người, nhứt là hàng trí thức, đôi khi từ bỏ một quan kiến còn khó hơn là từ bỏ một khoái lạc vật chất. Trong tất cả những quan kiến sai lầm sự tin tưởng vào linh hồn, hay tự ngã, xem như một thực thể đơn thuần và trường cửu (atta vàda upàdàna) là mạnh nhứt, ăn sâu và bám chặt nhứt.
"Tất cả đều không có một tự ngã đơn thuần (attà) hoặc cái gì khác mà có bản chất của một tự ngã đơn thuần".
Sunnam idam attena và attaneiyena và.
Nếu quan kiến sai lầm này được dứt bỏ, tất cả những tà kiến khác đương nhiên cũng chấm dứt.
X. HỮU (Bhava) - Hiện Tại
Upàdàna paccayà bhavo (skt cũng cùng một chữ), tùy thuộc nơi Thủ phát sanh Hữu (Bhava).
Hữu có hai, và phải được xem là hai tiến trình:
- tiến trình của nghiệp (kamma-bhava), và
- tiến trình tái sanh xem như hậu quả của nghiệp (upapatti bhava).
Về phương diện nghiệp báo, đó là phần "tích cực của đời sống",
Upapatti bhavalà, tiến trình tái sanh phần tiêu cực, về phương diện nghiệp báo và vô ký, về phương diện đạo đức của đời sống". Ðó là tiến trình tái sanh trong kiếp sống kế, xem như hậu quả của nghiệp.
Kiếp sống kế có thể diễn tiến trong bất luận cảnh giới nào:
- Dục (kàma bhava),
- Sắc (rùpa bhava),
- hay Vô sắc (arùpu bhava).
Bốn loại Tái sanh (Patisandhi)
Vì tâm thức, các tâm sở và sắc uẩn (citta, cetasikas, rupa) khởi lên vào lúc tái sanh (patisandhi), đều là hậu quả của nghiệp lực (kamma), cho nên tùy theo các loại nghiệp tốt xấu mà phân biệt ra thành bốn loại tái sanh. Bốn loại tái sanh là:
- hoá sanh (Opapatika patisandhi);
- thấp sanh (Sansedaja patisandhi);
- noãn sanh (Andaja patisandhi);
- thai sanh (Jalabuja patisandhi).
http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=3994&pid=349273#pid349273
Hành là nghiệp đã làm trong kiếp quá khứ, kamma bhava là nghiệp làm trong kiếp hiện tại
H: Trong câu avijjà paccayà sankhàrà, tùy thuộc nơi Vô Minh, Hành phát sanh, chữ Hành được giải thích là những hành động thiện và bất thiện (kamma, nghiệp). Nếu vậy, có phải chăng ở đây ta lập lại một giai đoạn đã có trải qua, vì kamma bhava, Hữu, được ghi nhận ở đây cũng là hành động thiện và bất thiện?
Đ: Nên hiểu rằng pháp Tùy Thuộc - Phát Sanh, Paticca - Samuppàda, không phải chỉ đề cập vỏn vẹn đến kiếp sống hiện tại mà cũng liên quan đến ba kiếp: quá khứ, hiện tại, và tương lai.
Ở câu trước, Hành là nghiệp, tức những hành động thiện và bất thiện, trong quá khứ. Kiếp sống hiện tại tùy thuộc những hành động quá khứ ấy.
Trong câu này, upàdàna paccayà bhavo, Hữu là nghiệp, tức hành động thiện và bất thiện, thuộc kiếp sống hiện tại, và những hành động trong hiện tại này tạo điều kiện cho kiếp sống tương lai. Upàdàna paccayà bhavo có nghĩa:
Thủ là điều kiện để tiến trình nghiệp và tiến trình tái sanh xem như hậu quả của nghiệp khởi phát.
XI. SANH (Jàti) - Tương Lai
Sanh là sự phát hiện của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) trong lòng bà mẹ ngay lúc thọ thai
Bhava paccayà jàti (skt cũng cùng một chữ), tùy thuộc nơi Hữu, Sanh khởi phát. Ở đây chữ Sanh không có nghĩa là hành động lâm bồn, hay cái sanh thật sự, ra em bé, mà là sự phát hiện của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) trong lòng bà mẹ ngay lúc thọ thai. Chính kamma bhava, tiến trình của nghiệp, tạo điều kiện cho tiến trình Sanh này.
Ái và Thủ (hay tác ý bám bíu) trong kiếp quá khứ đưa đến tái sanh ở hiện tại. Ái và Thủ (Tanhà Upàdàna) trong kiếp hiện tại đưa đến tái sanh trong tương lai
Ái và Thủ (hay tác ý bám bíu) trong kiếp quá khứ đưa đến tái sanh ở hiện tại. Ái và Thủ (Tanhà Upàdàna) trong kiếp hiện tại đưa đến tái sanh trong tương lai. Theo giáo lý của Ðức Phật, chính tác ý (cetanà) phân chia, làm cho chúng sanh cao hay thấp.
"Chúng sanh là người thừa kế của chính hành động mình, là người mang theo hành động của mình, và hành động của mình là cái bào thai từ đó chúng sanh được sanh ra" -- (Majjhima 135).
Chỉ xuyên qua hành động của mình chúng sanh mới có thể tự biến cải từ xấu ra tốt, tự tạo trở lại, và thành đạt giải thoát của chính mình ra khỏi phiền não. Ðó là con đường duy nhứt.
Chúng ta đang gặt hái những gì chính ta đã gieo trồng trong quá khứ. Ðôi khi ta cũng đang gặt hái ở đây những gì ta gieo trong chính kiếp sống này, và ta cũng hiểu biết như thế. Cùng một lối ấy, hành động của chúng ta trong hiện tại đang uốn nắn tương lai của chúng ta, và chúng ta bắt đầu thấu hiểu vị trí của mình trong võ trụ bí hiểm này. Nếu trong đêm tối dài dẳng của vòng luân hồi chúng ta không tự tạo cho mình hoàn cảnh hiện tại, xuyên qua Vô Minh, Ái Dục và Thủ, thì tại sao có sự chênh lệch rất xa giữa các chúng sanh mà ta có thể nhìn thấy trong thế gian ngày nay? Có thể quan niệm được chăng một cái tâm, duy nhứt, đủ vĩ đại, đủ bao quát và khúc chiết, để tạo nên thế gian muôn mặt, muôn màu sắc, và thiên hình vạn trạng, đang bao quanh chúng ta?
Nghiệp báo là hệ luận của tái sanh. Ðàng khác, tái sanh là hệ luận của nghiệp báo . Làm sao tiến trình của nghiệp có thể đưa đến tái sanh?
Như vậy, nghiệp báo là hệ luận của tái sanh. Ðàng khác, tái sanh là hệ luận của nghiệp báo. Ðến đây ta có thể tự hỏi: nếu nghiệp là nguyên nhân tạo duyên đưa đến tái sanh và nếu Phật Giáo quả quyết phủ nhận một linh hồn hay một tự ngã siêu việt thì làm sao tiến trình của nghiệp có thể đưa đến tái sanh?
"Không bao giờ có một năng lực nào tan biến mất tiêu. Và không có lý do nào để nghĩ rằng năng lực đã biểu hiện trong mỗi chúng sanh dưới hình thức tâm và thể xác, danh và sắc, lại có thể tan biến mất tiêu. Năng lực ấy phải luôn luôn biến đổi. Chính ngay trong hiện tại, vào giờ phút này, nó cũng đang biến đổi, từng chập, từng khoảng khắc, trong đời sống của chúng ta. Ðến lúc ta chết nó cũng không chấm dứt. Luồng sinh lực tâm linh chỉ được đặt trở lại vào vị trí mới, được đặt trở lại trong những điều kiện hòa hợp, tương ứng với tính chất của nó, cũng như âm thanh, phát ra từ một máy phát thanh được thâu, hay đặt trở lại vào máy thâu thanh, theo đúng băng tầng của nó. Mỗi chúng sanh tái sanh bắt đầu kiếp sống của mình với những khả năng tiềm tàng và những kinh nghiệm đã tích tụ trong quá khứ. Vì lẽ ấy, mỗi người có một tâm tánh khác nhau, mỗi người có những tài năng khác nhau, và những khả năng vô cùng tận". [15]
Không có cái gì đơn thuần và nguyên vẹn được truyền sang, hay chuyển qua, từ kiếp sống này đến kiếp kế, như sự chuyển sinh linh hồn. Từ một ngọn đèn đang cháy, mồi lửa sang ngọn đèn khác (đang tắt), có phải là ta đem ngọn lửa của cây đèn này truyền sang, hay chuyển qua, cây đèn kia không? Ta có thấy sự liên tục cháy của ngọn đèn không? Không phải hoàn toàn là cùng một ngọn lửa, cũng không tuyệt nhiên là hai ngọn khác nhau.
Như vậy, tiến trình nghiệp (kamma bhava) là "một năng lực dựa theo đó phản ứng của hành động tiếp nối theo hành động"; đó là động năng từ kiếp sống hiện tại tạo điều kiện cho kiếp sống tương lai, theo một sự liên tục không gián đoạn.
"Lòng ham muốn đưa đến hành động. Hành động đưa đến hậu quả. Hậu quả tự biểu hiện như một cơ thể mới mang theo ham muốn mới. Hậu quả của hành động nhứt định phải theo hành động, không thể tránh, cũng như bóng theo hình. Ðó chỉ là định luật thiên nhiên của võ trụ, trong phạm vi đạo đức, để bảo tồn năng lực. Cũng như trong võ trụ không bao giờ năng lực tan biến mất tiêu, bên trong mỗi cá nhơn không có cái gì còn lại của năng lực tích tụ do lòng tham muốn mà biến tan tiêu mất. Năng lực tích tụ ấy luôn luôn được chuyển sang một kiếp sống mới và chúng ta vĩnh viễn sống vì lòng khao khát, bám bíu vào sự sống. Tuy nhiên, cái mà làm cho đời sống khả dĩ có là nghiệp (kamma). -- (Paul Dahlke, Buddhist Essays, London, 1908, trang 115)
XII. LÃO và TỬ (Jaràarana) - Tương Lai
Jàti paccayà jaràmaranam (skt cũng cùng một chữ), tùy thuộc nơi Sanh, Lão và Tử khởi phát. Và cùng với Lão và Tử, phát sanh phiền não ta thán, đau khổ, âu sầu và tuyệt vọng.
Ðã có sanh tức nhiên phải có trưởng thành và chết. Không có sanh ắt không có trưởng thành và chết. Như vậy, toàn thể khối đau khổ này khởi phát tùy thuộc ở pháp Thập Nhị Nhân Duyên chia làm mười hai giai đoạn. Sanh tiếp nối theo già và chết. Ðàng khác già và chết tiếp nối theo sanh. Và cặp này liên tục nối nhau triền miên mãi mãi.
* * *
(Còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh