Người về qua cõi phù vân ... Nghiêng vai trút gánh phong trần bỏ đi...

Mục lục và tóm lược "LTP Học Phật Pháp"
Sư Toại Khanh --  Duyên Khởi - 12 Nhân Duyên và 6 Cơ Tánh Chúng Sanh(# 225-230) pp 15-16


A/ 6 cơ tánh chúng sanhdục tánh, nộ tánh, độn tánh, đãng tánh, mộ tánh, ngộ tánh.

Hành trang (căn cơ) của mỗi chúng sanh:
  1. tiền nghiệp quá khứ, 
  2. khuynh hướng tâm lý nhiều đời,
  3. môi trường hiện tại mà mình đang sống.
Môi trường hiện tại gồm có:
  1. bối cảnh sinh trưởng,
  2. môi trường giáo dục, trong đó gồm có học đường, xã hội, cha mẹ, thân quyến, bè bạn, láng giềng và kể cả môi trường làm việc.
Vì thế, mỗi chúng sanh thuộc về một trong 6 cơ tánh sau: dục tánh, nộ tánh, độn tánh, đãng tánh, mộ tánh, ngộ tánh.

Tùy căn cơ của mỗi người mà chúng ta đắc đạo kiểu nào. Có người quan sát cơn đau mà đắc đạo. Có người quan sát sự thoải mái mà đắc đạo.  

Như vậy, cơn đau hay sự thoải mái chỉ là phương tiện, là đối tượng của tâm (Sayadaw U Tejaniya) . Đối tượng không quan trọng .  Tâm như thế nào mới quan trọng .

Trong Thiền Quán, tu có nghĩa là biết rõ:
  1. đang dễ chiu.
  2. đang khó chiu.
  3. đang có tâm lành.
  4. đang có tâm bất thiên.
Nên nhớ:
  1. Cái gì sai dầu một triệu người tin, vẫn sai.
  2. Cái gì là chân lý dầu không ai tin, vẫn là chân lý.
3 đặc điểm của người ngộ tánh:
  1. khả năng phân biệt rất giỏi. 
  2. luôn luôn hướng đến cái tốt hơn, không dậm chân tại chỗ, không sớm vừa lòng thỏa mãn với cái họ đang có. 
  3. khả năng buông bỏ rất giỏi.
Chữ cầm (hold) có hai nghĩa:
  1. Giữ cái hiện tại, giữ cái đang có, 
  2. Không có khả năng nhận thêm cái mới. 
Vấn đề lớn nhất của mỗi người là không biết vấn đề của mình nằm ở đâu.

Thánh nhân thấy rõ điều mình tin nên tin chết bỏ điều mình thấy. 
Phàm phu thấy không rõ cái điều nó tin nên tin lờ mờ cái điều nó thấy. 

Chỉ tin cái mình thấy đúng và khi thấy đúng rồi là dứt khoát tin. 


B/ Giáo lý duyên khởi, 12 duyên sinh:

Vô minh trong 4 đế, các nghiệp thiện ác, tâm đầu thai các cõi .

6 căn: 6 senses, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý Hễ ngày nào mà ta còn thích 5 trần thì ngày đó ta còn đủ 6 căn, tại sao vậy, là vì ta còn phải luân hồi . Người càng ít phiền não thì cái nhu cầu cảm nhận thế giới sẽ ít theo

6 trần: 6 objects, sắc, thanh, hương, vị, xúc . Tuỳ thuộc vào ba thứ là tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý và môi trường sống mà khi 6 căn biết 6 trần ta có cái mental reaction như thế nào. Nếu ta có tu hành, có học đạo thì trước 6 trần như ý hay là 6 trần bất toại. nói chung trước cảnh đời như thế nào, tâm ta vẫn hành. Có nghĩa là ta có thể tu trong mọi tình huống, anywhere, anytime, trước anything, everybody.

6 xúc,
6 thọ,

6 ái:  Do có 6 căn, bắt đầu mắt nhìn cái gì, hết. Lỗ tai nghe được cái gì, hết. Từ cái 6 ái nó mới ra cái tứ thủ.

4 thủThủ tức là hold, keeping, nắm, mà Mỹ có cái chữ grasping, rất là hay.
  1. Dục thủ là chấp chặt vào sự hưởng thụ.
  2. Kiến thủ là sự chấp chặt trong quan điểm nhận thức. Chấp chặt gồm có hai: Tin cuồng vào điều chưa rõ và bác bỏ điều mình chưa thông. 
  3. Giới cấm thủ là chấp chặt vào quan điểm hành trì, có nghĩa là vì không hiểu 4 đế cho nên cứ chọn những pháp môn tu hành không nhắm tới sự buông bỏ. Giới cấm thủ là sao? Là chấp chặt vào quan điểm hành trì. (Cái số hai - kiến thủ - là quan điểm nhận thức, đúng không?) Còn quan điểm hành trì là sao? Có nghĩa là chúng sanh có hai nhu cầu: Nhu cầu tâm linh và nhu cầu vật chất. Nhu cầu vật chất là cơm, gạo, áo, tiền, sung sướng, sang trọng, bảnh bao, chảnh chọe. Còn nhu cầu tâm linh là tôn giáo, triết học, tư tưởng. Giới cấm thủ là chấp sai vào phương pháp hành trì: chấp chặt vào bất cứ phương pháp nào mà nó không có nội dung buông bỏ phiền não.
  4. Ngã chấp thủ tức là vì không hiểu được cái cấu tạo, cái structure của thân tâm này nó ra làm sao cho nên lén lút, âm thầm và lặng lẽ tin rằng có một cái tôi nó đang núp lùm ở trong đây, nhưng mà thật ra tất cả chỉ là đồ ráp thôi, nó chỉ là đồ ráp, cái tâm của mình, cái mind của mình lúc thiện, lúc ác, lúc buồn, lúc vui. Còn cái thân của mình thì sao? Nó biến động liên tục, cái mà tôi gọi là chemical reaction diễn ra liên tục và liên tục suốt từng phút từng giây và nó đẩy mình càng lúc càng đến gần cái chết hơn, mình không ngờ. Hiểu thì ai cũng hiểu, nhưng mà vừa tan buổi học bước ra xe là bắt đầu mình quay lại cái tôi của mình, vì sao? Vì mình không hiểu lắm điều mình tin nên không tin lắm điều mình hiểu.
2 hữu
  1. nghiệp hữu: các nghiệp thiện ác
  2. sanh hữu: các tâm đầu thai. 
4 sanhchúng ta đầu thai vào trong 4 loài: noãn, thai, thấp, hóa.

đau, già, bệnh, chết,
sầu, khổ 

Mọi thứ ở đời đều do các duyên mà có, và bản thân nó lại là duyên cho một tỷ thứ khác.

Luân hồi là lòng vòng.

Học Phật pháp để sống trong sự thanh thản không tiếp tục thích và ghét nữa.

Tâm đầu thai sẽ xuất hiện vào thời điểm nào đó tùy thuộc vào cái lực mạnh của lúc mình tạo nghiệp. Lực mạnh và yếu cho một nghiệp tùy thuộc vào:

  1. Đối tượng tạo nghiệp là cá nhân hay tập thể, đức độ hay không đức độ.
  2. Tâm trạng của mình lúc tạo nghiệp mạnh hay yếu. 
Nghiệp trắng thì cho quả trắng, nghiệp đen thì cho quả đen, nhưng có trường hợp trắng đen nó mix nhau thì sẽ cho quả mix cả đen lẫn trắng. 

Trong trọc có thanh là sao? Là bởi vì tâm thức của phàm phu luôn luôn có thiện và có ác. Rồi, trong những người ta gặp cũng có ác và có thiện.

Vô thường có hai trường hợp:
  1. trở thành một thứ khác, 
  2. từ có trở thành không, 
Tùy cái căn cơ của mỗi người mà chúng ta đắc đạo kiểu nào, có người họ quan sát cái cơn đau mà họ đắc đạo, có người họ quan sát cái sự thoải mái mà họ đắc đạo.

Tùy thuộc vào cái vốn liếng, cái hành trang, cái background của mỗi người nó như thế nào mà hôm nay chúng ta tu hành ra sao và mai mốt chúng ta đắc đạo kiểu nào:
  1. Có người tu dễ mà đắc rất là khó,
  2. Có người tu rất khó mà đắc rất là dễ,
  3. Có người tu khó mà đắc cũng khó,
  4. Có người tu dễ mà đắc cũng dễ.
Có 8 (? Có 4 thôi) điểm tựa mà người ta có thể dựa vào đó để xác định đâu là lời dạy của Như Lai, đó là:
  1. Cái con đường nào, cái pháp môn nào mà càng hành trì mà ta càng trở nên tinh tấn, không có biếng lười.
  2. Pháp môn nào mà người ta càng hành trì người ta càng thích sống một mình không có thích đám đông.
  3. Pháp môn nào càng hành trì người ta càng trở nên đơn giản, giản dị, dễ nuôi, không cầu kỳ, đòi hỏi tùm lum.
  4. Và đặc biệt cái pháp môn nào càng đi theo người ta càng có khả năng mở rộng bàn tay, buông hết mọi thứ.
Người xuất gia chỉ có ba việc phải làm:
  1. học đạo, 
  2. hành đạo, và 
  3. hoằng đạo. 
Do đó, trách nhiệm Phật tử là phải hỗ trợ để đào tạo tăng tài, chứ không phải hỗ trợ để xây chùa lớn.

  1. Phật giáo không cần ai bảo vệ mà Phật giáo chỉ cần được hiểu đúng,
  2. Thầy giỏi có thể tạo ra chùa, chứ chùa lớn không thể tạo ra thầy giỏi.
Giới cấm thủ là chấp sai vào phương pháp hành trì: Sai có nghĩa là chấp chặt vào bất cứ phương pháp nào mà nó không có nội dung buông bỏ phiền não. 

Pháp môn buông bỏ: dạy mình hiểu rõ về thân tâm, hiểu rõ về thế giới, hiểu rõ về vũ trụ để mà mình không có thích và ghét nữa . 

Pháp môn không buông bỏ: đưa ra cái củ cà rốt. Các con nghe lời đi, các con cứ tin đi, các con cứ làm theo lời của sư phụ đi, thì các con sẽ được sanh về cái cõi nào đó, các con sẽ được cái này, các con sẽ được cái kia.

Tu mong thành thánh là kiểu tu rất là mạo hiểm vì mình đâu biết thánh nó vuông tròn dài ngắn nó ra làm sao, cứ thấy nó lạ lạ tưởng là thánh. 

Tinh thần của Phật Pháp: chưa biết đạo thì cái gì cũng ôm, biết đạo rồi cái gì cũng buông, mà buông cả hai thứ:
  1. buông cả vật chất và 
  2. buông cả những thành tựu về tinh thần. 
Tại sao phải buông:
  1. Càng khiêng nhiều càng nặng vai, càng khiêng càng nặng. Nên nhớ, mọi thứ ở đời đều là phương tiện để dùng cho xong việc. 
  2. Nếu không buông được cái này làm sao có được cái khác?
Reply


Messages In This Thread
RE: Mục lục và tóm lược "LTP Học Phật Pháp" - by LeThanhPhong - 2020-05-01, 05:06 AM