2019-07-02, 05:17 PM
5. Văn học phật giáo Nguyên thủy qua các thời kỳ
5.1. Thời đại đế Osoka (304-232 TCN)
Triều đại vua Asoka (Adục), Phật giáo trở thành quốc giáo, văn học nghệ thuật Phật giáo phát triển rực rỡ như: nghệ thuật chạm khắc, kiến trúc chùa tháp (stupa) phát triển nhiều nơi như Bảo tháp Sanchi thờ Xá lợi Phật ở miền nam Ấn Độ về sau trở thành hình mẫu phát triển nghệ thuật Phật giáo ở các quốc gia Đông Nam Á, Nam Á, ngôn ngữ Prakit, và chữ viết được phổ biến rộng rãi. Đại đế Asoka đã dùng Mẫu tự Brahmi cho cư dân thủ phủ Magadha và phía nam. Mẫu tự Kharosthi cho các vùng giáp tây bắc (Pakistan Afganistan ngày nay) phổ biến quan điểm của vua Asoka qua tư tưởng của Đạo Phật.
Về tôn giáo: “Mọi người không nên chỉ trích chê bai tôn giáo của nhau. Những ai chỉ biết có tôn giáo mình, chỉ trích tôn giáo của người khác, thì chính người ấy đang làm hại tôn giáo của họ, vậy mọi người nên lắng nghe và kính trọng những giáo thuyết mà người khác tôn giáo tin, thậm chí nên học những giáo lý hay của tôn giáo người khác”.
Về đạo đức, con người tự nguyện thực hành “ít điều xấu, nhiều điều tốt, nhân từ, khoan dung, chân thật và trong sạch” để vượt qua bản ngã cá nhân, bất bạo động (ahimsa); tôn trọng sự sống.
Về quan hệ xã hội “Chinh phục người khác nên khoan hòa và nhẹ trừng phạt. Nên xem chinh phục bằng Chánh Pháp là cuộc chinh phục thật sự, bởi nó có kết quả trong đời này và đời sau. Hãy vui lấy niềm vui trong Chánh Pháp (Dharma-rati), bởi nó mang lại kết quả tốt trong đời này và đời sau.” (tư tưởng kinh Pháp cú). Không quà biếu nào bằng món quà biếu Chánh Pháp (Dharma-dana), không sự quen biết nào bằng sự quen biết Chánh Pháp (Dharma-samstava), không sự chia xẻ nào bằng sự chia xẻ Chánh Pháp (Dharma-samvibhaga), và không sự thân thuộc nào bằng sự thân thuộc Chánh Pháp (Dharma-sambandha), nên đối xử tử tế với người giúp việc, kính trọng cha mẹ, giúp đỡ bạn bè, vợ con, các bậc tu hành, và đừng sát sinh, mọi người được lợi lộc phước đức ngay trong đời này và đời sau".
Tinh thần bao dung Bất bạo động trở thành triết học tâm điểm trong nhận thức mọi người. Thời kỳ này có nhiều tôn giáo tín ngưỡng hoạt động, nhiều nhà triết học ở góc độ tôn giáo khác được xã hội thưa nhận đã giải thích, lý luận sai lầm về tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy, nên quốc sư Mogalliputta Tissa đã chủ tọa Hội nghị Trùng tụng Pháp và Luật (Dhamma Vinaya), so sánh từng câu, từng ý, giải thích và hội luận các sai lầm về văn học triết học đương thời.
Hội nghị kết luận phần Pháp (Dhamma) ở thể loại văn học Luân lý (Veyyakarana) được phân chia thành một phần riêng có tên Abhidhamma (A Tỳ Đàm) 500 vấn đề triết học nhận thức về tư tưởng dưới dạng câu hỏi đáp được giải thích đúng tư tưởng triết học Phật giáo Nguyên thủy Theravada. Quốc sư Mogalliputta Tissa đã cử 09 phái đoàn hoằng pháp đến các vùng trong và ngoài Ấn Độ. Một trong chín (09) phái đoàn đã đến Tích Lan do Đại sư Mahinda (con vua Asoka xuất gia đi tu) hướng dẫn, mang hệ thống Tam tạng vừa được trùng tụng tại thành phố Pataliputta (Hoa Thị Thành) đến Tích Lan, đặt nền tảng phát triển truyền thống văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada tại đây và phát triển toàn thế giới sau này. Một đoàn khác do 02 đại sư Sona và Uttara hoằng pháp đến vùng Suvanna Bhumi (Đất Vàng) gồm các quốc gia Đông Nam Á ngày nay.
Văn học Phật giáo Nguyên thủy thời kỳ đại đế Asoka được phổ biến bằng truyền khẩu, chữ viết trên đá. Nhiều bài kinh của Đức Phật thông qua khoảng 33 chỉ dụ của Quốc vương Asoka được phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội, hệ thống Tam tạng (Tipitaka) thành hình.
5.2. Từ thế kỉ thứ V đến thế kỉ thứ I TCN
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada dùng phương pháp truyền thống: truyền khẩu, ghi nhớ thuộc lòng, tụng đọc hàng ngày và chữ viết trên đá để phổ biến và bảo vệ học thuyết Phật giáo Nguyên thủy.
Triều đại vua Vattagamini (104 – 74) ở Sri Lanka (Tích Lan) cuộc chiến tranh giành quyền lực ngai vàng, cướp bóc nghèo đói, đã đẩy dân chúng thường xuyên di chuyển nơi sinh sống ảnh hưởng đến số lượng tu sĩ đọc tụng thuộc lòng Tam tạng, văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada từ truyền khẩu thuộc lòng giai đoạn này phát triển thêm viết chữ trên đá, lá buông, kim loại (vàng bạc) để bảo tồn.
6. Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada Việt Nam
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada Việt Nam được biết đến từ rất sớm chứa đựng bên trong nhiều khó tàng Pháp qua bản kinh An ban thủ ý thế kỷ III do dịch giả Khương Tăng Hội; Luận Giải thoát đạo thế kỷ V của Araham. Trải qua vài thiên niên kỷ những văn bản này vẫn còn mang tính kì bí hấp dẫn, phần nội dung chất đầy những thông tin say mê các nhà nghiên cứu, phần kỹ năng giúp con người tiếp cận được những phương pháp văn minh cách đây vài ngàn năm. Nhiều tác phẩm bằng ngôn ngữ Pali trong Chú giải, Sớ giải, Phụ sớ giải của các Luận sư, các Cao tăng đã nghiên cứu thực hành tu chứng viết lại. Trên 76 đầu sách Chú giải, Sớ giải, và Phụ sớ giải và khoảng 10 đầu sách được dịch bằng các ngôn ngữ thứ hai như tiếng Anh, tiếng Thái, tiếng Miến Điện, có số ít khác được dịch trực tiếp từ ngôn ngữ Pali; trên 500 đầu sách viết bằng ngôn ngữ Việt Nam của các vị Hòa thượng: Hộ Tông, Bửu Chơn, Hộ Giác, Giới Nghiêm, Siêu Việt, thiền sư Hộ Pháp, Hộ Pháp (núi Dinh); một số tu sĩ trẻ sau này như TT Giác Giới, TT Giác Chánh, ĐĐ Thiện Minh ở các thể loại dịch thuật, thi ca, tâm lý học Abhidhamma, truyện cổ tích Phật giáo. Nhu cầu dịch từ nguyên bản Pali văn học Phật giáo Nguyên thủy sang ngôn ngữ thuần Việt, đọc dể hiểu rất lớn trong giới nghiên cứu Phật học; nhu cầu thành lập nhóm nghiên cứu ngôn ngữ Pali, dịch thuật Pali cần được đặt ra. Lớp nghiên cứu dịch thuật Pali hiện nay chính là cánh cửa mở đang chờ đợi đáp ứng. Tạng kinh (HT Thích Minh Châu), Tạng luật (TT Chánh Thân) đã xong, Tạng Abhidhamma (A Tỳ Đàm) trước đây do Tổ sư Tịnh Sự phiên dịch từ Thái ngữ, đến nay nhu cầu dịch song ngữ Pali Việt để hoàn chỉnh tạng A Tỳ Đàm rất cần công việc cuối cùng này.
7. Kết luận
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada liên hệ các quốc gia Phật giáo Đông Nam Á, và đã trở thành khởi nguồn cảm hứng cho dòng văn học Phật giáo Việt Nam.
Thích Giác Trí
Thư Viện Hoa Sen
5.1. Thời đại đế Osoka (304-232 TCN)
Triều đại vua Asoka (Adục), Phật giáo trở thành quốc giáo, văn học nghệ thuật Phật giáo phát triển rực rỡ như: nghệ thuật chạm khắc, kiến trúc chùa tháp (stupa) phát triển nhiều nơi như Bảo tháp Sanchi thờ Xá lợi Phật ở miền nam Ấn Độ về sau trở thành hình mẫu phát triển nghệ thuật Phật giáo ở các quốc gia Đông Nam Á, Nam Á, ngôn ngữ Prakit, và chữ viết được phổ biến rộng rãi. Đại đế Asoka đã dùng Mẫu tự Brahmi cho cư dân thủ phủ Magadha và phía nam. Mẫu tự Kharosthi cho các vùng giáp tây bắc (Pakistan Afganistan ngày nay) phổ biến quan điểm của vua Asoka qua tư tưởng của Đạo Phật.
Về tôn giáo: “Mọi người không nên chỉ trích chê bai tôn giáo của nhau. Những ai chỉ biết có tôn giáo mình, chỉ trích tôn giáo của người khác, thì chính người ấy đang làm hại tôn giáo của họ, vậy mọi người nên lắng nghe và kính trọng những giáo thuyết mà người khác tôn giáo tin, thậm chí nên học những giáo lý hay của tôn giáo người khác”.
Về đạo đức, con người tự nguyện thực hành “ít điều xấu, nhiều điều tốt, nhân từ, khoan dung, chân thật và trong sạch” để vượt qua bản ngã cá nhân, bất bạo động (ahimsa); tôn trọng sự sống.
Về quan hệ xã hội “Chinh phục người khác nên khoan hòa và nhẹ trừng phạt. Nên xem chinh phục bằng Chánh Pháp là cuộc chinh phục thật sự, bởi nó có kết quả trong đời này và đời sau. Hãy vui lấy niềm vui trong Chánh Pháp (Dharma-rati), bởi nó mang lại kết quả tốt trong đời này và đời sau.” (tư tưởng kinh Pháp cú). Không quà biếu nào bằng món quà biếu Chánh Pháp (Dharma-dana), không sự quen biết nào bằng sự quen biết Chánh Pháp (Dharma-samstava), không sự chia xẻ nào bằng sự chia xẻ Chánh Pháp (Dharma-samvibhaga), và không sự thân thuộc nào bằng sự thân thuộc Chánh Pháp (Dharma-sambandha), nên đối xử tử tế với người giúp việc, kính trọng cha mẹ, giúp đỡ bạn bè, vợ con, các bậc tu hành, và đừng sát sinh, mọi người được lợi lộc phước đức ngay trong đời này và đời sau".
Tinh thần bao dung Bất bạo động trở thành triết học tâm điểm trong nhận thức mọi người. Thời kỳ này có nhiều tôn giáo tín ngưỡng hoạt động, nhiều nhà triết học ở góc độ tôn giáo khác được xã hội thưa nhận đã giải thích, lý luận sai lầm về tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy, nên quốc sư Mogalliputta Tissa đã chủ tọa Hội nghị Trùng tụng Pháp và Luật (Dhamma Vinaya), so sánh từng câu, từng ý, giải thích và hội luận các sai lầm về văn học triết học đương thời.
Hội nghị kết luận phần Pháp (Dhamma) ở thể loại văn học Luân lý (Veyyakarana) được phân chia thành một phần riêng có tên Abhidhamma (A Tỳ Đàm) 500 vấn đề triết học nhận thức về tư tưởng dưới dạng câu hỏi đáp được giải thích đúng tư tưởng triết học Phật giáo Nguyên thủy Theravada. Quốc sư Mogalliputta Tissa đã cử 09 phái đoàn hoằng pháp đến các vùng trong và ngoài Ấn Độ. Một trong chín (09) phái đoàn đã đến Tích Lan do Đại sư Mahinda (con vua Asoka xuất gia đi tu) hướng dẫn, mang hệ thống Tam tạng vừa được trùng tụng tại thành phố Pataliputta (Hoa Thị Thành) đến Tích Lan, đặt nền tảng phát triển truyền thống văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada tại đây và phát triển toàn thế giới sau này. Một đoàn khác do 02 đại sư Sona và Uttara hoằng pháp đến vùng Suvanna Bhumi (Đất Vàng) gồm các quốc gia Đông Nam Á ngày nay.
Văn học Phật giáo Nguyên thủy thời kỳ đại đế Asoka được phổ biến bằng truyền khẩu, chữ viết trên đá. Nhiều bài kinh của Đức Phật thông qua khoảng 33 chỉ dụ của Quốc vương Asoka được phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội, hệ thống Tam tạng (Tipitaka) thành hình.
5.2. Từ thế kỉ thứ V đến thế kỉ thứ I TCN
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada dùng phương pháp truyền thống: truyền khẩu, ghi nhớ thuộc lòng, tụng đọc hàng ngày và chữ viết trên đá để phổ biến và bảo vệ học thuyết Phật giáo Nguyên thủy.
Triều đại vua Vattagamini (104 – 74) ở Sri Lanka (Tích Lan) cuộc chiến tranh giành quyền lực ngai vàng, cướp bóc nghèo đói, đã đẩy dân chúng thường xuyên di chuyển nơi sinh sống ảnh hưởng đến số lượng tu sĩ đọc tụng thuộc lòng Tam tạng, văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada từ truyền khẩu thuộc lòng giai đoạn này phát triển thêm viết chữ trên đá, lá buông, kim loại (vàng bạc) để bảo tồn.
6. Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada Việt Nam
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada Việt Nam được biết đến từ rất sớm chứa đựng bên trong nhiều khó tàng Pháp qua bản kinh An ban thủ ý thế kỷ III do dịch giả Khương Tăng Hội; Luận Giải thoát đạo thế kỷ V của Araham. Trải qua vài thiên niên kỷ những văn bản này vẫn còn mang tính kì bí hấp dẫn, phần nội dung chất đầy những thông tin say mê các nhà nghiên cứu, phần kỹ năng giúp con người tiếp cận được những phương pháp văn minh cách đây vài ngàn năm. Nhiều tác phẩm bằng ngôn ngữ Pali trong Chú giải, Sớ giải, Phụ sớ giải của các Luận sư, các Cao tăng đã nghiên cứu thực hành tu chứng viết lại. Trên 76 đầu sách Chú giải, Sớ giải, và Phụ sớ giải và khoảng 10 đầu sách được dịch bằng các ngôn ngữ thứ hai như tiếng Anh, tiếng Thái, tiếng Miến Điện, có số ít khác được dịch trực tiếp từ ngôn ngữ Pali; trên 500 đầu sách viết bằng ngôn ngữ Việt Nam của các vị Hòa thượng: Hộ Tông, Bửu Chơn, Hộ Giác, Giới Nghiêm, Siêu Việt, thiền sư Hộ Pháp, Hộ Pháp (núi Dinh); một số tu sĩ trẻ sau này như TT Giác Giới, TT Giác Chánh, ĐĐ Thiện Minh ở các thể loại dịch thuật, thi ca, tâm lý học Abhidhamma, truyện cổ tích Phật giáo. Nhu cầu dịch từ nguyên bản Pali văn học Phật giáo Nguyên thủy sang ngôn ngữ thuần Việt, đọc dể hiểu rất lớn trong giới nghiên cứu Phật học; nhu cầu thành lập nhóm nghiên cứu ngôn ngữ Pali, dịch thuật Pali cần được đặt ra. Lớp nghiên cứu dịch thuật Pali hiện nay chính là cánh cửa mở đang chờ đợi đáp ứng. Tạng kinh (HT Thích Minh Châu), Tạng luật (TT Chánh Thân) đã xong, Tạng Abhidhamma (A Tỳ Đàm) trước đây do Tổ sư Tịnh Sự phiên dịch từ Thái ngữ, đến nay nhu cầu dịch song ngữ Pali Việt để hoàn chỉnh tạng A Tỳ Đàm rất cần công việc cuối cùng này.
7. Kết luận
Văn học Phật giáo Nguyên thủy Theravada liên hệ các quốc gia Phật giáo Đông Nam Á, và đã trở thành khởi nguồn cảm hứng cho dòng văn học Phật giáo Việt Nam.
Thích Giác Trí
Thư Viện Hoa Sen
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore