GÓP NHẶT HOA THƠM.


Reply


Reply
Tâm tình riêng dành cho tri âm(phần 1) Tác giả: Hạnh Đoan https://www.facebook.com/groups/425748238598029/permalink/500337264472459/
Reply





Bài của bạn Rau Sam.
...
Keep your face always toward the sunshine,
and shadows will fall behind you
- Walt Whitman
[Image: caeb7acbb406d4a771315fc46fadb8c3_w200.webp]
Reply




Bài của bạn Rau Sam.
...
Keep your face always toward the sunshine,
and shadows will fall behind you
- Walt Whitman
[Image: caeb7acbb406d4a771315fc46fadb8c3_w200.webp]
Reply
Dạo này mình bận quá không có thì giờ sửa nó nữa, GG sửa dùm được không. Cám ơn nhiều.Tại vì post bằng Iphone nên nó vậy đó . Vô máy bàn thì sửa dể hơn , mình dở về xử dụng IPhone mà làm biếng học hỏi .
Reply
Ah , bạn đã sửa rồi, cám ơn GG . Còn những bài mình lấy từ Facebook của mình, sao cũng không ra được nguyên bài như bản gốc? Làm cách nào , GG có sửa được luôn không.
Reply




Bài của bạn Rau Sam.
...
Keep your face always toward the sunshine,
and shadows will fall behind you
- Walt Whitman
[Image: caeb7acbb406d4a771315fc46fadb8c3_w200.webp]
Reply
Rất hoan nghênh GG hay bạn nào đó sửa dùm , cám ơn suông thôi kỳ quá ha.
Reply
TÂM TÌNH RIÊNG (1)
(Dành riêng cho tri âm - tác giả:  Hạnh Đoan)



Hồi đó tôi khoảng 20, đi tu được bốn năm, chưa học kinh LĂNG NGHIÊM, cũng không biết rành về công năng chú LĂNG NGHIÊM. Có lần ghé nhà bà Phật tử quen thì bà hàng xóm gần bên chạy qua, quýnh quáng nói con bà bị sốt, bà cầm chú Lăng Nghiêm (ép nhựa loại khoảng 10cm ngày xưa hay in cho người đeo) và nói bây giờ cho con bà đeo để cứu nó được không?

Lúc đó tôi bật cười bảo: Con sốt thì đưa đi bệnh viện khám chứ!

Bà vâng vâng dạ dạ rồi chạy về. Riêng tôi tự thấy mình thông minh thực tế vô kể. Còn thầm phê bình bà này sao mê tín dị đoan quá mức.


Có lần thấy tôi lẩm nhẩm học thuộc chú Lăng Nghiêm, chị Ba tôi ngăn cản, bảo:
- Dẹp đi không cần học.

Vì thời khoá tụng tông môn tôi không có chú Lăng Nghiêm. Thế là tôi ngoan ngoãn vâng lời không buồn để mắt đến chú nữa.

Xem như từ 1974 đến cuối đời mình, chị Ba tôi không hề tụng chú Lăng Nghiêm. Còn tôi, từ 1975 đến 2016, tôi không hề để ý, quan tâm gì đến chú Lăng Nghiêm.


Năm 2000 tình cờ tôi đọc mấy cuốn khai thị của ngài Tuyên Hoá, thấy ngài ca ngợi chú và khuyên nên tụng chú Lăng Nghiêm, tôi cũng không quan tâm. Do người ta dịch về ngài tâng bốc nhiều và xài những câu vô tình khiến ngài biến thành tự khoe làm tôi nghi ngờ không mỹ cảm. Sau này tôi mới biết mình lầm. Khi nghe Phùng Phùng kể ngài không đích thân tự viết tác phẩm nào, chỉ là đệ tử ngài nghe giảng ghi chép lại. Bản thân ngài rất khiêm cung, không hay nói về mình và cũng không kể khoe chuyện lạ thần thông. Tôi nghĩ: Hoá ra do đám đệ tử tôn sùng thầy quá, khoe kể cho thầy nhiều quá thành ra vô tình hại thầy.

Vạn Phật thành có đoàn phiên dịch tiếng Việt hùng hậu, nhưng họ lại dịch Ma Đăng Già nữ thành là: Con gái Ma Đăng Già. Câu chuyện Ma đăng Già và A Nan ai cũng biết nhưng từ dịch nhầm lẫn của họ đã khiến tôi hoài nghi về các văn bản dịch.

Bên ngài Tịnh Không thì Trưởng giả tử họ dịch là trưởng giả. Ngài Tịnh không lý luận: “Tử” chỉ là tiếng đệm, giống như Khổng tử, Lão tử vậy thôi.

Còn  bên Vạn Phật thành dịch Trưởng giả tử là ‘con trưởng giả “, tôi không biết ai dịch đúng ai dịch sai. Vì họ đồng là dân Tàu hết mà dịch khác nhau quá, thì hạng dân Việt rặt như tôi biết đường đâu mà nắm cho chuẩn đây?

Do vậy tôi không hoàn toàn tin các bản dịch bên Vạn Phật Thành. Tôi có ái mộ ngài Tuyên Hoá, nhưng ngài vẫn còn bị nghi ngờ, tôi chưa thể hoàn toàn tin tưởng.

Cho đến khi tôi dịch các tác phẩm của Quả Khanh, Phùng Phùng ( Hai vị này đều có thiên nhãn, có thần thông).Phùng Phùng chỉ cần nhìn thoáng qua một người là biết họ tu thực giả, công phu ra sao, những gì họ hành xử sẽ hiện rõ trước mắt ông như cuộn phim đang trình chiếu.

Do vậy Phùng Phùng không dễ quy phục ai, không dễ quỳ hay khấu đầu trước ai.


Lần đầu tiên gặp ngài Tuyên Hoá, phùng phùng tuy có cao ngạo nhưng đã sớm thần phục và hết mực tôn kính ngài.
Phùng phùng không để ý chú Lăng Nghiêm, nhưng khi ngài Tuyên Hoá đưa chú bảo đem về trì, phùng phùng vì tôn kính ngài mà đón nhận và trì tụng. Tuy không thường xuyên, bữa tụng bữa không. Nhưng rồi Phùng Phùng đã nhận ra tầm quý giá của chú khi ông nhìn bằng thiên nhãn.
Quả Khanh có thần thông rất cao. Ông nhìn thấu các cõi và biết rõ tiền kiếp mỗi người khi gặp họ.

Khi gặp ngài Tuyên Hoá ông tôn kính ngài như Phật sống, thì đủ biết ngài Tuyên Hoá không phải nhân vật tầm thường. Ông biết ngài Tuyên Hoá là hoá thân Bồ tát Quan Âm, nhưng sau khi ngài Tuyên Hoá viên tịch rồi ông mới thố lộ trong các tác phẩm mình.


Nhờ Phùng Phùng và quả khanh mà tôi hết nghi ngài Tuyên Hoá. Nhưng tôi vẫn chưa đoái hoài gì đến chú Lăng Nghiêm, vẫn không thèm tụng.


Cho đến khi chị Ba tôi mất, tôi muốn biết giây phút kề cận cái chết, nhìn rõ hai cõi âm dương, chị sẽ nói câu gì? Và câu nói trước khi tắt hơi của chị làm tôi chấn động:
HÃY TỤNG CHÚ LĂNG NGHIÊM CHO CHỊ!

Lúc đó mọi người thường tụng kinh Địa Tạng, Kinh Đi Đà để hộ niệm cho chị. Những ngày cuối bệnh nặng chị vui vẻ đồng ý. Nhưng giây phút sắp tắt hơi chị thúc hối trong trạng thái quýnh quáng, gấp rút: HÃY TỤNG CHÚ LĂNG NGHIÊM CHO CHỊ!

Và đại chúng tụng tới biến thứ sáu, chị ra đi an lành.

Bình sinh chị giảng pháp hay thu hút, nên “ giựt “ khá nhiều đệ tử các môn phái!

Mà thế gian là cõi đầy hiểm ác. Vì tình, vì danh, vì tiền, vì lợi... người ta sẵn sàng thư yếm hại nhau.

Chị Ba tôi trước đây không tin chuyện thư yếm, chị nói đó là sản phẩm tưởng tượng của con người, không thực có.

Đến khi chị nói mình bị thư yếm, tôi không tin, tôi nghĩ đây là chị tưởng tượng thôi.

Nhưng chị nói đau thiệt, đau đứt ruột gan, ăn gì chị cũng sợ, cầm điện thoại nghe cũng bị sưng má, sưng mặt... chị sợ cả tôi và tất cả đồ dùng, thực phẩm... của tôi, vì e rằng người ta sẽ mượn tay tôi ám hại chị.

Cả một trời đau khổ ập tới, trùng trùng thống khổ bủa vây, những cái khổ không thể nói bằng lời mà chỉ có im lặng tự nếm.

Do chị không hề trì chú nên không có gì bảo vệ. Còn tôi, dù không trì Lăng Nghiêm nhưng từ nhỏ tôi luôn trì chú Uế Tích đủ số để tự bảo vệ mình. Tôi nghĩ đây là thói quen của kiếp trước lưu lại.

Khi chị Ba yêu cầu tụng Chú Lăng Nghiêm hộ niệm chị, tôi nhìn bầu trời cực kỳ đẹp đầy mây ngũ sắc kéo về lòng rất thích.

Tôi bắt đầu quan tâm và quyết định tụng Chú Lăng Nghiêm, nguyện lấy đây làm công phu tự hộ niệm, tự chuẩn bị cho mình trước khi cái chết đến.

Hồi xưa tôi nghĩ chú Lăng Nghiêm chỉ là mấy chữ viết trên giấy trắng, có gì lạ lẫm linh diệu đâu?
Nhưng khi nghe Phùng Phùng nhìn bằng thiên nhãn phân tích, tôi choáng người (tiếc rằng bản phân tích quý giá này tôi làm lạc mất nên không thể dịch cho quý vị đọc)
Phùng Phùng nói: “Mỗi câu mỗi chữ trong chú Lăng Nghiêm quý như châu ngọc, có công năng mạnh hơn ngàn tia laser, có thể quét sạch mọi tà ma lẫn độc khí uế trược, giúp làm sạch không khí , khiến thanh tịnh hoá bầu trời, năng lực chú Lăng Nghiêm vi diệu không thể nghĩ lường, yêu ma quỷ quái đều khiếp sợ... công đức vô cùng”

Sau này khi gặp các ca sĩ, doanh nhân, đại gia... kể là mình bị thư yếm, tôi thường khuyên họ trì Chú Lăng Nghiêm để tự chữa, kết quả rất khả quan.

Nhưng viết đến đây dài lắm rồi, tôi phải ngưng. Nếu bạn còn thích nghe, tôi sẽ viết tiếp vào dịp khác. Nếu bạn không thích, tôi sẽ không kể nữa [Image: 1f602.png][Image: 1f64f_1f3fb.png]


[Image: 175689805_455031419088532_78940102167564...e=60DBCE92]

https://www.facebook.com/groups/425748238598029/permalink/500337264472459/


Bài của bạn Rau Sam. 
...
Keep your face always toward the sunshine,
and shadows will fall behind you
- Walt Whitman
[Image: caeb7acbb406d4a771315fc46fadb8c3_w200.webp]
Reply
RS, bạn delete link của bạn post, những bạn đọc lại tưởng của GG, nên GG thêm câu dưới kèm theo YT và bài viết nha.

GG vẫn đọc bài và coi YT bạn post. Cám ơn RS.  Tulip4
...
Keep your face always toward the sunshine,
and shadows will fall behind you
- Walt Whitman
[Image: caeb7acbb406d4a771315fc46fadb8c3_w200.webp]
Reply
Hay quá, cám ơn GG. Còn nhiều bài như vậy phía trên, rảnh sửa dùm luôn nha. Vì vậy mà mình ít post bài trong Facebook ra. Mai mốt mình post búa xua, các bạn ai sửa dùm cũng welcome hết nha. Thôi mình đi tụng chú Lăng Nghiêm, ngày 1 biến, có chuông mỏ giống chùa luôn đó, ngoài ra thì niệm Phật theo cách thầy Giác Quang dạy.
Reply
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TINH ĐỘ TÔNG (Thượng toa Thích Giác Quang)

Quote:

Reply
Dôi  Mắt Âm Dương .Ni Sư Hạnh Doan dịch từ Báo ứng Hiện dời của Cư sỉ Quả Khanh.

Bà tôi kể hồi nhỏ, những lúc nông nhàn thì bà se nhang (làm nghề phụ). Bà không hề tẩm hóa chất nào vào nhang, để tỏ lòng tôn kính, vì đây là vật phẩm dành để cúng dường.

Có lẽ nhờ làm nhang bằng tấm lòng thành thuần khiết, vào năm hơn 30 tuổi bà bị bệnh nặng thì được Bồ tát cứu (trên đường phố bà gặp một bà già tu Phật giúp chữa cho lành bệnh).
Bà già này đã sắc thuốc trị cho bà tôi, sau khi uống thuốc xong, bà tôi lành bệnh, nhưng kể từ đó linh nhãn cũng khai mở, bất kể ban ngày hay ban đêm, bà đều có thề nhìn thấy một cõi không gian khác mà mắt phàm chúng ta không thể thấy.
Trước đây tôi hoàn toàn không tin vào mấy cái thuyết thiên nhãn hay mắt âm dương chi (do bà thì luôn nhìn thấy những loài mà tôi không nhìn thấy), nên tôi luôn bảo là: Bà mắc bệnh thần kinh! Và cho bà là cổ hủ, phong kiến, mê tín…
Sau này, kể từ khi tôi có duyên may được nghe Phật pháp rồi phát tâm nhập đạo, thì mới hiểu và biết tri ân những gì mà đôi mắt âm dương của bà nhìn thấy, bởi việc này đã giúp tăng thêm tín tâm cho tôi rất nhiều.
Tôi xin kể ra nguyên nhân khiến mình tu theo Phật.
Vào khoảng mấy năm trước, tôi đang đi trên đường thì gặp người bán lươn, nhìn cảnh họ róc xương lột da lươn, tôi thấy bất nhẫn quá…nên quyết định mua hết số lươn (còn sống trong chậu) đem đến ao nước trong công viện lân cận để phóng sinh.
Từ nhỏ tôi vốn sợ rắn, nên những loài có hình dạng giống chúng tôi đều sợ. Vì vậy mà số lươn nằm trong bao tôi không dám bắt, đành phải rủ em gái cùng tôi đem tới công viên, nhờ nó bắt thả xuống ao giùm. Do tôi sợ quá nên chỉ đứng xa xa phía sau mà nhìn thôi. Kết quả: Khi lươn thả xuống nước xong, nhiều con còn bơi lại gần đến chỗ tôi, trông chúng mạnh khỏe, và hơn phân nửa đều ló đầu lên mặt nước, bu lại chỗ tôi, không ngừng gật đầu, cúc cung cảm tạ…Tôi nhận rõ ý chúng là như thế, ngộ cái là, chúng không hề xúm lại em gái tôi (dù em tôi ở rất gần chúng), mà lại bơi đến vây quanh chỗ tôi và không ngừng cúi chào, lâu thật lâu chúng mới chịu bỏ đi…
Chứng kiến cảnh tượng kỳ lạ này, ngay giây phút đó tôi hết sức bất ngờ và cảm động, cảm động đến lệ tuôn đầy mặt và tôi hiểu thế nào là: Chúng sinh bình đẳng, vật và người vốn có linh tính giống nhau!
Trước đây tôi vốn là kẻ mê ăn mặn, luôn phản đối ăn chay. Hễ đến bữa ăn mà không có thịt cá thì tôi nhất quyết không chịu cầm đũa. Nhưng sau khi phóng sinh lươn xong, quay về nhà rồi, tâm tôi đã thay đổi, tôi không còn hứng thú với việc ăn mặn nữa, tôi bắt đầu nghiên cứu Kinh Phật để hiểu thêm nhiều hơn về những điều kỳ diệu trong cuộc sống và âm thầm cảm ơn những con lươn kia đã dìu tôi bước vào Phật môn.
Mới đầu, tôi xem kinh Địa Tạng, rồi từ đó mỗi tháng vào mười ngày trai (mồng 1, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30) thì tôi đều tụng Kinh Địa Tạng.
Bà tôi vốn không biết chữ và chẳng hiểu gì về mười ngày trai này, nhưng mỗi lúc đúng vào mười ngày trai, sau khi tôi tan sở về nhà, là bà luôn hỏi tôi: Hôm nay có phải con sẽ tụng Kinh Địa Tạng không?
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao bà biết?
Bà đáp:
- Làm sao mà không biết được! Bà thấy các chúng sinh cõi quỷ ngay từ hồi chiều đã tụ tập đầy trong nhà rời, đông đến hết đếm nổi luôn! Chúng đến để nghe con tụng kinh mà!
Có những hôm thấy tối quá rồi mà tôi còn làm việc, bà đến gần bảo:
- Đừng làm nữa, lo mà tụng Kinh Địa Tạng đi! Không nên để các chúng sinh kia quỳ đợi lâu, rất có tội và không tốt!
Hơn nữa, bà còn tả rõ cảnh tượng: Chúng quỷ chỉ tụ tập đúng vào mười ngày trai (là những ngày tôi chọn để tụng kinh). Bà thấy trong số đó có cả động vật và người, vong người thì mặc y phục thuộc về triều đại của họ.
Tôi trước đây mê ăn mặn, không ưa ăn chay, nên khiến bà phải khổ theo bởi vì tôi mà bà phải giết vật tạo ác nghiệp nhiều.
Trong thời gian tôi tụng Kinh Địa Tạng, những chúng sinh bị giết ăn kia đều đến nghe kinh, có đủ heo, tôm , gà, cua , cá v.v…
Đặc biệt có một lần bầy cua tới, còn vung vẫy mấy cái càng to, như hướng bà muốn nói là cả nhà tôi từng ăn cua, chúng nghe tụng kinh với vẻ rất hoan hỉ…
Bây giờ tơi không còn tụng Kinh Địa Tạng nữa, mà thời khóa chính của tôi là kinh Kim Cang, Tâm Kinh, Chú Lăng Nghiêm v.v… đương nhiên bao giờ cũng có chúng sinh cõi khác tụ tập đến nghe.
Học Phật vốn là buông bỏ chấp trước, nhưng vẫn có nhiều người càng tu càng chấp. Chấp nơi oan thân trái chủ (sợ oan thân trái chủ làm chướng mình nên bỏ cuộc không tu trì).
Ngài Ấn Quang từng giảng: Quý vị chẳng biết là quỷ cùng người luôn ở chung lẫn lộn hay sao? Bởi vì không chỗ nào mà không có quỷ! Dù ta không mời quỷ đến, nhưng nhà nào cũng có quỷ. Tính ra, chúng quỷ hiện diện đông hơn người gấp trăm ngàn lần. Nếu người sợ quỷ, thì cần tích đức hành thiện, ắt quỷ sẽ sinh lòng kính trọng mà hộ trì.
Nếu người làm việc ám muội, thì qủy sẽ tranh nhau dè bỉu, nên khó thể sống an.
Nếu đã biết rõ như vậy, thì dù ở một mình trong nhà tối, mọi người cũng chẳng nên khởi chút niệm quấy hay chút ý tà, huống nữa là làm ra những việc lỗi…
Loài quỷ nếu là quỷ thiện, thì thấy người đến ắt nhường đường, khi người đi khỏi chúng mới chiếm khắp đất đó.
Nếu Lệ quỷ (quỷ ác) xuất hiện, ắt có điềm chẳng lành lớn.
Phải biết trước mặt mọi người luôn có rất nhiều (thiện quỷ hay ác quỷ). Muốn không sợ quỷ thì nên: giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt, được vậy thì các loài quỷ đang hiện diện đó, sẽ biến thành kẻ hộ vệ cho người.
Chỉ sợ rằng: Loài quỷ (được ta khiến cho kính trọng) không có nhiều, nếu có được nhiều thì càng tốt, sợ mà làm chi?
Giờ tôi xin nói đến việc truyền âm kinh luận. Nhờ may mắn mà tôi biết được công đức này. Nếu có thể, bạn nên sắp đặt trong ngôi kiến trúc của mình một nơi phát âm (quảng bá kinh), được vậy thì môi trường hoàn cảnh lân cận sẽ chuyển hóa triệt để, đủ có năng lực hướng dẫn nhân tâm. Giống như cõi tịnh Phổ Đà Sơn của Bồ tát Quan Thế Âm…
Ích lợi cực lớn thu được là: Ngay trong khu vực phát âm kinh chú, không chỉ có người, mà bao gồm cả côn trùng, tất cả chúng sinh nơi đó, đều được miễn trừ đọa tam ác đạo, có thể siêu sinh cõi trời, người, hoặc cõi Tịnh của chư Phật.
Do buổi tối thời gian bận rộn nhiều, nên tôi đổi lại: Mỗi ngày tụng kinh vào buổi sáng sớm. Trong nhà tôi sắm hai máy cho mở phát kinh thường xuyên: Một máy DVD chuyên phát kinh, chú … tôi đặt tại Phật đường, một máy phát “ Văn Thù Tâm Chú” tôi đặt trên bàn nơi thư phòng. Tôi hy vọng có thể giúp chúng sinh đến nghe kinh được thọ ích trong tất cả mọi thời.
Lúc tôi mở DVD phát đĩa kinh, đã chiêu cảnh rất nhiều chúng sinh hữu duyên đến nghe, trong số đó có một con rồng. Lần đầu bà tôi nhìn thấy vóc dáng khổng lồ của nó thì đã kinh hoảng hét lên: Ôi chao! Con rắn này sao mà to khiếp!
Bà còn tả là nó nằm phía ngoài sân thượng của gian thờ Phật. Nó còn lượn tới lượn lui ngoài sân canh trộm. Tôi khuyên bà đừng sợ mà hãy nhìn kỹ xem: Con “rắn” khổng lồ bà tả đó, nó có móng hay không? Bà nhìn kỹ rồi đáp có. Tôi giải thích: Đó không phải là rắn, mà là Rồng (là Long thần hộ pháp!)…
Năm nay con rồng ấy lại hiện thân, lần này nó nằm trên không, chỗ phát ra Văn Thù Tâm Chú…
Trong kinh điển Phật giáo, thường nhắc đến Thiên Long bát bộ, Long Thiên hộ pháp v.v... song mọi người đều không hiểu ý này.
Phật Thích Ca trước khi nhập niết bàn, đã dặn dò Long Vương, chư Thiên … nhắc nhở họ hộ trì Phật Pháp. Do đã trải qua hơn hai ngàn năm, nên nhiều người còn cho đâu là chuyện thần thoại phi thực, không thể nào tin.
Tôi thực cảm ơn chư Thiện trí thức đã chị điểm cho trên con đường tu tập hành đạo, cũng cảm ân đôi mắt âm dương của bà, cảm ân Long Thiên hộ pháp thị hiện … khiến tôi đối với Phật Pháp có đủ lòng tin.
Câu chuyện tôi kể ra hoàn toàn có thực, bạn không tin thì cứ xem như nghe chuyện thần thoại vậy. Còn tôi thì vững tin rằng: Thế giới này thực sự có tồn tại những loài mà mắt thịt của con người không nhìn thấu.
Ngẩng đầu ba thước có thần linh, nên chúng ta giờ phút nào cũng phải quan sát và kiểm điểm từng khởi tâm động niệm của mình.
Nguyện hồi hướng công đức này đến tất cả chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, nguyện tất cả đồng tu hành, đạt đạo.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Reply
CHỦ NHÀ HÀNG TƯƠI SỐNG VÀ NHỮNG BÁO ỨNG KINH DỊ.
(Trích Nhân quả & Phật Pháp Nhiệm màu. Tác giả: Hoàng Anh Sướng)

Cuối năm 2015, sau bài chia sẻ với mấy ngàn Phật tử tại chùa Hoằng Pháp (Thành phố Hồ Chí Minh). Tôi được một người đàn ông trung niên, tóc hoa râm, mặc áo tràng màu lam, dúi vào tay tôi một mẩu giấy. Về đến 
khách sạn, tôi mở ra đọc:
“Thưa nhà báo Hoàng Anh Sướng! Tôi rất tâm đắc với những gì nhà báo chia sẻ sáng nay tại chùa Hoằng Pháp. Giá như tôi được gặp nhà báo sớm hơn thì cuộc đời tôi hạnh phúc biết bao. Tôi biết công việc nhà báo rất bận nhưng tôi mạo muội xin phép được gặp nhà báo để được kể câu chuyện của đời tôi, một cuộc đời nhiều tội lỗi, khổ đau, u mê, lầm lạc…
Tôi tin, qua ngòi bút của nhà báo, nó sẽ giúp ích cho bạn đọc nhiều lắm. (Điện thoại của tôi: 097.856….) Nóng lòng chờ hồi âm của anh.
Kính thư: Nguyễn Nhật Trung”.
Tôi quyết định đổi chuyến bay về Hà Nội. Tối hôm đó, tôi hẹn gặp người đàn ông bí ẩn đó tại một quán trà đạo ở Sài Gòn. Gặp tôi, anh mừng rơi nước mắt. Vừa nhấp ngụm trà đầu tiên, anh đã vội xin phép được kể câu chuyện đời mình. Vì như anh nói, nó dài lắm…
“Tôi tên là Nguyễn Nhật Trung, quê gốc ở Đồng Nai nhưng sinh ra và lớn lên ở một tỉnh miền Trung. Vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, nhận thấy đời sống kinh tế dân mình bắt đầu dư dả, nhiều người có thú sưu tầm ăn uống những của ngon vật lạ, tôi dốc toàn bộ vốn liếng, mở một nhà hàng thịt thú rừngđặc sản với 3 tiêu chí: Ngon, độc, lạ…
Nhà hàng bày trí sang trọng, đẹp mắt. Dàn nhân viên chân dài, da dẻ nõn nà. Thức ăn thì toàn hàng “độc” với những công dụng “chết người” mà hễ vừa nghe quảng cáo qua, ẩm khách phải sôi sùng sục đòi ăn cho kỳ được như:
Ăn bào thai rắn để “ông khỏe, bà vui”.
Ăn chuột bao tử sống để “đêm bảy ngày ba vào ra không kể”…
Tôi muốn nói thêm với anh, bào thai rắn thực chất là trứng rắn. Bề ngoài giống trứng chim cút nhưng có giá cắt cổ, mỗi quả lên đến vài trăm nghìn đồng. Khi đập vỡ quả trứng sẽ thấy một con rắn bé tí như đầu đũa ngo ngoe như con giun đất.
Thiên hạ đồn rằng bào thai rắn là một bài thuốc bí truyền của người Trung Quốc, ăn một lần thì nam giới sẽ có sức khỏe gấp đôi. Món này làm cho thân thể thấy rạo rực, làm “chuyện ấy” thì miễn chê. Đặc biệt, muốn phát huy hết tác dụng “cường dương” thì khi đập vỡ quả trứng, người dùng phải nuốt tươi ngay.
Nhiều người đồn đại rằng, chuột đồng bao tử (chuột con mới đẻ còn đỏ hỏn, chưa mở mắt) là món ăn “độc nhất vô nhị”, là vị thuốc bổ thận có một không hai của Từ Hy Thái hậu xứ Trung Hoa.
Theo lời đồn này, nếu mổ bụng con chuột cái đang mang thai, moi chuột con đỏ hỏn bên trong ra, nhúng qua nước sôi đưa vào miệng ăn tươi nuốt sống thì sẽ mang đến công dụng kỳ diệu cho đàn ông. Sở dĩ có thể ăn tươi nuốt sống bởi chuột bao tử nằm trong bụng mẹ nên đảm bảo vệ sinh an toàn tuyệt đối, mùi vị cũng dễ ăn vì nó rất ngọt và béo ngậy.
Ngoài món chuột chao nước sôi ở trên, tôi còn rửa sạch chuột bao tử bằng rượu, cồn hoặc nước muối, mổ bỏ lòng ruột, đem ngâm rượu với một số vị thuốc bắc như ba kích, kỷ tử, đẳng sâm… trong 2 – 3 tháng. Uống loại rượu này rất tốt cho sinh lực đàn ông.
Nhưng món ăn độc nhất, quý nhất, tạo nên thương hiệu nhà hàng của tôi chính là món óc khỉ, thịt khỉ. Chẳng biết tự bao giờ rộ lên lời đồn rằng đây là món đại bổ, có tác dụng tuyệt vời để kích âm, cường dương… và sức mạnh dược tính càng phát huy mạnh mẽ nếu mổ xẻ thú khi đang còn sống.
Để tránh ăn phải óc khỉ dởm, khách đều yêu cầu nhà hàng phải giết mổ tại bàn để ăn óc tươi. Cho nên, giữa mỗi bàn ăn tôi đều khoét một lỗ vừa đủ cho chỏm đầu con khỉ nhô lên. Khỉ trước khi lên đầu đài đều được trói chặt, nhét dưới gầm bàn, đầu nhô lên khỏi lỗ khoét khoảng 1/3.
“Phập”…
Một nhát dao thật sắc, thật ngọt như tia chớp lia qua. Chỏm đầu con khỉ bay vèo, rơi xuống mặt bàn. Một tiếng rú man dại như tiếng đứa trẻ thét lên. Chanh tươi vắt, hạt tiêu bỏ vào, thực khách tranh nhau dùng muỗng múc óc tươi lẫn máu đỏ tứa ra, nuốt ngồm ngoàm cùng rau răm, húng.
Tiếng kêu rên thảm thiết của con khỉ càng kích thích đám thực khách. Cho đến lúc nó lịm đi, chết trong tột cùng đau đớn, óc khỉ cũng sạch banh. Trên khóe miệng nhiều người còn vương máu.
Để thỏa mãn sự hiếu kỳ của khách, tôi còn nghĩ ra đủ trò tra tấn, hành hạ, giết thịt các con vật khác tại bàn ăn…
Càng dã man, rùng rợn, khách càng thích thú:
– Cắt tiết canh vịt tại bàn.
– Chặt đuôi bò hầm khi nó còn sống.
– Nhốt mèo vào lồng chật hẹp, dùng nước sôi nóng già rót từ từ như rót trà cho lớp lông tự bung.
– Xẻ từng lát thịt khi cá còn giãy đành đạch…
Tôi chưa từng biết ghê tay trước cảnh giết mổ nào. Khách hàng càng phê, hú hét, tôi càng hứng, những nhát dao xẻ thịt càng diệu nghệ.
Năm 2000, tôi cưới vợ, một cô chân dài đẹp nức tiếng thành phố biển. Một năm sau, vợ tôi mang thai.
Nghe thiên hạ đồn thổi về công dụng của thịt chó đối với việc nuôi dưỡng thai nhi, mỗi tuần, tôi ép vợ ăn 3 bữa. Đích thân tôi tuyển lựa những chú chó tơ ngon nhất, tự tay tôi giết mổ, làm thịt, sào xáo rồi dâng lên tận miệng cho vợ xơi.
Ăn được vài tháng, vợ tôi kêu:
– Anh ơi! Em sợ lắm rồi… Thịt chó rất nóng, ăn vào con sẽ đầy mụn nhọt, lắm lông và nhiều bớt xanh, đen nữa. Vả lại, em cứ thấy ác ác thế nào ấy. Con chó thân thiết với người là thế mà nỡ ăn thịt nó. Bữa trước, bạn em còn bảo, ăn thịt chó nhiều khi mang bầu sau này con dễ bị động kinh.
Tôi gắt:
– Vớ vẩn! Đứa nào bảo thế để anh vả vỡ mõm nó ra. Thịt chó ngon, bổ, nhiều đạm. Đấy, em cứ nhìn bác Lực hàng xóm nhà mình kia kìa. Chẳng ngày nào bác ấy không ăn thịt chó. Ngoài 60 mà bác ấy khỏe như vâm, người đô con như lực sĩ. Thôi! Ráng ăn đi em cho con khỏe.
Mang thai tròn 9 tháng 10 ngày, vợ tôi sinh hạ được một bé gái bụ bẫm, kháu khỉnh. Tôi mừng rơi nước mắt. Có điều, lúc tôi chìa tay ra bế, đứa trẻ bỗng khóc thét như vừa bị ai đánh rơi. Tôi càng vỗ về, ru nín, con bé càng khóc ngằn ngặt, khóc đến tím tái mặt mày.
Kỳ lạ là đưa con lại cho vợ, chỉ ít phút, con bé đã nín. Chuyển tay tôi, nó lại khóc ré lên. Vợ tôi bảo:
– Chắc tại mình giết mổ nhiều, sát khí nặng nên con mới sợ. Trẻ sơ sinh, năng lượng còn mỏng manh, yếu ớt. Thôi! Thương con, mình chịu khó kiêng gần con một thời gian.
Từ bấy, những lúc nhớ con, tôi chỉ dám đứng từ xa ngắm con.
Được hai tháng tuổi, một hôm, con bé bỗng lên cơn co giật, sùi bọt mép, da vàng ệch. Vội vã đưa cháu đến bệnh viện thành phố cấp cứu. Sau khi xem hình ảnh siêu âm, bác sĩ kết luận:
“Cháu bị tắc ống mật. Mật ngấm vào máu, gây vàng da và niêm mạc. Vi khuẩn phát triển trong đường mật gây nhiễm khuẩn đường mật, xâm nhập vào máu gây nhiễm khuẩn máu. Đây là giai đoạn rất nặng của tắc mật, nguy cơ tử vong cao”.
Nghe bác sĩ nói vậy, vợ tôi khóc ầm lên. Còn tôi choáng váng như sét đánh ngang tai. Rất may, bệnh viện đã mời được vị bác sĩ giỏi tu nghiệp từ Úc về, con tôi được cứu sống.
Đến tháng thứ 5, một hôm tắm cho con, vợ tôi phát hiện lưng con bé mọc rất nhiều lông. Lúc đầu chỉ lún phún. Mười ngày sau, lông mọc càng dài, khoảng 3 – 4cm, cứng, có màu vàng, mềm mượt như lông khỉ. Lông mọc lan cả xuống hai mông.
Lo sợ, vợ chồng tôi ôm con đi khắp các bệnh viên trong Nam, ngoài Bắc. Nhưng các bác sĩ đều lắc đầu từ chối vì không biết rõ nguyên nhân của căn bệnh lạ…
Nghe một sư cô giới thiệu ở trên đỉnh núi Cấm (xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang) có một vị đạo sĩ dùng thuốc Nam chữa bệnh như thần, tôi tức tốc lên đường.
Tôi vẫn nhớ, đó là một buổi sáng khí trời lạnh buốt, sương giăng mịt mù. Chỉnh đốn hành trang, cẩn thận đem theo tấm bản đồ, một mình bắt đầu cuộc hành trình leo núi. Dọc đường, ngước nhìn lên chỉ thấy đỉnh núi cao vòi vọi, cây cối thâm u, khói sương bảng lảng.
Đường càng lúc càng gập ghềnh. Miết mải trèo đèo lội suối, trời đã gần trưa mà vẫn chưa thấy hình bóng của vị đạo sĩ khổ hạnh kia, lòng không khỏi băn khoăn. Đưa mắt nhìn quanh, bỗng nghe đâu đây tiếng mõ vọng đến chậm rãi, khoan thai:
“Cốc! Cốc! Cốc!”…
Tinh thần phấn chấn trở lại, tôi hăm hở nhắm hướng sơn cốc tiến tới. Rẽ vào con đường hun hút sâu, trên cao bồng bềnh mây phủ, cây cối xanh mướt giống như chốn bồng lai. Tiếng mõ chậm dần rồi ngưng hẳn.
Một dòng suối trong xanh uốn khúc hiện ra trước mặt. Tôi khom mình vốc nước uống, hương vị mát lạnh thanh lương đến thơm cả miệng. Ngẩng đầu lên, tôi bỗng giật mình phát hiện có người đứng bên bờ suối.
Nhìn kỹ, thấy một cụ già tóc búi củ hành, râu bạc như cước, vận bộ quần áo lụa màu trắng. Một cơn gió thoảng qua. Râu tóc, tà áo ông phơ phất. Ánh mắt hiền từ. Thần thái, cốt cách như một tiên ông. Bỗng dưng tôi có cảm giác ông gần gũi quá, quen thuộc quá, cứ như là ông bà, cha mẹ tiền kiếp của mình.
– Xin cụ làm ơn chỉ đường cho con đến nhà thầy Th.
– Tôi đây! Anh đến để nhờ chữa bệnh cho con gái anh chứ gì? Tôi ra đón anh đây.
Tôi giật mình. Quái lạ! Đây là lần đầu tiên tôi lên chốn thâm sơn cùng cốc này, cũng là lần đầu tiên gặp cụ. Sao cụ lại biết tôi lên đây tìm cụ chữa bệnh cho con?
Đang vân vi suy nghĩ, cụ tiến lại gần, nhìn sâu vào mắt tôi rồi hỏi:
– Trước đây, anh có giết thịt con khỉ lông vàng, trên lưng có đốm đen nào không? Chính con khỉ đó đã đầu thai làm con anh, tìm anh mà báo oán đó.
Tôi lại giật mình, mồ hôi túa ra như tắm. Đúng là cách đây 3 năm, tôi có làm thịt con khỉ lông vàng trên lưng có đốm đen cho nhóm khách quen là các quan chức của huyện. Lúc lôi nó từ trong lồng ra làm thịt, con khỉ cứ chắp tay lạy tôi, lạy cả đám quan chức đang háo hức ngồi chờ ăn món óc khỉ đại bổ.
– Nhưng như thế thì vô lý quá! Trước tiên con khỉ phải tìm kẻ bắt nó mà báo oán chứ, là đám quan chức lắm tiền nhiều của. Bọn họ ăn thịt khỉ nhiều hơn con mà. Tại sao con khỉ đó lại chỉ nhằm vào mỗi mình con mà báo oán?.
Vị đạo sĩ già ôn tồn giải thích:
– Có lẽ nó đã tìm tới những người kia báo thù rồi. Nhưng không nhất định là phải đầu thai làm con họ. Phàm những kẻ tham dự việc bắt khỉ giết, ăn, sớm muộn gì đều bị quả báo hết. Bởi vì nghiệp lực và phúc đức mỗi người khác nhau nên thời gian chịu quả báo cũng sớm muộn khác nhau.
Hôm nay anh có đủ duyên đến với ta cho nên ta mới giảng về nhân quả cho anh nghe. Còn số mệnh anh, số mệnh gia đình, đều nằm trong tay của chính anh. Tất cả đều có thể chuyển đổi được.
Nói đoạn, ông cụ đưa cho tôi 3 thang thuốc, dặn vừa nấu cho cháu uống, vừa tắm cho cháu hàng ngày:
– Nếu như anh thực lòng sám hối tội giết con khỉ, hằng ngày chịu khó tụng kinh “Phổ Môn Quan Thế Âm Bồ Tát”, hồi hướng công đức cho con khỉ đó, thì con anh mới hết bệnh. Tâm càng chân thành thì bệnh con anh chuyển biến càng nhanh.
Tôi về nhà, tinh tấn thực hiện đúng những gì vị đạo sư căn dặn. Kỳ lạ thay, 10 ngày sau, con tôi rụng hết lông. Da dẻ nhẵn nhụi như trước…
Nhà hàng mở cửa lại, khách đến ăn lại đông nườm nượp. Tiền lại vào như nước.
Ngày ngày, tôi lại quay cuồng trong những trò chém giết, mổ thịt, lột da… mua vui cho khách. Cho đến năm 2004, quả báo dồn dập ập đến với tôi. Mở đầu là cái chết tức tưởi của ông ngoại vợ tôi:
“Hôm ấy, nghe tin ông ngoại lên cơn hen xuyễn, vợ chồng tôi về thăm, mang theo cạp lồng cháo nấu với món óc khỉ. Tôi tự tay đút cho ông. Ai dè, xúc đến thìa thứ 3, ông cụ bị nghẹn, mắt trợn ngược, mặt tím tái, nước mắt giàn giụa, người co cứng. Vài phút sau, ông chết trên tay tôi”.
Cả nhà vợ oán hận, vì tôi mà ông chết. Cơn hận chưa nguôi, ít lâu sau, nhờ mối quan hệ với các sếp của tỉnh, là khách hàng thường xuyên của nhà hàng, tôi có chắp nối cho ông cậu ruột bên nhà vợ là chủ thầu xây dựng, nhận một công trình lớn.
Một lần, cậu tôi đến khảo sát, dàn giáo bất ngờ sập trong lúc công nhân đang đổ bê tông, chính ông bị khối bê tông đè trúng người, đầu vỡ toác…
Chưa hết, hơn 3 tháng sau, mẹ vợ tôi bị cảm sốt phải nhập viện. Chính tay tôi lái xe chở bà đến vì tôi quen thân khá nhiều các bác sĩ ở đây. Bệnh bà không nặng. Thế mà vừa vào viện buổi sáng, buổi chiều, bà bị sốc thuốc, lên cơn nhồi máu cơ tim, chết trên giường bệnh.
Đến tháng 10, cô ruột tôi bị tai biến mạch máu não, vào nằm viện. Mọi người trong gia đình thay phiên nhau trực tại bệnh viện. Chả hiểu sao, đến đúng phiên trực của tôi thì cô mất.
Ngẫm ra, cả bốn cái chết đều ít nhiều liên quan đến tôi.
Từ bấy, cả hai bên gia đình nội ngoại đều tìm cách tránh xa tôi như tránh hủi. Họ bảo:
“Thằng T. giết chóc thú rừng, súc vật nhiều quá nên sát khí nặng lắm. Gần nó, toi có ngày”.
Cũng từ bấy, không hiểu sao, nhà hàng thưa khách dần. Chuyện làm ăn ngày càng sa sút…
Tháng 02/2006, 3 đêm liền tôi nằm mơ thấy ác mộng. Tôi mơ thấy mình vác cuốc ra đồng đào huyệt. Huỳnh huỵch, mướt mải. Đào xong, nhìn xuống dưới huyệt, tôi tá hỏa thấy em trai tôi nằm dưới đó, máu me be bét.
Tỉnh dậy, mồ hôi ướt đầm, tôi hoảng sợ báo cho mẹ tôi biết và nhắc nhở chú em đi lại giữ gìn cẩn thận. 6 ngày sau giấc mộng kinh hoàng ấy. Mẹ tôi gào khóc trong điện thoại:
– Em con bị tai nạn chết rồi!
Tôi vội vã chạy ra hiện trường. Dưới gầm xe khách, em tôi nằm bẹp dí. Tôi ngất đi…
Ba ngày sau cái chết của chú em, tôi thỉnh mời một sư thầy ở Đà Nẵng đến nhà làm lễ. Thầy bảo:
– Gia đình anh đang vướng vào một nghiệp lớn. Yêu cầu mọi người phát tâm ăn chay trường để xin gỡ tội.
Tôi liền phát tâm ăn chay trong 49 ngày những mong gia đình thoát nạn, nhưng phát tâm ăn chay thì dễ mà thực hiện thì khó lắm sao… Ăn được vài ngày, tôi đã lên cơn thèm thịt rượu. Hễ hàng xóm sào xáo món gì, mùi thơm bốc sang là nước miếng tôi tứa ra, nuốt nước bọt ừng ực. Nhưng ngẫm nghĩ về những quả báo kinh hoàng dồn dập giáng xuống gia đình mình, tôi gắng quyết tâm.
Tôi lên chùa đốt nhang xin Phật, Bồ-Tát phù hộ cho tôi có thể ăn chay được đủ 49 ngày. Buổi sáng cầu nguyện, buổi chiều, tôi ra nghĩa địa thắp nhang cho chú em. Bất chợt, tôi nhìn thấy một cảnh tượng kinh hoàng:
“Một đám thanh niên đang đè ngửa một cụ ông bị lột trần truồng. Dao bầu nhọn hoắt, sáng loáng đang kề cổ cụ chuẩn bị chọc tiết”.
Quá kinh hãi, tôi quăng xe chạy đến cứu cụ già. Nhưng khi đến nơi thì hóa ra đó là một con heo bị giết cúng giỗ. Tôi thất thần quay ra. Đi được một đoạn lại thấy cụ già đó…. Biết là vong linh người mất, tôi sởn hết cả da gà, tóc dựng ngược. Cụ già kể:
“Ngày xưa, do giết mổ heo nhiều quá nên khi mất, phải trả nghiệp bằng cách hàng năm đều phải biến thành heo để bị con cháu giết mổ cho chính ngày giỗ mình”.
Ông cụ nhờ tôi đến nói với con cháu đừng giết mổ heo nữa kẻo nghiệp chồng chất nghiệp, nặng lắm…
Kể từ hôm ấy, nhìn con vật nào tôi cũng thấy là người. Tôi đoạn tuyệt với thịt, cá, rượu bia, phát tâm ăn chay trường từ đó.
Cũng kể từ hôm ấy, thân thể tôi xuất hiện nhiều căn bệnh lạ. Đầu đau như búa bổ. Các bó cơ ở vai, lưng, cổ nổi u cục, cứng ngắc như đá. Người lúc nào cũng vã mồ hôi, da thịt nổi những mẩn đỏ hình con vật, ngứa sôi ngứa sục, gãi cào toạc cả da, chảy cả máu. Đêm tôi không tài nào ngủ được, cứ nhắm mặt là lại nhìn thấy cảnh chết chóc, máu me…
Tôi hiểu, nghiệp ác bao năm tôi reo rắc, bây giờ mới trổ. Đã là báo ứng nhân quả thì không nên sợ hãi, buồn rầu, khóc lóc, chỉ cần bình thản đối diện, tin sâu Phật pháp, chí tâm tu hành, nhất định sẽ chuyển xoay ác cảnh thành thiện cảnh.
Tôi tin: “Ác hữu ác báo, thiện hữu thiện báo”.
Những gì chúng ta tạo tác hành động, từng cử chỉ, từng niệm khởi, theo sau đều có quả báo.
Tôi bắt đầu tỉnh ngộ ra rằng:
“Tất cả mọi nỗi thống khổ của con người chẳng phải do ông Trời làm ra mà chính là do những tư tưởng xấu, hành động ác do chính con người đã tạo trong đời này hay đời trước. Muốn cải đổi vận mệnh chỉ có một con đường duy nhất là năng làm việc lành, tích chứa âm đức mà thôi”.
Tôi luôn luôn sám hối trong tâm, có lúc sám hối cho đến khi chịu không nổi khóc rống lên…
Ngày 19/02/2006, tôi lên chùa Linh Ứng Non Nước, Đà Nẵng quỳ, xin phát nguyện ăn chay trường và quy y Tam Bảo. Tôi thường ra chợ mua động vật để phóng sinh, chuộc lại lỗi lầm.
Hằng ngày, gặp những cơ hội phóng sinh, tôi đều thực hiện cho kỳ được. Tôi cũng dùng hết khả năng tài vật của mình để giúp đỡ người bệnh tật, nghèo đói. Và thật kỳ lạ, các bệnh quái đản của tôi khỏi lúc nào không hay. Từ đó, niềm tin của tôi vào Nhân – Quả Báo Ứng càng thêm kiên cố.
Tôi đã thấm thía được một bài học của cuộc đời. Một bài học sâu sắc rằng:
“Cái đích rốt ráo của đời người, chẳng phải là rừng tiền biển bạc, biệt thự xe sang, danh cao chức trọng.Siêng năng làm thiện, tích chứa âm đức, không sát sinh, làm lợi cho người. Cửu huyền thất tổ nhờ đó mà được rạng rỡ thì ta sẽ không thấy hổ thẹn một đời. Còn nếu có duyên hơn nữa, đắc được Phật Pháp thì sẽ tìm thấy con đường thoát khổ siêu sinh”.
Kể lại chi tiết câu chuyện đời mình, tôi hy vọng quý bạn đọc sẽ lấy đó làm gương, đừng đi theo vết xe đổ như tôi. Như ông Đặng Lê Nguyên Vũ nói đấy: “Tiền nhiều để làm gì ?” Thú thực, nếu không đích thân trải qua những trải nghiệm đau đớn khắc cốt ghi tâm này, tôi cũng khó mà tin vào thuyết báo ứng nhân quả, về tội nghiệp sát sinh. Đúng là nhân quả báo ứng rất rõ ràng, như bóng tùy theo hình, không mảy may sai lệch.
____________________
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT __()__
Nguyện cho những ai đã từng phạm phải sai lầm này có thể hồi đầu sám hối. Những người chưa từng gây lỗi, đọc được bài viết này có thể nhân cơ
hội mà tránh không phạm vào những ác nghiệp như thế này.
Reply