\
ÂN ĐỨC PHẬT BẢO (BUDDHAGUṆA) & CÁCH THỰC HÀNH NIỆM ÂN ĐỨC PHẬT
Ân đức Phật Bảo vô cùng vi tế, sâu sắc, rộng lớn, vô lượng vô biên không sao kể xiết. Tuy vậy, trong bài kinh Dhajaggasutta, Đức Phật dạy niệm 9 Ân đức Phật Bảo như sau:
“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasāratthi, Satthādevamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā”
1- Ý NGHĨA 9 ÂN ĐỨC PHẬT
1) Arahaṃ: Đức Arahán là Bậc cao thượng có thân khẩu ý hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư thiên, phạm thiên và nhân loại.’
Araham có 5 ý nghĩa
- Arahaṃ có nghĩa là đã xa lìa mọi phiền não.
- Arahaṃ có nghĩa là đã diệt đoạn tuyệt mọi kẻ thù là phiền não.
- Arahaṃ có nghĩa là đã phá huỷ vòng luân hồi trong ba giới bốn loài.
- Arahaṃ có nghĩa là không bao giờ làm điều ác ở nơi kín đáo.
- Arahaṃ có nghĩa là xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường.
----------------
2) Sammāsambuddho: Đức Chánh Đẳng Giác là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót, đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng sinh; đặc biệt diệt được mọi tiền khiên tật, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị.
* Chân lý Tứ Thánh Đế trích từ Kinh Sở Y Xứ (Titthāyatanādi Sutta):
- Thánh đế về Khổ:
“Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ. Này các Tỳ- khưu, đây là Khổ Thánh đế.”
-Thánh đế về Khổ tập:
“Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên sắc, danh sắc duyên sáu xứ, sáu xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não. Như vầy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Này các Tỳ- khưu, đây gọi là Thánh đế về Khổ tập.”
-Thánh đế về Khổ diệt:
“Do vô minh diệt không có tàn dư, nên các hành diệt. Do hành diệt, nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não đều diệt. Như vậy là sự đoạn diệt toàn bộ của khổ uẩn này. Này các Tỳ- khưu, đây gọi là Thánh đế về Khổ diệt.”
- Thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt:
“Ðây là Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỳ- khưu, đây gọi là Thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt.”
----------------
3) Vijācaraṇasampanno: Đức Minh Hạnh Túc là Bậc có đầy đủ Tam Minh, Bát Minh và 15 Đức Hạnh cao thượng.
* Tam Minh:
Túc mạng minh là trí tuệ thấy rõ, biết rõ, nhớ rõ trở lại tiền kiếp từ một kiếp, hằng trăm kiếp, hằng ngàn kiếp, hằng vạn kiếp, hằng triệu kiếp, hằng triệu triệu kiếp. Đức Phật Chánh Đẳng Giác có khả năng ghi nhớ lại vô số kiếp không có giới hạn (còn Đức Phật Độc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác có giới hạn).
Túc mạng minh là trí tuệ biết rõ tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, ba-la-mật, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ… đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.
Thiên nhãn minh là trí tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh như mắt của chư thiên, phạm thiên.
Thiên nhãn minh có hai loại:
a) Tử sanh minh là trí tuệ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng sinh.
Đức Thế Tôn có tử sanh minh này nên biết rõ chúng sinh sau khi chết, rồi do nghiệp nào cho quả tái sinh trong cảnh giới nào.
b) Vị lai kiến minh là trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của chúng sinh.
Chư Phật dùng vị lai kiến minh này để thọ ký chúng sinh trong những kiếp vị lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Phật Độc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác…
Lậu tận minh là trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới, đó là 4 Thánh Đạo Tuệ, diệt đoạn tuyệt được 4 pháp phiền não trầm luân không còn dư sót; đồng thời Đức Thế Tôn tận diệt được tất cả mọi tiền khiên tật (vāsanā) đã tích luỹ từ vô lượng kiếp trong quá khứ.
*Bát Minh
Túc mạng minh.
Thiên nhãn minh.
Lậu tận minh.
Thiền tuệ minh là trí tuệ thiền tuệ tam giới thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp sắc pháp, và trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới chứng đắc 4 Thánh Đạo Tuệ, 4 Thánh Quả Tuệ và Niết Bàn.
Hoá tâm minh là trí tuệ có khả năng hoá thân khác theo mong muốn của mình, do năng lực của thiền định. Như trường hợp Đức Phật thuyết tạng Vi Diệu Pháp vào hạ thứ bảy tại cung Tam Thập Tam Thiên suốt ba tháng. Mỗi ngày đến giờ đi khất thực, Đức Phật hoá thân khác như Đức Phật tiếp tục thuyết pháp, còn chính Đức Phật thật đi khất thực ở bắc Câu Lưu Châu. Khi độ ngọ xong trở lại cung trời thay thế Đức Phật hoá thân, chỉ có một số ít chư thiên, phạm thiên bậc cao có nhiều oai lực mới biết được.
Thần thông minh là trí tuệ có khả năng biến hoá nhiều phép thần thông khác nhau, do năng lực thiền định, như một người hoá thành nhiều người, tàng hình không ai thấy, hiện hình nơi khác, đi xuyên qua núi, đi trên hư không…
Thiên nhĩ minh là trí tuệ có khả năng nghe được nhiều thứ tiếng người, tiếng súc sinh, tiếng chư thiên gần xa, do năng lực thiền định, như tai của chư thiên.
Tha tâm minh là trí tuệ có khả năng biết đến tâm của người khác, chúng sinh khác đang nghĩ gì, tâm thiện hoặc tâm bất thiện...
*15 Đức Hạnh cao thượng
Giới đức: Hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh.
Thu thúc lục căn thanh tịnh: Thu thúc khi thấy bằng mắt, nghe bằng tai, ngửi bằng mũi, nếm bằng lưỡi, tiếp xúc bằng thân, suy nghĩ bằng ý hoàn toàn thanh tịnh.
Biết tri túc trong vật thực: Nhận vật thực vừa đủ, khi thọ thực đàng hoàng, còn 4 - 5 miếng cơm đủ no, biết ngừng lại để dành uống nước, không dùng no quá.
Tinh tấn tỉnh thức: Ngày, đêm tinh tấn hành phận sự, nghĩa là suốt ngày không ngủ, ban đêm có 3 canh; canh đầu: ngồi hành đạo, đi kinh hành; canh giữa (22 giờ khuya): nằm nghỉ ngủ trong tư thế nằm nghiêng bên phải, có trí nhớ, trí tuệ trước khi ngủ, sẽ thức dậy lúc cuối canh giữa, canh chót (2 giờ sáng): hành đạo, đi kinh hành… Gọi là tinh tấn luôn luôn tỉnh thức.
Đức tin: Có đức tin không lay chuyển.
Trí nhớ: Thường có trí nhớ.
Hổ thẹn: Tự mình biết hổ thẹn, không làm mọi tội ác.
Ghê sợ: Biết ghê sợ, không làm mọi tội ác.
Đa văn túc trí: Học nhiều hiểu rộng tất cả các pháp.
Tinh tấn: Có tâm tinh tấn không ngừng nghỉ.
Trí tuệ: Có trí tuệ hiểu biết rõ tất cả các pháp.
Đệ nhất thiền: Có đệ nhất thiền hữu sắc và vô sắc.
Đệ nhị thiền: Có đệ nhị thiền hữu sắc và vô sắc.
Đệ tam thiền: Có đệ tam thiền hữu sắc và vô sắc.
Đệ tứ thiền: Có đệ tứ thiền hữu sắc và vô sắc.
Đức Thế Tôn có trọn đủ Tam Minh, Bát Minh và 15 Đức Hạnh cao thượng hợp với trí đại bi, để tế độ chúng sinh có hữu duyên nên tế độ, cứu vớt chúng sinh ấy giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Do đó, Đức Thế Tôn có Ân đức Vijjācaranasampanno: Đức Minh Hạnh Túc.
----------------
4) Sugato: Đức Thiện Ngôn là Bậc thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích thật sự cho chúng sinh.
* Sugato có 4 ý nghĩa:
- Ngự theo Thánh Đạo.
- Ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối.
- Ngự đến mục đích cao thượng, bất thoái chí.
- Thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh
5) Lokavidū: Đức Thông Suốt Tam Giới là Bậc thấy rõ, biết rõ chúng sinh thế giới, cõi thế giới, pháp hành thế giới.
Thế nào gọi là chúng sinh thế giới?
Chúng sinh thế giới có nhiều loại.
Về nơi sanh có 4 loại:
Thai sanh: Chúng sinh sanh từ bụng mẹ (loài người, trâu, bò…).
Noãn sanh: Chúng sinh sanh từ trứng (gà, vịt, chim…).
Thấp sanh: Chúng sinh sanh từ nơi ẩm thấp (con dòi, con giun,…).
Hoá sanh: Chúng sinh sanh hiện hữu ngay tức thì (chư thiên, phạm thiên, loài ngạ quỷ, atula, chúng sinh địa ngục, con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất này…).
Về uẩn có 3 loại:
Chúng sinh có ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn trong 11 cõi dục giới và 15 cõi sắc giới.
Chúng sinh có tứ uẩn: Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn (không có sắc uẩn) trong 4 cõi vô sắc giới.
Chúng sinh có nhất uẩn: Sắc uẩn (không có 4 danh uẩn) trong cõi sắc giới vô tưởng thiên v.v…
Đức Thế Tôn biết rõ tất cả mọi loài chúng sinh có căn duyên cao hoặc thấp, có phiền não ngấm ngầm nặng hoặc nhẹ, có bản tánh riêng của mỗi chúng sinh, có nguyện vọng cao quý hoặc thấp hèn, có 5 pháp chủ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) già dặn hoặc còn non nớt…
Chúng sinh có khả năng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại, hoặc kiếp vị lai trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác,...
Chúng sinh không có khả năng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại, bởi do nguyên nhân nào…
Đức Thế Tôn thông suốt tất cả các loài chúng sinh không còn dư sót.
Thế nào gọi là cõi thế giới?
Cõi thế giới là nơi tạm trú của tất cả các loài chúng sinh hiện hữu, tuỳ theo thiện nghiệp, ác nghiệp cho quả và hỗ trợ chúng sinh.
Tam giới
Tam giới là một thế giới nhỏ, gồm có 31 cõi:
Dục giới có 11 cõi.
Sắc giới có 16 cõi.
Vô sắc giới có 4 cõi.
11 cõi dục giới
* 4 cõi ác giới
Cõi địa ngục: Có tuổi thọ không nhất định.
Cõi atula: Có tuổi thọ không nhất định.
Cõi ngạ quỷ: Có tuổi thọ không nhất định.
Cõi súc sinh: Có tuổi thọ không nhất định.
* 7 cõi thiện dục giới
Cõi người: Có tuổi thọ không nhất định.
Cõi Tứ Đại Thiên Vương: Có tuổi thọ 500 tuổi trời, bằng 9 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 50 năm cõi người).
Cõi Tam Thập Tam Thiên: Có tuổi thọ 1.000 tuổi trời, bằng 36 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm cõi người).
Cõi Dạ Ma Thiên: Có tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng 144 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 200 năm cõi người).
Cõi Đẩu Xuất Đà Thiên: Có tuổi thọ 4.000 tuổi trời, bằng 576 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm cõi người).
Cõi Hoá Lạc Thiên: Có tuổi thọ 8.000 tuổi trời, bằng 2.304 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 800 năm cõi người).
Cõi Tha Hoá Tự Tại Thiên: Có tuổi thọ 16.000 tuổi trời, bằng 9.216 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 1.600 năm cõi người).
16 cõi sắc giới phạm thiên
* Đệ nhất thiền hữu sắc có 3 cõi
Cõi Phạm Chúng Thiên: Có tuổi thọ 1/3 a-tăng-kỳ kiếp trụ.
Cõi Phạm Phụ Thiên: Có tuổi thọ 1/2 a-tăng-kỳ kiếp trụ
Cõi Đại Phạm Thiên: Có tuổi thọ 1 a-tăng-kỳ kiếp trụ.
* Đệ nhị thiền hữu sắc có 3 cõi
Cõi Thiểu Quang Thiên: Có tuổi thọ 2 đại kiếp (trải qua 4 a-tăng-kỳ thành, trụ, hoại, không của kiếp trái đất).
Cõi Vô Lượng Quang Thiên: Có tuổi thọ 4 đại kiếp.
Cõi Quang Âm Thiên: Có tuổi thọ 8 đại kiếp.
* Đệ tam thiền sắc giới có 3 cõi
Cõi Thiểu Tịnh Thiên: Có tuổi thọ 16 đại kiếp.
Cõi Vô Lượng Tịnh Thiên: Có tuổi thọ 32 đại kiếp.
Cõi Biến Tịnh Thiên: Có tuổi thọ 64 đại kiếp.
* Đệ tứ thiền sắc giới có 7 cõi
Cõi Quảng Quả Thiên: Có tuổi thọ 500 đại kiếp.
Cõi Vô Tưởng Thiên: Có tuổi thọ 500 đại kiếp.
Cõi Phước Sanh Thiên: Có 5 cõi dành riêng cho bậc Thánh Bất Lai chứng đắc đệ tứ thiền hữu sắc:
Cõi Vô Phiền Thiên: Có tuổi thọ 1.000 đại kiếp.
Cõi Vô Nhiệt Thiên: Có tuổi thọ 2.000 đại kiếp.
Cõi Thiện Hiện Thiên: Có tuổi thọ 4.000 đại kiếp.
Cõi Thiện Kiến Thiên: Có tuổi thọ 8.000 đại kiếp.
Cõi Sắc Cứu Cánh Thiên: Có tuổi thọ 16.000 đại kiếp.
4 cõi vô sắc giới phạm thiên
Không vô biên xứ thiên: Có tuổi thọ 20.000 đại kiếp.
Thức vô biên xứ thiên: Có tuổi thọ 40.000 đại kiếp.
Vô sở hữu xứ thiên: Có tuổi thọ 60.000 đại kiếp.
Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên: Có tuổi thọ 84.000 đại kiếp.
1 thế giới có tam giới, gồm có 31 cõi.
1 tiểu thế giới có 31.000 cõi.
1 trung thế giới gồm có 31 triệu cõi.
1 đại thế giới gồm có 31 triệu triệu cõi (31.000 tỉ cõi).
Đức Thế Tôn không những thông suốt 31.000 tỉ cõi mà còn thông suốt vô lượng thế giới (anantacakkavāla).
Thế nào gọi là pháp hành thế giới?
Pháp hành thế giới là ngũ uẩn do nhân duyên cấu tạo, nên có sự sinh, sự diệt.
Chúng sinh thế giới và cõi thế giới thuộc về thế giới do Chế định pháp (Pannat-tidhamma), còn pháp hành thế giới thuộc về Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma).
Đức Thế Tôn thông suốt pháp hành thế giới có nhiều loại như sau:
Thế giới có 1 pháp: Tất cả chúng sinh được tồn tại do nhờ nhân (āhāra).
Thế giới có 2 pháp: Danh pháp và sắc pháp.
Thế giới có 3 thọ: Thọ khổ, thọ lạc, thọ xả.
Thế giới có 4 pháp: 4 pháp đem lại quả là vật thực, xúc, tác ý, tâm.
Thế giới có 5 uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
Thế giới có 6 xứ bên trong: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; và có 6 xứ bên ngoài: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Đức Thế Tôn thông suốt cả vô lượng thế giới, bắt nguồn từ thế giới ngũ uẩn của mình.
Do đó, Đức Thế Tôn có Ân đức Lokavidū: Đức Thông Suốt Tam Giới.
6) Anuttaro purisadammasārathi: Đức Vô Thượng giáo hóa chúng sinh là Bậc giáo huấn chúng sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm nhân lên bậc Thánh Nhân.
7) Satthādevamanussānam: Đức Thiên Nhân Sư là Bậc Thầy của chư thiên, chư phạm thiên, nhân loại…
8) Buddho: Đức Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng sinh, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác độc nhất vô nhị, rồi Ngài thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Ngài (cũng chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn tùy theo năng lực ba-la-mật và hạnh nguyện của mỗi chúng sinh).
9) Bhagavā: Đức Thế Tôn là Bậc có 6 Ân đức đặc biệt do đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật của Ngài.
2- CÁCH THỰC HÀNH NIỆM ÂN ĐỨC PHẬT
Niệm Ân đức Phật có nhiều cách.
Cách thứ nhất (phổ thông): Niệm 9 Ân đức Phật
Hành giả tiến hành niệm 9 Ân đức Phật như sau:
“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadammasāratthi, Satthādevamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā.”...
Hành giả tâm niệm đến Ân đức Phật nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của Ân đức Phật ấy, định tâm theo dõi mỗi Ân đức Phật như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần... trong suốt thời gian tiến hành niệm 9 Ân đức Phật, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức Phật Bảo.
Cách thứ nhì: Niệm một câu Ân đức Phật.
Hành giả có thể chọn một câu Ân đức Phật nào trong 9 Ân đức Phật làm đối tượng, để tiến hành niệm Ân đức Phật, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của Ân đức Phật ấy, luôn định tâm nơi Ân đức Phật ấy.
Ví dụ: Niệm Ân đức Phật thứ nhất Itipi so Bhagavā Arahaṃ..., Itipi so Bhagavā Arahaṃ...
Hoặc: Niệm Ân đức Phật thứ tám Itipi so Bhagavā Buddho..., Itipi so Bhagavā Buddho...
Hoặc: Niệm Ân đức Phật thứ chín Itipi so Bhagavā Bhagavā..., Itipi so Bhagavā Bhagavā...
Hành giả tâm niệm câu Ân đức ấy đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của Ân đức Phật ấy, định tâm theo dõi Ân đức Phật ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần... trong suốt thời gian tiến hành niệm Ân đức Phật, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức Phật Bảo.
Cách thứ ba: Niệm một danh hiệu Ân đức Phật.
Hành giả có thể chọn một danh hiệu Ân đức Phật nào trong 9 Ân đức Phật làm đối tượng, để tiến hành niệm Ân đức Phật, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của danh từ Ân đức Phật ấy, luôn định tâm nơi Ân đức Phật ấy.
Ví dụ: Niệm Arahaṃ..., Arahaṃ..., Arahaṃ...
Hoặc: Niệm Buddho..., Buddho..., Buddho...
Hoặc: Niệm Bhagavā..., Bhagavā..., Bhagavā...
Hành giả tâm niệm danh từ Ân đức Phật ấy đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của Ân đức Phật ấy, định tâm theo dõi Ân đức Phật ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần... suốt trong thời gian tiến hành niệm Ân đức Phật, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức Phật Bảo.
Đề mục niệm Ân đức Phật là một đề mục dễ làm cho phát sinh đức tin nơi Tam Bảo, mà đức tin là nền tảng mọi thiện pháp từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp.
3- QUẢ BÁU ĐẶC BIỆT NIỆM ÂN ĐỨC PHẬT
Hành giả tiến hành niệm Ân đức Phật, trong kiếp hiện tại chưa chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, hành giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai như sau:
- Được phần đông chúng sinh kính trọng.
- Tâm thiện trong sạch thanh tịnh.
- Khi sắp chết, tâm bình tĩnh sáng suốt, không mê muội.
- Sau khi chết, do thiện nghiệp này cho quả tái sinh làm người cao quý hoặc chư thiên cao quý.
- Tái sinh kiếp nào cũng thuộc hàng chúng sinh cao quý.
- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.
- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý.
- Thân có mùi thơm tỏa ra.
- Miệng có mùi thơm tỏa ra.
- Có trí tuệ nhiều.
- Có trí tuệ sâu sắc.
- Có trí tuệ sắc bén.
- Có trí tuệ nhanh nhẹn.
- Có trí tuệ phong phú.
- Trí tuệ phi thường.
- Nói lời hay có lợi ích…
- Kiếp vị lai có duyên lành gặp Đức Phật, lắng nghe chánh pháp dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn...
Đó là những quả báu phát sinh từ niệm Ân đức Phật.
(Biên soạn và lược trích từ RATANATTAYAGUNA- Trưởng lão Hộ Pháp)
Dưới đây tôi xin hoan hỷ chia sẻ bài Niệm Ân Đức Phật file mp3, các vị đạo hữu có thể lưu về theo link này
https://l.facebook.com/l.php?u=https%3A%...gmrxVGlYsA