[/url]
[url=https://1.bp.blogspot.com/-LKgp0END__8/Xoq6LV0_xaI/AAAAAAAAAPM/f8VI6wg64ycEQZOFtFUu8yX8cPcHZ169ACNcBGAsYHQ/s1600/Pius%2Bxii%2B.jpg]
Gần 50 năm trước khi lễ mới và các bí tích của Giáo Phái Vatican II (GPV2) ra đời, LM. Sylvester Berry đã viết như sau khi chú giải câu Kh 13,16: “…Trong thực tế, sẽ có một tổ chức hoàn hảo – một giáo hội của Satan được dựng nên đối nghịch với Giáo Hội của Đức Kitô. Satan sẽ thế chỗ của Thiên Chúa Cha, Tên Phản Kitô sẽ được tôn vinh như Đấng Cứu Thế, và ngôn sứ của Nó sẽ sắm vai giáo hoàng. Các nghi thức của chúng sẽ là sự giả mạo các Bí Tích và các việc ma thuật của chúng sẽ được tung hô như những phép lạ.” (đọc thêm bài số 8).
Những lời chú giải giật mình trên đây khiến ta phải liên tưởng đến các bí tích của GPV2. Trong bẩy bí tích của GPV2, chỉ có hai bí tích là rửa tội và hôn phối được coi là thành sự. Mặc dù đã có nhiều sửa đổi làm cho cách hiểu hai bí tích này có phần khác với GH, nhưng công thức bí tích (mô thể) của hai bí tích này vẫn giữ được đúng ý nghĩa so với công thức của GH. Hơn nữa, thừa tác viên của hai bí tích này không đòi buộc phải có tư cách linh mục, nghĩa là, giáo dân cũng là thừa tác viên hữu hiệu. Còn năm bí tích kia (Thêm Sức-Thánh Thể-Giải Tội-Xức Dầu-và Truyền Chức) thì hoàn toàn vô hiệu. Lãnh nhận 5 bí tích này nơi GPV2 là vô ích, bất kể có chủ ý và lòng thành đến đâu. Lý do là vì, các bí tích ấy đã bị thay đổi, bóp méo tự bản chất, với chủ ý phá huỷ bí tích, nên chúng không còn là BT của GH nữa.
Bài 14 đã chứng minh Lễ Mới (bí tích thánh thể) của GPV2 không phải là Thánh Lễ Công Giáo mà chỉ là hình thức phụng vụ Tin Lành, là lễ giả mà thôi. Bài 15 đã giải thích tại sao nghi thức truyền chức giám mục (bí tích truyền chức) của GPV2 là vô hiệu. Vẫn chiếu theo những điều kiện để cử hành bí tích thành hiệu như đã nói ở bài 15, bài này sẽ giải thích vắn tắt tại sao ba bí tích còn lại của GPV2, là thêm sức, giải tội, và xức dầu, cũng hoàn toàn vô hiệu và trống rỗng.
Có hai ý do căn bản khiến cho ba bí tích này trở nên vô hiệu. Thứ nhất là do nghi thức bí tích sai lạc; thứ hai là tư cách của thừa tác viên cử hành.
Nguyên nhân thứ nhất: do nghi thức bí tích sai lạc.
Nguyên nhân này đã xảy ra ngay từ thời điểm nghi thức Lễ Mới lễ và nghi thức Các Bí Tích của GPV2 được ban hành và đưa vào áp dụng từ những năm 1968-1969. Tại thời điểm đó và những năm liền ngay sau đó, đa số thừa tác viên của ba bí tích này đều có chức giám mục hoặc linh mục (vì họ được truyền chức đúng theo nghi thức của GH). Tuy có chức giám mục, linh mục, nhưng vì họ đã dùng nghi thức bí tích sai lạc của GPV2, nên bí tích họ cử hành vô hiệu.
Nghi thức các bí tích của GPV2 bị sai lạc chỗ nào? Sai lạc trầm trọng và có hệ thống đã xảy ra ở phần Mô Thể của bí tích. Như đã phân tích kỹ ở bài 15, đây xin được nhắc lại vắn tắt. Mô Thể, cũng gọi là Công Thức Bí Tích, là những lời bắt buộc phải đọc và phải đọc cho chính xác để làm cho bí tích thành hiệu và phát sinh hiệu quả. Những lời trong Công Thức Bí Tích của GPV2 đã bị sửa đổi bóp méo và không còn diễn tả đúng ý nghĩa và bản chất của Bí Tích như GH vẫn hiểu và diễn tả qua suốt dòng lịch sử. Mô Thể là một phần của dấu chỉ của Bí Tích và là phần cấu thành bản chất của Bí Tích, do chính Chúa Giêsu thiết lập, nên GH khẳng định là GH không có quyền động chạm và làm thay đổi bản chất ý nghĩa những lời của Mô Thể. Bất kỳ sự thay đổi bóp méo nào, làm mất đi ý nghĩa đích thực của Mô Thể như GH vẫn hiểu, hậu quả dẫn đến đó là sự phá huỷ bí tích.
Dưới đây là sự đối chiếu và nhận xét những lời trong Công Thức Bí Tích của ba bí tích, thêm sức-giải tội-và xức dầu, của GPV2 với của GH:
Bí Tích Thêm Sức:
Công thức của GPV2: …N, hãy nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần.
Công thức của GH: …N, cha ghi dấu thánh giá cho con và cha thêm sức cho con bằng dầu cứu độ. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.
(N, Signo te Crucis, et confírmo te Chrísmate salútis. In nómine Patris, et Fílii, et Spíritus Sancti.)
Nhận xét: lời công thức bí tích thêm sức của GPV2 hoàn toàn khác với công thức của GH. Những lời công thức của GPV2 rất hàm hồ đại khái, không diễn tả rõ điều gì và ơn gì của Chúa Thánh Thần? Đó là chưa kể đến sự bất nhất giữa lời đọc và cử chỉ khi cử hành bí tích này nơi GPV2. Lời đọc hoàn toàn không diễn tả và ăn khớp gì với cử chỉ đang làm. Tay ghi dấu thánh giá và xức dầu trên trán người lãnh nhận, mà lời đọc đi kèm hoàn toàn không liên quan gì hành động vẽ hình thánh giá và chất thể dầu đang xức. Nói nôm na là, miệng một đàng, tay một nẻo! bất nhất. Hoàn toàn không có sự liên kết mật thiết giữa cử chỉ và lời đọc, tức giữa chất thể và mô thể, một điều kiện bắt buộc trong cử hành bí tích. Trong khi đó, nơi công thức và việc cử hành của GH thì có sự hài hoà ăn khớp rõ ràng giữa cử chỉ và lời đọc. Khi cử hành bí tích, thừa tác viên đọc: …N, cha ghi dấu thánh giá cho con và cha thêm sức cho con bằng bằng dầu cứu độ (liền với lời đọc này là cử chỉ ghi dấu thánh giá với ngón tay thấm đượm dầu thánh đang xức trên trán người lãnh nhận).
Hậu quả của sự khác nhau này là gì? Bí tích thêm sức của GPV2 vô hiệu vì công thức bí tích đã bị thay đổi bóp méo tự bản chất và hoàn toàn khác với Bí Tích của GH.
Bí Tích Giải Tội:
Công thức của GPV2: Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của Con Chúa mà giao hoà thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội. Xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh mà ban cho con ơn tha thứ và bình an. Vậy cha tha tội cho con, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen
Công Thức của GH: Xin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tha tội cho con, và nhờ quyền năng của Ngài, cha tha cho con mọi án vạ tuyệt thông, (huyền chức), và cấm chế, theo mức độ quyền hạn của cha và sự xứng đáng của con. Vậy, cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
(Dóminus noster Jesus Christus te absólvat: et ego auctoritáte ipsíus te absólvo ab omni vínculo excommunicatiónis, (suspensiónis), et interdícti, in quantum possum, et tu índiges. Deínde ego te absólvo a peccátis tuis, in nómine Patris, et Fílii, et Spíritus Sancti. Amen).
Nhận xét: Công thức tha tội của GPV2 hoàn toàn tối nghĩa mơ hồ. Công thức đã xoá bỏ những lời tối quan trọng này “Xin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tha tội cho con”. Điều đó chứng tỏ họ đã chối bỏ, không tuyên xưng và nài xin Chúa Giêsu Kitô là Đấng có quyền tha tội! Công thức không có sự diễn tả rõ ràng ai là đấng tha tội và ai là dụng cụ trung gian trong việc tha tội. Đọc và suy ngẫm công thức tha tội hàm hồ của GPV2 ta thấy, cả trọn câu đầu tiên chỉ là lời dẫn rườm rà không cần thiết. Sau lời dẫn đó, họ nài xin Chúa dùng tác vụ của “Hội Thánh”, hiểu là chức linh mục của họ, mà tha tội cho hối nhân. Xin Chúa dùng linh mục của họ mà tha tội, chứ không xin chính Chúa Giêsu tha tội, như trong công thức của GH. Mà linh mục của GPV2 thì hoàn toàn không được trao quyền để tha tội, vì nghi thức truyền chức LM của GPV2 đã cắt bỏ nghi thức đặt tay trao quyền tha tội cho tân chức (coi lại bài 15)! Không nài xin Chúa Giêsu tha tội, còn thừa tác viên thì không có quyền tha tội, vậy nên công thức tha tội của GPV2 chỉ hoàn toàn là những lời vô ích và vô hiệu, nghe cho vui tai!
Trong khi đó, công thức tha tội của GH là một diễn tả tuyệt vời và rõ ràng bản chất của bí tích giải tội. Chúa Giêsu là đấng tha tội. Điều đó được tuyên xưng và nài xin ngay ở đầu công thức (Xin Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tha tội cho con). Còn linh mục chỉ là dụng cụ trung gian Chúa dùng trong việc tha tội, trong quyền hạn và khả năng mà Chúa và GH ban cho. Ngoài ra, trong công thức tha tội của GH còn có chi tiết tha án vạ “huyền chức - suspensiónis”, bình dân gọi là treo chén, nếu hối nhân là linh mục. Sở dĩ vậy là vì giáo sỹ hoặc tu sỹ vào toà xưng tội phải giới thiệu căn tính của mình cho cha giải tội. (tỷ dụ: thưa cha, con là giám mục, linh mục, phó tế, hoặc tu sỹ đã khấn trọn hay khấn tạm..không được phép che dấu căn tính của mình, trừ khi cha giải tội đã biết trước điều đó thì khỏi cần xưng ra).
Hậu quả: Bí tích giải tội nơi GPV2 vô hiệu vì công thức tha tội của họ mơ hồ, tối nghĩa và hoàn toàn không diễn tả đúng bản chất của bí tích như GH vẫn tin và truyền dạy.
Hẳn sẽ có lý luận rằng, chỉ cần những lời “Cha tha tội cho con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen” cũng đủ làm cho bí tích thành sự. Đúng như vậy! Tuy nhiên điều đó chỉ đúng và áp dụng cho công thức tha tội của GH mà thôi. Trong lúc thật sự khẩn cấp và nguy tử, khi không đủ thời gian để đọc trọn vẹn công thức tha tội, thì chỉ cần đọc vắn tắt như trên cũng đủ. Mặc dầu vậy, những lời bị bỏ qua đó vẫn hoàn toàn diễn tả chủ ý của GH đó, là tuyên xưng và nài xin Chúa Giêsu là Đấng có quyền tha tội, còn LM chỉ là dụng cụ trung gian Chúa dùng để tha tội mà thôi. Trong khi đó, công thức tha tội của GPV2 dù đọc đầy đủ hay đọc vắn tắt thì, chủ ý tuyên xưng và nài xin Chúa Giêsu Kitô tha tội, đã hoàn toàn bị chối bỏ và loại khỏi công thức của họ. Vì thế, dù đọc đầy dủ hay vắn tắt, thì thiếu sót và tà ý chối bỏ, không thèm nài xin Chúa Giêsu tha tội của họ vẫn còn đó. Do vậy, công thức tha tội của GPV2 là vô hiệu.
Bí Tích Xức Dầu:
Công thức của GPV2: (xức trán) Nhờ việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn Thánh Thần mà giúp đỡ con; (xức hai lòng bàn tay) để người giải thoát con khỏi mọi tội lỗi, cứu chữa và thương làm cho con được thuyên giảm.
Công thức của GH: (xức tuần tự trên mắt, tai, mũi, miệng, tay, chân) Nhờ việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa tha cho con mọi tội con đã phạm bởi việc sử dụng (mắt/tai/mũi/miệng/tay/ chân). Amen.
(Per istam sanctam Unctiónem et suam piíssimam misericórdiam indúlgeat tibi Dóminus quidquid per (visum/audítum/odorátum/gustum et locutiónem/tactum/gressum) deliquísti. Amen.)
Nhận xét: điều trước tiên phải nói đó là GPV2 đã bất cần và loại bỏ hoàn toàn việc xức dầu riêng từng giác quan và các phần cơ năng theo thứ tự gồm : mắt, tai, mũi, miệng, và chân. Đối với GH, việc loại bỏ bất cần và bất phân biệt như vậy luôn luôn là trọng tội. Tiếp đến, phân tích công thức xức dầu của GPV2 ta thấy, công thức gồm hai phần, xức trán và xức lòng bàn tay. Khi xức trán, họ nài xin ơn Chúa Thánh Thần giúp đỡ (không biết giúp đỡ cụ thể điều gì); khi xức lòng bàn tay, họ nài xin Chúa giải thoát khỏi mọi tội, đồng thời nài xin Chúa cứu chữa và làm cho thuyên giảm cơn ốm bệnh tật phần xác. Xét theo nội dung tổng thể toàn công thức, họ xin Chúa giải thoát người được xức dầu khỏi mọi tội lỗi (điều này được coi là sát nghĩa với công thức xức dầu của GH). Còn với ý nài xin tiếp theo là, “xin thương cứu chữa và làm cho con được thuyên giảm”, đây là điều hoàn toàn mới và khác hẳn với nội dung công thức xức dầu của GH. Chính ý thêm vào này đã làm thay đổi căn bản bản chất của bí tích Xức Dầu như GH vẫn tin. Chủ ý của Chúa Giêsu khi thiết lập bí tích này, cũng như niềm tin và thực hành của GH đó là, để ban ơn trợ giúp phần hồn và tha thứ tội lỗi cho người trong cơn nguy tử để họ được bình an và sẵn sàng ra đi gặp Chúa, chứ không phải là xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác. Vì thế, trong công thức xức dầu của GH, ơn tha tội là ơn duy nhất được diễn tả và nài xin Chúa ban cho người bệnh. Xin thuyên giảm bệnh tật thể xác, tuy là một điều tốt, hoàn toàn không phải là mục đích của Bí Tích Xức Dầu Nguy Tử.
Tại sao có sự khác biệt căn bản như thế giữa công thức của GH và của GPV2? Sự khác biệt ấy đến từ chính tên gọi bí tích này. GH gọi bí tích này là “Bí Tích Xức Dầu Nguy Tử - Extreme Unction”. Vì thế, nguy tử là điều kiện bắt buộc phải có, để trao ban và lãnh nhận bí tích thành sự, và mục đích chính của việc xức dầu là ban ơn trợ lực phần hồn và ơn tha tội cho người lãnh nhận, giúp họ sẵn sàng ra đi gặp Chúa. Trong khi đó, GPV2 gọi là “bí tích xức dầu bệnh nhân – Anoiting of the Sick”. Vì là sức dầu bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh, dù nặng nhẹ thế nào, cũng có thể xin xức dầu. Và khi xức dầu cho bệnh nhân, thì việc xin ơn chữa lành và thuyên giảm bệnh tật là chính đáng quá còn gì! Tuy nhiên, chủ ý được thêm vào này đã làm sai lạc bản chất của Bí Tích Xức Dầu như GH vẫn tin và thực hành. Vì có sự khác nhau vể bản chất của bí tích như thế, tất yếu đưa đến sự khác biệt trong thực hành mục vụ giữa GH và GPV2.
Đối với GH, Bí Tích Xức Dầu là bí tích dành cho người thực sự trong cơn nguy tử. Vì thế, điều kiện bắt buộc để lãnh nhận bí tích thành sự là, người lãnh nhận phải thực sự đang trong lúc nguy tử do tuổi già hoặc bệnh tật, và cơn nguy tử phải hoàn toàn mang tính tự nhiên (do tuổi già hoặc bệnh tật) và có tính nội tại, nghĩa là cơn nguy tử phải phát xuất từ chính bên trong con người của lãnh nhận xức dầu. Mọi thực hành trái ngược, chẳng những làm cho bí tích vô hiệu mà còn mắc thêm tội phạm thánh và làm hư bí tích. Do vậy, đối với GH, những người lính trước khi ra trận, họ cũng chỉ có thể được giải tội chứ nhưng không thể lãnh nhận xức dầu, vì sự nguy tử của họ không tự nhiên và không mang tính nội tại, nó đến từ bên ngoài. Ngay cả các tử tù trước khi bị hành quyết, cũng chỉ có thể lãnh nhận bí tích giải tội mà thôi, chứ không thể lãnh nhận phép xức dầu!
Trong khi đó ta thấy, vì gọi là “bí tích xức dầu bệnh nhân” nên trong thực hành, GPV2 đã làm rất khác với GH. Nơi GPV2, chẳng những bệnh nhân mà bất cứ ai cũng có thể xin xức dầu. Họ dạy rằng đừng nghĩ việc xức dầu là chỉ dành cho người sắp chết! Đừng đợi sắp chết mới xin xức dầu. Bí tích là phương tiện Chúa ban ơn sủng cho con người, nên cứ có ước muốn lãnh nhận là nên làm. Lãnh nhận xức dầu không bổ phần hồn cũng bổ phần xác! Vì lòng đạo đức đơn sơ lãng mạn như thế, nhiều nơi trong GPV2 tổ chức xức dầu định kỳ hàng tháng hoặc quý, vào một ngày nhất định nào đó. Bất cứ ai có lòng muốn cũng có thể được xức dầu. Cho nên mới có chuyện hết sức bình thường nơi GPV2 là, nhiều nam thanh, nữ tú, khoẻ như vâm, cũng thành kính khoanh tay lên lãnh nhận phép xức dầu từ tay “cha”! Không bổ phần hồn cũng bố phần xác mà. Cứ nhận lấy được! Việc ban và nhận bí tích xức dầu như thế, đối với GH, là hoàn toàn vô hiệu. Việc làm đó nơi GPV2 chẳng phải là một sự mô phỏng bắt chước bí tích thánh của GH sao? Thấy từa tựa vậy mà không phải vậy! Họ đã làm cho việc xức dầu nên như thể là một cách chữa bệnh có tính ma thuật bùa chú vậy!
Hậu quả, xét theo nội dung bản chất của công thức bí tích xức dầu và việc thực hành áp dụng bí tích ấy nơi GPV2 như phân tích trên, bí tích xức dầu nơi GPV2 là hoàn toàn vô hiệu, là một bí tích giả, chỉ là sự mô phỏng bắt chước bí tích của GH mà thôi.
Tiểu kết phần so sánh Nghi Thức Bí Tích: qua việc phân tích đối chiếu các Công Thức Bí Tích nêu trên ta thấy: các công thức bí tích của GPV2 đã bị sửa đổi tận căn, làm thay đổi bản chất của bí tích như GH vẫn tin và thực hành suốt dòng thời gian. Việc sửa đổi bóp méo công thức bí tích như vậy chẳng những làm hư các bí tích mà con đánh mất luôn chủ ý “làm như GH làm” trong việc trao ban bí tích. Do đó, các bí tích thêm sức, giải tội và xức dầu của GPV2 là hoàn toàn trống rỗng và vô hiệu.
Thứ hai là, do tư cách của thừa tác viên.
Các BT Thêm Sức, Giải Tội, và Xức Dầu, chẳng những vô hiệu khi dùng công thức bí tích sai lạc, mà con vô hiệu vì được cử hành bởi thừa tác viên không có tư cách chức thánh. Những BT này muốn cử hành thành sự, bắt buộc thừa tác viên cử hành phải có tư cách giám mục hoặc linh mục. Mà như đã chứng minh ở bài 15, nghi thức truyền chức giám mục của GPV2 là hoàn toàn vô hiệu và trống rỗng. Nghi thức đó chỉ sản sinh ra các giám mục giả. Các giám mục giả ấy lại tiếp tục sinh ra các linh mục giả khác. Cho nên, tính cho đến thời điểm hiện tại, sau 50 năm áp dụng nghi thức truyền chức giả của GPV2, có thể nói toàn bộ hàng giáo sĩ đương chức bây giờ của GPV2 chỉ là một hàng giáo sỹ giả, một hàng giáo sỹ không chức linh mục.
Một hàng giáo sỹ giả, không chức giám mục, linh mục, thì không thể cử hành các BT. Thêm Sức, Thánh Thể, Giải Tội, Xức Dầu, và Truyền Chức, thành sự được, bất kể họ dùng nghi thức bí tích đúng đắn thế nào.
KẾT LUẬN và GỢI MỞ:
Các bí tích của GPV2 như vừa chứng minh, là hoàn toàn vô hiệu và trống rỗng. Tình trạng của GPV2 ngày càng thê thảm, trống rỗng, úa tàn theo thời gian, và phải đi đến chỗ tự huỷ như đã nhiều lần điểm qua ở các bài trước. Hành trình tự huỷ của GPV2 mang cả hai chiều kích hữu hình và vô hình.
Chiều kích hữu hình: Chiều kích này được thể hiện qua việc suy tàn trông thấy, đó là việc đóng cửa các giáo xứ, chủng viện và dòng tu; là việc hư hỏng suy đồi có tổ chức và hệ thống nơi hàng giáo sĩ cấp cao. Họ giải thích và bào chữa cho sự thoái hoá suy tàn của họ là do ảnh hưởng của sự bùng nổ phát triển vũ bão của khoa học, kinh tế và cuộc sống hiện đại ở nửa cuối thế kỷ 20! Lý lẽ thô thiển đó chẳng khác nào tự bắn vào mình vì gián tiếp coi khoa học kỹ thuật và cuộc sống văn minh hiện đại là kẻ thù của tôn giáo! Tuyệt nhiên, không thấy ai hoài nghi thắc mắc xem liệu sự khô cằn, chết dần chết mòn ấy, có phải là do của ăn “vô bổ” là các bí tích giả của GPV2 hay không?
Chiều kích vô hình. Chiều kích này chỉ có thể được đo lường và nhận biết bằng đức tin thật sự. Nếu có đức tin Công Giáo thật sự, người ta sẽ nhận ra CĐ Vatican II chính là cuộc phản bội đức tin lớn lao và có hệ thống mà Chúa, Đức Mẹ, Thánh Phao-lô và Giáo Hội đã cảnh báo. Ở thời điểm những năm ngay sau khi CĐ Vatican II kết thúc, hàng giáo sỹ của GPV2 bấy giờ đều là những người có chức giám mục và linh mục thật, vì họ được đào tạo và truyền chức theo đúng thể thức của GH. Tuy nhiên, họ đã, do chủ ý hoặc vô tình, trở nên những người lạc giáo vì đã tin theo học thuyết của CĐ Vatican II, một học thuyết được xây dựng trên Lạc Thuyết Duy Tân (đọc thêm bài 17 và 22). Khi Nghi Thức Lễ Mới (lễ giả) và Nghi Thức Các Bí Tích Mới (các bí tích giả), biên soạn theo tinh thần của cuộc cách mạng phá huỷ đức tin Công Giáo mang tên “CĐ Vatican II”, được đưa vào áp dụng, hàng giáo sỹ bấy giờ đã từ bỏ Thánh Lễ thật và các Bí Tích thật của GH để cử hành lễ giả và các bí tích giả mới được đưa ra ấy.
Vì thế, đời sống đức tin nơi GPV2 từ thời bấy giờ trở đi ngày càng tệ hại và thê thảm. Các mục tử thật lại đi nuôi chiên bằng lễ giả và bí tích giả. Các buổi tụ họp phụng vụ của họ hoàn toàn thiếu vắng ân sủng. Sự vô hồn, thiếu vắng ân sủng ấy, là bằng chứng và câu trả lời rõ ràng cho sự suy tàn hữu hình của GPV2. Mặc dầu vậy, Thiên Chúa nhân lành, chậm giận và giàu tình thương, vẫn kiên nhẫn chờ đợi những mục tử đầu đàn phản loạn (hoặc lầm chẳng biết) đang đi theo GPV2, những người có chức giám mục và linh mục, biết hối cải từ bỏ sai lầm và trở về với chính đạo. Đáng tiếc, lòng nhân từ của Chúa đã không được đáp ứng. Sau 50 năm chờ đợi, đến nay, đa số các mục tử có chức GM và LM thật trong GPV2 hầu như đã chết hoặc khuất bóng về vườn. GPV2 giờ đã hoàn toàn nằm trong tay và được dẫn dắt bởi các mục tử giả, không chức GM và LM, vì họ được sinh ra từ Nghi Thức Truyền Chức giả của GPV2.
GPV2 tại thời điểm hiện tại kể như đã chết, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Toàn bộ hàng giáo sỹ lãnh đạo GPV2 bây giờ đều là giáo sỹ giả. Tất cả các bí tích đều giả dối, vô hồn, và trống rỗng. Giám mục giả, linh mục giả, cử hành các bí tích giả. Bản chất giả dối nơi GPV2 giờ tăng gấp đôi. Trước đây, sự giả dối nơi GPV2 nằm ở chỗ, các GM và LM thật nuôi chiên bằng các bí tích giả. Nhưng trong tình cảnh đó, ít ra vẫn còn chút hy vọng vào sự hoán cải của các mục tử phản loạn ấy. Đáng tiếc, điều đó đã không xảy ra và cho đến nay, GPV2 giờ chỉ còn toàn là các mục tử giả, ngày ngày dâng lễ giả và nuôi chiên bằng các bí tích giả. Một tình cảnh tệ hại và và tuyệt vọng vì không còn khả năng hoán cải và phục hồi. Các mục tử thật mà sai lầm lạc lối thì còn có hy vọng tự hối cải để trở về với tư cách mục tử thật của mình. Chứ các mục tử giả thì chỉ có phế bỏ mà thôi, chứ không một sự hối cải nào có thể khiến họ trở nên các mục tử thật được. GPV2 giờ đây, chỉ là một tổ chức gồm toàn giáo sỹ giả, hàng ngày dâng lên Chúa kiểu thờ phượng giả dối (lễ giả), và cung cấp cho người ta toàn bí tích vô ân sủng, rồi mỗi lúc họ lại sản sinh ra thêm những giáo lý và thực hành phản Công Giáo…một tổ chức như vậy mà vẫn để cho còn tồn tại khiến nhiều người lầm tưởng là GH Công Giáo, thì làm sao phù hợp với ý định nhân lành của Chúa khi thiết lập GH vì phần rỗi loài người?
Ví thế, do sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, GPV2 phải đến lúc bị dẹp bỏ, không thể để nó tiếp tục tồn tại và gây ngộ nhận cho người ta thêm nữa. Sức mạnh bên ngoài nào có thể đóng cửa toàn bộ GPV2 như hiện tại nếu không phải là chính Nó, một giáo hội giả đã xuất hiện để lừa dối và dẫn dắt không chỉ những người mang danh Công Giáo, mà cả loài người đi theo con đường rộng của nó, con đường dẫn đến hư mất đời đời? Việc đóng cửa toàn bộ GPV2 trên toàn thế giới, không để cho các bí tích giả của Nó đến với đoàn chiên lầm chẳng biết, đó là điều kỳ diệu Chúa làm như Ngài đã từng làm nhiều lần trong lịch sử cứu độ, đó là dùng chính bàn tay của kẻ thù của dân Chúa để kết liễu nó!
Như đã nhiều lần phải kêu lên và nay lại phải kêu to hơn: GPV2 chỉ là một giáo hội giả để lừa dối mọi người. Lý do Nó lừa được nhiều người tin Nó là GH Công Giáo là vì Nó đã chiếm được tổ chức cơ cấu bề ngoài của GH và dần dần thay thế các mục tử thật bằng các mục tử giả mà Nó đã tạo ra. Còn bên trong, tất cả các nghi thức của Nó chỉ là sự giả mạo các Bí Tích của GH Công Giáo.
Tình cảnh GPV2 đang phải đóng cửa toàn diện như hiện nay khiến nhiều người khóc than thuơng tiếc vì không được lãnh các bí tích. Thật tội nghiệp cho những con chiên chỉ biết đơn sơ phó thác và hầu như đánh mất khả năng phân biệt mục tử thật với mục tử giả. Nếu còn đức tin Công Giáo, hãy khóc than việc Thánh Lễ và các Bí Tích Tích của GH đã bị GPV2 phế bỏ và thay thế bằng các bí tích giả của họ từ 50 năm trước rồi. Chứ ngồi đó mà khóc than và trông ngóng các bí tích giả của GPV2 thì chẳng khác nào như những người mà câu thành ngữ ta đã ví von: “mộ cha không khóc, đi khóc mả thằng ăn mày”! Coi chừng sau khi hồi tỉnh trở lại trong tương lai mù mịt tới đây, GPV2 sẽ trưng ra cho một hình thức thờ phượng mới, một quái thai sinh ra từ Pachamama bụng mang dạ chửa mà họ đã rước vào tôn kính hồi Tháng Mười năm ngoái.
Trong lúc này, những ai được ơn bừng tỉnh khỏi cơn mê và nhận ra chân tướng phản Công Giáo của GPV2, hãy dứt khoát từ bỏ Nó ngay tức khắc và hãy đi tìm kiếm các mục tử thật cùng với Thánh Lễ và các bí tích thật của GH nếu có thể, vì chúng hoàn toàn chưa bị biến mất khỏi mặt đất, và chúng sẽ không bao giờ bị biến mất. Tuy nhiên, việc tìm kiếm ấy bây giờ sẽ có khó khăn và mức độ khó khăn tuỳ theo mỗi nơi.
Việt Nam bây giờ trong tình cảnh không hề tìm đâu ra một linh mục nào còn tồn tại trung thành với GH và đứng ngoài tổ chức của GPV2. Chỉ còn một số vị có chức LM thật, vì họ được đào tạo và truyền chức từ năm 1968 trở về trước, khi Nghi Thức Truyền Chức giả của GPV2 còn chưa được đưa vào áp dụng. Nhưng đáng tiếc, tất cả những vị này, tuy là linh mục thật, đều đã tự biến mình thành những người lạc giáo vì đã phó thác tin theo GPV2. Tuy là những LM lạc giáo, nhưng trong hoàn cảnh bất khả kháng, không thể tìm đến được với các LM bình thường của GH, giáo dân được phép đến lãnh nhận bí tích nơi các LM lạc giáo “ngay lành” này, nhất là các bí tích giải tội và xức dầu nguy tử. Một lưu ý tối quan trọng khi đến với các LM này là, phải xin họ ban bí tích theo nghi thức của GH trước đây, chứ không được dùng nghi thức bí tích giả của GPV2.
Nếu không thể tìm được LM thật, thì mỗi ngày hãy làm việc ăn năn tội cách trọn trước khi ra khỏi nhà. Thực hiện việc ăn tội cách trọn (hoàn hảo) bằng cách nào? Hãy đọc Kinh Ăn Năn Tội, đồng thời trong lòng trào dâng một sự đau buồn sâu xa và thành tâm hối lỗi mọi tội nặng đã phạm làm mất lòng Chúa. Động cơ của sự đau lòng hối lỗi này là vì yêu mến Chúa, Đấng là Sự Thiện và Tốt Lành tuyệt đối. Đánh đổi Sự Thiện Hảo Tốt Lành Tuyệt đối bằng những tội lỗi thì còn đau đớn dại khở nào hơn? Nếu sám hối chỉ vì lo sợ án phạt hoả ngục, thì đó gọi là sự sám hối không hoàn hảo. Rồi phải quyết tâm dốc lòng đoan hứa sẽ không tái phạm tội làm mất lòng Chúa nữa và cố gắng hết sức để đi xưng tội sớm nhất có thể. Việc ăn năn tội cách trọn như thế chỉ là phương thế tạm thời để khôi phục lại Ơn Thánh Hoá đã bị mất do bởi tội nặng đã phạm, chứ không phải là cách thế tha tội thay cho bí tích giải tội và việc xưng tội trực tiếp với LM. Đó là lời dạy và thực hành của GH. Hình thức ăn năn tội cách trọn là một phương thế tuyệt vời, được GH cho phép ta dùng trong lúc khẩn thiết. Tỷ dụ, linh mục đến giờ dâng lễ hoặc giáo dân đến lúc rước lễ, nếu ý thức mình mang trọng tội, họ có thể thực hiện việc ăn năn tội cách trọn để có thể dâng lễ và rước lễ. Rồi sau đó, mau chóng đi tìm LM để xưng tội. Vì vậy, ăn năn tội cách trọn mỗi ngày trước khi ra khỏi nhà hoặc trước mỗi khi nghỉ đêm, là việc làm thực sự hữu ích và thiết thực lúc này đối với giáo dân tại VN.
Trước khi kết thúc, xin được điểm qua một vài chất vấn mà bạn đọc đôi khi đã gửi đến. Một số người đã từng thắc mắc rằng: Nếu GPV2 không phải là GH, thì làm sao Chúa có thể cho phép điều đó xảy ra? Và nếu xảy ra như thế, vậy GH bây giờ đang ở đâu? Và làm sao có thể khôi phục lại GH?
Xin được trả lời bằng một vài gởi mở như đã từng nói nhiều lần rải rác trong các bài trước. Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa, đang chịu cuộc khổ nạn như Chúa Giêsu đã chịu. Cuộc khổ nạn của Chúa không phải là thất bại của Chúa, nhưng Chúa đã tự nguyện phó mình cho kẻ dữ và sự chết để tiêu diệt chúng. Chúa đã tự nguyện để cho mình hoàn toàn bị khuất đi và nằm yên trong mồ ba ngày, để rồi Chúa tiêu diệt tử thần và phục sinh vinh hiển. Chúa là Đầu và là Hôn Phu của Giáo Hội đã phải chịu như vậy, thì GH, hiền thê của Chúa, cũng phải trải qua cuộc khổ nạn như thế. Chúa cho phép GH bị kẻ thù khuynh đảo lấn lướt đến độ hầu như mất dạng, nhưng GH sẽ được phục hồi như Chúa đã phục sinh (đọc thêm phần kết luận bài 20).
GH của Chúa bây giờ đang ở đâu? Như ý trên đã nói, GH đang trải qua cuộc khổ nạn. Vì thế, chiều kích hữu hình của GH đã bị khuất dạng vì đang thiếu vắng mục tử đầu đàn hữu hình là Giáo Hoàng và tổ chức cơ cấu quản trị bề ngoài của GH đã và đang bị chiếm giữ bởi GPV2. Tuy nhiên, chiều kích vô hình của GH thì vẫn còn đó và sẽ không thể bị tiêu diệt. Nơi đâu còn có Thánh Lễ và Thánh Thể của Chúa, nơi đó có GH và có Chúa ở cùng.
Làm sao có thể khôi phục lại GH? Việc đó tuỳ thuộc thánh ý Chúa vì không gì là không thể đối với Chúa. GH có thể được phục hồi bằng một sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa hoặc bằng cách nào đó không ai có thể nói trước. Thêm nữa, chúng ta không cần phải có lời đáp cho mọi câu hỏi. Điều quan trọng nhất là chúng ta phải TRUNG THÀNH với Chúa và GH.
Lạy Chúa, Chúa đã dùng thánh giá mà cứu chuộc loài người! Xin thương xót chúng con.
Đón đọc bài sau với đề tài: Giáo Sỹ Giả và Việc Phải Làm