Người về qua cõi phù vân ... Nghiêng vai trút gánh phong trần bỏ đi...

Cọp chết để da ...
#1
Heart 
Người chết để lại tiếng thơm ...

NHỮNG ANH HÙNG QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ

TRUNG TÁ NGUYỄN ĐỨC XÍCH:

NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT


[Image: 480455288_122139641084551891_50437061859...e=67BBA5CD]


Sau khi vô tù ngày 2 tháng 5 năm 1975 ở tỉnh Cà Mau, qua cái lịnh đầu hàng vô điều kiện một cách bất ngờ, nhưng có chủ mưu, thông đồng, theo yêu cầu với giặc Cộng do đại tướng Dương Văn Minh và lịnh "bàn giao trong vòng trật tự" của chuẩn tướng nội phản "ăn cơm quốc gia, thờ ma Cộng Sản "Nguyễn Hữu Hạnh; tôi bị giải đi nhiều trại như: khám lớn Cà Mau, Trại tù Cái Rắn (Tân Ánh), Kiến Vàng, khám lớn Bạc Liêu, Trại lao động Gành Hào và mùa hè năm 1976 bị đưa lên trại tù cấp quân khu, trực thuộc quân khu 9; được Việt Cộng chiếu cố khá tận tình, nên trong tất cả các lần chuyển trại nào cũng có tên tôi và được "cách mạng" nâng cấp tù từ tỉnh lẻ lên cấp quân khu, dù cấp bậc trong nhà binh từ đầu mới ra trường đến sau 2 năm ra đơn vị vẫn như cũ do bị ký củ.

Đến trại tù gọi là Liên Trại 3, trước đây là trung tấm huấn luyện Quốc Gia Chi Lăng, ở vùng Thất Sơn, thuộc tỉnh Châu Đốc; trại nầy có 3 liên độ mang số 3, 5 và 5, chứa hàng chục ngàn tù binh từ cấp úy trở lên, là số tù còn tồn đọng, được coi là nặng ký từ các tỉnh giải về sau những đợt "bắc tiến" của những người mới hôm qua từng làm cho kẻ chiến thắng "thất điên bát đảo" qua những trận đánh lừng danh từ Quảng Trị đến Mũi Cà Mau, nay trở thành người tù binh bất đắc dĩ. Được biết, ngoài trại Chi Lăng, còn có một số tù cấp đại úy, còn tồn đọng, tập trung trong trại cải tạo ở tỉnh Mộc Hóa (Kiến Tường), đó là đoàn 675. Tôi được đưa vào liên đội 3, một nơi tạp nhạp tù từ cấp úy đến đại tá, nên có cơ hội ở chung với những người mà trước đây là thượng cấp của mình. Chi Lăng với cát, khí hậu khô, nhất là vào mùa hè, làm tăng sức nóng như bài thơ của Nguyễn Khuyến:

"Ai xui con quốc gọi mùa hè.
Cái nắng nung người, nóng, nóng ghê".


Vừa vào trại lúc 10 giờ sáng, sau khi ổn định chỗ ngủ, thì chạy ra sau hè để múc chút nước xài, tắm cho mát sau chuyến đi khá mệt trong chiếc xe G.M.C đầy ấp người và đầy căng thẳng. Những dải nhà dài trong trại nầy vốn là nơi dành cho các tân binh quân dịch hay các đơn vị gởi về huấn luyện; nóc lợp thiếc, nền nhà xi măng, trước đây thẳng tấp những chiếc giường bằng sắt, dành cho tân binh ngủ. Nay trống trơn, chỉ còn trơ lại nền nhà, đủ thấy là " cách mạng" rất tài tình, giải phóng nhanh, mạnh đến mức nào? Nếu tháo được thiếc, cạy được xi măng, thì những dải nhà nầy chắc chắn chỉ còn lại cái sườn và nền cát trơ trọi. Giữa hai dải nhà là cái giếng nước, mua hè mực nước lên rất chậm mà số người đứng chờ mút nước thì đông, tức là số cung quá ít so với số cầu. Tôi cùng nằm trong số những người chờ đợi ấy, bỗng có giọng nói Huế thanh thót vang lên:

- Các anh múc nước, xin đừng quên nước hỷ!.

Tôi nhìn lại, một người đàn ông trung niên, gương mặt dễ coi, mái tóc đen vợn, mặc bộ đồ lính đang đứng nhìn mọi người chờ nước lên và lắc đầu. Tôi hỏi vài người đứng chung, ở trại nầy trước, họ cho biết đó là trung tá NGUYỄN ĐỨC XÍCH, nguyên tỉnh trưởng Gia Định, thời tổng thống Ngô Đình Diệm. Nghe nói tên, tôi giựt mình, vì trước đó từng nghe qua anh qua, từ thời còn là cậu học trò tiểu học, không ngờ gặp lại ở đây. Sau đó, tôi làm quen với anh Trịnh Tiến Bình, đại uý ở tiểu khu kiến Hòa, là người Bắc di cư 1954, có nhà ở Hố Nai; anh Bình là người Công Giáo, chống Cộng kiên cường, anh biết tôi qua vài lần tiếp xúc, nên đưa đến gặp anh Nguyễn Đức Xích.

Từ đó tôi trở thành người của nhóm sinh hoạt trong trại tù. Đây là sự kết hợp giữa những người Công Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo, trong hoàng cảnh khó khăn, nguy hiểm, nằm trong tay giặc. Nhóm nầy ngoài anh Xích, có trung tá Nguyễn Thanh Liêm (Hòa Hảo, là thầy trong binh chủng Quân Cảnh, nghe nói ông đi Mỹ), đại úy Đỗ Thành Luôn (thiết giáp), thiếu tá Phùng Đức Vinh, thuộc Pháo Binh Dù, tức là Vinh Mổ Bụng; vì anh bị thương, bụng chưa lành mà bị Việt Cộng đuổi ta khỏi bịnh viện, nên khi vào tù vẫn còn các băng lớn ở bụng, khi mở ra thấy cả thịt đỏ tươi ở bên trong (nhìn anh Vinh mà biết cách mạng nhân đạo đến độ kinh tởm)...

Anh Nguyễn Đức Xích là đàn anh trong quân đội, người thầy khả kính, bạn tù vong niên của tôi, dù sau khi anh bị giặc sát hại, nhưng lòng tôi vẫn thường nghĩ đến anh trong niềm kính phục, nhất là mỗi độ tháng TƯ ĐEN về hàng năm. Nhờ anh Xích mà tôi cũng như nhiều người tù khác coi cách sống, tư cách của anh như một biểu hiện tinh thần bất khuất, tấm gương cho người tù trong hoàn cảnh xấu nhất sau ngày giặc Cộng "nối vòng tay LỚN đầy lông lá" mà toàn dân miền Nam không bao giờ quên "lũ giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay nhuốm máu đồng bào".

Anh tốt nghiệp khóa 2, sĩ quan trừ bị Thủ Đức, có bằng cử nhân, là người thân cận với tổng thống Ngô Đình Diệm. Năm 28 tuổi, là thiếu tá, sau lên trung tá trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, làm tỉnh trưởng Gia Định; thời mà các sĩ quan từ đại úy trở lên, trước khi được thăng cấp, được gọi lên trình diện tổng thống để nhìn tướng; lúc đó miền Nam chia thành 5 quân khu, đại tá Trần Thiện Khiêm là tư lịnh quân khu 5, đặt bộ tư lịnh ở tỉnh Cần Thơ; theo anh kể thì sau ngày đảo chánh, anh bị những người mới lên cầm quyền trù dập, giải ngũ và sau cùng làm bên Giám Sát Viện cho đến ngày mất miền Nam.

Anh Xích không muốn nhắc đến cái ngày rủi ro là bị bắt trên đường vượt biển tìm tự do do sau 1975; nhưng có vài người bạn kể lại là: anh bị bắt trong một chuyến vượt biên ở Rạch Giá, Việt Cộng xét hành lý để kiếm vàng, tình cờ, trong mớ hình mang theo để kỷ niệm, chúng thấy tấm hình của anh chụp chung với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Việt Cộng nói là: "Anh chụp hình chung với thằng Thiệu thì không phải là tay vừa", nên chúng bắt và canh giữ đặc biệt, sau đó đưa lên trại tù quân khu (đó là chủ mưu giết anh sau nầy).

Sau đó Việt Cộng biết anh Xích là người thân cận, liên hệ mất thiết đến tổng thống Ngô Đình Diệm, kẻ thù số một của Việt cộng; một người từng làm tan rã cả mạng lưới nằm vùng của Hồ Chí Minh cài lại sau năm 1954, quốc sách ấp chiến lược thành công và kể từ khi luật số 10/59 ra đời, đặt Việt Cộng ra ngoài vòng pháp luật, là những tên khủng bố, bị luật pháp qui vào tội hình sự; khiến tên Việt gian bán nước Hồ Chí Minh hốt hoảng, đưa thêm những người miền Nam tập kết trở về hoạt động để bù vào sự tổn thất quá lớn ấy.

Những kẻ đón gió: tướng tá Tôn Thất Đính, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Đỗ Mậu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu ... vì lo sợ tổng thống Diệm có kế hoạch trẻ trung hóa hàng tướng lãnh để cải tổ quân đội, sẽ có một số tướng về vườn, hay không còn giữ những chức vụ quan trọng nên làm phản; thêm vào đó sự bất đồng ý kiến vời Hoa Kỳ về mặt chiến lược chống Cộng ... được những tên ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản khai thác, nên trung tướng Dương Văn Minh, kẻ đại diện cho khuynh hướng thân Cộng của nhóm Phật Giáo Ấn Quang do thượng tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, lợi dụng, kết hợp và tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, giết chết tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu, làm hỏng cả kế hoạch "diệt Cộng tận gốc" của chánh thể đệ nhất Cộng Hòa.

Những kẻ thời cơ, thiếu viễn kiến, lại tranh chấp quyền hành liên miên từ 1963, tạo cơ hội cho Việt Cộng hồi sinh và sau cùng đưa đến thảm cảnh 30-4-1975. Nếu không có đảo chánh, thì Việt Cộng không bao giờ có cơ hội huênh hoang cái gọi là: "đại thắng mùa xuân 1975". Sự thất bại miền Nam 1975, xuất phát từ nguyên nhân sâu xa là cuộc đảo chánh ấy, nên những người có trách nhiệm muốn chạy tội mà đổ thừa cho Mỹ gây ra. Thật ra thì nếu Mỹ có muốn thay thế Ngô Đình Diệm, nhưng các tướng tá vẫn một lòng phục vụ đất nước, không nghe ai, thì liệu người Mỹ có đảo chánh được không?. Chẳng lẽ họ mang lính từ bên kia bờ đại dương để đảo chánh?

Anh Xích kết nạp tôi vào tổ chức bí mật, không tên, gọi là "nhất đầu chế", anh dạy tôi nhiều điều hữu ích, trao dồi kiến thức, nhất là anh khuyến khích tôi đọc sách Việt Cộng để tìm hiểu, tìm ra những sai lầm để bẻ gảy bằng lý luận chủ thuyết Cộng Sản, tôi không quên câu nói của anh: "Muốn chống Cộng, anh phải hiểu chủ nghĩa Marx Lenin hơn cả chính ủy", nên từ đó tôi hay mượn sách tuyên truyền của Việt Cộng trong thư viện nhỏ ở Liên trại để đọc kỹ, nghiên cứu và thảo luận với anh nếu thấy không hiểu.

Có lần anh đem cuốn sách của Lenin viết, được dịch ra tiếng Việt, do nhà xuất bản SỰ THẬT Hà Nội, sách có tựa là: "Thế Nào Là Thi Đua", anh mở trang gần chót và đọc cho tôi nghe câu nói của Lenin dạy và chỉ thị cho cán bộ: "Đối với bọn trí thức như bác sĩ, cho chúng nó lau nhà xí, nếu cần đem bắn vài tên để làm gương ..." và anh nói là: người trí thức là kẻ thù số một của đảng Cộng Sản, ai trí thức đi theo, bị lợi dụng một thời gian, rồi bị vắt chanh bỏ vỏ; có khi bị thủ tiêu, giết hại. Chúng tôi thường tập trung ở giữa sân banh volley, gần nhà bếp, được cho là nơi an toàn, vì không có dính với các dãy nhà nào, phòng ngừa bọn ăng ten, anh Xích gọi là "chó săn" xâm nhập, nghe lén, báo cáo ... Trong trại nầy, hễ người tù nào lăm le muốn tiến bộ là biết ngay, nên những bộ mặt xạo bị lộ, như cây kim để trong bọc vải bị lòi ra. Chúng tôi không ưa và luôn cảnh giác thành phần nầy, là những kẻ nội thù thật nguy hiểm.

[Image: 480679376_122139641276551891_62087594504...e=67BB8DE2]

Trong trại, nhất là ở liên đội 3, có một nhân vật nổi tiếng là anh chàng nhạc sĩ VŨ ĐỨC SAO BIỂN, người được cán bộ liên đội 3 phong chức "Trưởng Ban Văn Nghệ Liên Đội" và kiêm luôn "nhà trưởng nhà 4", anh nhạc sĩ nầy được anh em trong nhóm đặt là "Vũ Đức Sao Chổi" và cũng được ghép thêm một chữ nữa là "Vũ Đức Sao Chổi CHÀ". Tôi không còn lạ gì anh, gặp và biết từ lúc mới về trại tù Bạc Liêu, đi lao động ở Gành Hào và đến Chi Lăng. Tên cúng cơm là VÕ HỢI, một số anh em có óc khôi hài giải nghĩa chữ Háng theo nghĩa Đùi bằng chiết tự như sau: Vỏ hay Võ là DA, Hợi là Heo ... tức là DA HEO; cái tên nầy trở thành nick name, được anh hoan hỷ chấp nhận khi có anh em gọi để thay tên Võ Hợi; trong sáng tác, anh lấy nhạc danh "Vũ Đức Sao Biển". Sinh quán ở Quảng Ngãi, xuất thân là nhà giáo, tốt nghiệp đại học sư phạm, dạy môn triết học ở trường trung học đệ nhị cấp Tương Lai (tỉnh Bạc Liêu), lập gia đình với một cô gái địa phương; dù vậy anh cũng động viên, học ở Thủ Đức, ra trường nhưng không có ra chiến trận một ngày nào, được biệt phái sang ngành giáo chức, và cấp bậc lên automatic từ chuẩn úy đến trung úy ... thế là anh bị tù cải tạo sau 30-4-1975.

Trong thời gian ở trại tù Bạc Liêu, tôi thấy anh là người "luôn phấn đấu để tiến bộ" theo tiêu chuẩn của Việt Cộng đề ra; mà người ta ví von bảo là "bảo hoàng hơn vua" và có khi: "Người tù yêu Bác và đảng còn hơn tổng bí thư". Anh bảo thân nhân mang đàn guitar, sáo ... và chơi nhạc cách mạng thật nhuyễn, là mũi nhọn "xung kích" cho các chương trình văn nghệ do các trại tù phát động hàng năm vào dịp tết, ngày sinh Hồ Chí Minh, quốc khánh 2 tháng 9 ... anh thường động não ca những bài như: Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, xuống đường, tình đất đỏ miền đông .... anh có giọng ca rất hay, nhạc lý vững, nên khi ca bài: "Đi mô rồi cũng về Hà Tỉnh" hay "chào em cô gái Lam Hồng" nghe y như ca sĩ miền Bắc, khiến cán bộ quản giáo vỗ tay khen ngợi; nhưng đa số anh em trong trại tù thì cảm thấy cái lỗ tai bị hiếp dâm nhiều lần trong mỗi ngày: từ cái loa tiếp vận từ đài phát thanh nhà nước đặt trong nóc trại, đến ở trong buồng giam cũng còn nghe tiếng hát Võ Hợi "tiếng hát át tiếng ... đói".. Anh sáng tác bài ca Đảng, Bác, tôi còn nhớ vài câu trong bài "Trồng Cây nhớ Bác" có câu:

"Trồng cây ta lại nhớ Người.
Cây bao nhiêu lá, thương Người bấy nhiêu"


Bài ca tiếp:
"Nhớ Bác Hồ trồng cây năm xưa.
Bác tuy già, nhưng còn mạnh khỏe".


Tôi không quên một sáng tác mà anh "động não" ở trại tù Chi Lăng, có tựa đề là: "Hôm qua anh đi lạc đường" hay là "Anh làm rẫy" (bài hát theo thể Minor):

"Hôm qua anh đi lạc đường.
Anh cầm súng Mỹ đánh phá quê hương.
Hôm nay đây, chính tay anh đã trồng thành giồng sanh tươi.
Bạn thân ơi!, Đảng cho ta tìm lại cuộc đời".


Chính sự tiến bộ "vượt chỉ tiêu" của anh, mà nhiều người tù phải lánh xa, anh về sau 5 cuốn lịch "học tập tốt, lao động tốt", khi nhận được giấy ra trại, có người bạn cùng nhà hỏi anh làm gì? Thì anh đáp ngay: "Sẽ nộp đơn vào ban Ca Múa Trung Ương", nghe đâu anh vẫn còn ở Việt Nam, tiếp tục sáng tác và trở thành văn công cho Bác và đảng và thỉnh thoảng tôi thấy vài quyền sách phê bình kiếm hiệp Kim Dung do anh viết, được nhà xuất bản trong nước ấn hành, gởi ra vài thư viện ở nước Úc; có lần tôi mang một quyển sách của anh, gặp quản thủ thư viện người Úc ở Belmont để cảnh báo cho họ biết là: chớ nên nhận bất cứ sách nào từ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gởi ra ngoài, toàn là tài liệu tuyên truyền và họ cũng hoan hỷ tháo lá cờ máu chung với lá cờ các nước trên một Board "đa văn hóa" sau khi tôi giải thích, sau đó tôi mang lá cờ vàng ba sọc đỏ thay thế. Tôi cố hỏi ai đã cung cấp những sách vở từ trong nước, thì hỏi từ chối, cho đây là chuyện nội bộ điều hành thư viện, thôi cũng đành chịu. Cho nên tại các nơi có người Việt tỵ nạn, bọn Việt Cộng len lỏi, tìm đủ mọi cách mang tác sách vở tặng cho các thư viện, họ rất hoan hỷ nhận những sách vở miễn phí, để vào các kệ sách, không hề biết đó là sách tuyên truyền.

Nhóm chúng tôi sinh hoạt đều đặn, vào những buổi chiều, sau giờ cơm, lợi dụng sân banh có ánh đèn sáng, mang chiếu trải ở giữa sân, tha hồ mà nói những chuyện quan trọng về tình hình đất nước, nên khi có bóng dáng của những người tù tiến bộ là chúng tôi biết ngay. Anh Xích có nhiều điều tâm tình, nói về thời kỳ anh còn làm tỉnh trưởng dưới thời tổng tống Ngô Đình Diệm. Anh dành sự kính trọng qua những câu chuyện có quan hệ tới đệ nhất Cộng Hòa, tôi chú ý câu chuyện về đời sống riêng tư, càng kính phục khi nghe anh Xích nói về chí sĩ Ngô Đình Diệm, ông hút thuốc hiệu bình dân là BASTOS ĐỎ (giới lao động, xe lôi, xích lô ...) hay hút; khác với cái gọi là "chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại", hắn hút á phiện ro ro, hút loại thuốc mắc tiền của hãng Philip Morris (thuốc hút của Mao Trạch Đông gởi hàng tháng đều bị Hồ chê và cho những người phục vụ trong dinh) và ăn uống cầu kỳ như vua chúa.

Tổng thống Diệm suốt đời không vợ con, đời sống thánh thiện; trong khi đó kẻ tự xưng là "cha già dân tộc" Hồ Chí Minh: "suốt đời vì dân vì nước, Bác không bao giờ nghĩ đến vợ con", nhưng tên Việt gia nầy có đời sống tình dục trác táng, tàn bạo, giết cả những người từng cùng hắn chăn gối như Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân ... tư cách, lối sống của tên Việt gian Hồ Chí Minh không đáng xách dép cho Tổng thống Diệm. Tổng Thống thường hay gọi anh Xích lên, trao cho số tiền lương tổng thống hàng tháng và nói: "Cơm nước có người lo, tôi không cần tiền tiêu, anh mang về xem dân nghèo thì cho họ". Anh cũng cho biết là người thân với đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận (lúc đó là tổng giám mục), anh tỏ ý lo ngại cho số phận của vị tu sĩ danh tiếng nầy trước sự trù dập của chế độ Cộng Sản.

Về trường hợp của cố vấn Ngô Đình Nhu, em ruột của tổng thống, nhiều người biết ông Nhu là người có kiến thức, khả năng, nhiệt tình với đất nước; được coi là cánh tay đắc lực cho tổng thống trong công cuộc "diệt Cộng cứu nước" và các chính sách kinh bang tế thế. Vai trò ông Nhu rất quan trọng, nên Việt Cộng nằm vùng muốn loại ông Nhu ra khỏi chính quyền trung ương; Thượng Tọa Thích Trí Quang, lợi dụng tập quán "Trọng Phật kính tăng" một cách máy móc của Phật Tử, trở thành lãnh đạo của một thế lực tôn giáo lớn ở miền Nam; như tờ báo Times cho là: "Người làm rung chuyển cả nước Mỹ", Thích Trí Quang vận động chính giới Mỹ, nên có lần đại sứ Mỹ gặp tổng thống Diệm đề nghị: "không cho ông Nhu làm cố vấn".

Theo lời anh Xích cho biết: "tổng thống bảo là: em tôi làm việc không ăn lương, tình nguyện, không có thiệt hại gì cho ngân sách quốc gia, chẳng lẽ cấm không cho làm việc cho dân và nước tôi hay sao?". Giới chức Mỹ đành chịu thua, sau đó tìm cách móc nối với các "phản tướng, phản tá" làm cuộc đảo chánh. Sau 1-11-1963, sau cuộc chỉnh lý dẹp Dương Văn Minh, quốc trưởng là trung tướng Nguyễn Khánh chịu áp lực của khối Phật Giáo Ấn Quang qua thượng tọa Thích Trí Quang, nên giết người em út của tổng thống là Ngô Đình Cẩn. Một hành vi không thể chấp nhận đối với kẻ tu hành, đạo mạo như tập đoàn Thích Trí Quang.

Tu theo Phật Giáo cấm sát sanh, nhưng giết người là trọng tội với Phật, như vậy tư cách của Thích Trí Quang và đám tăng sĩ theo Việt Cộng còn thua cả CON CHÓ; tiếc thay là có một số phật Tử mù mắt, như Tam Tạng, quỳ lạy ma quái giả dạng mà tưởng là Phật; nên các tên tu sĩ quốc doanh, Việt Cộng giả dạng như Thích Nhất Hạnh, Trí Quang, Minh Châu .... linh mục Phan Khắc Từ, Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần ... vẫn có số tín đồ và con chiên ủng hộ. Thế là họ vẫn tồn tại và tiếp tục "mượn đạo tạo đảng" gây thêm tội lỗi, làm hại đạo, hại nước.

Nếu những tu sĩ nầy không có tín đồ, con chiên ủng hộ thì họ cũng phải bị đào thải như "Chùa Bà Đanh" thôi, và đảng Cộng Sản vô thần nhìn thấy họ không có ai ủng hộ nữa, thì cũng áp dụng chính sách "vắt chanh bỏ vỏ". Tóm lại, cũng chính sự mù quáng của tín đồ, con chiên mà bọn tu sĩ quốc doanh mới có đất dụng võ. Nếu ở hải ngoại, không ai cho các tu sĩ từ trong nước ra xin tiền một XU, thì đảng Cộng Sản cũng chẳng "hồ hởi phấn khởi" gởi tu sĩ của họ ra hải ngoại để vừa móc túi và vừa làm công tác tôn giáo vận. không ai nuôi, ủng hộ thì Việt Cộng cũng phải chết thôi.

Tôi nào quên vụ trốn trại bất thành của nhóm do trung úy HUỲNH THANH SOUL thực hiện, ở liên đội 4 là nổi tiếng khắt khe do tên liên đội trưởng gốc Nghệ An là thượng úy Sáu Ân, nên hệ thống ăn ten khá nguy hiểm. Nhóm của anh Soul bị bể, nhiều người bị đánh te tua, nhốt nhà đá .... để dằn mặt tù, tên thiếu tá chánh ủy Hai Thâu tổ chức lên lớp học tập tại hội trường lớn ở liên đội 5, gom hết 3 liên đội lại; sau những hù dọa, dằn mặt và đưa ra vài người tù trong nhóm trốn trại nhưng nhờ "giác ngộ" mà được hưởng chính sách khoan hồng, hai người được đưa lên nói chuyện và tâm tình, ca tụng "cách mạng" là trung úy LÂM CHÁNH TÀO và trung úy hải quân NGUYỄN VĂN BA tức là BA RÂU.

Hai người nấy nói chuyện thì phải bịt tai, sau đó cán bộ gọi anh Nguyễn Đức Xích lên phát biểu; anh bình tỉnh dùng cái gọi là "quan hệ cũ-mới" để lên án sự tàn ác của chế độ Cộng Sản; anh gọi đó là do sự tuyên truyền của ngành Tâm Lý Chiến để lấy cớ vạch mặt Cộng Sản ngay trước mặt chúng; sau cùng thì anh dành rất ít ngôn từ để nói về cái MỚI là "cách mạng"; đây là chiến thuật" chén úp đầu voi "khiến bọn cán bộ tức lắm, nhưng không làm gì được.

Mùa xuân năm 1977, liên trại 3 tổ chức văn nghệ và chỉ thị các nhà làm báo tường thi đua, rồi chọn tờ nào hay nhất, thi đua với các liên đội, nếu thắng giải, được "tờ biểu dương". Anh Xích bị chính liên đội trưởng là thượng úy Chính Sanh chỉ định cho làm tờ báo của nhà 2. Đó là lối thăm dò tư tưởng, anh biết, nhưng không còn cách nào từ chối. Anh lợi dụng tờ báo để nhắn nhủ với các bạn tù, hãy giữ vững tinh thần, qua bài viết "MÙA XUÂN CẮM HOA", được nhiều người tù hiểu, nhưng bọn chó săn cũng biết và báo cáo cho quản giáo. Tôi thích bài nầy lắm, được treo ở vách tường trong cái CANTEEN của Liên Đội 3, nên đọc thuộc lòng, vẫn còn nhớ, ghi lại như sau:

"Vào một ngày đầm ấm mùa xuân, trong lúc tôi đang đi dạo trong khu vườn nhỏ, mục đích là đi tìm vài thứ hoa để cắm trên bàn thờ ông bà. Bất chợt có người bạn thân đến thăm, tôi mời vào nhà, chúng tôi uống chung trà ấm và sau đó tôi đưa bạn ra vườn, nói rõ mục đích tìm hoa. Hai chúng tôi sánh vai nhau đi dạo trong khu vườn, sau khi lướt qua những bụi Cúc, Đào, Mai ... cuối cùng tôi đành lựa bông Hồng, cắt vài cành, mang vào nhà. Chúng tôi lại trò chuyện, bạn tôi hỏi: "Sao anh chọn hoa Hồng?". Tôi mỉm cười trả lời: "Hoa Hồng lâu tàn, mang vào là thích hợp, ĐƯỢC CẮM TRÊN SỎI ĐÁ. NHƯNG HOA VẪN NỞ"...

Trong đó cũng có một bài nói về câu chuyện của anh tù, trung úy Đoàn Ca, người làm cây nạn dàn thung, bắn chim Én để cải hoạt; bài viết tự đề: "Đoàn Ca bắn chim én", anh có ngụ ý lên án vụ bộ đội, vệ binh trong trại đã bắn chết bác sĩ Tài và làm bị thương một số anh em khác ở Liên đội 4, lúc đi cầu tiêu vào buổi sáng, nghe nói là Việt Cộng "giận cá chém thớt" vì chúng bị thiệt hại nặng khi đụng độ với lực lượng kháng chiến Hòa Hảo ở núi Dài. Trong những câu nói của anh Xích, tôi không quên anh lập lại nhiều lần là:

- "Chủ nghĩa Marx với chiêu bài phân bố quyền lợi đồng đều trên toàn thế giới, nhưng người Cộng Sản phi nhân"

- "Mình ở tù cũng do Mỹ, được thả cũng do Mỹ và sau nầy Việt Cộng thua cũng do Mỹ tất cả đều do Mỹ thôi"

Tình hình biên giới căng thẳng, hàng đêm chúng tôi nằm ở sân banh, nghe tiếng súng đại bác nổ xa xa mà mừng thầm. Nhưng sau đó, trại tù dời về Vườn Đào, thuộc xã Mỹ Phước Tây, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho chỗ nầy là khu của Việt Cộng trước 1975. Đời sống khó khăn vì nhà đất, cách lá. Dù vậy, chúng tôi vẫn thường gặp nhau, nhưng rất cẩn thận vì bọn chó săn luôn rình rập. Chắc chắn là do sự xếp đặt của cán bộ trại, nên hai người tù bị lưu ý, là mục tiêu thanh toán: đại úy Quách Dược Thanh, trung tá Nguyễn Đức Xích, được ở chung một tổ, tổ trưởng là trung úy Nguyễn Chí Thành (tức là Thành Sốt Rét, hay Thành Xe Lôi), anh nầy là phân chi khu trưởng Tân Xuyên ở Cà Mau, ngủ giữa hai anh Xích và Thanh; hiện anh Thành định cư ở San Jose (Bắc Cali).

Mùa nước lụt khủng khiếp 1978, nhưng trại tù vẫn "tử thủ" và sau khi nước vừa rút ló mặt đường, thì tên Trung úy Trần Khen (tự là Tư Khen) dẫn 2 vệ binh tới nhà trong, còng tay và dẫn anh đi về bộ chỉ huy, trước sự lo lắng của nhiều người, nhất là những người có quan hệ với anh một người bạn là anh trung úy Dương Văn Th... (hiện định cư ở Mỹ) tình cờ làm lao động ở gần bộ chỉ huy liên trại, nghe bên trong có tiếng đánh đập và giọng anh Xích vang lên: "Các anh không được đánh tôi, muốn gì hãy nói chuyện tử tế với nhau". Anh bị nhốt trong Cornex gần bịnh xá. Tết năm 1979, một số anh em nhận thăm nuôi, qua sự dàn xếp bí mật của bác sĩ Trương Văn Thành (sư đoàn 7), lén gởi thuốc, đồ ăn cho anh Xích, không biết ai báo cáo, việc đổ bể và nhiều người bị bắt, nhốt gần nửa tháng ở Cornex, trong đó tôi có biết anh Lữ Phùng Quang (trung úy ban 2 ở Châu Đốc), thiếu tá Nguyễn Văn Thà (quận trưởng) thời gian sau ngày anh bị bắt thật căng thẳng, Hai Thâu, Ba Minh, cán bộ lên lớp hù dọa đủ thứ để tìm ra tổ chức anh Xich, nhưng không ai bị lọt bẫy và anh Xích không hé môi dù bị đánh đập, hành hạ.

Vào một buổi tối, lúc 10 giờ, thình lình nghe tiếng súng nổ dòn ở phía hàng rào liên đội 5, và tiếp theo đó là bộ đội mang súng chạy rần rật ngoài đường lộ đất trong trại, y như có đánh trận vậy. Tù ở trong nhà, không ai dám ra sân, đi cầu ... hồi họp chờ đợi. Đến sáng hôm sau, tên thượng úy Chính Sanh đến nhà ngoài ra lịnh 5 người khỏe mạnh làm công tác đặc biệt. Tôi có người bạn thân là trung úy Người Nhái Trần Văn Xòn đi trong toán công tác; anh Xòn cho biết anh Xích bị bắn chết, nằm ngoài vòng rào liên đội 5, anh cho biết sương đêm bám vào mái tóc vợn sóng bồng bền và trên môi vẫn còn nở nụ cười ngạo nghễ tin anh Xích bị giết làm chấn động mọi người, nhất là người bạn tù thân thiết, từng sinh hoạt bí mật trong nhóm từ Chi Lăng đến Vườn Đào.

Sau khi giết chết Nguyễn Đức Xích, cán bộ trại tung tin là: Anh Xích vượt trại nên bị bắn, ai cũng biết đây là tin vịt, vì anh bị nhốt trong cornex kiên cố, có khóa cẩn thận, thì làm sao thoát được. Theo một nguồn tin về cái chết của trung tá Nguyễn Đức Xích, dù là tin chưa kiểm chứng nhưng cũng xin ghi lại để có thêm suy nghĩ: số là trong lúc anh Xích bị nhốt trong cornex, có một bộ đội canh coi được anh Xích giác ngộ, nên quí mến anh cho nên cán bộ cấp trên biết được.. Đêm đó, người cán binh nầy muốn thả anh, nên lén dẫn ra tới hàng rào, lấy cớ là đi cầu đám cán bộ biết được nên bắn chết anh Xích và giết luôn người bộ đội. Tuy nhiên, ai cũng biết đây là chủ trương của đảng Cộng Sản Việt Nam, chúng giết hết những người nào bị cho là nguy hiểm.

Trong trại tù Vườn Đào, có đại tá Phạm Chí Kim, tỉnh trưởng tại chức Kiến Hòa, được giữ lại miền Nam và nghe nói được hưởng chính sách "khoan hồng" về với gia đình; có thể nói trường hợp đại tá Kim là hiếm hoi cấp cao như vậy mà còn ở lại miền Nam. Ngoài ra còn có nhiều người đồng cấp tá với anh Xích, nhưng về sớm như: trung tá Hoàng Đức Thành (tức là Thành Nhà Đèn, sĩ quan tiếp vận), trung tá An (thiết giáp), trung tá Huỳnh Hữu Chỉ (tiếp liệu), thiếu tá Thái Sĩ (người Huế, Công Binh, về rất sớm và được biên chế làm Công nhân Viên cho trại tù), trung tá Nguyễn Thời Rê (nguyên là tỉnh trưởng Châu Đốc).

Sau cái chết của trung tá Nguyễn Đức Xích và đại úy Quách Dược Thanh, để chạy tội, cán bộ trại tù Vườn Đào tung ra nhiều hỏa mù, nhằm hạ kẻ thù, dù đã bị sát hại; đó là một thủ đoạn vô cùng thâm độc, nên sau nầy có nhiều nguồn tin như: gia đình anh Xích không chung vàng, nên hai Thâu giết, hay là đại úy Quách Dược Thanh báo cáo vụ tham nhũng bột ngọt của thượng úy Chín Sanh với Ba Minh, nên bị Chính Sanh giết trả thù. Có thể một số anh em tù thiếu nhận xét mà nghe tin nầy từ đám ăn ten đồn trong trại từ miệng của bọn cán bộ quản giáo, sau nầy mang ra hải ngoại để tiếp tục hạ uy tín những người tù bất khuất. Sau khi ở nước ngoài, tôi tìm được gia đình anh Nguyễn Đức Xích, liên lạc với linh mục Nguyễn Đức Sách và anh Nguyễn Đức Đơn (anh qua đời đột ngột năm 2005). Theo tin tức của anh Đơn cho biết thì gia đình đã lấy cốt anh Xích, tro được giữ ở Việt Nam một phần và phần khác đem ở tiểu bang Queensland (Australia), thế cũng tạm yên cho những người bạn tù như tôi. Lúc còn ở trong trại tù, anh Xích rất quí mến anh Quách Dược Thanh, có lần nói: "Thanh ơi! Tại sao tao gặp mầy quá muộn màng trong hoàn cảnh nầy?".

Những người tù thân thiết với hai anh, nào quên những lời nói, kỷ niệm, nhất là kính phục tinh thần bất khuất của những người tù sau 1975, mà hai anh là một trong rất nhiều người tiêu biểu. Anh Quách Dược Thanh cũng có câu nói thật ý nghĩa với các bạn tù, đàn em thân tình, cùng vững lập trường: "Muốn sống để trả thù, dù phải ăn cỏ...".

Nhân đây, người viết xin có ý kiến: hầu hết các tù nhân đều có tờ giấy RA TRẠI do bộ Nội Vụ Việt Cộng cấp. Trong phần kết án, có ghi tội danh như: can tôi thiếu úy, thiếu tá .... đó là những thứ tội mà thế giới nhận rõ là "vi phạm nhân quyền" và hoàn toàn phi lý, phi pháp. Việt Cộng đem vụ chất da cam thưa các hãng Hoa Kỳ, thì những quân nhân cán chính cũng nên vận động, quyên góp tiền để đưa bạo quyền Cộng Sản ra các tòa án ở hải ngoại và đòi bồi thường những năm ở tù phi lý, cũng như đòi bồi thường nhân mạng cho những người bị giết với nhiều cách: bắn, tra tấn lao động, bỏ đói, bịnh tật không thuốc men chăm sóc.

Nếu có được những người biết luật, các luật gia giúp đỡ, phát động bởi những người tù có uy tính như các tướng lãnh, vận động chính giới các nước như Mỹ, Úc (nhất là các hội cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam) thì tù nhân sẽ dịch các tờ giấy ra trại bằng tiếng Anh, có thị thực, gởi đến, càng nhiều người càng tốt nếu việc nầy thực hiện, thì mỗi người H.O hay tù, dân, chỉ cần đóng 1 đồng, cũng dư tiền để lo thủ tục pháp lý. Một điều nữa là cái vụ kiện nầy cũng là bằng chứng để tố cáo tình trạng vi phạm nhân quyền thô bạo của đảng và nhà nước Việt Cộng trước công luận thế giới; nếu không thành công nhưng cũng làm cho bạo quyền Việt Cộng mất mặt đối với Liên Hiệp Quốc, các nước Âu-Mỹ. Mỗi người một tay, mỗi cách đánh, thì dù cho núi cũng phải bị san bằng, huống chi cái chế độ bạo ngược Cộng Sản nầy đang trong thời kỳ dẫy chết...

Tác giả: thienthanh
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
[-] The following 1 user Likes duke's post:
  • TiểuHồLy
Reply
#2
CÂY MAI RỪNG CỦA NGƯỜI LÍNH TRẬN.

[Image: 480556346_122129367140675463_67645626879...e=67BF1980]


        Ông Thành xuất thân là một quân nhân, nhập ngũ từ năm mới hai mươi tuổi. Đất nước chiến tranh tuổi thanh niên đa số dấn thân vào con đường binh nghiệp, dù chẳng ham gì cảnh cốt nhục tương tàn, nhưng khổ thay cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng. Muốn hòa bình phải có chiến tranh, định mệnh đưa đẩy khiến toàn dân đều chịu chung số phận nghiệt ngã của một đất nước bị phân chia kéo dài 20 năm đằng đẵng.

Hơn mười năm lính, bao lần xông pha trận mạc, trôi nổi sống chết với đồng đội chiến hữu của mình trên khắp các chiến trường miền Đông, rồi lại chuyển qua miền Tây. Mỗi nơi mỗi vẽ, nhưng in đậm trong trí nhớ của ông Thành là chiến trường miền đông, vùng chiến địa đôi khi lại là một cánh rừng thưa mà mỗi độ Xuân về, mai rừng nở hoa bát ngát mênh mông một màu vàng rực rỡ. Ông Trời trớ trêu đem cái đẹp của rừng mai lúc sang Xuân, lồng vào nỗi buồn ray rứt của khói lửa binh đao, khiến lòng người lính trận thắt lại mênh mang khi ngắm hoa nở trên đầu súng.

Những năm xa gia đình, ăn Tết trên rừng với hoa mai vàng óng ả đã ghi đậm trong lòng ông Thành một bức tranh tuyệt vời trong đời quân ngũ. Tết trên rừng nơi vùng hành quân nào có gì , nếu không nhờ những cánh mai vàng hồn nhiên rung rinh hé nở trong nắng sớm, và chút se sắt của gió Xuân làm thổn thức con tim người lính trận. Xa vợ con, xa gia đình, xa phố thị bình yên, những buổi chiều nơi vùng trú quân năm nào im tiếng súng, thân phận người lính trận có gì vui khi được lai rai ly rượu đế, món thịt rừng và con khô nướng, để nhớ về không khí ấm cúng của gia đình, và những buổi chiều Xuân nhộn nhịp, an bình nơi thành phố. Ông Thành đã có nhiều năm ăn Tết ở đơn vị với chiến hữu, đã quen dần với những mùa Xuân xa nhà, cho đến năm ấy sau một lần hành quân đụng nặng cấp tiểu đoàn, ông bị thương nặng ngất đi vì mảnh đạn pháo dập đứt lìa một chân, và bao nhiêu mảnh nhỏ ghim vào thân thể.

Thế là giã từ vũ khí, giã từ nếp sống nhà binh rày đây mai đó, ông làm người phế binh an phận bên lề cuộc chiến, đời sống tương đối được ổn định nhờ người vợ hiền tần tảo buôn bán nuôi con. Lúc nghĩ đến chuyện mua một căn nhà để có một chỗ ở cố định, ông Thành chống nạng đi lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm, mãi mới ưng ý một dẻo đất gần bờ sông, uốn cong theo thế đất để đi vào một con rạch nhỏ. Ông tính toán thú điền viên cho mình ở cái tuổi chưa già nhưng xem như đã phế thải với cuộc đời, thôi thì một căn nhà tôn vách ván, sân trước sân sau cũng rộng rãi thoáng mát, nuôi con heo con gà quanh quẩn với vườn rau, bù vào đồng lương khiêm nhượng của một thương phế binh, cộng thêm bà vợ tần tảo chăm làm đời sống cũng không đến nỗi.

Tuy giã từ vũ khí, chấp nhận đời sống êm ả của một cảnh đời tàn phế vì chiến tranh, ông Thành thường nhiều lần trở lại trong mơ quãng đời của người lính trận, mỗi lần ngồi tần ngần nhìn dòng nước chảy ông miên man nhớ lại những khuôn mặt bạn bè, chiến hữu một thời của mình với nỗi nhớ nhung, thương yêu đằm thắm. Tuy đã xa rồi chiến trường xưa, bạn bè thời quân ngũ nhưng trong lòng ông vẫn vọng về những kỷ niệm in hằn trong trí nhớ, nhớ nôn nao chén rượu cay, con khô nướng, ly bia sủi bọt trong cái quán cóc ven đường có cô hàng xinh xinh ở vùng hậu cứ , tiếng cười ngất ngưởng của những Kinh Kha thời đại. Có đi vào chiến tranh, có chia xẻ tận tình với nhau những lần sống chết mới thấm thía được nỗi nhớ ấy như thế nào. Chẳng những thế còn in đậm trong ông nỗi nhớ cánh rừng mai vùng chiến địa năm xưa, khiến ông quyết định mua một dẻo đất vuông vức khá đẹp trong Xóm Hoa Mai để cất một căn nhà làm chỗ an cư lạc nghiệp.

Vậy là may lắm rồi, khi còn biết bao nhiêu người vợ lính ẵm con thơ chạy theo chồng từng bước trên các nẻo đường chinh chiến với đồng lương cố định ít ỏi, những năm ấy ông rong ruổi một mình như con chiến mã trên dải đường xa, để một mình bà vợ lo toan nuôi đám con ăn học . Chẳng biết cái tên Xóm Hoa Mai có tự bao giờ, nhưng đặc điểm của xóm là nhà nào cũng trồng một, hai cây hoa mai ở sân trước, bên hiên nhà lẫn trong bóng của cây mận, cây dừa. Vì thế khi xuân về từ đầu xóm đến cuối xóm, nhà nào cũng có hoa mai vàng rực rỡ trên cây và thảm hoa rụng đầy trên mặt đất. Ông Thành đi kiếm đất cất nhà vào mùa Xuân năm ấy bỗng như lạc vào rừng hoa mai ở chiến trường xưa thuở nào.

Người chủ đất biết được cái thích của ông Thành nên vì thế miếng đất khá cao giá hơn chỗ khác, ông cũng biết vậy nhưng nếu so với cái hạnh phúc của người tìm được điều mình thích thì giá ấy chưa phải là đắt.

Khi cất xong ngôi nhà đơn sơ với số tiền do bà vợ đảm đang dành dụm trong nhiều năm buôn tần bán tảo, cả nhà cảm thấy đã an cư lạc nghiệp. Trên mảnh đất ấy đã có sẵn vài cây dừa và hai cây mận, đủ làm bóng mát ban đầu cho căn nhà ven sông thêm thơ mộng, và ở vườn sau thả thêm một đàn gà, nuôi hai con heo, cộng thêm vài con vịt xiêm ồn ào đi đi lại lại rồi nhảy xuống mương lặn lội cũng vui vui. Việc đầu tiên là ông Thành đi lùng mua một gốc mai quý để trồng ở sân trước. Chưa tìm được thì một sáng kia, đang loay hoay với cái hàng rào bông bụt trước sân ông nghe có tiếng gọi quen quen:

  - Ông thầy!

Ông ngửng lên nhìn nhưng đôi mắt vì chói ánh mặt trời nên nhìn chưa rõ, để rồi khi nhìn ra, ông suýt làm rơi cái nạng xuống đất, mừng rỡ nhận ra tiếng nói quen thuộc của người lính đàn em cùng đơn vị năm xưa. Đôi con mắt nhìn nhau rươm rướm lệ, nhìn người đàn em về phép với bộ chinh y còn bám bụi đường xa, khuôn mặt hằn lên những gian khổ chiến trường khiến ông chỉ muốn khóc. Ông hỏi, ngỡ ngàng biết bao khi thốt lên mấy tiếng thân thương của một người đàn anh cùng đơn vị thuở nào:

    - Ôi! Chú mày! Sao biết anh ở đây mà tìm?

Người lính trẻ toác miệng cười vô tư:

     - Em hỏi thăm thì biết. Sẵn dịp về phép, ghé thăm ông Thầy và mang về một món quà ở chiến trường xưa. Ông thầy có nhớ khu rừng mai hồi xưa mình đụng lớn ở đó không? Vừa rồi đi qua đó, thấy có loài mai quý em vội bứng cây mai này để dành tặng ông Thầy làm kỷ niệm. Cây này khỏe, xem nhỏ vậy nhưng cũng già rồi, em chăm nó kỹ lưỡng đợi khi có phép mới mang về được đây. Ông thầy chịu khó chăm nó độ mùa Xuân năm sau là hy vọng có bông chưng Tết.

Ông Thành cảm động nói không nên lời, ôi tình huynh đệ chi binh tưởng chỉ có được thời gian còn tại ngũ, trong sách vở và mấy bản nhạc bốc thơm đời lính, hóa ra nó không phải là những lời hoa mỹ trên đầu môi chót lưỡi, uốn éo trên môi miệng nhũng cô ca sĩ. Chẳng có gì quý hơn khi mình tặng cho người khác món quà mà người ta đang mơ ước, mong đợi, cây mai rừng của người lính trẻ đối với ông Thành quý còn hơn vàng bạc. Lúc khề khà ly bia sủi bọt với người lính cũ, anh ta ngà ngà say chỉ vào dúm đất ôm lấy gốc mai xanh mướt, nói với ông Thành:
     - Cái nhúm đất ở gốc mai này có khi cũng đã nhuộm máu binh lửa đó ông thầy à. Hổng biết sao chứ em mơ hồ là nó sẽ gắn liền với ông thầy hết cuộc đời trong cái mảnh sân và căn nhà này đó. Hễ ngày nào đó thấy mai nở, ông thầy sẽ nhớ đến em, cho dù em còn sống hay chết…

Ông Thành mắng yêu người lính trẻ mà đôi mắt ông sao ướt nhòa như trời mưa:

    - Bậy nà! Khi nào về phép nhớ ghé thăm anh nghe …

Người lính trẻ giã từ ông thầy cũ của mình rồi trở ra đơn vị, để lại cây mai quý mọc lên từ cánh rừng khói lửa miền Đông. Cây mai cứ thế lớn nhanh như thổi, vì ông Thành chăm sóc nó còn hơn mẹ chăm con mọn. Không biết sao từ đấy, những lúc vui, buồn quanh quẩn bên cây mai với đôi nạng gỗ, ông Thành dường như thấy lòng mình ấm hẳn lại. Ông gửi lại chiến trường một phần thân thể của mình, có khi chính những dòng máu của ông và bao người lính đã loang chảy và thấm sâu xuống lòng đất ấy, để hội tụ vào những gốc mai trong cánh rừng thưa nở hoa vàng mỗi độ Xuân về, gom lại thành một thứ tình đồng đội khó nguôi ngoai.

Những sớm mai khi thức dậy, những buổi chiều gió hiu hiu từ bến sông phả vào khu vườn nhỏ tiếng lá reo, đã thấy bóng ông lom khom với đôi nạng gỗ bên cây mai, lắm khi cao hứng ông còn hát một mình :

      - Người về, người về nay đã cụt chân Máu đào, máu đào đã thấm trên thây bao nhiêu quân thù …u ù, một ngày chinh chiến mùa thu…

Cây mai lớn nhanh theo cái tình đằm thắm thương yêu của người thương phế binh đã một thời xả thân trên chiến trường cũ.

Nó chẳng phụ công ông chăm sóc nên mùa Xuân năm sau cây đã đơm những bông hoa đầu tiên, tám cánh vàng tươi rung rung trong nắng sớm, khác nào nụ cười xinh xinh của các cô em gái hậu phương thuở ấy. Không có ngòi bút nào diễn tả hết được nỗi vui của người thương binh chống nạng đứng ngẩng nhìn những đóa mai vàng tám cánh rung rinh trong nắng sớm, nhìn nó ông Thành lại nghĩ đến hình ảnh người đàn em có cái miệng cười thật tươi khi đến thăm ông lần về phép năm trước.

Để rồi vô tình có ngày ông Thành bỗng phát hiện ra mọi buồn, vui trong đời ông hình như đã được cây mai báo trước mà sau khi chuyện xảy ra, ông mới thấy được sự kỳ lạ ấy. Hai năm sau, một đêm mùa hè ông Thành không ngủ được, trời đêm ấy có trăng nhưng lặng gió, ông quanh quẩn thả ra gốc mai rồi lại quay vào ngồi trước hiên nhà hút thuốc.

Đêm khuya rồi mà vẫn khó ngủ, ông vào nhà ghé mình lên chiếc phản gỗ nhưng vừa đặt mình xuống và lơ mơ đi vào giấc ngủ, ông nghe như từ cây mai có tiếng chuyển động của những bước chân, y hệt tiếng xê dịch của những gót giày nhà binh mỗi lần chuyển quân. Từ chỗ gốc mai tự nhiên gió nổi lên lồng lộng khiến cây lá rì rào, thì thào với nhau giữa canh trường. Không biết thức hay ngủ giữa cơn mộng mị, ông Thành nhác thấy người lính trẻ đàn em tặng mình cây mai năm nào đang đứng tựa cành mai, dưới ánh trăng mờ anh ta toác miệng cười với ông, nụ cười thân thương của người đàn em khiến ông mừng quá quơ đôi nạng định chạy ra ôm lấy người chiến hữu của mình. Ngay khi ấy ông chợt tỉnh, thì ra đấy chỉ là một giấc mộng. . .

Ông Thành tỉnh hẳn rồi không ngủ lại được, hoặc có ngủ thì cũng chỉ chập chờn nửa tỉnh nửa mê chờ sáng. Linh tính cho ông biết có chuyện gì …xảy đến với thằng đàn em dễ thương của mình, như câu dặn dò của hắn trước khi chia tay, trong lúc ngà ngà men rượu:

     - Một ngày nào đó mai nở, ông thầy sẽ nhớ đến em, dù em còn sống hay đã chết…

Từ hôm ấy sau giấc mộng kỳ lạ giữa đêm trăng, bóng hình người lính trẻ cứ mãi chập chờn trong tâm hồn người đàn anh khiến ông Thành khắc khoải một nỗi mong đợi khôn nguôi. Không chịu được nỗi buồn u uẩn đó, ông Thành viết thư thăm người bạn cũ cùng đơn vị năm xưa, hỏi thăm đàn em mới biết tin người lính trẻ tặng ông cây mai quý đã biền biệt ra đi đúng vào khoảng đêm trăng mùa hè hôm ấy.

Từ ngày ấy người trong nhà thấy khi trời nhập nhoạng chiều, gió se sắt thổi từ bờ sông phả vào sân trước là ông Thành lặng lẽ cặm ba cây nhang dưới chân cội mai, nơi cái nhúm đất con con mà người lính đã mang về từ chiến trường xưa dưới gốc cây, đôi mắt ông đau đáu một nỗi buồn dịu vợi....

Hôm đầu tiên nghe tin người đàn em đã tử trận, ông Thành ngơ ngẩn suốt buổi chiều cạnh gốc mai lá xanh mươn mướt, lúc nào ông cũng chỉ muốn khóc. Khi cặm những cây nhang xuống đất, ông bật lên khóc rưng rức, rồi vu vơ mắng yêu vào cái khoảng không trống trải của hư vô:

      - Mồ tổ bây, còn trẻ vậy mà sao đi vội thế!

Mùa Xuân tiếp nối mùa Xuân, người thương binh giờ đây già đi với mái tóc muối tiêu và khi gió trở mùa, những vết thương cũ ê ẩm làm ông khó ngủ hơn. Vẫn chỉ có cây mai làm bạn để ông hát vu vơ bản nhạc cũ:

Người về, người về nay đã bị thương
Nhưng lòng vẫn nhớ, người ơi biên cương xa vời, ơ hờ
Người về nay đã bị thương….

Cây mai bây giờ đã thành cội, tính theo tuổi đời kể từ ngày người lính đem về tặng ông đến nay thì nó đã được sáu tuổi, mỗi độ Xuân về hương sắc càng rực rỡ theo tuổi dậy thì của cô con gái ông Thành đang bước vào tuổi mộng mơ.

Ông Thành có thêm niềm vui lúc Xuân sang, một lũ bạn học cùng lớp của con gái ríu rít chen nhau đứng chụp hình dưới gốc mai, cô nào cũng khoe nụ cười hàm tiếu. Chuyện ấy làm ông liên tưởng đến mỗi lần hành quân về thành phố, người hậu phương đến thăm lính trận từ chiến trường xa mới về choàng vòng hoa chiến thắng. Mấy thằng đàn em của ông khi xung trận lì lợm ghê, vậy mà khi đứng trước giai nhân, lúng túng vụng về chỉ biết nhe răng ra cười, đúng là ” chí lớn trong thiên hạ, không đựng đầy đôi mắt giai nhân”.

Mùa Xuân năm ấy ông Thành vẫn lắng nghe trong đêm tiếng đại bác ì ầm từ xa vọng về thành phố, ánh hỏa châu lơ lửng giữa đêm đen, chiếc trực thăng bắn ra những tia lửa đỏ rực ở vùng ngoại ô, và bản tin mỗi ngày đọc sao nghe nặng nề hơn trong lòng người lính cũ. Ông thầm nghĩ, mình an phận rồi dù có gửi lại chiến trường cái chân và những mảnh đạn ghim vào người vẫn còn ê ẩm lạ, nhưng sao chưa thấy năm nào mùa Xuân sắp đến mà trời đất lại buồn như năm nay. Trước Tết ông Thành đã chọn ngày lặt lá mai, pha mấy chậu nước ấm tưới vào gốc mai để thúc cho hoa nở đúng kỳ hạn. Chẳng bao giờ ông Thành cắt một cành mai để chưng trong nhà hay tặng cho bằng hữu anh em dù thân tình cách mấy.

Ông quan niệm phải giữ trọn vẹn tất cả những gì của cành mai, như lúc nào ông cũng trân trọng linh hồn của người đàn em, mà chẳng những thế cả cái nhúm đất con con mang theo gốc mai của người lính trẻ đã chết đem về, ông cũng muốn nó còn tồn tại mãi trong mảnh sân này, chỉ ở mảnh sân này mà thôi . . .

Cũng như mọi năm cây mai ra nụ rất nhiều, nụ lớn nụ bé chen nhau trên cành chỉ còn thưa thớt ít lá đẹp làm màu xanh cho cây, cả nhà ai cũng tấm tắc mong đợi khi chiều ba mươi Tết các nụ hoa đã mơn mởn lên chúm chím chờ hé nhụy. Hình như đối với ông Thành thì chỉ có cây mai này mới hoàn toàn đem mùa Xuân đến cho ông, với một nỗi niềm riêng gửi gấm vào đó mà không cần ai hiểu, chiều ba mươi Tết cây mai vẫn hứa hẹn một vẻ đẹp mãn khai cho ngày đầu Xuân đầy hy vọng.

Nhưng không thể ngờ, định mệnh như một bàn tay tai quái thổi cơn gió hung tàn vào cái đêm cuối cùng của một Năm, giờ giao thừa đã qua mà gió ở đâu ào ào thổi qua vườn làm ông Thành lo lắng thắc thỏm không yên. Chẳng lẽ không khí chiến tranh hiện diện trong nỗi thống khổ của dân tộc, đã hơn hai mươi năm lại gom thành cơn gió oan nghiệt thổi thốc vào cây mai báo hiệu một mùa Xuân Khổ chia xa , trong gia đình đang bình yên của ông. Cả nhà đã yên giấc khi nửa đêm về sáng, ông Thành lại trằn trọc hồi tưởng đến mùa Xuân trên cánh rừng miền Đông khi ông còn là lính trận, chợt tiếng xào xạc của cây mai sân trước bị gió xoáy vào trong đêm trừ tịch, nghe như âm vang của từng bước chuyển quân năm xưa làm ông rùng mình.

Chợt nhớ đến khuôn mặt của người đàn em hiện về trong giấc chiêm bao, cũng đêm đó gió ở đâu lồng lộng quay cuồng nơi gốc mai sân trước, ông Thành hình dung ra một sự đổ vỡ mà không định nghĩa được là cho mình hay cho ai. . .

Sáng hôm sau ông dậy sớm, vợ ông đã sửa soạn bữa cơm cúng đầu năm trên bàn thờ ông bà tổ tiên, khói hương nghi ngút và trầm trầm một sự tưởng nhớ rất thiêng liêng. Ông Thành đốt mấy nén nhang cắm trên bàn thờ ông bà, rồi đốt thêm ba nén nhang đem ra cây mai để gọi là mừng tuổi đất trời và để tưởng nhớ bạn bè, gọi thầm những hình xưa bóng cũ.

Từ trong nhà bà Thành nghe có tiếng rơi của chiếc nạng gỗ và tiếng kêu thảng thốt như tiếng khóc khô khốc của ông Thành vọng lên trong buổi sáng đầu Xuân còn mờ hơi sương:

- Trời ơi!

Bà Thành chạy ra sân rồi không tin vào mắt mình. Bao nhiêu nụ và hoa đều rụng xuống tả tơi như một tấm thảm trên mặt sân lát gạch đỏ, còn ông Thành thì ngã lăn ra dưới gốc cây lịm đi như một xác chết. Mùa Xuân ấy là mùa xuân năm một chín bảy lăm ./.

Nguyên N.
‘𝐒ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐠𝐢ố𝐧𝐠 𝐧𝐡ư 𝐦ộ𝐭 𝐜𝐨𝐧 𝐬ư 𝐭ử. 𝐁ạ𝐧 𝐤𝐡ô𝐧𝐠 𝐜ầ𝐧 𝐩𝐡ả𝐢 𝐛ả𝐨 𝐯ệ 𝐧ó. Để 𝐧ó 𝐪𝐮𝐚 đ𝐢. 𝐍ó 𝐬ẽ 𝐭ự 𝐯ệ.’ 

[Image: 198aa2499b024844f484fd87660bac17.jpg]

𝐇ã𝐲  𝐥𝐮ô𝐧 𝐥𝐮ô𝐧 𝐜ô𝐧𝐠 𝐛ố 𝐬ự 𝐭𝐡ậ𝐭 𝐯à 𝐧𝐠𝐚𝐲 𝐜ả 𝐤𝐡𝐢 𝐧ó 𝐥ọ𝐭 𝐯à𝐨 𝐭𝐚𝐢 𝐧𝐠ườ𝐢 đ𝐢ế𝐜, 𝐜𝐡ú𝐧𝐠 𝐭a 𝐬ẽ 𝐡𝐨à𝐧 𝐭𝐡à𝐧𝐡 𝐜ô𝐧𝐠 𝐯𝐢ệ𝐜 𝐜ủ𝐚 𝐦ì𝐧𝐡.  

Innocent 
[-] The following 1 user Likes duke's post:
  • TiểuHồLy
Reply