2024-02-06, 05:46 PM
Hôm qua đọc bài này trong một tờ báo xuân ra đời đã khá lâu. Ít ai biết được tờ báo này, do hòa thượng Thích Như Điển sáng lập, ra liên tục tới năm nay là năm thứ 45, một điều đáng ngạc nhiên, nhất là một tờ báo của tôn giáo ra đời ở xứ người. HT là người cởi mở, có một người bạn thân quen biết từ hồi du học ở Nhật (1972-77) và do duyên, lại gặp nhau khi cùng tỵ nạn ở đất Đức, là một tu sĩ CG, thầy Hà Đậu Đồng, nhìn áo đen cổ trắng, đoán chắc dòng Chúa Cứu Thế. Chùa Viên Giác và báo Viên Giác có một số tín hữu CG ở Đức giúp đỡ, cộng tác về công sức, thời giờ và cả tịnh tài (tức là tiền bạc). HT Như Điển cho biết là chính phủ Đức đã trợ cấp cho HT mỗi tháng một số tiền để trang trải các chi phí như mướn tiền nhà làm chùa Viên Giác, xuất bản sách báo... trong suốt 25 năm. Sau đó họ cắt "viện trợ" vì chùa đã lớn mạnh, có nhiều Phật tử đóng góp tiền của. Dù sao điều này cũng là một cái hay của nước Đức, vì nếu khg lầm thì bên Mỹ này khg hề có việc chính phủ cung cấp trợ giúp tài chánh như vậy cho các chùa.
![[Image: Screenshot-2024-02-06-2-30-14-PM.png]](https://i.postimg.cc/T3Y6m2Dq/Screenshot-2024-02-06-2-30-14-PM.png)
TÌNH NGƯỜI NHƯ MÙA XUÂN
Trần Trung Đạo
Tôi đến Houston nhiều lần. Giới thiệu sách. Đọc thơ.
Tâm tình với các bạn trẻ. Và lần sau cùng, năm năm
trước, cũng để giới thiệu sách và đọc thơ. Thời gian như
bóng mây ngoài khung cửa phi cơ mỗi lúc một xa nhưng
Houston vẫn là thành phố tôi đã mang theo và cũng để
lại nhiều kỷ niệm. Đồng hương và bạn bè tôi ở đó đông
đến nỗi trang giấy này không viết hết tên của họ. Ở
Houston, tôi có những người bạn của thời kỳ Internet
vừa mới hình thành trong cộng đồng người Việt vào
khoảng 1987 và cũng có những độc giả thật là thân dù
chưa hề biết mặt.
Một lần tôi từ Houston về lại Boston trong cơn bão
tuyết. Tuyết rơi lớn đến độ phi đạo không an toàn để phi
cơ hạ cánh. Phi cơ bay thấp. Tôi có thể nghe tiếng tuyết
đập vào thân máy bay xào xạc như có thể làm chiếc hộp
kim loại mong manh kia vỡ nát bất cứ lúc nào. Phi cơ
vần vũ trên không phận Boston cho đến khi gần hết
xăng phải bay ngược lại phi trường Providence, cách
Boston 45 dặm. Tuyết ở Providence cũng rất dày tuy
không bằng Boston. Trạm kiểm soát không lưu không có
chọn lựa nào khác nên phải cho phi cơ hạ xuống trong
tình trạng vô cùng nguy hiểm. Tiếng cọ xát của đôi cánh
máy bay cắt xuyên qua lớp tuyết dày như tiếng lụa xé.
Tôi đoán thầm, tất cả hành khách chắc đang thề thốt sẽ
không bao giờ đi máy bay lần nào nữa. Sau khi hạ xuống
xong, phi cơ đậu ngay cuối phi đạo vì không đủ sức để
lăn vào cửa. Hành khách phải bước xuống và lội lên 20
phân tây tuyết để vào hành lang phi trường.
Nhưng đó cũng là lúc cành hoa tình người nở rộ. Các
bạn trẻ dìu các cụ già, những người còn khỏe giúp bế
các em nhỏ, tay xách, vai mang vào bên trong phi
trường. Đoạn đường ngắn nhưng gần cả giờ mới vượt
qua được. Chúng tôi chen chúc nhau trong hành lang
chật hẹp của một phòng chờ. Ngày đó cell phone còn rất
hiếm. Trong hơn trăm người chỉ có vài chiếc. Tôi có một
cái Nextel nặng nề do hãng cấp nhưng dây điện thì lại
gởi theo hành lý. Tôi chia cho những người chung quanh
để họ gọi về nhà. Mỗi người chỉ được phép nói một câu.
Sang ngày sau, chúng tôi cùng lên chiếc xe bus của
hãng máy bay cung cấp để về Boston. Những người trẻ
đều phải đứng, chỗ ngồi dành cho các cụ già, phụ nữ và
các cháu nhỏ. Đoạn đường 45 dặm là đoạn đường gian
khổ. Khi xe chạy vài trăm thước chúng tôi phải xuống
đào tuyết bằng tất cả những gì mình có. Lại chia nhau
từng khúc bánh mì, từng ly nước ngọt, những lời an ủi,
khuyến khích. Không ai thở than, trách móc. Tất cả đều
sống như một gia đình trong cơn hoạn nạn.
Đến chiều tối chúng tôi mới về đến Boston. Khi chia
tay nhau ở hành lang phi trường Logan, bà cụ ngồi gần
chỗ tôi đứng trên xe, chợt nói lớn như để mọi người
cùng nghe: “Cuộc đời thật là kỳ lạ, những người sống với
nhau một ngày trọn vẹn, gần gũi, đáng nhớ như thế này
mà suốt đời còn lại có thể sẽ không bao giờ gặp nhau
lần nữa”.
Nhiều người trước đây cũng đã nói những câu tương
tự như cụ. Nhưng khác với các triết gia chứng nghiệm lý
lẽ của kiếp nhân sinh bằng sự suy niệm, câu nói của bà
cụ là kết luận sau một ngày thật trọn vẹn vui buồn
chúng tôi đã sống với nhau. Câu nói của cụ nhắc nhở về
đặc tính mong manh của kiếp người nhưng đồng thời từ
trong cái mong manh, lo âu, sợ hãi đó, giá trị đích thực
của tình người được thể hiện. Sống chết là định luật hiển
nhiên nhưng không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận.
Nhiều người sống tưởng như mình sẽ không bao giờ
chết.
Với tôi, câu nói của cụ như được trích ra từ số phận
gắn liền với cuộc đời mình. Biết bao khoảnh khắc quý giá
trong đời tôi đã sống qua và có thể sẽ không bao giờ
được sống qua lần nữa. Nhiều khi ngồi một mình hình
dung lại những kỷ niệm. Từ tuổi thơ cho đến lúc trưởng
thành. Những chuyến xe. Những sân ga. Dòng sông Thu
Bồn. Mặt hồ trong buổi chiều cuối thu. Ly cà-phê đen.
Bài hát cũ. Tất cả vẫn còn đó nhưng đã rất xa xôi. Còn
lại quanh đây là những câu hỏi tại sao nhưng không có
câu trả lời.
Tôi đi qua cuộc đời này như chiếc lá.
Nhà văn Lương Thư Trung, hiện đang cư ngụ tại
Houston, khi còn ở Boston, có lần thắc mắc tại sao tôi
thường viết về những chiếc lá. Một ngày rảnh rỗi anh
ngồi đọc tập “Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười”, sau đó
viết một tùy bút Người tiều phu và những chiếc lá vàng
với những câu rất đẹp: “Đất trời rồi sẽ chuyển sang mùa
theo sự vận hành của vũ trụ. Những chiếc lá vàng rồi sẽ
rơi rụng, bay đi, bỏ lại bên trời những cành, những
nhánh khẳng khiu, buồn thảm đến ngậm ngùi… Trong
dòng đời, với biết bao lần ngụp lặn, chìm đắm trong bể
khổ trầm luân, giông tố, bão bùng… Rồi bức tranh vân
cẩu cũng phải tan đi, để trả lại trần gian này một chút
nắng ấm mặt trời, để trả lại cho con người một cõi an
nhiên, thanh tịnh. Cao đẹp biết bao khi có những con
người hy sinh đời mình tự nguyện làm một người tiều
phu với tấm lòng từ bi đi khắp bốn phương tám hướng
gom góp từ nhánh củi, cọng rơm, ngọn cỏ đến những
chiếc lá vàng khô để đốt lửa soi đường, sưởi ấm nhân
sinh! Hạnh phúc thay được làm một nhà thơ! Hạnh phúc
thay được làm một người tiều phu với tấm lòng từ bi đi
góp nhặt những chiếc lá vàng!
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Anh gởi tôi đọc. Chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên
mình dùng chữ lá nhiều đến thế. Có lẽ vì lá gần gũi tôi
trong một khoảng đời niên thiếu khá dài.
Ðừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ
Ðau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Hay
Ai về qua phố Hội An
Mua giùm tôi tấm lụa vàng Duy Xuyên
Tôi đi quét lá trăm miền
Mẹ ngồi dệt sợi ưu phiền quanh năm
Hay
Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi
Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới
Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn
Hay
Một chiếc lá vừa rơi trên nấm mộ
Thu đã về rồi đó phải không em
Anh chợt thấy bàng hoàng trong tuổi dại
Một tình thương tha thiết sẽ không quên
Hay
Em đừng hỏi ta mong về quê cũ
Chiếc lá khô còn nhớ cội thương cành
Ta chẳng lẽ bước chân đời lê mãi
Nơi quê người làm một kẻ lưu dân
Hay
Cho tôi nhặt chiếc lá vàng trước ngõ
Viết bài thơ tha thiết hiến dâng đời
Chút chân tình trang trải với muôn nơi
Rất nhỏ bé nhưng vô cùng sâu rộng
Hay
Mỗi chiếc lá như chừng nghe hơi thở
Mỗi cành cây như có một linh hồn
Ta sẽ về sống lại một lần thôi
Em sẽ khóc như chưa hề được khóc
Hay
Ai mang em trên đường đi vượt biển
Chẳng kịp về thăm góc phố năm xưa
Em bỏ đi như lá bỏ quên mùa
Như giọt nước quên tấm lòng biển cả.
Và nhiều nữa.
Ngày xưa khi trọ học ở Viên Giác, tôi nhỏ nhất trong
chùa nên được giao công việc quét lá. Anh Hùng gánh
nước, anh Sáu tưới rau, chú Ngô đi chợ, còn tôi không
làm được những chuyện đó nên chỉ lo làm sạch sân
chùa. Không ai có phòng ngủ riêng. Năm đầu tôi ở
chung phòng với chú Điển, bây giờ là Hòa Thượng Thích
Như Điển. Mấy năm sau tôi dọn sang ở với các điệu cùng
lứa tuổi trong căn phòng sát dưới gốc đa. Các điệu rất
vô tư. Nằm xuống là ngủ ngay. Đúng giờ thức dậy đi
tụng kinh khuya. Tụng kinh xong lại đi ngủ tiếp. Các điệu
hoạt động tự nhiên như những chiếc máy. Ít cười và ít
nói. Tôi cũng cùng tuổi nhưng không như các điệu, đêm
nào khi tới phiên mình đánh chuông xong, tôi thường
nằm bên hiên chùa nghe tiếng lá reo. Nhất là mùa thu,
tiếng lá rung như một điệu nhạc.
Ở chùa Viên Giác ngày đó có thầy Giải Nguyên. Thầy
đi tu khi tuổi đã về già sau khi đã nếm đủ hương vị đắng
cay, thăng trầm, vinh nhục của cuộc đời. Thầy là một
trong những người giàu có ở Duy Xuyên bỗng dưng phát
nguyện xuất gia. Năm đó thầy đã ngoài sáu chục tuổi.
Những người già thường ít ngủ. Thầy cũng thế. Khi thấy
tôi nằm trên bệ xi-măng trước chùa, thầy cũng đến ngồi
gần. Thầy kể tôi nghe nhiều chuyện vui buồn trong đời
thầy. Nhưng dù chuyện gì cũng chỉ để dẫn đến một lời
khuyên dành cho tôi, đời là bể khổ và chỉ có đi tu là con
đường giải thoát. Tôi không phản đối lý luận của thầy
nhưng bạch với thầy tôi không muốn đi tu. Tôi chỉ là
người trọ học và một ngày không xa tôi sẽ ra đi. Tương
lai của tôi nằm phía bên kia cổng tam quan. Dường như
tôi sinh ra là để đi xa. Đi theo chọn lựa và nhiều khi
không có quyền chọn lựa.
Giống như bà cụ đã quên mình vừa trải qua một kinh
nghiệm sống chết mà chỉ còn nhớ đến những kỷ niệm
đẹp, tôi cũng thường nghĩ đến những hạnh phúc nhiều
hơn là gian khổ khi nhìn lại quá khứ. Tôi nghĩ đến những
người tôi đã mang ơn. Nhiều lắm. Từ những đứa bạn
nhỏ chắt chiu những đồng tiền lẻ của cha mẹ cho để
chia sẻ với tôi cho đến Mẹ Hòa Hưng, người đã nuôi tôi
chín năm thử thách nhất của đời mình.
Thời gian ở Viên Giác là một ví dụ. Đó là thời gian
cực kỳ cô đơn về tinh thần và khắc khổ về vật chất. Mà
thật vậy. Chùa rất nghèo. Không có ruộng đất như các
chùa ở ngoại ô như Long Tuyền, Phước Lâm, Chúc
Thánh. Nếu các bác có đi chợ cũng chỉ để mua sắm chút
nấm, chút mì căn cho thầy, phần lớn chúng tôi ngày hai
bữa sống nhờ vào thửa rau lang trồng trước sân chùa và
những hũ chao do các bác bên Cẩm Nam mỗi tháng hai
kỳ sang làm giúp. Các thầy, các chú lớn tuổi đi đám ma
chay còn được cúng dường tiền bạc để chi dùng riêng
tư, không ai cúng dường cho đứa bé như tôi. Đời tư của
tôi không ai biết. Thầy chỉ hỏi một câu khi tôi đến và sau
đó không hỏi nữa. Họa hoằn lắm mới có một người bà
con từ trên quê xuống đi chùa, tình cờ nhận ra, vuốt tóc
tôi vài cái, nói đôi lời an ủi rồi ra đi. Cô tôi biết nhưng
chưa bao giờ có phương tiện để vào thăm tôi. Ngoài các
nhân vật, các câu chuyện, các tình tiết trong những cuốn
sách của thầy để trên lầu, tôi không có ai để tâm sự. Tôi
cũng không buồn xen vào chuyện người khác dù có
những chuyện tôi không đồng ý. Trong những phiên họp
đại chúng, các thầy, các chú lớn tranh luận nhiều vấn đề
nhưng tôi chỉ ngồi nghe mặc dù về nhận thức tôi đã lớn
hơn nhiều trong số họ. Tôi chỉ là khách trọ, đến không ai
hay và đi không ai tiễn. Ngoại trừ những chiếc lá rụng
như một điệu nhạc buồn trong một ngày đầu thu, gần
năm năm sau, tôi “một mình làm cả cuộc phân ly”.
Nhưng những cực khổ đó đã trở thành phân bón cho
những bông hoa tình người trong khu vườn mùa xuân
của đời tôi nở rộ, để hôm nay khi nghĩ đến Viên Giác, tôi
cảm thấy thật êm đềm. Tiếng chuông chùa, lời kinh
khuya đã nhẹ nhàng đi vào tuổi thơ tôi, đã chuyển hóa
tâm hồn chất đầy oan nghiệt của tôi mà nhiều khi tôi
không biết. Những người có cuộc đời nhiều chịu đựng
thường phải biết vượt qua, đôi khi bằng cố gắng và đôi
khi chỉ bằng cách ngẩng đầu lên mà đi, khinh thường
những chướng ngại. Tôi có cả hai. Bây giờ khi nóng tính,
khi quá hăng say về một chuyện gì, dù đúng hay sai tôi
cũng biết dừng lại và biết lắng nghe, không khinh
thường sự việc như ngày còn trẻ. Không có những ngày
ở Viên Giác, khu vườn đời tôi sẽ buồn bã, khô khan, điêu
tàn và trống vắng biết bao nhiêu.
Câu nói của bà cụ từ chuyến bay Houston, từ đó, có
thể viết ngắn hơn, tình thương và tình người mới thật sự
là mùa xuân vĩnh cửu của con người.
![[Image: Screenshot-2024-02-06-2-30-14-PM.png]](https://i.postimg.cc/T3Y6m2Dq/Screenshot-2024-02-06-2-30-14-PM.png)
TÌNH NGƯỜI NHƯ MÙA XUÂN
Trần Trung Đạo
Tôi đến Houston nhiều lần. Giới thiệu sách. Đọc thơ.
Tâm tình với các bạn trẻ. Và lần sau cùng, năm năm
trước, cũng để giới thiệu sách và đọc thơ. Thời gian như
bóng mây ngoài khung cửa phi cơ mỗi lúc một xa nhưng
Houston vẫn là thành phố tôi đã mang theo và cũng để
lại nhiều kỷ niệm. Đồng hương và bạn bè tôi ở đó đông
đến nỗi trang giấy này không viết hết tên của họ. Ở
Houston, tôi có những người bạn của thời kỳ Internet
vừa mới hình thành trong cộng đồng người Việt vào
khoảng 1987 và cũng có những độc giả thật là thân dù
chưa hề biết mặt.
Một lần tôi từ Houston về lại Boston trong cơn bão
tuyết. Tuyết rơi lớn đến độ phi đạo không an toàn để phi
cơ hạ cánh. Phi cơ bay thấp. Tôi có thể nghe tiếng tuyết
đập vào thân máy bay xào xạc như có thể làm chiếc hộp
kim loại mong manh kia vỡ nát bất cứ lúc nào. Phi cơ
vần vũ trên không phận Boston cho đến khi gần hết
xăng phải bay ngược lại phi trường Providence, cách
Boston 45 dặm. Tuyết ở Providence cũng rất dày tuy
không bằng Boston. Trạm kiểm soát không lưu không có
chọn lựa nào khác nên phải cho phi cơ hạ xuống trong
tình trạng vô cùng nguy hiểm. Tiếng cọ xát của đôi cánh
máy bay cắt xuyên qua lớp tuyết dày như tiếng lụa xé.
Tôi đoán thầm, tất cả hành khách chắc đang thề thốt sẽ
không bao giờ đi máy bay lần nào nữa. Sau khi hạ xuống
xong, phi cơ đậu ngay cuối phi đạo vì không đủ sức để
lăn vào cửa. Hành khách phải bước xuống và lội lên 20
phân tây tuyết để vào hành lang phi trường.
Nhưng đó cũng là lúc cành hoa tình người nở rộ. Các
bạn trẻ dìu các cụ già, những người còn khỏe giúp bế
các em nhỏ, tay xách, vai mang vào bên trong phi
trường. Đoạn đường ngắn nhưng gần cả giờ mới vượt
qua được. Chúng tôi chen chúc nhau trong hành lang
chật hẹp của một phòng chờ. Ngày đó cell phone còn rất
hiếm. Trong hơn trăm người chỉ có vài chiếc. Tôi có một
cái Nextel nặng nề do hãng cấp nhưng dây điện thì lại
gởi theo hành lý. Tôi chia cho những người chung quanh
để họ gọi về nhà. Mỗi người chỉ được phép nói một câu.
Sang ngày sau, chúng tôi cùng lên chiếc xe bus của
hãng máy bay cung cấp để về Boston. Những người trẻ
đều phải đứng, chỗ ngồi dành cho các cụ già, phụ nữ và
các cháu nhỏ. Đoạn đường 45 dặm là đoạn đường gian
khổ. Khi xe chạy vài trăm thước chúng tôi phải xuống
đào tuyết bằng tất cả những gì mình có. Lại chia nhau
từng khúc bánh mì, từng ly nước ngọt, những lời an ủi,
khuyến khích. Không ai thở than, trách móc. Tất cả đều
sống như một gia đình trong cơn hoạn nạn.
Đến chiều tối chúng tôi mới về đến Boston. Khi chia
tay nhau ở hành lang phi trường Logan, bà cụ ngồi gần
chỗ tôi đứng trên xe, chợt nói lớn như để mọi người
cùng nghe: “Cuộc đời thật là kỳ lạ, những người sống với
nhau một ngày trọn vẹn, gần gũi, đáng nhớ như thế này
mà suốt đời còn lại có thể sẽ không bao giờ gặp nhau
lần nữa”.
Nhiều người trước đây cũng đã nói những câu tương
tự như cụ. Nhưng khác với các triết gia chứng nghiệm lý
lẽ của kiếp nhân sinh bằng sự suy niệm, câu nói của bà
cụ là kết luận sau một ngày thật trọn vẹn vui buồn
chúng tôi đã sống với nhau. Câu nói của cụ nhắc nhở về
đặc tính mong manh của kiếp người nhưng đồng thời từ
trong cái mong manh, lo âu, sợ hãi đó, giá trị đích thực
của tình người được thể hiện. Sống chết là định luật hiển
nhiên nhưng không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận.
Nhiều người sống tưởng như mình sẽ không bao giờ
chết.
Với tôi, câu nói của cụ như được trích ra từ số phận
gắn liền với cuộc đời mình. Biết bao khoảnh khắc quý giá
trong đời tôi đã sống qua và có thể sẽ không bao giờ
được sống qua lần nữa. Nhiều khi ngồi một mình hình
dung lại những kỷ niệm. Từ tuổi thơ cho đến lúc trưởng
thành. Những chuyến xe. Những sân ga. Dòng sông Thu
Bồn. Mặt hồ trong buổi chiều cuối thu. Ly cà-phê đen.
Bài hát cũ. Tất cả vẫn còn đó nhưng đã rất xa xôi. Còn
lại quanh đây là những câu hỏi tại sao nhưng không có
câu trả lời.
Tôi đi qua cuộc đời này như chiếc lá.
Nhà văn Lương Thư Trung, hiện đang cư ngụ tại
Houston, khi còn ở Boston, có lần thắc mắc tại sao tôi
thường viết về những chiếc lá. Một ngày rảnh rỗi anh
ngồi đọc tập “Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười”, sau đó
viết một tùy bút Người tiều phu và những chiếc lá vàng
với những câu rất đẹp: “Đất trời rồi sẽ chuyển sang mùa
theo sự vận hành của vũ trụ. Những chiếc lá vàng rồi sẽ
rơi rụng, bay đi, bỏ lại bên trời những cành, những
nhánh khẳng khiu, buồn thảm đến ngậm ngùi… Trong
dòng đời, với biết bao lần ngụp lặn, chìm đắm trong bể
khổ trầm luân, giông tố, bão bùng… Rồi bức tranh vân
cẩu cũng phải tan đi, để trả lại trần gian này một chút
nắng ấm mặt trời, để trả lại cho con người một cõi an
nhiên, thanh tịnh. Cao đẹp biết bao khi có những con
người hy sinh đời mình tự nguyện làm một người tiều
phu với tấm lòng từ bi đi khắp bốn phương tám hướng
gom góp từ nhánh củi, cọng rơm, ngọn cỏ đến những
chiếc lá vàng khô để đốt lửa soi đường, sưởi ấm nhân
sinh! Hạnh phúc thay được làm một nhà thơ! Hạnh phúc
thay được làm một người tiều phu với tấm lòng từ bi đi
góp nhặt những chiếc lá vàng!
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Anh gởi tôi đọc. Chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên
mình dùng chữ lá nhiều đến thế. Có lẽ vì lá gần gũi tôi
trong một khoảng đời niên thiếu khá dài.
Ðừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ
Ðau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Hay
Ai về qua phố Hội An
Mua giùm tôi tấm lụa vàng Duy Xuyên
Tôi đi quét lá trăm miền
Mẹ ngồi dệt sợi ưu phiền quanh năm
Hay
Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi
Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới
Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn
Hay
Một chiếc lá vừa rơi trên nấm mộ
Thu đã về rồi đó phải không em
Anh chợt thấy bàng hoàng trong tuổi dại
Một tình thương tha thiết sẽ không quên
Hay
Em đừng hỏi ta mong về quê cũ
Chiếc lá khô còn nhớ cội thương cành
Ta chẳng lẽ bước chân đời lê mãi
Nơi quê người làm một kẻ lưu dân
Hay
Cho tôi nhặt chiếc lá vàng trước ngõ
Viết bài thơ tha thiết hiến dâng đời
Chút chân tình trang trải với muôn nơi
Rất nhỏ bé nhưng vô cùng sâu rộng
Hay
Mỗi chiếc lá như chừng nghe hơi thở
Mỗi cành cây như có một linh hồn
Ta sẽ về sống lại một lần thôi
Em sẽ khóc như chưa hề được khóc
Hay
Ai mang em trên đường đi vượt biển
Chẳng kịp về thăm góc phố năm xưa
Em bỏ đi như lá bỏ quên mùa
Như giọt nước quên tấm lòng biển cả.
Và nhiều nữa.
Ngày xưa khi trọ học ở Viên Giác, tôi nhỏ nhất trong
chùa nên được giao công việc quét lá. Anh Hùng gánh
nước, anh Sáu tưới rau, chú Ngô đi chợ, còn tôi không
làm được những chuyện đó nên chỉ lo làm sạch sân
chùa. Không ai có phòng ngủ riêng. Năm đầu tôi ở
chung phòng với chú Điển, bây giờ là Hòa Thượng Thích
Như Điển. Mấy năm sau tôi dọn sang ở với các điệu cùng
lứa tuổi trong căn phòng sát dưới gốc đa. Các điệu rất
vô tư. Nằm xuống là ngủ ngay. Đúng giờ thức dậy đi
tụng kinh khuya. Tụng kinh xong lại đi ngủ tiếp. Các điệu
hoạt động tự nhiên như những chiếc máy. Ít cười và ít
nói. Tôi cũng cùng tuổi nhưng không như các điệu, đêm
nào khi tới phiên mình đánh chuông xong, tôi thường
nằm bên hiên chùa nghe tiếng lá reo. Nhất là mùa thu,
tiếng lá rung như một điệu nhạc.
Ở chùa Viên Giác ngày đó có thầy Giải Nguyên. Thầy
đi tu khi tuổi đã về già sau khi đã nếm đủ hương vị đắng
cay, thăng trầm, vinh nhục của cuộc đời. Thầy là một
trong những người giàu có ở Duy Xuyên bỗng dưng phát
nguyện xuất gia. Năm đó thầy đã ngoài sáu chục tuổi.
Những người già thường ít ngủ. Thầy cũng thế. Khi thấy
tôi nằm trên bệ xi-măng trước chùa, thầy cũng đến ngồi
gần. Thầy kể tôi nghe nhiều chuyện vui buồn trong đời
thầy. Nhưng dù chuyện gì cũng chỉ để dẫn đến một lời
khuyên dành cho tôi, đời là bể khổ và chỉ có đi tu là con
đường giải thoát. Tôi không phản đối lý luận của thầy
nhưng bạch với thầy tôi không muốn đi tu. Tôi chỉ là
người trọ học và một ngày không xa tôi sẽ ra đi. Tương
lai của tôi nằm phía bên kia cổng tam quan. Dường như
tôi sinh ra là để đi xa. Đi theo chọn lựa và nhiều khi
không có quyền chọn lựa.
Giống như bà cụ đã quên mình vừa trải qua một kinh
nghiệm sống chết mà chỉ còn nhớ đến những kỷ niệm
đẹp, tôi cũng thường nghĩ đến những hạnh phúc nhiều
hơn là gian khổ khi nhìn lại quá khứ. Tôi nghĩ đến những
người tôi đã mang ơn. Nhiều lắm. Từ những đứa bạn
nhỏ chắt chiu những đồng tiền lẻ của cha mẹ cho để
chia sẻ với tôi cho đến Mẹ Hòa Hưng, người đã nuôi tôi
chín năm thử thách nhất của đời mình.
Thời gian ở Viên Giác là một ví dụ. Đó là thời gian
cực kỳ cô đơn về tinh thần và khắc khổ về vật chất. Mà
thật vậy. Chùa rất nghèo. Không có ruộng đất như các
chùa ở ngoại ô như Long Tuyền, Phước Lâm, Chúc
Thánh. Nếu các bác có đi chợ cũng chỉ để mua sắm chút
nấm, chút mì căn cho thầy, phần lớn chúng tôi ngày hai
bữa sống nhờ vào thửa rau lang trồng trước sân chùa và
những hũ chao do các bác bên Cẩm Nam mỗi tháng hai
kỳ sang làm giúp. Các thầy, các chú lớn tuổi đi đám ma
chay còn được cúng dường tiền bạc để chi dùng riêng
tư, không ai cúng dường cho đứa bé như tôi. Đời tư của
tôi không ai biết. Thầy chỉ hỏi một câu khi tôi đến và sau
đó không hỏi nữa. Họa hoằn lắm mới có một người bà
con từ trên quê xuống đi chùa, tình cờ nhận ra, vuốt tóc
tôi vài cái, nói đôi lời an ủi rồi ra đi. Cô tôi biết nhưng
chưa bao giờ có phương tiện để vào thăm tôi. Ngoài các
nhân vật, các câu chuyện, các tình tiết trong những cuốn
sách của thầy để trên lầu, tôi không có ai để tâm sự. Tôi
cũng không buồn xen vào chuyện người khác dù có
những chuyện tôi không đồng ý. Trong những phiên họp
đại chúng, các thầy, các chú lớn tranh luận nhiều vấn đề
nhưng tôi chỉ ngồi nghe mặc dù về nhận thức tôi đã lớn
hơn nhiều trong số họ. Tôi chỉ là khách trọ, đến không ai
hay và đi không ai tiễn. Ngoại trừ những chiếc lá rụng
như một điệu nhạc buồn trong một ngày đầu thu, gần
năm năm sau, tôi “một mình làm cả cuộc phân ly”.
Nhưng những cực khổ đó đã trở thành phân bón cho
những bông hoa tình người trong khu vườn mùa xuân
của đời tôi nở rộ, để hôm nay khi nghĩ đến Viên Giác, tôi
cảm thấy thật êm đềm. Tiếng chuông chùa, lời kinh
khuya đã nhẹ nhàng đi vào tuổi thơ tôi, đã chuyển hóa
tâm hồn chất đầy oan nghiệt của tôi mà nhiều khi tôi
không biết. Những người có cuộc đời nhiều chịu đựng
thường phải biết vượt qua, đôi khi bằng cố gắng và đôi
khi chỉ bằng cách ngẩng đầu lên mà đi, khinh thường
những chướng ngại. Tôi có cả hai. Bây giờ khi nóng tính,
khi quá hăng say về một chuyện gì, dù đúng hay sai tôi
cũng biết dừng lại và biết lắng nghe, không khinh
thường sự việc như ngày còn trẻ. Không có những ngày
ở Viên Giác, khu vườn đời tôi sẽ buồn bã, khô khan, điêu
tàn và trống vắng biết bao nhiêu.
Câu nói của bà cụ từ chuyến bay Houston, từ đó, có
thể viết ngắn hơn, tình thương và tình người mới thật sự
là mùa xuân vĩnh cửu của con người.