TỰ TRI
Self-Knowledge
J. Krishnamurti
Như tôi đã nói nhiều lần, chúng ta đang tìm hiểu tiến trình tri kiến bản thân, một tiến trình hỗ tương, chứ không phải là một tiến trình đơn độc cô lập. Tiến trình tự tri, tự kiến , tự hiểu mình không phải bắt đầu từ việc chối bỏ thế gian, từ bỏ cuộc đời để rút lui về ẩn náu trong sự cô lập nào đó ; không, không phải thế, vì các ngài không thể nào sống trong sự cô lập ấy. Hiện tính là tương quan; không có gì là một cuộc hiện sinh cô lập. Chính vì đánh mất tương giao chính đáng cho nên mới xảy ra những sự xung đột va chạm, nạn khốn cùng kiệt quệ và sự tranh chấp đấu tố; dù thế giới của chúng ta có nhỏ bé thế nào đi nữa tương giao của chúng ta trong thế giới nhỏ hẹp ấy thì việc ấy không khác gì một ngọn sóng dâng tràn tiếp nối rộng lớn ra bên ngoài mãi mãi không bao giờ dứt. Hiểu được như vậy, tôi nghĩ rằng đó mới là điều quan trọng, chúng ta phải hiểu rằng thế giới là mối tương giao của chúng ta, dù là tương giao nhỏ hẹp đi nữa, đó cũng vẫn là tương giao; mà nếu chúng ta có thể mang đến sự chuyển hóa trong sự tương giao ấy, một sự hóa thân biến chuyển toàn triệt, chứ không phải hời hợt, nếu chúng ta có thể làm được như thế thì chúng ta đã bắt đầu tích cực chuyển hóa cả thế giới. Cuộc cách mạng thực sự không thể nào được thiết lập trên bất cứ một mẫu mực đặc biệt nào, dù là mẫu mực hữu phái hoặc tả phái. Cuộc cách mạng thực sự phải là cuộc cách mạng của những giá trị , thay đổi toàn triệt những giá trị cảm thức thành ra những giá trị thực sự, những giá trị không xuất phát từ cảm quan hay không bị qui định, tạo tác do những ảnh hưởng hoàn cảnh chung quanh. Muốn tìm ra những giá trị thực sự để đem đến một cuộc cách mạng toàn triệt, một sự chuyển hóa triệt để hoặc một sự hồi sinh trọn vẹn, con người phải cần tự hiểu mình. Tự tri là bước đầu của đạo lý và đó mới là bước đầu của sự chuyển hóa hoặc phục sinh. Muốn tự hiểu mình, chúng ta cần phải có ý định chủ hướng là muốn hiểu – đó là sự khó khăn đầu tiên. Mặc dù hầu hết chúng ta đều bất mãn, hầu hết chúng ta đều muốn chuyển biến, chuyển hóa lập tức, nhưng sự bất mãn của chúng ta chỉ đưa đến việc tìm tới một kết quả nào đó ; vì bất mãn, chúng ta đã đi tìm một việc làm khác hay chỉ thụ động ngã quỵ với hoàn cảnh. Sự bất mãn, thay vì thổi lửa trong lòng ta, xui khiến ta đánh dấu hỏi trước đời sống, tra vấn trọn vẹn tiến trình của đời sống, thay vì thế, bất mãn đã uốn nắn qui tụ lại trong hướng đi khuôn khổ cạn hẹp; do đó, chúng ta trở thành tầm thường hời hợt, đánh mất nguyên động lực, đánh mất lửa tâm tư, sự mãnh liệt nội tâm để khám phá ý nghĩa trọn vẹn của đời sống con người. Vì lý do ấy, điều quan trọng nhất đối với chúng ta là phải khám phá ra mọi sự bằng chính bản thân chúng ta, bởi vì sự tự tri, tự giác, không thể nào thành tựu được qua trung gian của một người khác, chúng ta không thể tìm được tự tri trong bất cứ một quyển sách nào. Chúng ta phải khám phá, mà muốn khám phá thì phải có ý định khám phá, tìm kiếm, khảo sát. Khi nào mà ý định chủ hướng muốn khám phá, tìm hiểu, khảo sát sâu xa hãy còn quá yếu ớt hoặc không xuất hiện trong tâm trí mình thì việc tìm hiểu mình chẳng có ý nghĩa gì cả, vì chúng ta chỉ nói suông hoặc chỉ có ý muốn nhất thời thôi.
Thế thì mọi sự chuyển hóa thế giới chỉ có thể thực hiện được bằng sự chuyển hóa bản thân, chuyển hóa ngay nơi tâm tư của mình, vì bản ngã là sản phẩm và là thành phần của toàn thể tiến trình của đời sống con người. Muốn tự chuyển hóa , chúng ta phải cần tự hiểu mình; không tự hiểu mình, không hiểu được bản chất mình thì tư duy chính xác đã mất nền tảng; không tự hiểu mình thì sự chuyển hóa tâm thức không thể nào thể hiện được : mình phải hiểu mình là gì, không phải hiểu như muốn mình phải là gì, vì nếu muốn như thế thì chỉ là một lý tưởng, nghĩa là huyền ảo không thực; chỉ có những gì là hiện thể, đang là thì mới có thể chuyển hóa được, chứ không phải những gì mình muốn nó biến thể theo ý muốn của mình. Muốn hiểu rõ mình là thế nào, đúng theo bản chất thông thường trung trực của mình thì phải cần có một trí óc linh hoạt nhanh nhẹn, sống động phi thường, bởi vì những gì đang là hiện thể thì thường xuyên biến dạng hóa thân từng giây phút, luôn luôn thay đổi, mà muốn rõi theo sự thay đổi linh động ấy một cách nhanh nhẹn, nhất định tâm trí mình không bị ràng buộc theo một tín điều hay một tín ngưỡng đặc biệt nào, trong bất cứ khuôn mẫu hành động đặc thù nào. Nếu các ngài muốn theo bất cứ sự vật gì mà phải bị vướng buộc triền phược thì không thể nào thành tựu được. Muốn hiểu thực chất, thực tính của mình, chúng ta phải ý thức, trí óc phải được tự do, trí óc phải nhanh nhẹn, thức thời linh động, chỉ có trí óc như vậy mới được tự do, không bị ràng buộc trong tất cả tín ngưỡng, trong tất cả hệ trình ý niệm, bởi vì những tín ngưỡng và những lý tưởng chỉ cho các ngài một sắc thái nào đó và làm phân tán bại hoại trực kiến chân chính. Nếu các ngài muốn biết bản chất trung trực của các ngài, các ngài không thể nào tưởng tượng hình dung hay đặt tín ngưỡng vào một sự thể nào đó mà không phải là bản thể của các ngài. Nếu tôi tham lam, đố kỵ, tàn nhẫn bạo động, phũ phàng mà lại chỉ muốn vươn tới lý tưởng bất bạo động, ly dục : việc vươn tới lý tưởng ấy chẳng có một mảy may giá trị nào cả. Nhưng hiểu biết rằng mình là kẻ tham lam, đố kỵ, hoặc bạo động, muốn biết và hiểu như vậy đòi hỏi chúng ta phải có một sự trực nhận bén nhạy, phải thế không ? Đòi hỏi chúng ta phải thành thực, chính trực, sáng sủa minh bạch trong tư tưởng, trái lại việc chạy đuổi theo một lý tưởng nào đó để trốn sự thực thì chỉ là một việc thoát ly thực tại, chạy trốn thực tại, việc ấy ngăn chận các ngài và không để các ngài khám phá và hành động trực tiếp để chuyển hóa bản chất các ngài.
Hiểu bản chất của mình, dù bản chất ấy là gì đi nữa, dù xấu hay đẹp, dù hung bạo hay tàn nhẫn, hiểu bản chất mình một cách ngay thẳng là sự bắt đầu của nhân đức. Nhân đức rất cần thiết cho chúng ta vì nó mang đến tự do. Chỉ trong nhân đức các ngài mới có thể khám phá rằng các ngài đang sống, chứ không phải trong việc tôi luyện một đức hạnh nào đó, việc tôi luyện ấy chỉ tạo ra sự kính trọng, chứ không tạo ra giao cảm và tự do. Một người có nhân đức khác hẳn một người muốn trở nên nhân đức. Nhân đức chỉ xuất hiện khi chúng ta hiểu cái đang là , hiện thể, thực thể, trái lại muốn trở thành nhân đức chỉ là triển hạn trì hoãn che đậy khuất lấp cái đang là hiện thể, thực thể mà mình muốn nó chuyển hóa theo lòng tham dục của mình. Vì thế khi muốn trở thành kẻ nhân đức, các ngài đã tránh hành động trực tiếp để chuyển hóa thực tại, hiện thể, cái đang là . Tiến trình trốn lánh thực tại , trốn lánh cái đang là qua sự khuôn đúc tôi luyện lý tưởng thì được mọi người coi như là nhân đức; nhưng khi các ngài khảo sát một cách kỹ lưỡng hơn, một cách trực tiếp hơn, các ngài sẽ thấy rằng đó chẳng phải nhân đức gì cả. Đó chỉ là sự triển hạn lần lữa không chịu đối mặt với hiện thể, chạm mặt với cái đang là. Nhân đức không phải là trở thành cái không là bây giờ, trở thành một cái gì nghịch lại hiện thể, bản chất trung thực của mình ; nhân đức là hiểu cái đang là, lãnh hội thực tại, viên thông với thực thể, và nhờ đó được tự do giải thoát, không còn bị ràng buộc trong hiện tại, trói buộc trong hiện thể. Nhân đức rất cần thiết chính yếu cho một xã hội đang bị tàn rữa nhanh chóng. Muốn tạo ra một thế giới mới, một cơ cấu mới khác hẳn với nề nếp cũ, chúng ta phải có tự do thoải mái để khai phá, khám phá; và muốn được tự do thì phải có nhân đức, vì không có nhân đức thì không thể nào có tự do được. Có thể nào một người thất đức muốn trở thành nhân đức mà biết được nhân đức ? Người thất đức thì không thể nào được tự do, và không thể nào hắn có thể khám phá ra thực tại. Thực tại chỉ có thể tìm thấy trong việc lĩnh hội, tiếp nhận, giao cảm, hiểu được cái đang là; muốn hiểu được cái đang là thì phải có tự do, tự do và thoát khỏi nỗi niềm sợ hãi thực tại, sợ hãi cái đang là, sợ hãi những gì đang xảy ra trong hiện tại.
...
Self-Knowledge
J. Krishnamurti
Những vấn đề của thế giới quá to tát rộng lớn, quá phức tạp khó khăn, mà muốn hiểu và giải quyết những vấn đề ấy, người ta cần phải đi đến những vấn đề ấy một cách giản dị và trực tiếp; và sự giản dị, sự trực tiếp không phải tùy thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài, cũng không phải tùy thuộc vào những thành kiến và trạng huống đặc biệt nào đó. Như tôi đã trình bày, không thể tìm sự giải quyết vấn đề trong những hội nghị, những chương trình kế hoạch hay trong sự truất phế những người lãnh đạo cũ để thay bằng những vị lãnh đạo mới, vân vân. Nhất định sự giải quyết vấn đề chỉ nằm trong chính người tạo ra vấn đề, người tạo ra dối trá ác tâm, hận thù và ngô nhận to tát giữa những con người. Người khai sinh ra điều gian manh, khai sinh ra những vấn đề chính là cá thể, chính các ngài và tôi, chứ không phải thế gian, như chúng ta thường tưởng thế. Thế gian, thế giới này là sự giao tương giữa người này với người khác. Thế gian không phải là một thực thể ly cách các ngài và tôi; thế gian, xã hội chính là liên giao mà chúng ta đã thiết lập hay tìm cách thiết lập để cảm thông nhau.
Thế thì các ngài và tôi là vấn đề, chứ không phải thế giới, không có vấn đề thế giới tách biệt ra ngoài chúng ta, mà thế giới chỉ là sự phóng rọi ra bên ngoài những gì thầm kín bên trong tâm hồn chúng ta; do đó, muốn tìm hiểu thế giới, chúng ta phải tìm chính chúng ta. Thế giới không phải tách lìa xa lạ với chúng ta; chúng ta chính là thế giới, và những vấn đề của chúng ta chính là những vấn đề của thế giới. Có nên lặp lại rằng chúng ta quá biếng nhác trong tâm tưởng, biếng nhác đến nỗi chúng ta nghĩ rằng những vấn đề thế giới không phải là việc của chúng ta và cho rằng chỉ Liên Hiệp Quốc mới lo việc giải quyết những vấn đề ấy. Hoặc những vấn đề ấy chỉ có thể giải quyết như thay đổi những vị lãnh tụ cũ bằng những lãnh tụ mới. Chỉ có những đầu óc khờ dại nông cạn mới nghĩ như vậy, vì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm về thảm trạng đau đớn hãi hùng hiện nay, phải chịu trách nhiệm về sự hỗn loạn hiện tại ở thế giới, trận thế chiến luôn luôn đe dọa sắp nổ. Muốn chuyển hóa thế giới, chúng ta phải bắt đầu chuyển hóa bản thể chúng ta; khi bắt đầu chuyển hóa mình, điều quan trọng là ý định chủ hướng, ý định chủ hướng phải là tự tri, tự giác, tự hiểu biết mình và không để người khác tự chuyển hóa họ hoặc mang đến một sự đổi thay cải cách bằng cách mệnh theo tả phái hoặc hữu phái. Một điều quan trọng là hiểu rằng đó chính là trách nhiệm của chúng ta, trách nhiệm của các ngài và trách nhiệm của tôi. Bởi vì dù thế giới ta đang sống có nhỏ bé đến đâu đi nữa, mà nếu chúng ta có thể tự chuyển hóa mình, tự tạo tác ra một quan điểm khác biệt triệt để trong đời sống thường nhật thì lúc ấy chúng ta sẽ ảnh hưởng điều phục cả thế giới lớn rộng, toàn thể thế giới này, trọn vẹn tương giao mở rộng với những người khác.
Như tôi đã nói nhiều lần, chúng ta đang tìm hiểu tiến trình tri kiến bản thân, một tiến trình hỗ tương, chứ không phải là một tiến trình đơn độc cô lập. Tiến trình tự tri, tự kiến , tự hiểu mình không phải bắt đầu từ việc chối bỏ thế gian, từ bỏ cuộc đời để rút lui về ẩn náu trong sự cô lập nào đó ; không, không phải thế, vì các ngài không thể nào sống trong sự cô lập ấy. Hiện tính là tương quan; không có gì là một cuộc hiện sinh cô lập. Chính vì đánh mất tương giao chính đáng cho nên mới xảy ra những sự xung đột va chạm, nạn khốn cùng kiệt quệ và sự tranh chấp đấu tố; dù thế giới của chúng ta có nhỏ bé thế nào đi nữa tương giao của chúng ta trong thế giới nhỏ hẹp ấy thì việc ấy không khác gì một ngọn sóng dâng tràn tiếp nối rộng lớn ra bên ngoài mãi mãi không bao giờ dứt. Hiểu được như vậy, tôi nghĩ rằng đó mới là điều quan trọng, chúng ta phải hiểu rằng thế giới là mối tương giao của chúng ta, dù là tương giao nhỏ hẹp đi nữa, đó cũng vẫn là tương giao; mà nếu chúng ta có thể mang đến sự chuyển hóa trong sự tương giao ấy, một sự hóa thân biến chuyển toàn triệt, chứ không phải hời hợt, nếu chúng ta có thể làm được như thế thì chúng ta đã bắt đầu tích cực chuyển hóa cả thế giới. Cuộc cách mạng thực sự không thể nào được thiết lập trên bất cứ một mẫu mực đặc biệt nào, dù là mẫu mực hữu phái hoặc tả phái. Cuộc cách mạng thực sự phải là cuộc cách mạng của những giá trị , thay đổi toàn triệt những giá trị cảm thức thành ra những giá trị thực sự, những giá trị không xuất phát từ cảm quan hay không bị qui định, tạo tác do những ảnh hưởng hoàn cảnh chung quanh. Muốn tìm ra những giá trị thực sự để đem đến một cuộc cách mạng toàn triệt, một sự chuyển hóa triệt để hoặc một sự hồi sinh trọn vẹn, con người phải cần tự hiểu mình. Tự tri là bước đầu của đạo lý và đó mới là bước đầu của sự chuyển hóa hoặc phục sinh. Muốn tự hiểu mình, chúng ta cần phải có ý định chủ hướng là muốn hiểu – đó là sự khó khăn đầu tiên. Mặc dù hầu hết chúng ta đều bất mãn, hầu hết chúng ta đều muốn chuyển biến, chuyển hóa lập tức, nhưng sự bất mãn của chúng ta chỉ đưa đến việc tìm tới một kết quả nào đó ; vì bất mãn, chúng ta đã đi tìm một việc làm khác hay chỉ thụ động ngã quỵ với hoàn cảnh. Sự bất mãn, thay vì thổi lửa trong lòng ta, xui khiến ta đánh dấu hỏi trước đời sống, tra vấn trọn vẹn tiến trình của đời sống, thay vì thế, bất mãn đã uốn nắn qui tụ lại trong hướng đi khuôn khổ cạn hẹp; do đó, chúng ta trở thành tầm thường hời hợt, đánh mất nguyên động lực, đánh mất lửa tâm tư, sự mãnh liệt nội tâm để khám phá ý nghĩa trọn vẹn của đời sống con người. Vì lý do ấy, điều quan trọng nhất đối với chúng ta là phải khám phá ra mọi sự bằng chính bản thân chúng ta, bởi vì sự tự tri, tự giác, không thể nào thành tựu được qua trung gian của một người khác, chúng ta không thể tìm được tự tri trong bất cứ một quyển sách nào. Chúng ta phải khám phá, mà muốn khám phá thì phải có ý định khám phá, tìm kiếm, khảo sát. Khi nào mà ý định chủ hướng muốn khám phá, tìm hiểu, khảo sát sâu xa hãy còn quá yếu ớt hoặc không xuất hiện trong tâm trí mình thì việc tìm hiểu mình chẳng có ý nghĩa gì cả, vì chúng ta chỉ nói suông hoặc chỉ có ý muốn nhất thời thôi.
Thế thì mọi sự chuyển hóa thế giới chỉ có thể thực hiện được bằng sự chuyển hóa bản thân, chuyển hóa ngay nơi tâm tư của mình, vì bản ngã là sản phẩm và là thành phần của toàn thể tiến trình của đời sống con người. Muốn tự chuyển hóa , chúng ta phải cần tự hiểu mình; không tự hiểu mình, không hiểu được bản chất mình thì tư duy chính xác đã mất nền tảng; không tự hiểu mình thì sự chuyển hóa tâm thức không thể nào thể hiện được : mình phải hiểu mình là gì, không phải hiểu như muốn mình phải là gì, vì nếu muốn như thế thì chỉ là một lý tưởng, nghĩa là huyền ảo không thực; chỉ có những gì là hiện thể, đang là thì mới có thể chuyển hóa được, chứ không phải những gì mình muốn nó biến thể theo ý muốn của mình. Muốn hiểu rõ mình là thế nào, đúng theo bản chất thông thường trung trực của mình thì phải cần có một trí óc linh hoạt nhanh nhẹn, sống động phi thường, bởi vì những gì đang là hiện thể thì thường xuyên biến dạng hóa thân từng giây phút, luôn luôn thay đổi, mà muốn rõi theo sự thay đổi linh động ấy một cách nhanh nhẹn, nhất định tâm trí mình không bị ràng buộc theo một tín điều hay một tín ngưỡng đặc biệt nào, trong bất cứ khuôn mẫu hành động đặc thù nào. Nếu các ngài muốn theo bất cứ sự vật gì mà phải bị vướng buộc triền phược thì không thể nào thành tựu được. Muốn hiểu thực chất, thực tính của mình, chúng ta phải ý thức, trí óc phải được tự do, trí óc phải nhanh nhẹn, thức thời linh động, chỉ có trí óc như vậy mới được tự do, không bị ràng buộc trong tất cả tín ngưỡng, trong tất cả hệ trình ý niệm, bởi vì những tín ngưỡng và những lý tưởng chỉ cho các ngài một sắc thái nào đó và làm phân tán bại hoại trực kiến chân chính. Nếu các ngài muốn biết bản chất trung trực của các ngài, các ngài không thể nào tưởng tượng hình dung hay đặt tín ngưỡng vào một sự thể nào đó mà không phải là bản thể của các ngài. Nếu tôi tham lam, đố kỵ, tàn nhẫn bạo động, phũ phàng mà lại chỉ muốn vươn tới lý tưởng bất bạo động, ly dục : việc vươn tới lý tưởng ấy chẳng có một mảy may giá trị nào cả. Nhưng hiểu biết rằng mình là kẻ tham lam, đố kỵ, hoặc bạo động, muốn biết và hiểu như vậy đòi hỏi chúng ta phải có một sự trực nhận bén nhạy, phải thế không ? Đòi hỏi chúng ta phải thành thực, chính trực, sáng sủa minh bạch trong tư tưởng, trái lại việc chạy đuổi theo một lý tưởng nào đó để trốn sự thực thì chỉ là một việc thoát ly thực tại, chạy trốn thực tại, việc ấy ngăn chận các ngài và không để các ngài khám phá và hành động trực tiếp để chuyển hóa bản chất các ngài.
Hiểu bản chất của mình, dù bản chất ấy là gì đi nữa, dù xấu hay đẹp, dù hung bạo hay tàn nhẫn, hiểu bản chất mình một cách ngay thẳng là sự bắt đầu của nhân đức. Nhân đức rất cần thiết cho chúng ta vì nó mang đến tự do. Chỉ trong nhân đức các ngài mới có thể khám phá rằng các ngài đang sống, chứ không phải trong việc tôi luyện một đức hạnh nào đó, việc tôi luyện ấy chỉ tạo ra sự kính trọng, chứ không tạo ra giao cảm và tự do. Một người có nhân đức khác hẳn một người muốn trở nên nhân đức. Nhân đức chỉ xuất hiện khi chúng ta hiểu cái đang là , hiện thể, thực thể, trái lại muốn trở thành nhân đức chỉ là triển hạn trì hoãn che đậy khuất lấp cái đang là hiện thể, thực thể mà mình muốn nó chuyển hóa theo lòng tham dục của mình. Vì thế khi muốn trở thành kẻ nhân đức, các ngài đã tránh hành động trực tiếp để chuyển hóa thực tại, hiện thể, cái đang là . Tiến trình trốn lánh thực tại , trốn lánh cái đang là qua sự khuôn đúc tôi luyện lý tưởng thì được mọi người coi như là nhân đức; nhưng khi các ngài khảo sát một cách kỹ lưỡng hơn, một cách trực tiếp hơn, các ngài sẽ thấy rằng đó chẳng phải nhân đức gì cả. Đó chỉ là sự triển hạn lần lữa không chịu đối mặt với hiện thể, chạm mặt với cái đang là. Nhân đức không phải là trở thành cái không là bây giờ, trở thành một cái gì nghịch lại hiện thể, bản chất trung thực của mình ; nhân đức là hiểu cái đang là, lãnh hội thực tại, viên thông với thực thể, và nhờ đó được tự do giải thoát, không còn bị ràng buộc trong hiện tại, trói buộc trong hiện thể. Nhân đức rất cần thiết chính yếu cho một xã hội đang bị tàn rữa nhanh chóng. Muốn tạo ra một thế giới mới, một cơ cấu mới khác hẳn với nề nếp cũ, chúng ta phải có tự do thoải mái để khai phá, khám phá; và muốn được tự do thì phải có nhân đức, vì không có nhân đức thì không thể nào có tự do được. Có thể nào một người thất đức muốn trở thành nhân đức mà biết được nhân đức ? Người thất đức thì không thể nào được tự do, và không thể nào hắn có thể khám phá ra thực tại. Thực tại chỉ có thể tìm thấy trong việc lĩnh hội, tiếp nhận, giao cảm, hiểu được cái đang là; muốn hiểu được cái đang là thì phải có tự do, tự do và thoát khỏi nỗi niềm sợ hãi thực tại, sợ hãi cái đang là, sợ hãi những gì đang xảy ra trong hiện tại.
Muốn hiểu được tiến trình ấy, chúng ta cần phải có ý định chủ tâm, muốn hiểu, muốn biết cái đang là, theo đuổi mỗi một tư tưởng, mỗi một cảm giác và mỗi một hành động; hiểu được cái đang là thì thực sự vô cùng khó khăn, bởi vì cái đang là thì không bao giờ đứng yên một chỗ, không bao giờ tĩnh chỉ, không bao giờ tĩnh chết, cứng đọng, cái đang là thì luôn luôn di chuyển, vận hành, chuyển động thường xuyên. Cái đang là là chính các ngài, bản chất của các ngài, hiện thể của các ngài, đó là bản tính thực sự của các ngài, chứ không phải lý tưởng, hình ảnh xa vời mà các ngài muốn trở nên; nó không phải là lý tưởng bởi vì tất cả lý tưởng đều huyễn hoặc, không có thực, nhưng những gì đang xảy ra hiện nay, những gì đang là thì chính là những gì các ngài đang làm, đang nghĩ và đang cảm thấy từ giây phút này đến giây phút khác. Cái đang là là cái đang xảy ra, đang hiện thực, và muốn hiểu hiện thực thì cần phải có một trí óc sáng suốt, ý thức bốc cháy, nhanh nhẹn, tỉnh thức thường xuyên. Nhưng nếu khi chúng ta bắt đầu phê phán biến thể cái đang là, nếu chúng ta bắt đầu đổ lỗi và chống chế nó, bấy giờ chúng ta sẽ không còn hiểu được sự vận hành của nó nữa. Nếu tôi muốn thông cảm một người nào đó, tôi không thể nào phán xử kết án hắn được : tôi phải quan sát, khảo sát hắn. Tôi phải thương yêu sự thể mà tôi đang khảo sát nghiên cứu. Nếu các ngài muốn tìm hiểu thông cảm một đứa trẻ, các ngài phải thương yêu và không phán xử khiển trách nó. Các ngài phải chơi đùa với đứa trẻ ấy, ngắm nhìn những cử động, những nét độc đáo của tính nết, những lề lối cư xử của đứa bé; nhưng ngược lại, nếu các ngài chỉ xử phạt khiển trách, cưỡng chống hoặc qui trách đứa trẻ thì không thể nào nói là các ngài đã chịu tìm hiểu cảm thông đứa bé nhỏ. Cũng thế, mỗi khi muốn tìm hiểu lý giải tất cả những gì đang là, đang xảy ra, đang hiện thể, mình phải xem xét, chú ý, chú tâm, chiêm nghiệm tất cả tư tưởng , ý nghĩ, cảm giác và hành động của mình từ lúc này đến lúc khác, từng khoảnh khắc từng giây phút. Đó là hiện thực, thực thể, hiện thể. Bất cứ hành động nào khác, bất cứ lý tưởng hay bất cứ sự vận động ý thức hệ nào khác, cũng đều không phải là hiện thực, thực tế; đó chẳng qua chỉ là hoài vọng nhất thời, một ý muốn thèm khát huyễn hoặc, muốn trở nên một cái gì khác cái đang là, cái đang xảy ra, đang hiện thực.
...
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore