Mi Tiên Vấn Ðáp (Milinda Panha)
#1
Mi Tiên Vấn Ðáp
(Milinda Panha)

Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm
(Maha Thera Thita Silo)

Tỳ kheo Giới Ðức hiệu đính, ấn bản 2003

1. Ngoại thuyết (Bàhirakathà)

Sau khi Đức Thế Tôn tuyên bố sắp nhập Niết bàn, ngài cùng với một số đông tỳ khưu Tăng đến thành Kusinàra thuộc quốc độ Malla. Đến khu rừng mát mẻ, dừng lại dưới hai cội cây sàla tươi đẹp với bốn nhánh vươn cao và tỏa rộng, hoa nở rực rỡ và ngạt ngào hương, ngài bảo tôn giả Ananda xếp y tăng-già-lê rồi nói:
- Như Lai sẽ Niết bàn ở đây!

Thế rồi, Đức Thế Tôn nằm nghiêng lưng trên tảng đá bằng phẳng, đầu quay về phía bắc, mặt quay về phía tây. Chư tỳ khưu Tăng ngồi vòng quanh yên lặng như một rừng thiền định. Giữa tiếng chim ríu rít, vài cánh hoa rơi khẽ, bài pháp sau đây đã được Đấng Giác ngộ thuyết lên:

-"Này các thầy tỳ khưu! Như Lai nhắc nhở và căn dặn các thầy như vầy: tất cả pháp hữu vi đều không chắc thật, không bền vững. Tất cả các pháp hữu vi dầu thô thiển hay vi tế đều bị sự tác động của vô thường, biến hoại, đổi khác.

Tất cả pháp hữu vi, nếu là thiện pháp, là phước tạo tác (punnàbhi sankhàra), cấu tạo nên thân tâm của người và trời; nói cách khác, là nhân sanh sáu cảnh trời dục giới hoặc được làm người có phước báu sắc thân xinh đẹp, ít bệnh tật, ít khổ đau, nhưng nó cũng chẳng thường còn như ý nguyện mãi thế đâu!

Tất cả pháp hữu vi, nếu là ác pháp, là tội tạo tác (appunnàbhi sankhàra), cấu tạo nên thân tâm và cảnh giới trong bốn đường dữ là: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la. Vậy các thầy hãy cố gắng gìn giữ thân khẩu ý, ngăn giữ ác hạnh để khỏi chịu quả báo đau khổ về sau.

Tất cả pháp hữu vi, nếu là thiện pháp thù thắng, là vô ký hay bất động tạo tác (ananjabhi sankhàra); là nhân của tầng trời sắc giới và vô sắc giới của các bậc tu hành đã đắc tứ thiền hay tứ không; cấu tạo nên thân tâm cõi trời phạm thiên hữu sắc và phạm thiên vô sắc. Tuổi thọ ở đấy thì vô lượng nhưng hết phước báu thiền định cũng phải bị đọa lạc như thường.

Vậy này các thầy tỳ khưu! Hãy tinh tấn chuyên niệm, chớ quên, chớ phóng dật, chớ giải đãi. Tử sinh là việc lớn. Hãy rèn luyện thân khẩu ý cho thanh tịnh. Hãy làm cho sung mãn tứ vô lượng tâm. Hãy qua khỏi bờ kia, chẳng nên cam chịu hoài cảnh trầm luân khổ đau sinh diệt nữa!"

Lúc Đấng Thập Lực (Dassapàlannana) dùng lời tối hậu huấn thị tỳ khưu Tăng với tâm bi mẫn như thế, biết là ngài sắp Tịch diệt Niết bàn, có một số sa môn tâm hãy còn phàm, đã không ngăn được sự ưu sầu, luyến tiếc đối với Đức Đạo sư, họ đã chảy nước mắt khóc than vô cùng bi lụy.
Đức Tòan Thắng Ma lại ân cần nói thêm rằng:

-"Này các thầy tỳ khưu! Hình như các thầy tưởng rằng khi Như Lai diệt độ rồi, sẽ không còn ai là thầy dạy dỗ các thầy nữa chăng? Không phải thế đâu!

Này các thầy tỳ khưu! Pháp và Luật rất đầy đủ, Như Lai đã giáo giới đến các thầy rồi. Ba-la-đề-mộc-xoa (patimo-kkha) dành cho Tăng và Ni, Như Lai đã chỉ dạy cặn kẽ trong bộ Lưỡng phân biệt (ubhatovibhanga) rồi. Nhân có tội và nhân vô tội Như Lai cũng đã từng thuyết minh chi li, rõ ràng rồi.

Thinh Văn ba-la-mật tuệ, Như Lai cũng đã nói rồi.

Tuệ Đến-bờ-kia cho bậc Độc Giác và bậc Chánh Đẳng Giác, Như Lai cũng đã từng tán dương rồi. Và nào là Tứ diệu đế, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như y túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo,Thất quả, Bát định, Cửu định.. . Như Lai cũng đã nhiều lần tuyên thuyết bằng những thời pháp, đoản ngôn, kệ ngôn, ví dụ, so sánh, giảng giải, phân tích ... khác nhau.

Vậy này các thầy tỳ khưu! Người nào thông hiểu pháp ấy, chứng ngộ pháp ấy được gọi là Thinh Văn đệ tử của Như Lai; là người có căn cơ mẫn tiệp, lanh lẹ, kiến trú vững chắc, tâm giải thóat, tuệ giải thóat không xao động.

Này các thầy tỳ khưu! Dầu Như Lai có diệt độ, nhưng Pháp và Luật ấy chính là thầy của các thầy, còn ở bên các thầy, làm nơi nương tựa và dẫn lối cho các thầy. Thế thì sầu thương, bi lụy có ích gì khi các pháp dẫu nhỏ nhiệm như mảnh lân hư trần, to lớn như Tu-di sơn cũng đều phải bị vô thường biến hoại?

Lại nữa, khi Như Lai Niết bàn rồi, ông Đại Ca-diếp sẽ mở hội kết tập lần đầu, trùng tuyên lại Pháp và Luật cho đầy đủ, tỏ rạng lên hầu nhắc nhở và mở mắt cho những tỳ khưu hư hỏng, phóng túng như ông Subhadda cùng những hoa ngôn, lộng ngữ, xuyên tạc Chánh pháp của chúng ngoại đạo.

Lại một trăm năm sau nữa, có vị trưởng lão A-la-hán có tên Yassa Kananda, vì hủy trừ lời nói của tỳ khưu Vajjiputtaka mà mở đại hội kết tập lần thứ nhì, trùng tuyên trọn vẹn Tam tạng Thánh điển.

Thế rồi, hai trăm mười tám năm sau kể từ khi Như Lai diệt độ, có tôn giả Moggaliputtatissa kết tập lần thứ ba, loại bỏ tất cả tư tưởng lai tạp của ngoại giáo, giữ nguyên lời dạy chơn truyền của Như Lai y như lần thứ nhất và lần thứ nhì. Sau đó nữa, tỳ khưu Mahinda, một vị Thánh Tăng, vốn là hoàng tử con của vua A-dục, đã đem ba tạng kinh truyền Chánh pháp vào xứ Tích-lan (Jampànidìpa).

Và khỏang chừng năm trăm năm sau kể từ hôm nay, có một đức vua tên là Mi-lan-đà, có nhiều phước duyên thù thắng (abhinihàra) đã tạo trữ từ xưa, dùng những câu hỏi rất cao siêu, vi tế, sắc bén bởi năng lực trí tuệ của mình để vấn đạo, bức bách các sa-môn, bà-la-môn trong toàn cõi Diêm-phù này, làm cho họ phải trốn vào rừng sâu.

Khi ấy, có một vị tỳ khưu tên là Na-tiên, có trí tuệ siêu phàm, đã giải đáp dễ dàng những câu hỏi, phá nghi những nạn vấn cho đức vua Mi-lan-đà bằng nhiều cách phân tích thiện xảo, nhiều ví dụ sinh động, cụ thể làm cho bậc minh quân vô cùng hài lòng. Nhờ vậy, Pháp và Luật của Như Lai đã không lu mơ, mà trái lại, càng thêm tỏ rạng, được trân trọng bảo lưu, truyền thừa trên thế gian tròn đủ 5.000 năm."

Như thế, vua Mi-lan-đà và đại đức Na-tiên với những câu hỏi đáp giữa họ đã được Đức Thế Tôn tiên tri sẵn trước khi ngài nhập diệt.

Người ta nói rằng nước của năm con sông lớn của xứ Ấn-độ tuôn chảy về biển bao nhiêu lượng nước thì những câu hỏi của vua Mi-lan-đà cũng tuôn chảy liên miên, dồn dập không ngưng nghỉ như vậy. Tuy nhiên, nước của năm con sông lớn ra đến biển thì nằm yên trong biển, hòa tan trong biển, được biển kết nạp, dung chứa một cách bình thản như chẳng có vấn đề gì phải bận tâm. Cũng vậy, biển cả được ví như trí tuệ siêu phàm, vô lượng của đại đức Na-tiên. Do vậy, những câu hỏi dù khúc mắc, dù đặt bẫy, dù sâu rộng, dù vi tế thế nào của vua Mi-lan-đà, đều được ngài Na-tiên sẵn sàng giải đáp rành rẽ, khúc chiết bằng nhiều cách khác nhau. Một ngọn đèn cực lớn, ánh sáng quang minh chiếu diệu soi tỏ vào các chỗ tối tăm, hang hóc sâu kín như thế nào thì trí tuệ của đại đức Na-tiên cũng soi tỏ vào bóng tối hoài nghi, kiến thức đa diện của đức vua Mi-lan-đà y như thế ấy.

Quả thật, cuộc vấn đáp của hai bậc tài đức đã chứa chan sự thật, triết lý, tư tưởng và cả những ý nghĩa nhiệm mầu; khả dĩ nối được ngọn đèn Pháp Bảo giữa cõi mê đồ, vọng tưởng. Sự tranh biện và lập luận minh bạch, khúc chiết của hai ngài có sức hấp dẫn phi thường, làm cho người nghe, người đọc phát sanh phỉ lạc chưa từng có.

2. Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga)

Vào thời Đức Phật Ca-diếp (Kassapa), có đức vua tên là Vijjitàvì trị vì một vương quốc giàu mạnh, kinh đô đặt tại xứ Sàgala xinh đẹp. Đức vua là một cư sĩ có giới và có trí, cai trị quốc độ bằng mười vương pháp, sống với thần dân bằng bốn pháp tế độ.

Tại kinh đô ven sông, đức vua cho xây dựng một ngôi chùa lớn rồi dâng cúng đến các vị trưởng lão đạo cao đức trọng, suốt thông Tam tạng. Ngài hộ độ Chư tăng đầy đủ về tứ sự, hết tuổi thọ, hóa sanh làm Thiên chủ cõi Đao-lợi, gọi là Đế thích Thiên vương.

Ở ngôi chùa do đức vua bảo trợ này, chư tỳ khưu Tăng rất đông đúc, duy trì pháp học và pháp hành một cách nghiêm túc và không gián đoạn. Trong chúng, có vị tỳ khưu giới hạnh trong sạch, hằng ngày tu tập thiền quán. Mỗi sáng, ngài thường thức dậy sớm, lễ bái Tam Bảo, quán tưởng ân đức Tam Bảo, tọa thiền, kinh hành rồi đi quét dọn xung quanh chùa. Công việc ấy ngài làm một cách lặng lẽ và chuyên cần.

Hôm kia, vị tỳ khưu quét lá quanh Bảo tháp, gom lại thành đống rồi gọi chú sa di phụ việc hốt đem đổ đi.Chú sa di ngày thường rất ngoan ngoãn, nhưng hôm ấy lại sanh tâm lười biếng, giả vờ không nghe. Gọi đến lần thứ ba, thấy chú sa di vẫn cứng đầu, vị tỳ khưu bèn bước tới, đánh cho chú mấy cán chổi khá đau. Thế là chú sa di vừa khóc vừa hốt rác, lòng ấm ức vô cùng. Công việc xong xuôi, chú sa di phát lời nguyện rằng:

-"Với phước báu đổ rác này, nếu chưa đắc được Niết bàn, dù sanh vào cảnh giới nào, cũng xin cho tôi có đầy đủ quyền cao, chức trọng mà oai lực của tôi sẽ thù thắng hơn tất cả mọi người, như mặt trời vĩ đại ở giữa hư không kia vậy."

Nguyện xong, hể hả và vui sướng, chú sa di đi xuống sông tắm. Khi bơi lội nhởn nhơ trong nước, thân tâm mát mẻ, chú sa di cảm thấy hối hận, tự nghĩ:

-"Thầy tỳ khưu bảo ta hốt rác, đấy chẳng phải là phận sự bắt buộc, chẳng phải là việc riêng của ngài; cũng chẳng phải là lợi ích cho các thầy A-xà-lê, cũng không phải nhằm phục vụ cho các vị thượng tọa, hòa thượng của ngài. Vậy đích thị ngài đánh ta là muốn tế độ ta, muốn đánh vào cái tính lười biếng và cứng đầu của ta! Ôi! Vì u mê mà ta tự làm hại ta rồi."

Vẫn còn ngâm mình dưới sông, nhìn những lượn sóng như vô tận đuổi nhau đến tận bờ xa, chú sa di tâm cơ máy động, phát lời đại nguyện:
-"Vì thiếu trí tuệ mới sinh lười biếng, cứng đầu, sinh những nhận thức sai lầm, nông nổi. Vậy thì với tất cả những phước đức tu tập của tôi, phước đức đổ rác bấy lâu nay, phước đức thấy mình lầm lỗi, xin nguyện rằng: nếu chưa đắc quả Niết bàn, hãy cho tôi được trí tuệ nhiều vô biên vô lượng như những làn sóng vô tận của con sông này."

Đang trên bến, cũng định xuống sông tắm, vị tỳ khưu nghe được lời phát nguyện đầy quyết tâm vững chắc của chú sa di, chột dạ, nghĩ thầm: "Không kể chút lầm lỗi sáng nay, chú sa di này từ lâu tu tập rất tốt, có hạnh kiểm và có trí. Vậy với lời nguyện sắt đá này, chú sa di hẳn sẽ thành tựu dễ dàng." Trầm ngâm hồi lâu, vị tỳ khưu nghĩ tiếp:"Trong lời nguyện của chú sa di, vừa có cái gì đó như phục thiện mà cũng vừa có cái gì đó như đối chọi lại với ta? Nhưng bản chất của chú sa di này ngủ ngầm sự cứng đầu, kiêu căng, ngã mạn. Vậy nếu lời nguyện kia mà thành tựu thì trên thế gian này có ai đủ khả năng trí tuệ để kềm bớt trí tuệ của y?".

Vì thế, vị tỳ khưu cũng chấp tay lên đầu, hướng giữa thinh không, phát lời đại nguyện:
-"Với tất cả mọi công đức tu tập của tôi, công đức quét rác bao nhiêu năm, nếu tôi chưa đắc quả Niết bàn, xin cho tôi được thành tựu trí tuệ bất khả tư nghì. Trí tuệ ấy phải đầy đủ năm tính chất sau đây:

- Nhiều như sóng của con sông đại Hằng.
- Vững chắc và kiên định như hai bờ của con sông này.
- Thấy rõ gốc ngọn tất cả các pháp.
- Quang minh, sáng sủa.
- Quảng bác, thâm sâu, sắc bén.

Mong nhờ trí tuệ bất khả tư nghì ấy, có thể kiềm chế, phá nghi, soi rọi, dẫn dắt chú sa di đi đến nơi giác ngộ, giải thóat."

Cả hai vị tỳ khưu và sa di, với lời nguyền ấy, sau khi tan rã ngũ uẩn, họ đều được sanh làm người, làm trời trọn thời gian giữa hai vị Phật. Đến lúc Phật Thích-ca Niết bàn gần năm trăm năm, vị tỳ khưu thuở xưa từ cõi trời giáng hạ làm Na-tiên tỳ khưu; vị sa di sanh làm vua Mi-lan-đà ở kinh thành Sàgala đúng với lời nguyện của họ.

Còn tiếp.

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#2
2.1. Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ

Ông người gốc Hy-lạp, là một viên đại tướng lừng danh, vô địch, theo đoàn quân viễn chinh xâm lăng Ấn-độ. Sau khi đã đặt nền thống trị trên một đế quốc rộng lớn, viên thủ lĩnh bị giặc giết, ông lên kế vị làm vua, đóng đô tại Sàgala.

Sàgala là vùng đất nằm ở thượng lưu năm con sông, dưới chân Hy-mã-lạp-sơn, với núi non hùng vĩ bao quanh, sông dài uốn khúc tạo nên một khung cảnh xinh tươi trù phú và thạnh mậu.

Xuất thân là một tướng lãnh thao lược, bách chiến bách thắng, bá quyền từ lưu vực sông Hằng đến các bờ cõi miền đông, từ cửa sông miền nam giáp biển đến tận chân Hy-mã-lạp-sơn, nhưng đức vua ấy luôn phòng thủ không một chút lơ là. Hoàng cung được bảo vệ với những thành trì kiên cố, vững chắc, được đào hào sâu rộng bao bọc xung quanh, những cổng thành bằng đá to lớn luôn luôn được đội quân uy nghi với gươm đao, cung nỏ túc trực sẵn. Nhờ vậy, không một kẻ thù nào dám quấy nhiễu, không một kẻ nghịch nào dám manh tâm thoán đoạt.

Giữ yên bên ngoài, nhà vua lo việc bên trong, chăm lo đến cơm no áo ấm cho muôn dân. Kế hoạch phát triển đất nước, nhà vua chú trọng nông nghiệp, có chính sách khuyến nông đúng đắn và hữu hiệu. Các ngành nghề lao động, thủ công đều được tuyên truyền, vận động, cổ súy nâng cao. Không bao lâu sau, đất nước này sống đời thái bình và thịnh trị, giàu mạnh và hùng cường.

Kinh thành Sàgala đặc biệt rất huy hoàng và tráng lệ. Các lối đi đều được lát đá. Nam nữ có lối đi riêng. Ven đường có nhà mát, nhà nghỉ, có cây to bóng mát. Điểm xuyết đó đây rất nhiều ao hồ, rất nhiều vườn cây. Ao hồ thì nuôi đủ thứ cá sắc màu đẹp đẽ. Vườn cây trồng kỳ hoa dị thảo, nuôi muôn chim, muôn thú hiền lành. Ngoài ra, dinh thự, đền đài, phố xá, cầu kỳ, đại hí trường, tiểu hí trường được xây dựng, kiến thiết cao sang và mỹ lệ. Từ Hoàng cung, ánh đèn chói sáng trăm màu rực rỡ, nhạc ca, vũ điệu dặt dìu ngày đêm hoan lạc. Hoàng gia ăn vận như thiên tướng, thiên nữ cõi trời, với xe hai ngựa, bốn ngựa, kiệu... qua lại tấp nập. Các vị sa môn, bà la môn, đạo sĩ thong dong lui tới đó đây, hoàn toàn được tự do, được tôn trọng, lễ bái, cúng dường... Dân chúng ăn mặc đẹp đẽ, trang trí vòng hoa, trân châu, lũ lượt tới các điểm giải trí, vui chơi ở các nơi công cộng và hí trường.

Đây là thời đại cực thịnh của kinh đô Sàgala.

Hoàng cung có nhiều kho vàng, kho bạc, kho đồng, kho gạo, kho vải vóc, lương thực, giáo mác, cung tên, thuốc nổ v.v.., những loại ngọc cực qúi như ngọc mànì, nhà vua cũng có rất nhiều. Các loại vải, gấm, lụa trứ danh như kasila, udubara, koseyya... là thứ dùng hằng ngày của hoàng gia.

Kinh thành của đức vua Mi-lan-đà hưởng phước cực kỳ sung sướng, được ví như Bắc-cu-lưu-châu hoặc như huê viên Alakam Manda ở cõi trời cũng không ngoa vậy.

Về quốc độ thì như thế, còn về cá nhân thì ngài có sức học uyên thâm, tài cao chí lớn, lại là người rất đạo đức nên được quần chúng tôn sùng, ngưỡng mộ. Tài liệu sử sách còn ghi lại đầy đủ về con người của vị vua ấy như sau:

- Đệ nhất về của cải, tài sản.
- Đệ nhất về quân binh như voi, ngựa, xe...

- Đệ nhất về trí tuệ.

- Đệ nhất về học giả.

- Đệ nhất về thông minh.

- Đệ nhất về sức mạnh, quyền uy.

- Đệ nhất về giọng nói trầm hùng, êm dịu.

- Đệ nhất về hiểu biết các tôn giáo, nhất là Phật giáo.

- Đệ nhất làm chủ trí thức và cảm xúc của mình.

- Đệ nhất về bác học.


Đã vậy, đức vua còn thông suốt 18 môn học nghệ:

1. Học tiếng muôn thú để đoán định tốt xấu, lành dữ.
2. Học về đất đai, núi non, thảo mộc.

3. Toán học.

4. Biết rõ tất cả các nghề thợ.

5. Võ học.

6. Triết học, thắng luận.

7. Thiên văn.

8. Âm nhạc

9. Y khoa.

10. Nghệ thuật bắn cung.

11. Khảo cổ học.

12. Lịch sử, truyện tích, khẩu ngữ.

13. Khoa tử vi.

14. Rành rẽ về phân kim (biết vàng ngọc thật, giả).

15. Học về vật lý.

16. Học về chăn nuôi, nông nghiệp, làm vườn.

17. Binh pháp.

18. Văn học: sử truyện nhân gian, cú pháp, thể luật, văn thơ...


Toàn cõi châu Diêm-phù-đề khó tìm ra một nhân vật trí tài như vậy.

* * *
Hôm kia, sau công việc triều chính mệt mỏi, đức vua cùng đoàn quân ngự giá ra khỏi hoàng thành du ngoạn. Đến một chỗ phong cảnh tươi thắm, hữu tình, đức vua ra lịnh dừng lại, xuống xe, ngài thong dong cất bước đi dạo.

Ngồi nghỉ chân nơi một tảng đá, dưới tàn đại thụ mát mẻ, đức vua ngước nhìn lên trời cao. Giữa bầu trời xanh biếc dịu dàng, một vầng thái dương rực rỡ, huy hoàng, ngự trị giữa hư không lồng lộng. Đức vua nhìn mặt trời rất lâu, đoạn nói chuyện với viên tướng hộ giá:
- Này khanh! khanh có thấy mặt trời kia không?
- Tâu, có thấy!
- Nó trấn ngự giữa hư không một cách đầy uy lực, bất khả xâm phạm, khanh có cảm nghĩ thế chăng?
- Dạ, thưa có, tâu Đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà vỗ vai viên tướng một cách thân mật, cảm thán nói rằng:
- Mặt trời rực rỡ kia là chúa tể của hư không. Trí tuệ quang minh là chúa tể của chúng sanh các loài trong tam giới. Khanh đã từng tòng chinh theo trẫm đi đây đi đó nhiều nơi; khanh cũng đã từng mang lệnh của trẫm đi khắp kinh thành cùng các biên trấn xa xôi. Vậy khanh hãy cố nhớ cho thật kỹ, xem có vị sa môn, bà-la-môn nào là bậc đại trí thức, thống hiểu kinh pháp, làu thông kinh pháp; hoặc là người đã tự mình tuyên bố, rằng là, đã đắc quả A-la-hán, đắc quả Phật? Trẫm muốn diện kiến họ, đối thoại với họ hầu tăng trưởng kiến thức và trí tuệ. Nào, khanh hãy cố nhớ lại xem?

Quả là thầy nào trò nấy, đức vua kiến thức uyên thâm thì viên tướng hộ giá thân tín kiến thức cũng uyên thâm. Sau một hồi suy nghĩ chín chắn, viên tướng tâu:
- Trước đây rất lâu xa, khi theo hầu chân ngựa của bệ hạ đi vào xứ sở tôn giáo huyền bí này, hạ thần có nghiên cứu qua sử sách tôn giáo của dân bản địa. Mấy ngàn năm trước đây, tu sĩ bà-la-môn thọ trì và phụng hành theo kinh điển Phệ-đà; và có thể nói rằng, tôn giáo này đã nắm độc quyền toàn bộ sinh hoạt tinh thần của xã hội Ấn.

 Nhưng cách đây gần năm trăm năm, bộ tộc Sakya, dòng dõi Thái dương anh hùng, đã xuất sanh được một vị Phật tên hiệu Sĩ-đạt-ta Cù-đàm, thì truyền thống ngàn đời của bà-la-môn bị lung lay đến tận nền móng. Hiện tại ở xứ sở này còn tồn tại đạo Phật ấy, đồng thời, tồn tại sáu tông phái ở trong và ngoài truyền thống Phệ-đà...

Đức vua Mi-lan-đà khen ngợi và mắng yêu người bề tôi trung tín:
- Khanh thật giỏi, nhưng dài dòng quá. Chuyện ấy thì trẫm cũng biết. Hãy nói tóm gọn coi nào?
- Dạ - Viên tướng kính cẩn cúi đầu - Sáu vị giáo chủ ấy là: Pùrana Kassapa, Makkhalìgosàla, Niganthanàtaputta, Sanjayabelatthaputta, Ajitakesakambala, Bakuddhakaccày- ana. Và hiện nay, trong kinh thành có mặt môn đệ của sáu danh sư ấy đang triển khai tông giáo, danh tiếng lẫy lừng, đồ chúng rất đông. Họ đều không phải là người thiểu trí mà toàn là bậc thầy thiên hạ. Họ được mọi người cung kính, cúng dường, tôn trọng. Bệ hạ có thể nào đến viếng họ, đáp vấn với họ vài điều xem thử có chút kiến thức bổ dưỡng nào chăng?
Đức vua Mi-lan-đà mỉm cười hài lòng:
- Được lắm, khanh bàn rất hợp ý trẫm.

Thế rồi, người đầu tiên mà đức vua Mi-lan-đà đến diện kiến là một vị chân sư, kế thừa giáo chủ Puràna Kassapa. Sau khi yên vị chủ khách, đức vua kính cẩn hỏi rằng:
- Bạch thầy, chúng sanh đầy khắp trong ba cõi, có sanh mạng, có y báo, có chánh báo, có đời sống giống nhau, khác nhau, có sanh, có tử, có xuống, có lên... ở trong một luật tắc nào đó. Vậy thầy có thể nào cho biết cái gì nuôi dưỡng chúng và hộ trì chúng?
Vị chân sư mau mắn đáp:

- Tâu đại vương! Đại vương hãy nhìn xem núi sông, muôn loài và cây cỏ; tất cả chúng có được từ đại địa, lớn lên, trưởng thành từ đại địa! Vậy rõ ràng chúng sanh được nuôi dưỡng, được hộ trì bởi đại địa là điều quá hiển nhiên rồi!
Đức vua giả vờ mỉm cười, gật đầu, rồi dường như hỏi sang chuyện khác:
- Cảm ơn thầy! Chẳng hay giáo lý của thầy có nói đến những chúng sanh thống khổ ở các cõi địa ngục và ngạ quỷ chăng?
- Thưa có, tâu đại vương!

Đức vua bây giờ mới tỏ vẻ giận dữ, phất tay áo
đứng dậy:
- Vậy mà thầy dám bảo quả đất nuôi dưỡng và hộ trì chúng sanh? Quả đất nuôi dưỡng, hộ trì chúng sanh sao lại để cho chúng sanh đọa lạc vào các cảnh giới địa ngục và ngạ quỷ đầy thống khổ và đau thương dường ấy?
Vị chân sư nín lặng.

Đức vua Mi-lan-đà cảm thán: "Chẳng lẽ nào chân sư thiên hạ mà hoang vu và rỗng không như thế này sao?"
Viên võ tướng thấy vua buồn bã , lựa lời khôn khéo nói:
- Kinh đô của Đại vương còn nhiều vị danh sư khác nữa, biết đâu trong số họ sẽ có người làm vừa lòng Đại vương?
Nghe lời, lần này đức vua Mi-lan-đà tới thăm viếng vị danh sư môn đệ của giáo chủ Makkhalìgosàla. Sau vài câu xã giao khách sáo, đức vua đi vào đề:
- Bạch thầy, giáo pháp của thầy quan niệm như thế nào về thiện, ác? Có nhân và có quả của thiện nghiệp và ác nghiệp chăng?
Vị danh sư trả lời:

- Chẳng có đâu, tâu Đại vương! Chẳng có thiện nghiệp và ác nghiệp. Quả tốt xấu của thiện nghiệp, ác nghiệp ấy cũng không. Theo giáo pháp mà bần đạo đã tuyên thuyết thì người nào sanh ra trong thế gian này được làm vua, khi chết sanh vào nơi khác cũng làm vua y như thế. Tương tự, nếu đời này là bà-la-môn, thương gia, nông gia, kẻ hạ tiện candàla, người đói khổ... khi tứ đại rã tan, tái sanh vào cảnh giới khác cũng sẽ làm bà-la-môn, thương gia, nông gia, kẻ hạ tiện candàla, người đói khổ giống như vậy. Chẳng có quả phước, quả tội tham dự vào đấy để tạo nên vui hay khổ cho chúng sanh cả.

Đức vua đã cảm thấy bực mình nhưng vẫn nhẫn nại hỏi tiếp:
- Nếu không có quả phước tội, kiếp này giống kiếp kia thì chắc hẳn tướng mạo của chúng sanh vẫn không thay đổi?
- Đúng là vậy, tâu Đại vương!
- Ví dụ, tướng mạo một người xấu xí, tật nguyền hẳn kiếp sau cũng xấu xí, tật nguyền?
- Thưa vâng, tâu đại vương!
- Một tội nhân bị hành hình chặt tay, cưa chân, bị treo cổ, bị chém đầu; kiếp sau sinh ra cũng phải bị chặt tay, cưa chân, bị treo cổ và bị chém đầu như thế?
Vị danh sư gục gặc đầu:
- Quả đúng vậy, tâu đại vương!

Vua Mi-lan-đà vẫn trầm tĩnh, chậm rãi nói:
- Vậy muốn cho trẫm chấp nhận luận điệu ấy, thầy phải bằng mọi cách giảng giải, phân tích, so sánh, ví dụ minh bạch, cụ thể... cho trẫm nghe với nào?
Vị danh sư im lặng.
Đức vua bèn phản công:
- Thầy không đưa ra được à? Thầy chẳng có cách gì để bảo vệ cho giáo pháp của mình được à? Thế thì chẳng khác gì thầy đã nói dối? Đã võ đoán? Chỉ thuần túy là suy luận chứ không dựa trên một sự thật nào cả?
Vị danh sư cúi đầu bối rối.

Đức vua dằn mặt:
-Trẫm đã hỏi thầy một cách rất nghiêm túc, rằng là có nhân quả của các nghiệp thiện ác hay không! Câu hỏi ấy, đáng ra phải được trả lời rất là dè dặt, cẩn trọng, vì nó ảnh hưởng to lớn đến đạo đức con người, đến hạnh phúc của toàn xã hội. Thầy là một kẻ vô trách nhiệm, thiểu trí, không có lương tri, không có trái tim; không thấy, không biết lại dám đưa ra thuyết thường kiến làm băng hoại nhân luân và đức lý trần gian! Trẫm tôn trọng sự tự do tín ngưỡng, tôn trọng sự lập tông, khai giáo, tự do diễn thuyết, tự do ngôn luận và bảo vệ cả những tự do ấy. Nhưng thầy hãy tự xét lại, suy gẫm lại giáo pháp của thầy có thật sự hữu ích cho cuộc đời này không? Cái chủ trương của thầy với những quan kiến phi đạo đức ấy có phải là tung bóng tối va khổ đau lên cuộc đời vốn đã tối tăm và đau khổ này không?

Đức vua Mi-lan-đà giận run nhưng vẫn làm chủ được tư tưởng và cảm xúc của mình, không nói gì nữa, ngài lặng lẽ bỏ về hoàng cung, lòng vô cùng sầu não.

Ít hôm sau, nỗi buồn lắng xuống, đức vua lại ẩn nhẫn lặn lội đi đến giáo phái môn đệ của Niganthanàtaputta. Rồi lần lượt là môn đệ của Sanjavabelatthaputta, môn đệ của Ajitakesakambala, môn đệ của Pakuddhakaccàyana. Nhưng đức vua hoàn toàn thất vọng. Kẻ với thuyết hoài nghibất khả tri; kẻ với thuyết nguyên tửnhững con số; kẻ với thuyết nhất nguyên vô ngã hay hữu ngã v.v..., chẳng có giáo chủ, chân sư nào làm cho trí tuệ của đức vua hài lòng.

Chán nản, đức vua lại quay qua chính sự, tìm quên trong công việc, đọc kinh sách, suy gẫm, trầm tư; nhưng nhà vua vẫn không chấm dứt được sự thao thức, xao xuyến và những nghi vấn về cuộc đời. Có một cái gì đó rất bí mật, rất huyền nhiệm đằng sau sự sống, sự chết của con người! Hiện tại trong tay đức vua có đầy đủ tất cả mọi quyền lực. Ngài đã từng là một tướng lãnh bất khả chiến bại, là một vị đế vương oai hùng chẳng ai dám sánh. Mọi kẻ thù đều cởi giáo quy hàng. Mọi lân bang đều triều phục. Quốc khố sung mãn châu báu, sung mãn khí giới, vật thực. Quân binh, voi, ngựa, xe kiêu hùng và vô địch. Danh vọng cao sang phủ trùm mọi châu lục. Thế nhưng, nhà vua vẫn cảm thấy trống không, cô đơn, vô nghĩa lý. Những vấn nạn không cơ hóa giải vẫn ngày đêm nhức nhối khối óc và trái tim của ngài. Có cái gì đó không bao giờ với tới được, chập chờn, ma mị, khuấy rối cả trong giấc ngủ của vị đế vương.

Còn tiếp
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#3
Nhân một đêm trăng sáng, đức vua Mi-lan-đà đi thơ thẩn dạo chơi trong vườn thượng uyển. Một làn gió mát mẻ thoảng qua, hương thơm vi diệu của nhiều loài hoa cực quý đưa tới. Đức vua cảm thấy tinh thần thư thái, ngài bước đi lặng lẽ dưới ánh trăng vằng vặc, lại suy nghĩ:

- "Ôi! Đêm thanh, trăng tỏ, gió phơi phới mát lành, hương kỳ hoa thơm ngát...! Vậy đây đâu phải là thời mà ta dạo chơi trống không vô vị như thế này? Đây là thời phải lẽ nhất để cho ta đi hỏi đạo nơi các bậc thượng sĩ, đạt đức, cao nhân! Nhưng mà môn đệ của sáu giáo chủ hữu danh nhất trong thiên hạ, ta đã gặp rồi. Những lời giải đáp của họ không làm cho lỗ tai ta hoan hỷ; không làm cho trái tim của ta bao dung, dịu dàng; không làm cho trí óc của ta được cởi mở, khoan khoái. Cái trí tuệ và mớ kiến thức nhạt nhẽo của họ không xứng đáng để ta mất thì giờ vô ích.

Ôi! Vậy cõi Diêm-phù-đề này còn bậc đại ẩn sĩ nào chăng? Quốc độ này chẳng lẽ không có một sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ nào thành đạt trí tuệ cao thượng quả vị A-la-hán, quả vị Phật ... để ta đến thăm viếng, cung kính, lễ bái, tôn trọng, cúng dường hay sao? Chẳng còn ai phá nghi cho ta, giảng giải những chỗ uyên áo, tế vi mà ta hằng thao thức hay sao? "

Hôm kia, sau buổi thiết triều, đức vua ân cần đem tâm sự trên nói với bá quan, nhưng mọi người chỉ lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau.
Một vị lão thần tâu:
- Ngoài sáu phái hữu danh ở trong và ngoài truyền thống Phệ-đà, còn có đạo Phật rất thịnh hành, chùa chiền và Tăng lữ đông đúc, chẳng hay...
Đức vua khoát tay, đứng dậy:
- Khanh đừng nói nữa! Hầu như trẫm đã đi thăm viếng hết rồi tất cả những ngôi chùa hữu danh, sa môn hữu danh...! Kẻ thì tinh thông pháp học nhưng không có pháp hành, người thì chuyên về pháp hành, không biết gì về pháp học. Nhưng những pháp học của họ cũng khả nghi bởi những kiến thức chắp vá, vay mượn từ nhiều chủ thuyết khác nhau. Đa phần là hữu danh vô thực hoặc có chút kiến thức chứ không có trí tuệ. Nói tóm lại, thật là hoang vu và rỗng không trong các tu viện, tự viện, am thất, chùa chiền... Hầu hết là cái giá áo, túi cơm; xuất gia tu học chỉ để thừa tự tài lộc, vật thực... mà thôi!

Nói xong, nhà vua thở dài.
Thế rồi, bắt đầu từ dạo ấy, miệng truyền miệng, tai truyền tai, thủ đô Sàgala vắng bặt không còn một sa môn nào dám lai vãng. Sáu phái hữu danh lập căn cứ địa mấy trăm năm ở đây cũng "chuồn" về phương khác. Tất cả chùa chiền, am thất... trống không Tăng lữ, và thiện nam tín nữ, theo đó chẳng còn ai tới lui.
Suốt mười hai năm ròng rã, nghe đâu có bậc đại trí là đức vua tìm đến, rồi sau đó lặng lẽ trở về với bước đi nặng nề hơn, phiền muộn hơn.
Các sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ lần lượt bỏ kinh đô Sàgala cùng đế quốc của đức vua, tìm chỗ khác trú thân hoặc ẩn trốn vào non sâu tuyết lãnh.
Ai cũng sợ đức vua Mi-lan-đà tìm đến hỏi đạo!?

2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN

Trong lúc ấy, tại Hy-mã-lạp-sơn, ở hang động Rakkhi--ta kỳ vĩ, rộng lớn, xinh đẹp như cõi trời, có mấy chục vị A-la-hán ngụ cư, họ sống tương ái, tương kính, hòa hợp như nước với sữa, đang thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả. Hôm kia, sau khi xuất định, vị đại trưởng lão Assagutta hướng tâm đến thế gian, ngài thấy rõ chuyện đức vua Mi-lan-đà đã dùng uy lực của trí tuệ, uy lực của kiến thức đa diện áp đảo sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu tình trạng ấy kéo dài thì Phật pháp chắc sẽ bị lu mờ và tiêu vong.

Hôm kia, đại trưởng lão Assagutta triệu thỉnh tất cả chư vị A-la-hán tụ tập trên đỉnh núi Yugandhara, kể lại chuyện vua Mi-lan-đà, tình trạng Chư Tăng, các hàng cận sự nam nữ vắng mặt trong tất cả chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện..rồi kết luận như sau:
- Vậy thì có vị đại đức nào có thể nhiếp phục đức vua bằng trí tuệ của mình, có thể giải đáp tất cả mọi câu hỏi để phá nghi cho đức vua; soi rọi, dẫn lối cho đức vua thấy rõ chánh pháp; làm cho đức vua ấy phát khởi lòng tin để nâng đỡ, hộ trì Phật giáo thì hãy đứng lên nhận lãnh sứ mạng cam go này?

Đại trưởng lão Assagutta hỏi đến lần thứ ba, hội chúng thánh nhân vẫn im lặng. Ngài biết rằng chư vị A-la-hán này thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát nhưng sở học, kiến thức, tuệ phân tích, biện tài, biện thông...chẳng thể nào so sánh nổi với đức vua Mi-lan-đà, bèn gợi ý:
-Trên cõi trời Đao-lợi có một vị thiên tử tên là Mahàse--na, ở trong cung vàng Ketumatì, phía trước bảo điện của Đế thích Thiên chủ. Vị thiên tử Mahàsena ấy có trí tuệ vượt bậc, có thể đàm luận, tranh biện để giải nghi, giải vấn tất cả mọi thắc mắc cho đức vua Mi-lan-đà.

Ngài đại trưởng lão vừa nói xong, với tâm biết tâm, tất cả Thánh chúng A-la-hán đồng từ giã tuyết lãnh, bay lên Đao-lợi thiên cung với thời gian như viên lực sĩ duỗi cánh tay.
Đức Đế-thích trông thấy chư tỳ khưu Tăng như đám mây lành đồng giáng hạ, vui mừng đến cung nghinh, đảnh lễ rồi quỳ bên chân đại trưởng lão Assagutta, bạch rằng:
-Hôm nay, chẳng hay quý ngài có nhân duyên gì mà đồng vân tập về trú xứ của con? Con đang sẵn sàng nghe lời dạy bảo của quý ngài.
Đại trưởng lão Assagutta bèn kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà , với nỗi lo ngại sự suy tàn của giáo pháp, vì trong toàn cõi Diêm-phù-đề chẳng ai có khả năng đối thoại được với đức vua ấy.

Vua trời Đế thích nghe xong, hỏi rằng:
- Đức vua Mi-lan-đà ở kinh đô Sàgala kia, phải chăng vừa từ cõi trời Đao-lợi này mà sanh xuống?
- Đúng thế!
Vua trời Đế thích gật đầu:
- Vậy thì đúng rồi! Trí tuệ của đức vua Mi-lan-đà quả thật thế gian không có người "thứ ba"!
Đại trưởng lão Assagutta mỉm cười:
- Bần tăng cũng biết vậy nên đã đồng quy tụ về đây, những mong Thiên chủ giúp đỡ triệu thỉnh thiên tử ở trong cung vàng Ketumatì giáng sanh xuống cõi trần! Chỉ có vị thiên tử ấy may ra mới có đủ trí tuệ sắc bén để đối thoại, giải vấn cho đức vua Mi-lan-đà mà cứu nguy cho chánh pháp.

Đế thích Thiên chủ nói:
- Con xin vâng mệnh. Vậy xin cung thỉnh qúi ngài cùng với con sang cung điện của thiên tử Mahàsena.

Đến nơi, sau khi chào hỏi xong, Đế thích Thiên chủ giới thiệu chư vị Thánh Tăng từ Tuyết sơn, kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà rồi kết luận rằng:
- Quý ngài đã không quản tuổi già sức yếu, cỡi gió đạp mây lên đây với lòng thành thỉnh nguyện thiên tử hạ sanh cõi trần, ở đấy Phật giáo đang gặp nạn, phải nhờ trí tuệ của thiên tử may ra mới phục hưng được chánh giáo.

Thiên tử Mahàsena nghe xong, với tâm dửng dưng nhìn ra xa đáp:
- Tâu Thiên chủ! Hạ thần không còn một mảy may xúc động tham muốn gì trong việc tái sanh kia nữa. Vả, cõi người thường bận rộn trong việc nuôi mạng, vui ít khổ nhiều, lại đầy trược hạnh. Vậy xin Thiên chủ rộng lòng thông cảm, hạ thần đã chán sinh tử, thường mong hóa sanh vào các cõi tịnh cư, đắc thánh quả rồi Niết bàn luôn ở đấy.
Đại trưởng lão Assagutta lên tiếng thuyết phục:
- Thiên tử nói rất đúng! Tử sinh đáng chán, phiền não nên lìa. Hơn một trăm năm qua, bần tăng ở nơi hoang sơ cùng cốc, chuyện thế gian thật không còn dính một hạt bụi, đáng ra là phải Niết bàn lâu rồi, nhưng còn cố duy trì thọ mạng là vì một chút nhân duyên với chánh pháp. Phật tổ xuống trần cũng vì sự khổ đau của sanh loại. Lẽ nào thiên tử lại làm ngơ trước cảnh Chư Tăng phải trốn vào rừng sâu? Bao nhiêu am thất, chùa chiền, tu viện, tự viện hoang vắng? Hằng vạn cận sự nam nữ không có chỗ nhờ nương? Lẽ ra thiên tử phải phát tâm bi mẫn mới đúng! Lại nữa, Ngũ tịnh cư thiên là nơi thọ hưởng về quả của định tứ thiền, chẳng phải là nơi có thể tu tập sung mãn về phước, về tuệ, để đến chỗ giải thoát; ngoại trừ một số vị chứng quả Bất lai, không tu tập mà dòng tâm vẫn trôi chảy về Niết bàn. Sự thật ấy thiên tử nên hiểu cho chính xác. Chính ở cõi người có khổ, có vui, có vô thường, vô ngã, v.v... thiên tử mới dễ tu tập, mới dễ hiện quán để chứng ngộ đạo quả tối hậu là sở nguyện đã muôn triệu năm của thiên tử vậy.

Lời nói đầy đủ tình lý, kinh cảm từ tâm, mở phơi chánh đạo, làm cho thiên tử Mahàsena vô cùng phấn khích, ngài qùy xuống dưới chân đại trưởng lão Assagutta, kính cẩn nói rằng:
- Vậy là ngài đã mở mắt và soi tỏ con đường cho con đi, ân đức ấy con chẳng thể nào đáp đền được; con nguyện thực thi theo lời dạy bảo của ngài hạ sanh xuống cõi trần vì lợi ích cho bao người mà cũng vì lợi ích cho con để con đầy đủ khả năng tuệ giác hầu nhiếp phục đức vua Mi-lan-đà và chấn hưng giáo pháp.
Chư vị Thánh Tăng cùng Thiên chủ Đế thích vô cùng hân hoan. Thế rồi, mỗi vị A-la-hán chia phước trí theo cách riêng của mình, từ giã cõi Đao-lợi bay về tuyết lãnh Hymalaya.

Khi Chư Tăng đã quy hội đầy đủ trên đỉnh núi Yuga-ndhara, ngài Assagutta chợt hỏi:
- Thưa chư đại đức! Trong cuộc hội họp vừa rồi, có ngài tỳ khưu nào vắng mặt chăng?
Một vị tâu:
- Kính bạch tôn giả! Đại đức Rohana đang nhập đại định bảy ngày trong hang động là không đến hội họp.
- Vậy phiền hiền giả cho mời đại đức ấy đến đây.
Trong lúc ấy, tỳ khưu Rohana vừa xả diệt định, hướng tâm đến, biết đại hội Thánh nhân A-la-hán đang cho triệu thỉnh mình, bèn tức khắc rời hang động, hiện diện ngay trước mặt Chư Tăng. Sau khi đảnh lễ chư vị trưởng lão, đại đức Rohana ngồi qua một bên.

Các vị trưởng lão hỏi rằng:
- Này hiền giả Rohana! Trước khi nhập định diệt, thọ tưởng bảy ngày, hiền giả có hướng tâm quán xét việc gì sẽ xảy ra trong bảy ngày ấy không?
Đại đức Rohana bước ra, quỳ bạch:
- Thưa quý ngài trưởng lão, vì không quán xét nên con không biết.
Chư vị trưởng lão ngồi im lặng.
Một vị trưởng lão nói rằng:
- Vì không biết cho nên không cố ý, không cố tình; không cố ý, không cố tình vậy không có tội.
Đại đức trưởng lão Assagutta nhè nhẹ gật đầu.
Một vị trưởng lão lại nói:
- Trong lúc chánh giáo đang gặp đại nạn, bần tăng đề nghị từ nay trước khi thọ hưởng hạnh phúc giải thoát, dầu thời hạn 3 ngày, qúi ngài cũng nên quán xét việc gì sẽ xảy ra trong thời gian ấy.
Chư Tăng đồng ý ý kiến ấy bằng cách làm thinh.
Đại đức Rohana tâu:
- Thưa qúy ngài trưởng lão, con có phạm tội, tội gây ra dù không cố ý; vậy con xin nhận hình phạt do Tăng quyết định, hành phạt tương đương với tội "không cố ý" ấy!
Chư Tăng đồng nở nụ cười hàm tiếu, im lặng.

Đại trưởng lão Assagutta hỏi:
- Này hiền giả Rohana! Trong mười pháp ba-la-mật, hiền giả thành tựu chưa được thuần thục, viên mãn là ba-la-mật nào?
- Thưa tôn giả kính mến! Ba-la-mật kém nhất của con là tinh tấn và nhẫn nại.

Đại trưởng lão Assagutta hội ý với các vị trưởng lão một lát rồi nói với đại chúng rằng:
- Ở xứ Katangala, phía xa dưới chân ngọn tuyết lãnh này, có người bà-la-môn tên là Sonuttara, sẽ sanh hạ một đứa con tên là Na-tiên, hậu thân của thiên tử Mahàsena. Vậy cảm phiền đại đức Rohana hãy dùng hạnh ba-la-mật tinh tấn và nhẫn nại ấy đi gieo duyên, trì bình khất thực nơi nhà bà-la-môn ấy, cho đủ kỳ hạn bảy năm và mười tháng. Sau đó tìm cách độ cho trẻ Na-tiên xuất gia. Đấy chính là hình phạt cao thượng mà tôi đề nghị dành cho ngài Rohana, chẳng hay Chư Tăng có chuẩn y không?
Chư Thánh Tăng thảy đều im lặng chấp thuận.
Đại đức Rohana qùy bạch:
- Hình phạt ấy con rất hoan hỷ, nhờ vậy, con sẽ bổ sung được công hạnh ba-la-mật của chính con.

* * *
Đấy là thời mà thiên tử Mahàsena rời khỏi thiên cung, gá vào thai bà vợ của ông bà-la-môn Sonuttara, là hương trưởng của xứ Katagala. Ngay lúc ấy, thế gian xuất hiện ba hiện tượng lạ thường:

- Tất cả khí giới phát lên chói sáng.

- Không phải mùa đông mà mưa tuyết rơi.

- Khắp trên không trung nổi lên những tiếng vang động.

Các nhà tinh thông điềm triệu bèn giải rằng:

Khí giới phát sáng là sẽ có một cuộc chiến tranh sắp xảy ra , nhưng là cuộc chiến tranh , luận tranh do khí giới kiến thức và trí tuệ chói sáng.

Không phải mùa đông mà mưa tuyết rơi là một hiện tượng nghịch lý, đảo lộn sự tuần hòan của vũ trụ, vậy thì phải có một nhân cách phi phàm, người mà không phải người xuất hiện trên trần thế.


- Sự xuất hiện của vị ấy, đấng ấy, không những chỉ lợi ích cho con người mà còn lợi ích cho rất nhiều cõi trời.

Về phần đại đức Rohana, sau khi thọ nhận hình phạt cao thượng, ngài bộ hành đến xứ Katangala. Sau khi tìm hiểu dân tình, ngài biết rằng, thôn làng này là xứ sở ngoại giáo rất thịnh hành. Muốn sống được ở đây, hóa đạo ở đây thì ngài phải kiên trì tinh tấn và nhẫn nại bất thối chuyển.


Tìm được một khu rừng mát mẻ tốt tươi, không gần mà cũng không xa xóm làng, đại đức Rohana chuẩn bị một cuộc ngụ cư lâu dài. Sau khi thu xếp được chỗ ở dưới bóng hai tàn cây đại thụ, trong một động đá thiên nhiên, đại đức Rohana lấy cỏ tranh kết tọa cụ rồi đi vào đại định, nghỉ ngơi dưỡng sức.


Mấy hôm sau, xả diệt định khi vầng thái dương vừa ló dạng ở chân trời, đại đức Rohana đắp y mang bát hướng đến làng Katangala. Rồi tuần tự nhà này sang nhà kia cho đến gia đình ông bà-la-môn Sonuttara; nhưng ở đâu cũng bị đóng cửa hoặc đưa mắt nhìn hờ hững, khinh thị, chối từ...Mỉm nụ cười của bậc Thánh ở trong tâm, đại đức Rohana trở lại khu rừng u tĩnh của mình, kiếm lá cây, trái cây ăn tạm rồi vào động đá thọ hưởng hạnh phúc giải thoát...


Những ngày hôm sau đều như vậy, với khuôn mặt từ bi, hiền hòa, với bước đi thanh thoát, trầm tĩnh, đại đức Rohana xuất hiện trước cửa mọi nhà; rồi lại với bát không, nhận lãnh những đôi mắt thiếu thiện cảm, vài lời nói xa gần chỉ trích, phỉ báng... rồi lại lặng lẽ đi về, ăn lá cây, trái cây và thiền định. Cuộc sống đều đặn như vậy trôi qua, các gia đình trong làng lần lượt thương mến, quý trọng vị sa môn hiền lành, họ cúng dường cơm, sữa, đường, mật ong...; và bao giờ nhận được vật thực gì, ngài đều đọc tụng lên một lời phúc chúc ngắn rồi bước sang một nhà khác.


Dù nắng nóng nung người, mưa gió bão bùng hay đông hàn tuyết rơi; đại đức Rohana vẫn tinh tấn, chuyên cần, nhẫn nại, xuất hiện trước cửa mọi nhà như một chiếc đồng hồ chính xác nhất. Ngài không hề bỏ một ngày trong suốt 7 năm 10 tháng ròng rã như thế. Cả làng Katangala đều được đại đức Rohana cảm hóa, thỉnh thoảng có vài gia đình thỉnh ngài về nhà để bát và xin được nghe pháp. Đặc biệt, gia đình ông bà-la-môn Sonuttara vẫn đóng kín cửa trước bước chân của ngài suốt bảy năm mười tháng, đại đức Rohana không hề nhận được dầu chỉ một lời nói dễ nghe, một biểu hiện thân thiện, một sự kính trọng xã giao nào nơi nhà người bà-la-môn ấy. Một vá cơm, một muỗng cháo, một cái bánh... lại càng không! Ngài chỉ nhận được lời chưởi chó, mắng mèo, lời rầy la con cái, lời thô lỗ cộc cằn, lời nói đâm xóc, cạnh khóe, chửi mắng, phỉ báng v.v...


Hôm kia, theo lệ thường, đại đức Rohana ôm bát đứng trước ngôi nhà ấy, gia chủ bà-la-môn Sonuttara đi vắng, một người nô bộc cảm thấy tội nghiệp lén bước ra nói nhỏ nhẹ rằng:

- Bạch ngài, xin ngài vui lòng đi độ thực nơi khác, khổ thân ngài thôi, gia đình này họ không dâng cúng chút gì đâu.

Nghe được vậy, đại đức Rohana hoan hỷ mỉm cười dời chân đi. Sau khi khất thực vừa đủ dùng, ngài trở lại khu rừng. Bà-la-môn Sonuttara sau công việc trở về, gặp ngài ở giữa đường, cất giọng mỉa mai:

- Này ngài tu sĩ, sáng nay đứng trước cửa nhà tôi, chắc ngài có nhận được chút gì đó chứ?

Đại đức Rohana cất lời nhã nhặn:

- Thưa gia chủ qúi mến! Cảm ơn lời chào hỏi, sáng nay, quả thật bần tăng có nhận được!

Nghe vậy bà-la-môn Sonuttara tức giận, hối hả bước về, kêu cả nhà ra hạch hỏi xem ai là người cả gan trái ý ông, đem dâng cúng vật thực cho ông sa môn. Khi biết rằng, chẳng có ai đem cho gì cả, ông bà-la-môn giận run lẩy bẩy: "hoá ra là ông này nói dối, ta sẽ mặt đối mặt chỉ trích ông ta một phen."

Sáng mai, vừa thấy bóng đại đức Rohana, bà-la-môn Sonuttara đã đứng chặn ở đầu ngõ, kêu mọi người trong xóm ra chứng kiến, rồi ông ta chất vấn:

- Ông thầy tu kia, hôm qua, ở tại đây, chẳng có ai để bát cúng dường gì cho ông cả, thế tại sao gặp tôi, ông lại nói dối là "có nhận được"? "có nhận được" cái gì nào, trước mặt bà con lối xóm, ông hãy nói rõ cho tôi nghe?


Đại đức Rohana điềm đạm nói:

- Thưa gia chủ, bần tăng không hề nói dối, quả thật, hôm qua bần tăng có nhận được.

- Gia đình tôi chẳng ai cho thì ông nhận được gì? Tu hành mà nói dối thế sao?

Đại đức Rohana ngước nhìn mọi người xung quanh với tư thái trầm thản rồi nói với bà-la-môn Sonuttara:


- Gia chủ hãy bình tĩnh nghe bần tăng nói đây. Bần tăng đến ngôi làng này tính đến nay là bảy năm mười tháng. Suốt trong thời gian ấy, bần tăng đều đặn đi khất thực mỗi ngày, không bỏ một ngày, dù thời tiết khắc nghiệt thế nào chăng nữa. Nhờ ơn Phật, bà con trong làng đã khởi tín tâm, hộ trì vật thực cơm cháo đầy đủ. Nhưng riêng gia đình gia chủ đây, gần ba ngàn ngày ấy, bần tăng vẫn kiên trì khất thực - mà bần tăng không hề nhận được một muỗng cháo, một vá cơm hoặc một chút vật thực dính trên đầu ngọn cỏ kusa! Cho chí một lời xã giao, một lời nói nhỏ nhẹ, dễ nghe... cũng không có! Lỗ tai bần tăng chỉ nhận được những lời cay chua, độc địa, những lời nói cạnh khóe, ác khẩu, ác ngữ...; thế nhưng, sáng hôm qua, bần tăng có nghe được một lời nói nhã nhặn, lễ độ... của một người tớ gái, cho nên bần tăng rất hoan hỷ, rất cảm ơn. Vậy thì thưa gia chủ, bần tăng nói với ngài là "bần tăng có nhận được" là đúng với sự thực, đâu phải là lời nói dối?


Nghe xong câu chuyện, bà con trong xóm rất cảm động trước lời nói của vị chân tu. Riêng ông bà-la-môn Sonut--tara thì kinh cảm đến từng chân tơ kẻ tóc, lòng bừng bừng hoan hỷ, nghĩ rằng: "Chỉ với một lời nói dễ nghe mà ông ta đã tỏ vẻ cảm ơn như thế ấy, huống hồ ta thành kính cúng dường cơm bánh vật thực thượng vị thì ông ta sẽ thỏa thích và tri ân gia đình ta đến chừng nào?"

Nghĩ thế xong, bà-la-môn Sonuttara chăm chú quan sát đại đức Rohana, ngạc nhiên làm sao, khi ông thấy vị sa môn kia sao thanh khiết quá, đức hạnh quá. Khuôn mặt vị ấy như tỏa ra ánh sáng dịu hiền, đôi mắt từ bi, dáng dấp ung dung, siêu thoát, tự tại, lục căn buông xả và nhàn tịnh. Một niềm tịnh tín dâng lên, một niềm hỷ lạc dâng lên, ông bà-la-môn bèn bước đến, quỳ mọp bên chân đại đức Rohana, kính cẩn bạch rằng:


- Hôm nay con đã có tâm trong sạch với ngài, xin ngài hãy khoan thứ những tội lỗi do con đã mạo phạm. Vậy bắt đầu từ đây về sau, xin ngài vì lòng bi mẫn hãy thương tưởng đến con, tế độ con bằng cách cho con được cúng dường mỗi bữa!
Đại đức Rohana im lặng nhận lời.

Còn tiếp

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#4
Khi câu chuyện xảy ra ở trên, đồng tử Na-tiên do thiên tử Mahàsena hạ sanh, sau mười tháng trong thai bào, bây giờ đã được bảy tuổi. Bà-la-môn Sonuttara cho mời một thầy ba-la-môn uyên bác đến dạy học. Họ sữa sọan bàn ghế, trải những tấm thảm quý để chuẩn bị cho lớp học khai tâm.

Nhìn vị đồng tử tướng mạo phi phàm, thầy A-đồ-lê soạn ba bộ kinh Phệ-đà rồi lần lươt đọc tụng lên, xem thử trí nhớ của trẻ như thế nào! Hễ cứ đọc một đọan, thầy bảo Na-tiên đọc lại và Na-tiên đọc không sai một chữ. Kinh ngạc, thầy A-đồ-lê đọc tiếp. Suốt nửa tháng, ba bộ kinh Phệ-đà mới đọc xong và Na-tiên đã thuộc nằm lòng.
Thầy A-đồ-lê giảng giải:
- Đấy là tất cả kinh điển của giai cấp thượng đẳng bà-la-môn, con đường đến Phạm thể, những đức tính cao cả cùng những tri thức minh triết trên đời này mà một con trai bà-la-môn thông thái phải am tường. Kỳ lạ làm sao, con đã học thuộc, vậy bây giờ hãy nghe ta giảng đây.
Nửa tháng sau thì Na-tiên đã thông suốt tam Phệ-đà, dẫu thầy A-đồ-lê hỏi xuôi ngược, hỏi nghĩa đen, nghĩa bóng, ẩn dụ, đoản ngôn,v.v... Na-tiên đã trả bài làu làu không vấp váp.
Bất đồ, Na-tiên hỏi lại thầy:
- Kính thầy A-đồ-lê! Tam Phệ-đà là ba con đường dẫn đến Phạm thể, đấng vô thượng chí tôn! Tri thức của thầy thông thái như vậy, nhưng con đường thực hành thì như thế nào? Thầy lựa chọn con đường nào?
Thầy bà-la-môn nín lặng.
- Hoặc là thầy đã từng thấy đấng Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ ấy chưa?
Để cho vị thầy già bối rối với những câu hỏi, đồng tử Na-tiên đi đến gặp bà-la-môn Sonuttara:
- Thưa cha! Con không học nữa. Tri thức Phệ-đà thật vô ích vì chính thầy dạy học của con cũng không biết đấng Phạm thể ấy là thế nào, và cũng chưa từng chứng nghiệm hạnh phúc thể nhập Đấng Ây ra sao?
Bà-la-môn Sonuttara sững người, ông cũng không biết ăn nói làm sao với con, đành nói át:
- Nhưng con cần phải học nữa.
Đồng tử Na-tiên lễ độ:
- Vâng, thưa cha, con sẽ học, nhưng không biết là còn phải học những gì nữa?
- Con phải học chữ, học viết; và cần phải học năm bộ sách nữa.
- Thưa cha! Học chữ, học viết thì không cần nữa, vì một tháng nay con đã tự học rồi. Còn năm bộ sách kia là những bộ sách gì?
Bà-la-môn Sonuttara lại cầu viện thầy A-đồ-lê giảng giải về năm bộ sách ấy như sau:

1. Về phúng tụng, nghi lễ.
2. Về thiên văn địa lý.
3. Xem xét thế giới, đức Iso và sự sáng tạo núi sông, cây cỏ, muôn loại...
4. Đoán mộng, xem tướng.
5. Vệ sinh thường thức như: rửa mặt, tắm, thọ dụng vật thực, đại tiểu tiện v.v...


Đồng tử Na-tiên chăm chú nghe xong, hỏi:
- Thưa cha! Năm bộ sách ấy đã có viết sẵn chưa?
- Có viết sẵn, và gia đình chúng ta cũng có thờ năm bộ ấy.
- Vậy xin cha hãy trả thù lao hậu hĩ cho thầy dạy học của con. Bắt đầu từ nay con có thể học được.
Thế rồi, trước sự sững sờ, kinh ngạc của mọi người, đồng tử Na-tiên ôm năm bộ sách, xin ở nơi một căn nhà trống trong khu vườn xinh đẹp để đọc, nghiên cứu, học tập. Trọn cả bảy ngày như vậy, Na-tiên chỉ rời sách khi dùng cơm và khi ngủ.
Sau khi nắm trọn vẹn cả năm bộ sách, Na-tiên bần thần suy nghĩ:
-" Có lợi ích gì đâu là những môn học này? Ngoại trừ về vệ sinh thường thức, còn ngoài ra chúng trừu tượng, xa vời so với đời sống, sự sống của con người. Nó chẳng cho ta hiểu rõ về nguồn gốc của sinh tử và nỗi khổ đau chung của sanh loại. Ôi! Thật là rỗng không và phù phiếm thay?"
Suốt trong thời gian ấy, đại đức Rohana đã lui tới thường xuyên nơi ngôi nhà này, nhận sự cúng dường những món ăn thượng vị của bà-la-môn Sonuttara . Và hình bóng ngài đã trở nên thân thiết, ấm cúng cho mỗi người trong gia đình. Ngài theo dõi sự học tập và tâm tư của đồng tử Na-tiên trong mỗi ngày. Ngài biết rằng Na-tiên do nhờ công hạnh và trí tuệ tu tập nhiều kiếp theo Chánh pháp, vững chắc chánh kiến, nên những tư tưởng ngoại giáo thật khó tương ưng. Và hiện giờ Na-tiên đang chán nản, sầu muộn, hoài nghi. Biết vậy, như lực sĩ với cánh tay duỗi, đại đức Rohana đã xuất hiện trước mặt đồng tử Na-tiên với dung nghi chói sáng, với đôi mắt từ bi và nụ cười hiền dịu.
Vừa thấy ngài, đồng tử Na-tiên tâm phát sanh phỉ lạc, hân hoan nghĩ rằng: "Ta từng thấy vị chân tu này mà chưa được đối mặt, chưa được hầu chuyện với ngài. Ôi! Được đáp vấn với ngài vài câu chắc lợi ích cho ta lắm."
Bèn kính cẩn nói:
- Bạch tôn trưởng! Tại sao tôn trưởng có phẩm mạo và y phục khác với kẻ thế?
Đại đức Rohana thân ái ngồi xuống một bên:
- Này con thân! Vì ta là kẻ xuất gia!
- Người xuất gia là gì?
- Là người tình nguyện lìa bỏ gia đình, quyến thuộc, tài sản, vợ con; sống đời đi xin ăn rày đây mai đó, chẳng có trú xứ nhất định, chẳng có nhà cửa, mái che; chỉ mang theo bên mình ba y và cái bát khất thực.
- Xuất gia như vậy có lợi ích gì không, thưa tôn trưởng?
- Có chứ! Có lợi ích nhiều lắm chứ con! Người xuất gia thường lánh xa điều ác, thường bỏ dữ làm lành, thường sống đời rỗng lặng, thanh tịnh, không có khổ đau, phiền muộn.
Đồng tử Na-tiên suy nghĩ hồi lâu, lặng lẽ gật đầu ra chiều đã lãnh hội, rồi hỏi tiếp:
- Tại sao tôn trưởng phải cạo bỏ râu tóc?
Đại đức Rohana ân cần giải thích:
- Người xuất gia vì muốn sống đời giải thoát như hư không nên phải cạo bỏ râu tóc; vì cạo bỏ râu tóc là muốn tránh tất cả những công việc bận rộn vô ích sau đây:

1. Tốn tiền và mất thì giờ do kiếm thợ cắt tóc và gội đầu.
2. Tốn tiền và mất thì giờ do mua trâm cài tóc, bối tóc, cột tóc hoặc chải tóc.
3. Tốn tiền mua hương liệu, dầu thơm và mất công xoa ướp.
4. Tốn tiền và mất công mua hoa kết làm tràng hoa.


Ngoài ra, muốn cho đầu tóc được đẹp người ta còn trang điểm bằng những đồ trang sức như vàng, bạc cùng những loại đá qúy khác nữa. Vậy, nhờ tránh những bận rộn ấy mà người xuất gia có nhiều thì giờ dành cho sự tu tập đó con!
Nhè nhẹ gật đầu, Na-tiên hỏi tiếp:
- Còn tại sao lại mặc y nhuộm bằng vỏ cây, rễ cây?
- Cũng tương tự như cạo bỏ râu tóc vậy, nghĩa là tránh những bận rộn do kiếm vải vóc, tốn tiền, tốn thời gian may vá, tìm kiếm thuốc nhuộm v.v..., áo quần đẹp như kẻ thế lại còn tốn thời giờ sửa soạn thân thể, vật trang điểm, vật thoa, vật thơm cùng những phiền phức khác nữa...
- Con hiểu! Quả là mất thì giờ vào những việc phù phiếm ấy thì không đáng tí nào! Tất cả những lời nói của tôn trưởng đều rất hay, đều rất hợp với sở thích của con. Vậy chẳng hay tôn trưởng có thể chỉ dạy cho con phương pháp tu tập cao thượng như của tôn trưởng chăng?
Đại đức Rohana mỉm cười:
- Có thể được, con ạ! Nhưng có điều khó khăn, không biết con có vượt qua được chăng?
- Con sẽ cố, thưa tôn trưởng!
- Là con phải dứt bỏ tất thảy các điều bận rộn như ta nói ở trên; nghĩa là phải xin phép cha mẹ cạo bỏ râu tóc, mặc y nhuộm bằng vỏ cây thô xấu cho đúng với phẩm mạo của người xuất gia; sống không nhà cửa, đi theo ta mới mong thực hành, tu tập theo pháp môn cao thượng của ta được.
Nghe lời đại đức Rohana, đồng tử Na-tiên ôm năm bộ sách về trả lại trên bàn thờ, ngồi lặng lẽ, buồn bã, bỏ ăn, bỏ ngủ. Bà-la-môn khi hiểu được ý định xuất gia của con trai, tự nghĩ: "Nếu cho nó đi xuất gia theo vị sa môn khả kính kia cũng là điều hay; khi lớn tuổi, khôn ngoan, hiểu biết, ta lại bắt về, lo gì!"
Thế là đồng tử Na-tiên được phép gia đình đi theo đại đức Rohana, bắt đầu con đường tôi luyện, tu tập, hy vọng sau này trở nên một pháp khí đại dụng cho chánh pháp thời pháp nạn.

Còn tiếp

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#5
Hai thầy trò lầm lũi đạp tuyết dầm sương nhắm hướng Hymalaya đi thẳng. Thấy đồng tử Na-tiên còn quá nhỏ sợ không kham nổi nắng gió đường xa nên đại đức Rohana cho nghĩ chân tại chùa Niya Vijambùvatthu để dưỡng sức. Mấy ngày hôm sau họ mới tới được hang động Rakkhita kỳ vĩ, nơi ẩn cư của hội chúng Thánh nhân A-la-hán .

Đồng tử Na-tiên thấy càng lúc càng đi sâu vào núi non cheo leo hiểm trở, khí lạnh buốt xương, rất nhiều loại thú rừng hoang dã lui tới đó đây, bèn cảm thấy sợ hãi. Đại đức Rohana trấn an:
- Cả hàng trăm vị ẩn sĩ đang sống rất yên lành, thú dữ ở đây chúng không làm hại ai cả.
Họ bước vào một hang động thiên nhiên hùng vĩ, không khí mát mẻ tỏa ra. Rất nhiều vị Thánh A-la-hán ngồi yên lặng thiền định, thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả trên những tảng đá bằng phẳng trơn tru.
- Hiền giả đã làm xong bổn phận và đã về rồi đấy à, Rohana?
Một vị Thánh Tăng mày bạc như hai vệt tuyết, người gầy khô, khẳng khiu nhưng cứng cáp như một cỗi tùng già, mở mắt cất tiếng hỏi.
Đại đức Rohana dẫn đồng tử Na-tiên đến quỳ tâu:
- Thưa vâng, con đã thi hành xong hình phạt cao thượng, và đây là đồng tử Na-tiên!
Đại trưởng lão quan sát trẻ một hồi rồi nói:
- Hạnh Ba la mật tinh tấn và nhẫn nại của hiền giả rõ ràng là đã thành tựu viên mãn, bần tăng xin chúc mừng hiền giả.
- Con không dám!
- Hình phạt tuy đã xong, nhưng hiền giả có nhân duyên làm thầy hòa thượng tế độ và làm thầy giáo thọ cho đồng tử Na-tiên nữa đấy!
- Con xin vâng!
Thế rồi, buổi chiều, đồng tử Na-tiên được cạo tóc, mặc chiếc y thô xấu, xuất gia làm sa di với sự chứng minh của hội chúng Thánh nhân A-la-hán, thầy tế độ là hòa thượng Rohana.
Sau khi làm lễ xuất gia xong, ngài đại trưởng lão Assagutta vân du về chùa Nìyaka mà ngài từng ở trước đây, các vị A-la-hán khác chia nhau đi nhiều phương hoặc dời vào các hang động sâu trong tuyết sơn.
Sa di Na-tiên liền tâu với đại đức Rohana:
- Phẩm mạo xuất gia con đã làm xong rồi, vậy xin tôn trưởng chỉ giáo cho con phương pháp tu tập cao thượng.
Đại đức Rohana nghĩ thầm: "Sa di này có trí nhớ phi phàm, hy vọng y sẽ thuộc nằm lòng được Thắng nghĩa pháp. Nhờ làu thông tạng Thắng nghĩa này, sau này sẽ là kho tàng trí tuệ để y tranh luận với đức vua Mi-lan-đà."
Rồi ngài nói:
- Này Na-tiên con! Giáo pháp đầy đủ gồm có 3 tạng, tổng cọng kinh chữ viết trên lá buôn, số lượng rất kinh khiếp, 16 con voi kéo cũng không hết! Ây là tạng Kinh, tạng Luật và tạng Thắng nghĩa pháp hay là Vi diệu pháp. Bắt đầu từ hôm nay, ta sẽ dạy con học tạng Vi diệu, là tạng khó nhất, con có kham nhẫn được chăng?
- Con sẽ cố gắng!
- Tốt. Bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ ra bãi cát ven suối, học tại đấy!
Thế rồi, tuần tự, đại đức Rohana tụng đọc, viết, cắt nghĩa bảy bộ Abhidhamma cho sa di Na-tiên cùng với những giảng giải cặn kẽ, chi tiết:

Dhammasanghanì: Bộ pháp tụ.
Vibhangha: Bộ phân tích.
Dhàtukathà: Bộ chất ngữ.
Puggala pannati: Bộ nhân chế định.
Kathàvatthu: Bộ ngữ tông.
Yamaka: Bộ song đối.
Patthànamahàpa karana: Bộ vị trí.


Suốt mấy năm trường sa di Na-tiên chuyên cần học Vi diệu tạng. Khi đã học thuộc lòng cả bảy bộ, Na-tiên thưa với thầy:
- Bạch tôn trưởng! Ngài dạy cho đệ tử như vậy là đã quá nhiều, chưa cần thiết phải dạy thêm. Hãy cho đệ tử suy gẫm giáo pháp cao siêu này cho tới nơi tới chốn.
Cũng trong thời gian này, đại đức Rohana cặn kẽ chỉ dạy cho Na-tiên cách đi đứng nằm ngồi, mặc y, mang bát; cách cung kính, lễ bái các vị trưởng lão, cách sống với chúng ở giữa rừng núi, ở giữa phố thị, làng mạc v.v... Mỗi mỗi oai nghi, hành động, ăn nói phải cẩn trọng, thu thúc, gìn giữ như thế nào để cho xứng đáng phẩm hạnh của một sa môn. Na-tiên đã được dạy sơ về một số giới luật như thế, thêm một số kinh căn bản, vài pháp môn hít thở, thiền định, thiền quán v.v...

Khi đã đến tuổi thiếu niên, có lẽ đã suy gẫm sâu xa về Vi diệu tạng cùng với những lý nghĩa rốt ráo của nó, Na-tiên quỳ bạch với đại đức Rohana, xin được thuyết lại bảy bộ Vi diệu tạng trước sự chứng minh của chư tỳ khưu Tăng. Đại đức Rohana hoan hỷ bằng lòng, với tâm truyền tâm, ngài thỉnh mời tất cả các vị trưởng lão, các vị Thánh nhân đồng quy hội tại hang động Rakkhita.

Đến ngày, đại đức Rohana trang trọng kết một bảo tòa bằng lá cỏ để cho vị pháp sư tí hon đăng đàn thuyết pháp. Thế rồi, như sấm gióng giữa trời mưa, sa di Na-tiên thuyết như nước chảy mây trôi từng bộ Thắng nghĩa pháp với đầy đủ lý nghĩa sâu rộng; đầy đủ ẩn dụ, so sánh, phân tích, đoản ngôn, kệ ngôn v.v... một cách linh hoạt, dí dỏm, sắc bén, chưa từng được nghe.

Bảy tháng, bảy bộ kinh Vi diệu tạng mới được thuyết xong! Cử tọa, thính chúng Thánh nhân rất vui mừng vì tâm huyết của các ngài thế là đã thành tựu bước đầu. Quả đất dày bốn mươi do tuần rung rinh chấn động. Chư thiên hoan hỷ tán dương công đức của vị sa di. Chư phạm thiên sắc giới cũng hết lòng khen ngợi biện tài của vị pháp sư siêu việt. Hoa Mạn-đà-la giữa hư không rơi xuống ngày đêm cúng dường Pháp Bảo.

Lúc sa di Na-tiên tròn 20 tuổi, chư vị A-la-hán cho thọ đại giới làm thầy tỳ kheo; rồi được đại đức Rohana đẫn đi thăm các chùa dưới chân núi.
Hôm kia, cùng thầy đi khất thực trong một ngôi làng, ý nghĩ sau đây khởi lên trong tâm của vị tân tỳ kheo: "Sao mấy năm nay thầy của ta không dạy thêm gì cho ta hết, hay ngài chỉ biết có bảy bộ Vi diệu tạng kia thôi, chẳng thông thuộc một giáo pháp nào khác?".

Đại đức Rohana, với tâm biết tâm, biết ý nghĩ xấu quấy của Na-tiên, bèn mỉm cười nói rằng:
- Này con! với tâm niệm như thế thật không xứng đáng cho con, một tu sĩ xuất gia phạm hạnh. Tâm niệm ấy là kiêu căng, ngã mạn, con có biết thế chăng?
Tỳ khưu Na-tiên hoảng sợ, tóc dựng ngược, nghĩ rằng: "Ôi! Quả thật ta đã quấy quá, thầy ta quả thật là bậc đại trí thức, ta chẳng nên tự làm hại ta bởi những ý nghĩ xuẩn ngốc."
Rồi Na-tiên quỳ mọp xuống đất, ôm chân bụi của đại đức Rohana:
- Xin thầy từ bi xá tội cho đệ tử, đệ tử nguyện sẽ không còn dám tái phạm nữa.
Đại đức Rohana lắc đầu:
- Ta không thể xóa tội ấy cho con được!

Để cho Na-tiên quỳ xin sám hối đúng ba lần, đại đức Rohana mới nói:
- Thôi được rồi, cũng không muộn gì. Con phải siêng học pháp học cho thành tài, phải đi vào pháp hành cho rốt ráo. Bao giờ con có thể dùng trí tuệ của mình khuất phục được đức vua Mi-lan-đà, kinh đô Sàgala, để nhà vua phát tâm trong sạch, quy ngưỡng theo Phật giáo, thì khi ấy ta sẽ xá tội cho con.
Tỳ khưu Na-tiên chấp tay, cúi đầu nhũn nhặn:
- Bạch tôn trưởng! Lúc nào là đúng thời? Và đức vua ấy là người ra sao?
- Trái cây kia còn xanh, không thể mong nó chín vội. Vậy đến lúc nào đó, tự con sẽ thấy là đúng thời, tự con sẽ biết.
- Đệ tử sẽ còn học và hành bao lâu nữa?
- Con còn phải văn, tư và tu nhiều lắm, hãy biết như vậy!
Suy nghĩ một lúc, tỳ khưu Na-tiên lại hỏi tiếp:
- Ba tháng mưa tới đây, đệ tử sẽ nhập hạ ở đâu để có được sự tấn ích lợi lạc?
- Con hãy bộ hành đến chùa Nìyaka và thọ giáo với vị đại trưởng lão ở đấy. Nói rằng ta gởi lời vấn an sức khỏe của người.
Đến ngày tỳ khưu Na-tiên từ giã thầy bổn sư để lên đường. Tại chùa Nìyaka, Na-tiên gặp lại đại trưởng lão mà ngài từng gặp ở thạch động Rakkhita, đảnh lễ, vấn an sức khỏe của người rồi ngồi sang một bên.

Vị đại trưởng lão chính là ngài Assagutta, giả vờ hỏi rằng:
- Ngươi tên chi?
- Tên của đệ tử, ngài rõ rồi.
- Vậy tên ta là gì?
- Thầy bổn sư của đệ tử biết rõ tên của ngài.
- Bổn sư của ngươi tên gì?
- Ngài đã biết rõ tên bổn sư của đệ tử.
Đại trưởng lão Assagutta rất thú vị, bèn nói:
- Đúng thế!
Rồi thầm nghĩ: "Ngài Rohana gởi y đến ta là cốt ý để ta mài giũa cái "pháp khí" này cho sắc bén, nhưng ta sẽ không mài giũa, ta sẽ làm cho nó cùn nhụt bớt đi. Hãy dập tắt kiêu căng, ngã mạn nơi tỳ khưu Na-tiên này."

Kể từ hôm ấy, đại trưởng lão Assagutta giữ im lặng, không nói một lời dầu cho tỳ khưu Na-tiên có hỏi gì chăng nữa. Ngoài ra, chỗ nào mà Na-tiên quét dọn, cất đặt, đại trưởng lão Assagutta cất đặt, quét dọn lại. Nơi nào Na-tiên múc nước đầy, ngài nghiêng đổ đi, múc nước nơi khác rửa mặt, tay chân v.v...Tuy nhiên, Na-tiên không lấy thế làm phiền hà, một lòng nhẫn nại, mềm mỏng để vượt qua tất cả mọi thử thách.

Ba tháng như vậy qua đi.
Một bữa kia, có người cận sự nữ thân tín, lâu năm, đến chùa thỉnh đại trưởng lão xin cúng dường để bát tại nhà, rồi nói:
- Dường như ở chùa có vị khách tăng từ phương xa đến an cư, phải thế không, bạch ngài?
- Có, là tân tỳ kheo Na-tiên .
- Đệ tử xin thỉnh luôn vị ấy.
Đại trưởng lão Assagutta im lặng nhận lời. Hôm sau, cũng không mở miệng, ngài ra dấu hiệu bảo Na-tiên đắp y mang bát đi theo. Người cận sự nữ sau khi tự tay mình dâng cúng thực phẩm thượng vị đến bát cho hai ngài, đợi hai ngài dùng xong bèn thưa thỉnh muốn được nghe pháp.

Đại trưởng lão chợt nói với Na-tiên:
- Ông hãy tùy nghi thuyết pháp làm sao cho thí chủ của ông được hoan hỷ.
Nói xong, chẳng đợi Na-tiên "ừ hử" ra sao, đại trưởng lão đã quăng bát qua hư không, bay về chùa Nìyaka trong thời gian chớp mắt. Na-tiên ngơ ngẩn, xuất thần mà bà tín nữ cũng ngơ ngẩn xuất thần một lúc lâu.

Người cận sự nữ bèn tâu:
- Thỉnh đại đức thuyết pháp. Đệ tử đã 30 năm tu học làm một cận sự tại gia, hôm nay chỉ thích nghe pháp sâu xa mầu nhiệm hầu mở mang trí tuệ.
Tỳ kheo Na-tiên định tâm một lát, đoán căn cơ, rồi với tâm chân thật và lòng bi mẫn, nói rằng:
- Hãy nghe đây bà tín nữ! Bà không muốn nghe nhiều lời mà tôi cũng mới chỉ là tân tỳ kheo, tu học chẳng bao lâu, không có nhiều pháp. Vậy tôi chỉ thuyết tóm tắt một kệ ngôn thôi, bà hãy nhiếp tâm và chăm chú lắng nghe!

- Vâng, thưa đại đức.
Rồi với giọng phát âm chuẩn mực, chính xác nhất, tỳ kheo Na-tiên ngâm một kệ ngôn như sau:
"Yamkincisamudayadhamma sabbantam nirodhadhammam;
có nghĩa là:
"tất cả các pháp được cấu tạo, kết hợp, hữu vi;
nó do duyên sanh thì phải theo duyên diệt
".


Như chìa khóa mở cửa kho tàng, câu kệ ngôn được thuyết lên hàm nghĩa tinh yếu giáo pháp đã vén mở trí tuệ cho bà tín nữ. Thanh âm trầm hùng, vi diệu của câu kệ như tiếng chuông ngân vừa chìm lắng trong không gian, bà đã đắc quả Tu-đà-huờn, nhập vào dòng Thánh. Xiết bao hoan hỷ, bà tín nữ già nua quỳ mọp xuống đảnh lễ với những giọt nước mắt rơi lả chả: giọt nước mắt mừng vui, vì bà biết rằng từ đây, còn rất ít phiền não, bà sẽ nhẹ nhàng cất cánh bay về cõi Bình an Vĩnh hằng!

Trong lúc ấy, ở chùa Nìyaka, đại trưởng lão Assagutta dùng thần thông theo dõi và biết rõ mọi chuyện, ngài thốt lên: "Lành thay, lành thay!" rồi suy nghĩ:
"Tỳ kheo Na-tiên vừa được trí vừa được tâm, khá lắm! Ngã mạn, tự cao giờ y đã lắng dịu! Bài pháp ngắn gọn vừa rồi chứng tỏ y đầy đủ công hạnh ba-la-mật từ quá khứ. Chỉ với một mũi tên buông ra là trúng đích, cũng vậy, một câu kệ ngôn thôi mà đã làm cho bà tín nữ cắt đứt một lúc ba sợi dây trói buộc là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Hy hữu thay!"
Trên hư không, đại trưởng lão Assagutta còn nghe được rất nhiều chư thiên phát tâm thỏa thích, rải hoa cúng dường và hết lòng tán thán trí tuệ ba-la-mật của tỳ kheo Na-tiên .
Trở về chùa, tỳ kheo Na-tiên đến đảnh lễ đại trưởng lão rồi ngồi xuống một nơi phải lẽ.
Tôn giả Assagutta nói:
- Ngươi đã thuyết gì?
- Bạch, ngài đã biết rõ hơn cả đệ tử nữa!
Im lặng.
- Ngươi thuyết "hay" nhỉ?
- Bạch tôn trưởng, ngài đã qúa khen, vả lại, ngãi cũng rõ, không phải đệ tử thuyết "hay", mà nhờ may mắn là đúng căn cơ!
Im lặng.
- Chân thực, nhẫn nại là những ba-la-mật mà ngươi đã tự thành tựu!
- Đệ tử nhờ sự chỉ dạy của tôn trưởng.
- Tất cả những ba-la-mật khác cũng cần phải được tu tập cho trọn vẹn, sung mãn như thế.
- Thưa vâng!
Im lặng.
Đại trưởng lão chợt ân cần nói với Na-tiên:
- Bây giờ ta phải trở lại Hy-mã-lạp sơn, còn ngươi thì hãy đi đến phía tây của thành phố Pàtaliputta, chùa Asoka, đảnh lễ vị trưởng lão tên là Dhammarakkhita. Ở đấy ngươi có thể học hỏi được ít nhiều.
- Bạch tôn trưởng, ngài không chỉ dạy gì thêm cho đệ tử nữa sao?
- Ta còn một vài việc nữa trước khi Niết-bàn, nhưng đối với ngươi thì ta đã hết trách nhiệm và bổn phận. Hãy chuẩn bị và lên đường vào sáng hôm sau.
Na-tiên chợt xúc động quỳ ôm chân bậc tôn trưởng, lát sau mới hỏi:
- Đệ tử không còn gặp ngài nữa chăng?
- Duyên đã mãn.
Im lặng.
- Từ đây đến chùa Asoka là bao xa, thưa tôn trưởng?
- Chừng một trăm do tuần.
Im lặng.
- Xin ngài bi mẫn dạy cho con một lời cuối cùng?
- Hãy thắp sáng ngọn đuốc Chánh Pháp!
Khi Na-tiên quỳ xuống thành kính đảnh lễ, ngước lên thì không còn trông thấy đại trưởng lão Assagutta nữa; ngài bùi ngùi đứng lặng nhìn vào giữa hư không, cảm thán thốt lên: "Ôi! Các bậc Thánh nhân trên đời này họ đến đi nhẹ nhàng, thanh thoát, gót chân họ không hề dính dù là một chút bụi hư không."
Sáng ngày, vị tân tỳ kheo Na-tiên lầm lũi nhắm thành phố Pàtaliputta lên đường. Đi mới được một đổi, một đoàn năm trăm cổ xe với hàng hóa chất đầy tung bụi lướt qua. Tỳ kheo Na-tiên đứng nép vào gốc cây ven lộ.
Thấy ngài, người bá hộ khách thương cho dừng xe lại, đến bên cung kính hỏi:
- Bạch ngài, ngài định bộ hành về đâu?
- Bần đạo đến thành phố Pàtaliputta, chùa Asoka.
- Con cũng về hướng ấy, vậy xin thỉnh ngài cùng đi với con.
- Cảm ơn lòng tốt của thí chủ.
- Xin ngài đừng cảm ơn con, con là một cư sĩ, con làm việc ấy vì tâm hoan hỷ, vì bổn phận thích đáng của người Phật tử.
Tỳ kheo Na-tiên từ tốn mỉm cười, khẽ gật đầu.
Thế rồi họ cùng lên xe tiếp tục hành trình. Người khách thương lặng lẽ quan sát tướng mạo, ngôn ngữ, cử chỉ của vị sa môn trẻ trung, xinh đẹp mà không ngớt khen thầm trong lòng. Khắp nơi, Tăng lữ ly tán, chùa chiền hoang phế; chỉ còn năm, bảy am thất khuất tịch là còn sinh hoạt - thế mà ở đâu lại sản sinh ra một vị tỳ kheo phi phàm như thế này?
Vị khách thương chợt nói:
- Từ đây đến chùa Asoka, chúng ta phải đi mất bảy, tám ngày đường, vậy trong thời gian ấy, đại đức hãy cho phép con được dâng cúng vật thực vào mỗi bữa trưa.
Tỳ kheo Na-tiên nhận lời bằng cách làm thinh.
Đường xa, người khách thương được dịp hầu chuyện.
- Vị bổn sư mà con quy y là một vị luận sư tinh thông Vi diệu tạng, nên con cũng mê say môn học ấy. Vậy chẳng hay đại đức có thể chỉ giáo cho con một vài điểm trong tạng ấy chăng?
Tỳ kheo Na-tiên ngạc nhiên nói:
- Là cư sĩ mà ông cũng học Vi diệu tạng ư? Về tạng ấy bần đạo cũng có học được chút ít. Ông cư sĩ cứ hỏi, bần đạo sẽ trả lời bằng khả năng hiểu biết hạn hẹp của mình.
Thế rồi, thầy trò ngày đi đêm nghỉ. Những câu hỏi lần lượt của người khách thương đưa ra, được tỳ kheo Na-tiên khiêm tốn trả lời. Trước dễ, sau khó, từ cạn vào sâu... người khách thương đã thật sự kinh ngạc trước kiến thức bao la như đại dương của vị tỳ kheo trẻ. Ông ta lại càng kính trọng và khâm phục hơn nữa ở đức tính nhũn nhặn, khiêm hòa và sự định tĩnh tâm hồn được biểu hiện qua nụ cười, đôi mắt cùng tứ oai nghi của ngài.
Những câu hỏi về Vi diệu tạng vừa chấm dứt thì thành phố Pàtaliputta cũng vừa hiện ra ở cuối tầm mắt. Người khách thương như vừa tắm xong trong một dòng suối trong lành của Pháp bảo, ông ta hoan hỷ và thỏa thích vô hạn; huệ nhãn phát sanh, mọi trần cấu, bợn nhơ phiền não thô thiển chợt dưng lắng dịu, những ác pháp không còn dấy khởi lên nữa: ông ta đã chứng quả Nhập lưu!
Khi chia tay, người khách thương phát tâm trong sạch cúng dường xấp vải Kampala quý báu dài mười sáu hắc tay, rộng tám hắc tay. Tỳ kheo Na-tiên nói lời chúc phúc rồi từ giã.
Đến chùa Asoka, Na-tiên tìm gặp trưởng lão Dhamm-arakkhita, đảnh lễ, dâng xấp vải quý cho ngài rồi bạch rằng:
- Đệ tử từ chùa Nìyaka lặn lội đường xa tới đây, mong ngài từ bi dạy pháp học cho đệ tử.
- Ông là đệ tử của ai?
- Bạch, tất cả các vị tôn túc trưởng lão trong hang động Rakkhita đều là thầy của đệ tử.
Tôn giả Dhammarakkhita gật đầu rồi hỏi tiếp:
- Thầy trực tiếp là vị nào?
- Thưa, tôn trưởng Rohana, tôn trưởng Assagutta.
- Đấy là các bậc đại Tôn túc Thánh nhân! Các ngài ấy đã dạy cho ông những gì?
- Một vị dạy đệ tử Vi diệu tạng và uy nghi giới hạnh, một vị dạy đệ tử đức chân thật, khiêm cung và nhẫn nại.
- Tốt, vậy bây giờ ông muốn học gì nữa?
- Đệ tử pháp học còn kém cỏi, thiếu sót, xin ngài vì lòng bi mẫn dạy thêm cho đệ tử về Kinh và Luật.
Tôn giả Dhammarakkhita im lặng nhận lời.
Ngày hôm sau có một vị tăng tên là Tissadatta từ Tích lan vượt biển tìm đến cũng mong được học tạng Kinh bằng ngôn ngữ Magadha. Khi được hỏi, vị tỳ kheo này cho biết là đã học thuộc nằm lòng tạng Kinh bằng tiếng Lankà, nay muốn học thêm tạng Kinh bằng tiếng Magadha để tiện bề so sánh, đối chiếu. Tôn giả Dhammarakkhita và tỳ kheo Tissadatta nói chuyện với nhau bằng tiếng Tích lan. Khi trao đổi xong, tỳ kheo Tissadatta quỳ xuống đảnh lễ tôn giả Dhammarakkhita.
Buổi chiều, tôn giả Dhammarakkhita nói với Na-tiên:
- Bắt đầu từ ngày mai, ông cùng học chung với tỳ kheo Tissadatta!
Na-tiên lắc đầu:
- Đệ tử không muốn học chung với vị ấy.
- Tại sao?
- Thưa , người xứ Sàgala không thích ngôn ngữ Lan-kà, nên đệ tử chỉ muốn học tạng kinh bằng tiếng Magadha thôi!
Tôn giả Dhammarakkhita chợt nghiêm mặt:
- Dĩ nhiên là ta dạy bằng tiếng Magadha! Nhưng ông đã hiểu lầm ta và có ý nghĩ xấu về tỳ kheo Tissadatta, ông có thấy thế không?
Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, Na-tiên quỳ mọp xuống xin sám hối, nghĩ thầm trong tâm rằng: "Những ý nghĩ xấu quấy của ta như thế nào, ngài đều biết rõ cả, vậy hãy cố gắng sống đời tỉnh thức, chánh niệm trong mỗi hơi thở."
Thế rồi họ lần lượt học năm bộ kinh Nikàya bằng tiếng Magadha, ấy là: Dìgha, Majjhima, Samyutta, Angutta-ra và Khuddaka. Trí nhớ của Na-tiên thật phi thường, chưa tới mười hôm đã học thuộc lòng bộ Dìgha Nikàya, trong lúc ấy Tissadatta chưa học xong được một nửa!
Ban đầu, tôn giả Dhammarakkhita muốn dìm bớt tính khí kiêu ngạo của tỳ kheo Na-tiên bằng cách không dạy tiếp nếu tỳ kheo Tissadatta chưa thuộc. Nhưng sau thấy Na-tiên không tỏ vẻ nóng nảy, vẫn lặng lẽ chờ đợi, thì giờ rảnh rỗi, ngài thấy Na-tiên tìm chỗ khuất vắng để tìm hiểu nghĩa kinh, hay ngồi thiền định, nên ngài lại đổi ý. Lại nữa, trong lúc này Phật giáo đang gặp nạn, các tôn giả Rohana và Assagutta đã ân cần gởi gắm; vậy sự thành toàn pháp học cho Na-tiên sớm chừng nào sẽ tốt chừng ấy. Vì nghĩ vậy nên tôn giả Dhammarakkhita dạy tiếp cho Na-tiên. Và chỉ vỏn vẹn có ba tháng, Na-tiên đã thuộc nằm lòng năm bộ kinh. Ba tháng sau đó nữa, Na-tiên thuộc lòng luôn cả năm bộ chú giải.
Vô cùng bằng lòng về người đệ tử thông minh tuyệt hảo, không để mất thì giờ, tôn giả Dhammarakkhita dạy luôn tạng Luật cho người học trò yêu. Thế rồi, trải qua bốn tháng nữa, Na-tiên thông suốt thêm tạng Luật và luôn cả chú giải.
Hôm kia, tôn giả Dhammarakkhita dẫn Na-tiên đi dạo qua một vùng đồi, chỉ tay vào một khu rừng xa, ngài nói:
- Có lần, Phật tổ nói gì về nắm lá trong tay so với lá cây trong rừng kia?
- Thưa, ngài bảo rằng, nhiều như lá cây trong rừng kia là hiểu biết của ngài; nhưng những gì ngài chỉ dạy, thuyết ra chỉ bằng nắm lá trong tay của ngài thôi.
- Vậy là thế nào nhỉ?
- Thưa, Đức Thế Tôn chỉ nói những điều đáng nói, cần thiết, điều lợi ích cho chúng sanh; ngoài ra, những điều vô bổ, phù phiếm, những điều rỗng không nhằm thỏa mãn kiến thức, không đưa đến giác ngộ, giải thoát, ngài không nói.
- Đúng thế! Ngay chính những điều mà ngài nói ra, được ghi lại trong Tam Tạng, chúng có phải là Sự thật chăng? Là chân lý chăng?
- Thưa, không phải, chúng chỉ là ngón tay trỏ chỉ mặt trăng, chứ chẳng phải mặt trăng!
Tôn giả Dhammarakkhita gật đầu:
- Con hiểu vậy là chính xác!
Lúc ấy, một người chăn bò đang lùa một đàn bò đi ngang qua. Đợi cho đàn bò đi khuất, ngài Dhammarakkhita nói:
- Con có liên tưởng gì về người chăn bò và đàn bò này?
- Thưa, người chăn bò kia có lẽ biết rất rõ đàn bò ấy có mấy trăm con, bao nhiêu đực cái, bao nhiêu bê con, con nào già yếu, con nào sắp sinh v.v... Y lại còn rất rành cách chăm sóc, nuôi dưỡng đàn bò sao cho mập, mau phát triển; nhưng vị ngon, vị ngọt của sữa bò như thế nào... thì có lẽ là người khác được hưởng còn y không được hưởng!
- Đúng như vậy.
- Thưa, cũng dường thế ấy, người làu thông Tam tạng, rành rẽ giáo pháp, có thể giảng nói kinh nghĩa, kệ ngôn thao thao bất tuyệt, tháng này qua tháng nọ; phân tích chi ly từng mục, đoạn, phần..., các chi pháp rất rạch ròi, phân minh...; nhưng nếu y chưa nếm được hương vị của Pháp, chứng nghiệm Pháp, sống trong Pháp... thì so với người chăn bò có khác gì đâu?
- Đúng như vậy! Này con, con đừng làm người chăn bò tội nghiệp kia nhé!
Tỳ kheo Na-tiên nghe rúng động cả châu thân, thầm cảm kích sâu xa sự giáo giới, nhắc nhở của vị thầy siêu việt, ngài quỳ xuống ôm chân bụi bậc tôn trưởng:
- Làu thông Tam tạng cũng trở nên rỗng không, vô ích nếu chưa chứng ngộ Pháp mầu. Đệ tử biết là đệ tử phải làm gì rồi.
Sau buổi đàm đạo ấy, Na-tiên rút vào một cốc vắng để chuyên tu thiền định và thiền quán. Ngài nhất mực tinh tấn theo đuổi pháp hành. Ngoài việc khất thực để nuôi mạng, thì giờ còn lại ngài gia công chuyên niệm ngày đêm, chỉ nghỉ nghiêng lưng vào canh cuối. Hôm kia, tuệ giác bừng sáng, thấy rõ Diệt đế, ngài đắc A-la-hán quả, luôn cả 4 tuệ phân tích (Patisambhidanana) và thần thông. Ngay khi ấy trời đất có những hiện tượng phi thường như địa cầu chấn động, biển cả sóng dâng cao, núi Tu-di rung rinh, chư thiên hoan hỷ và hoa trời rơi xuống cúng dường v.v...

Tôn giả Dhammarakkhita xuất hiện, mỉm nụ cười hoa sen:
- Ta chúc mừng con việc lớn đã thành. Hiện giờ các đại tôn giả ở đỉnh núi Himalaya đang chờ con để giao phó công việc đấy!
Xiết bao cảm kích, tỳ kheo Na-tiên lạy tạ từ biệt thầy, tức khắc biến mất khỏi chỗ và có mặt ngay tại hang động Rakkhita trước mặt hội chúng Thánh nhân A-la-hán. Sau khi đảnh lễ các vị đại tôn giả, tỳ kheo Na-tiên nhìn quanh không thấy đại trưởng lão Assagutta, biết ngay là ngài đã Niết-bàn rồi. Đại đức Rohana biết ý, nói rằng:
- Bậc đại tôn trưởng Assagutta trước khi diệt độ có dạy lại rằng, con phải tìm cách phục hưng Chánh Pháp.

- Đệ tử phải làm như thế nào? Và đây có phải là thời mà tôn trưởng sẽ xá tội xưa của đệ tử?
- Phải rồi! Mọi nhân mọi duyên đều đã đầy đủ. Các vị tôn túc trưởng lão đã phải khổ công thành toàn Pháp học và Pháp hành cho con. Trước mắt, con phải làm hai công việc.
- Đệ tử xin nghe!
- Việc thứ nhất là phục hưng tất cả các chùa chiền hoang phế, quy tụ Tăng lữ trở về, cho xuất gia thêm, đào tạo Tăng tài, tổ chức các buổi thuyết pháp ở nhiều nơi để cận sự nam nữ có cơ hội trở lại với những sinh hoạt y như trước đây!
- Thưa, một mình đệ tử sợ không kham nổi.
- Con chớ lo lắng, ở đâu cần sự giúp đỡ, chư tôn túc trưởng lão ở đây sẽ xuất hiện kịp thời!
- Vậy đệ tử xin hoan hỷ nhận lãnh trách nhiệm mà quý ngài đã giao phó.
- Việc thứ hai là sau khi việc thứ nhất đã đi vào nề nếp, con hãy đến tại kinh đô Sàgala chùa Sankheyya, có vị đại đức tên là Ayupàla ở đấy, con chuẩn bị để gặp gỡ đức vua Mi-lan-đà và khôn khéo sử dụng tất cả mọi khả năng trí tuệ của mình. Con phải nhiếp phục đức vua ấy, đấy là mệnh lệnh tối hậu.
- Đệ tử có nhiếp phục được chăng?
- Hãy quán nhân duyên, con sẽ thấy!

Nghe lời, tỳ kheo Na-tiên nhiếp tâm, theo dõi tiến trình sinh tử của chính mình từ kiếp này sang kiếp kia; lâu sau, ngài thấy một ngôi chùa lớn ven sông, thời Phật Ca diếp, ngài làm một vị tỳ kheo như thế, vua Mi-lan-đà hiện nay, trước kia làm một vị sa di như thế. Vì lời nguyện của cả hai như vậy nên bây giờ có nhân có duyên như vậy. Xúc động Chánh Pháp, tỳ kheo Na-tiên qùy xuống dưới chân các bậc tôn trưởng:
- Quý ngài đã khổ tâm vì đệ tử , vì nhân duyên của chính đệ tử mà từ lâu đệ tử không thấy, không biết. Vậy xin quý ngài tha thứ tất cả lỗi lầm của đệ tử dù cố ý hay vô tình mà xâm phạm đến quý ngài!

Tiếng "lành thay, lành thay" vang lên. Khi Na-tiên ngửng đầu thì chẳng còn ai ở đấy nữa, hang động vắng tanh, lạnh lùng... dường như chỉ còn thoảng mùi hoa hương vi diệu mà chư thiên rải xuống cúng dường.

Ngơ ngẩn, xuất thần, Na-tiên đảnh lễ hang động Rakkhita lần cuối cùng rồi sửa lại y bát xuống núi theo con đường hạnh nguyện.

Còn tiếp

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#6
2.3. Thấp thoáng bóng SƯ TỬ

Nhắc lại chuyện vua Mi-lan-đà.
Sau khi đi hỏi đạo, vấn đạo, tất cả các bà-la-môn, sa môn hữu danh trong quốc độ, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thất vọng vì chẳng ai thỏa mãn được cho ngài vài câu, huống hồ là đi sâu vào giáo pháp! Chán nản, ngài đành vùi đầu vào chính sự, rảnh rỗi, ngài lại xem kinh, đọc sách, suy tư. Đức vua thấy rằng, tư tưởng của đạo Phật rất uyên thâm, hầu như nói ra được tòan bộ về đời sống con người, sự vui khổ cũng như sự sống chết của nó. Nhưng giáo pháp ấy cũng hàm tàng biết bao nghi vấn mà tri thức của ngài không với tới được, không kiến giải được. Ôi! hỏi ai bây giờ? Các bậc A-la-hán thật sự vắng mặt trên cuộc đời này rồi sao?
Đã bao năm, nhốt mình trong cung cấm, đức vua cũng không nhớ nữa. Hết xuân khứ rồi đông lai, tuổi già lại đến mà vấn đề "tử sinh đại sự" không giải quyết được thì phỏng đời sống này còn có tích sự gì!
Hôm kia, khi nhà vua đang dạo chơi trong vườn thượng uyển thì có một vị đại thần tìm đến xin được ra mắt ngài. Đức vua cho phép viên đại thần cùng ngồi dưới bàn đá bên gốc cây sàla tỏa bóng xanh mát.
- Tâu đại vương! Hạ thần thấy một hiện tượng rất lạ lùng.
Đức vua ưu ái ban cho viên lão thần một chung ngự tửu rồi phán:
- Khanh cứ nói đi!
- Hạ thần thu lượm rất nhiều nguồn tin khác nhau, đều là những nguồn tin đáng tin cậy. Rằng là các chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện trước đây hoang tàn, đổ nát ở nhiều nơi, bây giờ đang được xây dựng lại quy mô hơn, tráng lệ hơn!
Đức vua thóang nhăn mày, nhưng lại nói:
- Điều ấy tốt thôi! Bản tâm của trẫm cũng thấy rõ đạo Phật xứng đáng được như vậy.
- Rồi Tăng lữ không biết từ đâu xuất hiện mà đông đúc thế không biết!
- Còn các sinh hoạt khác?
- Cận sự nam nữ hai hàng trở lại chùa sinh hoạt còn đông đảo hơn trước đây, với những lễ như: cầu an, cầu siêu, an vị Phật, trai tăng, để bát, thọ bát quan trai giới, nghe thuyết pháp v.v...
- Khanh còn nghe gì nữa chăng?
- Tâu, nghe đâu hiện có rất nhiều bậc Thánh nhân xuất hiện, họ đều là các bậc A-la-hán có nhiều thần thông; ngoài ra còn có hằng chục vị pháp sư siêu việt có mặt đó đây để chủ trì các buổi thuyết giảng, có nơi đông đến hằng chục ngàn người nghe.
Đức vua nghe đến đây bỗng thấy rạo rực trong người, hưng phấn nói:
- Thế là hay lắm! Vậy trong kinh đô ta thì thế nào? Đã mấy năm nay trẫm không hề ra ngoài.
- Tâu, ngôi chùa Sankheyya to lớn, hùng vĩ ở kinh đô bao năm nay chỉ có mấy vị sư già kinh kệ, nhang khói; mấy tháng nay có vị trưởng lão tên là Àyupàla dẫn Chư Tăng từ đâu về đông hơn cả một trăm vị. Thiện nam tín nữ lục tục kéo tới cúng dường, nghe pháp.
Đức vua Mi-lan-đà chợt đứng dậy, niềm vui vỡ òa theo với lời nói:
- Hay lắm ! Vậy trẫm lại được dịp đi hỏi đạo nơi vị đại đức Àyupàla ấy. Ôi! Hạnh phúc thay!
Thế rồi, hôm sau đức vua cho người đến chùa Sankheyya thông báo trước rồi cùng với tùy tùng xa mã, ngự giá lên đường. Rất kính trọng chốn Phật điện, đức vua ra lệnh ngừng xe ở ngoài cổng, rồi cùng với năm trăm tùy tùng, thị vệ chậm rãi đi bộ vào chốn thiền môn. Các vị sư thị giả lịch thiệp dẫn đức vua vào gặp đại đức Àyupàla, đang chờ ngài ở giảng đường mênh mông, rộng lớn, có khả năng dung chứa cả hằng vạn người.
Sau khi chào hỏi cung kính, xã giao, yên vị chủ khách rồi, đức vua hỏi:
- Bạch đại đức! Sự xuất gia của ngài đây có lợi ích như thế nào? Cao quý như thế nào?
Trưởng lão Àyupàla đáp:
- Tâu đại vương! Người xuất gia có ba điều lợi ích và cao quý như sau: nhờ thọ trì giới, người ấy thường lánh xa điều ác, thành tựu điều lành, tăng trưởng điều lành, người ấy sẽ trở thành một con người đức hạnh. Đấy là sự lợi ích và cao quý thứ nhất. Thứ hai, nhờ thực hành thiền định, người ấy tìm được sự quân bình và yên tĩnh tâm hồn, người ấy sẽ không còn bị tham sân nung đốt, quấy nhiễu nữa. Thứ ba, nhờ thực hành thiền quán mà người ấy phát sanh trí tuệ, viên mãn trí tuệ... để lần lượt chứng đắc đạo quả Thánh nhân, chấm dứt khổ đau, phiền não...
Đấy là ba điều lợi ích lớn, cao quý lớn của người xuất gia, tâu Đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu hài lòng rồi nói:
- Trẫm rất hoan hỷ về cách đáp vắn tắt nhưng đầy đủ của đại đức. Nhưng trẫm còn thắc mắc rằng, là người cư sĩ tại gia có thể thực hành để gặt hái ba điều lợi ích lớn, ba điều cao quý lớn ấy chăng?
- Có thể được, tâu đại vương !
- Xin đại đức từ bi chỉ giáo cho !
- Người xuất gia nhờ tu tập theo giới định tuệ nên gặt hái được ba điều lợi ích lớn, cao quý lớn. Còn người cư sĩ tại gia dù họ tu tập theo bố thí, trì giới, tham thiền, nhưng họ còn có cơ hội nghe Pháp mà tăng trưởng trí tuệ. Bố thí có công năng tạo trữ phước báu, mở rộng tấm lòng và học hạnh xả ly. Thọ trì ngũ giới hoặc bát quan trai giới làm cho con người trở nên hiền thiện, đức hạnh. Tham thiền có công năng làm cho tham sân lặng yên. Và nghe pháp có thể khai mở trí tuệ, chứng đắc các đạo quả Thánh nhơn . Như vậy, người cư sĩ tại gia cũng có thể thực hành và thành tựu ba điều lợi ích, cao quý ấy, tâu đại vương !
- Đại đức nói vậy thì có gì làm bằng chứng?
- Có chứ, tâu đại vương! Lúc Đức Thế Tôn thuyết về Túc sanh truyện, nhất là truyện kể về thái tử Vessantara với 700 đại thí, ở gần cửa thành Sankassa, hằng chục ngàn cư sĩ dự nghe đều đắc được quả Thánh, tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà chợt cất lời tán thán:
- Ôi! Thật là vi diệu! Hôm nay nhờ đại đức khai mở kiến thức cho trẫm thấy rõ răng: chỉ nghe Pháp thôi cũng có thể thành tựu được đạo quả Thánh nhân, không kể là xuất gia hay tại gia!
- Đúng thế, tâu đại vương!
Bất ngờ nhất, đức vua Mi-lan-đà hỏi vặn lại:
- Thế thì, thưa đại đức! Sự xuất gia của ngài và của hơn trăm vị tỳ khưu trong ngôi chùa Sankheyya này, trong khắp quốc độ này, quả thật là vô ích, rỗng không, chẳng lợi ích gì ráo, chẳng cao thượng gì ráo. Vì sao vậy? Vì làm một tại gia cư sĩ cũng có thể thành tựu ba điều lợi ích lớn, ba điều cao quý lớn? Thưa, có phải vậy chăng?
Trưởng lão Àyupàla Phật học uyên thâm nhưng không sở trường về tranh luận, không nắm rõ những câu hỏi nom có vẻ bình thường nhưng ẩn dấu nhiều gút mắc, nên ngài đã không trả lời được, nín lặng.
Đức vua Mi-lan-đà còn tấn công tiếp, không khoan nhượng:
- Như vậy, giống dòng của sa môn Thích tử xuất gia, giữ gìn trai phạn nghiêm cẩn, không dùng quá ngọ là vì đã tạo trữ những việc làm xấu xa từ trước, nghiệp còn dư sót nên kiếp này phải bị trả quả ăn mỗi ngày một bữa, có phải thế chăng? Có phải các vị xuất gia ấy trước đây đã cướp đoạt món ăn của kẻ khác, bỏ đói kẻ khác nên kiếp này phải ăn ít lại để trả nợ mình đã gieo?
Có một số các vị xuất gia khác, theo hạnh đầu đà sống đời không nhà cửa, ngụ ở cội cây, rừng, nghĩa địa, chỗ không có mái che ... trông rất là tội nghiệp. Tại sao thế? Các vị ấy trước đây lỡ gây nhân trộm cướp, đốt phá xóm làng, dỡ nhà cửa của kẻ khác, cướp đoạt nhà cửa của kẻ khác làm cho người ta không có mái che trên đầu, chẳng còn nhà để ở; nên kiếp này, suốt đời phải bị trả quả xấu do nghiệp mình đã làm, chứ cao thượng cái nỗi gì?
Có rất nhiều vị thọ đầu đà bậc thượng, suốt đời ngăn oai nghi nằm, họ cũng chẳng cao thượng gì đâu! Tại sao? Vì họ đã từng làm trộm cướp, sau khi đón đường tước giật của cải, tài sản của kẻ lữ hành còn bắt trói họ, buộc hai cánh tay vào sau, bắt họ ngồi không cho họ nằm! Thế đấy, gây nhân sao thì gặt quả vậy chẳng sai trật tí nào.
Thưa đại đức! Vậy những giới, những định của các bậc sa môn xuất gia chẳng hơn gì người tại gia, mà trái lại, còn tệ hơn nữa vậy. Sống đời tại gia được phước báu nhiều hơn; được thọ hưởng ngũ dục nhưng rồi cũng đắc đạo quả Thánh nhân như ai. Có phải thế không, đại đức hãy trả lời cho trẫm nghe đi?
Trưởng lão Àyupàla thấy lập luận của nhà vua không đúng với sự thật, không đúng với vận hành nhân quả qua các kiếp sống, nhưng vì không có biện tài nên ngài không đáp được, đành ngồi giữ im lặng của bậc Thánh.
Một vị lão thần trong năm trăm người tùy tùng tâu rằng:
- Thưa Đại vương! Theo hạ thần được biết, ngài đại đức trưởng lão thâm uyên Phật học, từng thuộc lòng năm bộ kinh Nikàya, nhưng vì do không được lợi khẩu, lợi trí nên không đáp được đấy thôi. Ngưỡng mong đại vương mở lượng hải hà dung thứ!
Lòng cao ngạo chợt khởi lên, đức vua Mi-lan-đà nói to, giọng như sấm động:
- Chẳng phải chỉ riêng có đại đức đây không đáp được, mà toàn cõi châu Diêm-phù-đề này cũng thế, chẳng có sa môn nào đáp được đâu. Tất cả đều rỗng không, điêu tàn, hoang phế... là kiến thức và trí óc của các sa môn Thích tử đời nay! Cho dẫu họ có tự xưng mình là bậc A-la-hán, là bậc Chánh Đẳng Giác đi chăng nữa thì cũng ngồi mà toát mồ hôi vì những câu hỏi của trẫm đưa ra!
Trưởng lão Àyupàla tự nghĩ: "Đúng là ta chẳng thể nào soi sáng vấn đề cho đức vua dầu kinh điển ta nắm vững. Các vị đại tôn túc đã nói rất rõ rằng, lúc cần thiết, tỳ kheo Na-tiên sẽ có mặt ở đây, sẽ dùng trí tuệ biện tài để khuất phục đức vua này. Trách nhiệm bước đầu của ta thế là xong."
Từ giã chùa Sankheyya, đức vua vô cùng buồn bã. Ba hôm sau lại có vị đại thần tên là Nemittiya vào tâu với đức vua:
- Mấy năm nay hạ thần có nghe danh một vị Thánh tăng tên là Na-tiên, còn đang độ thanh xuân nhưng sức học bao trùm thiên hạ. Vị ấy xuất thân trong gia đình bà-la-môn, thuở mới bảy tuổi đã thông suốt Tam Phệ-đà luôn cả chú giải cùng năm bộ sách truyền thống của tôn giáo này. Thế rồi, vị ấy từ bỏ truyền thống, bao năm tu học trong nhiều hang động ở tuyết sơn và các thảo am dưới chân ngọn Hymalaya. Vị ấy đã thọ giáo chân truyền từ các bậc đại ẩn sĩ. Sau đó, mới hơn hai mươi tuổi đầu, vị ấy đã được các bậc đại sư phụ cho xuống núi. Từ đó, suốt từ miền đông đến miền nam, chùa chiền được chỉnh tu, am thất, tự viện mọc lên, Tăng chúng từ đâu đổ về, những chiếc y vàng chói lọi dày đặc khắp các thành phố, thị trấn, hang cùng ngõ hẻm...
Tâu đại vương! Vị ấy quả thật có thần cơ diệu toán, phục hưng Phật giáo rất có chiến lược và chiến thuật. Vị ấy đánh ngoài vào trong và hiện đang bao vây kinh đô của đại vương! Cuộc luận chiến cách đây mấy hôm ở ngôi chùa Sankheyya mà đại vương đã gặp, đấy chỉ là một đội quân "tiền trạm", thăm dò thực lực của đại vương đấy thôi!
Đại thần Nemittiya vốn là viên võ tướng nên cách trình bày, ngôn ngữ nhuốm mùi trận mạc. Vừa nghe đến tên Na-tiên, đức vua đã cảm thấy xao xuyến, rúng động cả châu thân, không biết tại sao!
Vị đại thần vô tình không hay biết, cứ thao thao bất tuyệt:
- Vị Thánh Tăng Na-tiên ấy từ nơi này sang nơi khác, lần lượt luận thắng các danh sĩ bà-la-môn, lần lượt khai đàn thuyết giáo độ cho rất nhiều tu sĩ và thiện nam tín nữ. Đi đâu, vị Thánh Tăng ấy cũng rất đông đảo đệ tử tùy tùng cùng đồ chúng. Người ta nói rằng dung mạo vị ấy đẹp như đức Ànanda, là vị thị giả của Đức Phật thời sinh tiền, đạo hạnh và trí tuệ thì đúng là tôn giả Sariputta, đại đệ tử trí tuệ đệ nhất của Phật tổ hóa sanh!
Tâu đại vương! Hiện tại, vị Thánh Tăng ấy với đông đảo tùy tùng vừa đến chùa Sankheyya sáng nay, kinh đô Sàgala của đại vương đã bị hằng trăm ngàn tu sĩ áo vàng đánh chiếm mất rồi!
Bần thần, đức vua đứng dậy làm rơi vỡ một tách trà, trong lúc ấy, viên đại thần tên là Devamantiyà xuất hiện:
- Tâu đại vương!
- Cứ nói - đức vua phán.
- Vị Thánh Tăng Na-tiên mà quan thượng thư vừa trình bày là đúng sự thật. Vị ấy thông suốt Tam Phệ-đà, thông suốt Tam Tạng là chuyện không phải ngoa truyền. Không kể vị ấy, chính những đệ tử của vị ấy, mới xuất gia tỳ kheo hai, ba năm mà cũng rất nhiều vị thuộc lòng một tạng, hai tạng. Họ chẳng sợ hãi một ai cả, chia nhau từng người đi hoằng pháp đó đây.
Đức vua Mi-lan-đà đã lấy lại bình tĩnh, chậm rãi hỏi:
- Các khanh có nghe nói đến sở học và trí tuệ của vị ấy chăng?

- Tâu, đại vương thông suốt mười tám môn học nghệ, thì nghe đâu vị ấy còn thuộc vào loại tổ sư! Như vậy mọi kiến thức về triết học, thắng luận, thiên văn, địa lý, toán học, văn chương, sử truyện, ngữ ngôn, cú pháp, cổ văn, tử vi, chiêm tinh v.v... thì đại vương chớ nên đụng đến làm gì! Còn Phật học thì kiến thức của vị ấy nghe đâu được một trăm lẻ tám vị Thánh Tăng A-la-hán trên Hy mã lạp sơn trao truyền. Vị ấy còn là bậc lợi khẩu, lợi trí, lợi tuệ; ăn nói lại du dương, trầm bỗng, lưu loát; quần chúng như bị mê hoặc bởi từ nhiều vẻ đẹp: kiến thức, tâm hồn cùng tướng mạo của vị ấy nữa.

Tâu đại vương! Nghe đâu, các vị chư thiên, Tứ đại Thiên vương, Đế thích Thiên vương cũng bị vị ấy nhiếp phục, thâu làm đệ tử. Nếu thế, vị ấy muốn làm thầy không những chỉ cõi người mà còn làm thầy cả cõi trời nữa!
Vị ấy hiện giờ đang ở trong kinh đô của đại vương, chùa Sankheyya; Tăng chúng và thiện nam tín nữ từ mười phương đang kéo nhau về đấy để nghe pháp, cúng dường. Năm con sông đổ tuôn về biển như thế nào thì mọi ngã đường người ta đổ tuôn về chùa Sankheyya cũng dường thế ấy!

Đức vua Mi-lan-đà đi tới đi lui, đi lui rồi đi tới, trời không nóng mà ngài chảy mồ hôi. Đức vua đã cảm thấy sợ hãi thật sự, mọi biện pháp trấn an, làm chủ cảm xúc chợt trở nên vô ích khi nghe kể về vị Thánh Tăng tên là Na-tiên!
Thật lâu sau, đức vua mới nói:
- Các khanh hãy đến chùa Sankheyya, nói với đại đức Na-tiên rằng, là hoàng đế Mi-lan-đà sẽ đến thăm đại đức và Tăng chúng ngay ngày mai.
Thế rồi hôm sau, đức vua sửa soạn long xa cùng với thị vệ tùy tùng năm trăm người, ngự giá đến chùa Sankheyya. Khi ấy, ngài Na-tiên đã chuẩn bị sắp xếp đâu vào đó sẵn sàng: ngài đang ngồi giữa giảng đường to lớn cùng với tám mươi ngàn tỳ khưu! Sở dĩ ngài Na-tiên tập trung số Tăng chúng đông đảo như vậy là muốn đánh mạnh vào tâm lý của đức vua; vì uy lực của Tăng thường làm cho cả loài chúa sơn lâm kiêu hùng nhất cũng phải cụp đuôi!

Và quả thật như vậy, vừa bước vào, ngó lên giảng đường, tóc đức vua đã dựng ngược! Tăng chúng lớp lớp uy nghi, trang nghiêm ngồi bất động, trầm mặc tạo nên một uy lực làm cho đức vua run sợ thật sự!
Đức vua hỏi nho nhỏ vị đại thần thân tín:
- Này Devamantiya! Tăng chúng ở đâu mà đông đúc kinh khiếp như thế?
- Tâu, hạ thần cũng không biết nữa, chắc là họ dùng thần thông biến hóa ra!
- Hoang đường!
- Vậy thì hạ thần xin tâu rõ: bốn mươi ngàn vị ngồi ở đằng sau đều là tân tỳ kheo, thọ đại giới từ một hạ đến sáu hạ! Bốn mươi ngàn vị ngồi đằng trước cao hạ hơn, từ tám hạ đến hai mươi hạ.
Tuy nhiên, dầu nhỏ, dầu lớn, họ đều là tùy tùng, đang theo học với vị Thánh tăng Na-tiên cả thảy! Đại vương đã khiếp chưa, họ đều quy giáo, khâm phục ngài Na-tiên!
- Sao khanh biết rõ vậy?
- Tâu, vì khâm phục và sợ hãi vị ấy nên hạ thần đã điều tra tận tường!

Đức vua Mi-lan-đà lúc ấy như con voi bị vây khổn giữa bầy tê ngưu, như loài rồng nằm co lại trước móng vuốt của những con chim đại bàng, như con chó chóc bị con trăn quấn chặt và sắp nuốt, như con gấu ngựa bị trâu rừng bao vây, như con ếch bị con rắn rượt đuổi, như con nai bị sập bẫy thợ săn, như con chuột run sợ trước oai lực của mèo, như loài tà tinh quỷ mị ở trong tay ông thầy pháp, như mặt trăng bị nhật thực ăn nuốt... Hoặc như rắn bị bắt trong giỏ, chim bị nhốt trong lồng, cá bị dính lưới, như trẻ đi lạc trong rừng sâu nhiều thú dữ, như dạ xoa có tội gặp mặt Tỳ sa môn Thiên vương (Vessavanna), như vị trời hết thọ mạng rời thiên cung v.v... Cũng như thế ấy là sự sợ hãi của đức vua khi đối diện với tỳ kheo Na-tiên cùng với Tăng chúng của ngài. Tuy nhiên, vốn là người trí dũng song toàn, văn võ toàn tài, đức vua đã vội trấn an bằng ý nghĩ như vầy: "Đại đức này dầu có ghê gớm đúng như lời đồn đãi, với khí thế uy mãnh, hùng lực hôm nay, cũng không làm gì nỗi ta đâu!" Rồi ngài mỉm cười nói với viên đại thần thân tín:

- Khanh khỏi cần giới thiệu. Giữa tám mươi ngàn vị tỳ kheo, trẫm có thể nhận ra ngay ai là Na-tiên đại đức.
Và quả đúng như vậy, tỳ kheo Na-tiên ngồi giữa như một vầng trăng sáng bởi diện mạo uy nghi và cốt cách tỏa ra, chẳng thể lầm lẫn được.
Quan đại thần Devamantiya gật đầu:
- Đúng thế, tâu đại vương! Ngài đã nhận ra chúa sư tử lông vàng rồi vậy.

Dầu đã tự trấn áp, tâm của đức vua vẫn bị chao đảo, như bị sóng đánh, nó không thể lặng yên: ngài đã không làm chủ được mình trước cuộc luận tài vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người!

Cuộc vấn đáp giữa vua Mi-lan-đà và tỳ kheo Na-tiên bắt đầu!


-ooOoo-
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#7
II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP
(gồm 244 câu hỏi)

1. Danh

Đức vua Mi-lan-đà sau khi đảnh lễ Tăng chúng tám mươi ngàn vị cùng với đại đức Na-tiên, ngồi một nơi phải lẽ, đức vua khởi chuyện:
- Bạch đại đức, Trẫm muốn đàm luận với ngài vài điều được chăng?
Tỳ kheo Na-tiên đã quan sát vị vua hữu danh đã từng làm cho các tôn giáo điên đảo từ bấy lâu nay. Quả thật là không hư truyền, vì ngài chưa từng gặp một người có tướng mạo phi phàm như thế. Nhưng với thắng dũng, thắng trí và thắng tuệ, ngài cảm thấy không khó khăn gì khi nhiếp phục đức vua này.
Khi nghe hỏi, Na-tiên tỳ kheo mỉm cười đáp:
- Tâu đại vương, ngài cứ hỏi, bần tăng sẽ nghe.
- Bạch đại đức, trẫm hỏi rồi, ngài hãy nghe đi.
- Tâu đại vương, bần tăng nghe rồi, ngài hãy nói đi!
- Bạch đại đức, Trẫm hỏi rồi.
- Tâu đại vương, bần tăng đáp rồi.
- Ngài đáp như thế nào?
- Đại vương hỏi như thế nào?
Chỉ vài câu vấn đáp khởi đầu, cử tọa thính chúng gồm tám mươi ngàn Tăng chúng, năm trăm tùy tùng của đức vua cùng với cận sự nam nữ đông đặc bên ngoài giảng đường... đều cảm thấy thú vị, họ cất tiếng hô "lành thay" vang rền như sấm dội.
Đợi cho không khí yên lặng, nhà vua hỏi tiếp:
- Bạch đại đức, ngài tên gì?
- Tâu đại vương! Bần tăng tên là Na-tiên! Thầy tổ, huynh đệ, pháp hữu của bần tăng cũng gọi tên bần tăng như thế. Còn cha mẹ của bần tăng không những gọi tên bần tăng là Na-tiên, mà đôi khi kêu là Viranasena, Surasena hoặc Sihasena! Tuy nhiên, dù gọi tên gì đi nữa thì nó cũng chỉ là cái tên, cái tên suông, chẳng liên hệ gì đến bần tăng cả. Cái tên ấy chỉ để mà phân biệt giữa người này và người kia, thế thôi, chẳng có gì là "tôi" là "của tôi" như ngã chấp và tà kiến thế gian thường nhận lầm, tâu đại vương được rõ!
Đức vua Mi-lan-đà ngạc nhiên, đưa tay lên, phân bua với mọi người xung quanh:
- Xin tất cả các vị hãy làm chứng cho trẫm. Đại đức Na-tiên vừa nói rằng, cái tên Na-tiên là tên do cha mẹ đặt, các vị đồng phạm hạnh cũng gọi như thế, nhưng chẳng có cái gì là Na-tiên ở đấy, chẳng có gì là "tôi" và "của tôi" cả. Mọi người nghe rõ rồi đấy chứ?

Rồi quay sang tỳ kheo Na-tiên , đức vua phản vấn:

- Bạch đại đức! Nếu không có cái gọi là "ta" và "của ta" thì những người bố thí cúng dường y bát, vật thực, thất liêu, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh, vật dụng v.v... thì ai là người thọ nhận tứ sự ấy? Ai trì giới? Ai tham thiền? Ai chứng ngộ đạo quả và Niết bàn? Từ đó suy ra, những tội ác như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói lời hư dối, uống rượu; cho chí những ngũ nghịch đại tội vô gián địa ngục, cũng chẳng có ai làm gì cả! Và như vậy thì nghiệp lành, nghiệp ác cũng không, chẳng có ai tạo tội cả, lành dữ đều không có quả báo. Nếu thế có kẻ giết chết đại đức họ cũng không phạm tội giết người. Và thầy tiếp dẫn, thầy giáo thọ, hòa thượng tế độ cho đại đức cũng không có. Các vị đồng phạm hạnh gọi tên đại đức Na-tiên là gì đó cũng không có luôn. Vậy cái gọi là Na-tiên đó là ai? Mong đại đức giảng giải cho trẫm. Đại đức nghe rõ rồi đấy chứ.

- Tâu đại vương! Bần tăng nghe rõ rồi!

- Người nghe đó có phải là Na-tiên chăng?

- Tâu, không phải.

- Chẳng có gì là Na-tiên cả sao?

- Vâng, chính thế!

- Tóc, lông, móng, răng da... kia là Na-tiên sao?

- Tâu, đại vương, không phải.

- Thịt, tủy, gân, xương là Na-tiên chăng?

- Thưa, không phải!

- Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Na-tiên chăng?

- Tâu, Đại vương, không phải.

- Hay lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Na-tiên?

- Tâu, không phải thế.

- Vậy ngũ uẩn họp lại là Na-tiên?

- Tâu, cũng chưa chắc là vậy.

Đến ngang đây chợt đức vua Mi-lan-đà cất giọng nói lớn:

- Bạch đại đức! Hồi nãy giờ trẫm đã cặn kẽ hỏi về ba mươi hai thể trược, lục căn, ngũ uẩn v.v... có phải là Na-tiên chăng, tất thảy đều bị đại đức phủ nhận. Và quả thật, trẫm cũng công nhận như thế. Vì khi quán tưởng một cách tận tường từng phần được nêu ra trong câu hỏi, thì chẳng có cái gì được gọi là Na-tiên cả. Thế tại sao, trước đây khi trẫm hỏi, đại đức bảo đại đức là Na-tiên? Té ra là đại đức nói dối! Này, năm trăm tùy tùng thân tín của trẫm và tám mươi ngàn Tăng chúng tỳ kheo, xin quý vị hãy làm chứng cho trẫm đấy nhé!

Đại đức Na-tiên là một Thánh nhân A-la- hán đắc thần thông và đắc cả 4 tuệ phân tích: tuệ về nhân, tuệ về quả, tuệ văn tự, ngữ nghĩa, tuệ biện tài, biện luận. Tâm ngài như đỉnh núi chúa, trí ngài như mặt trời, mặt trăng, lòng từ của ngài bao la như biển lớn. Do vậy, ngài độ lượng với đức vua Mi-lan-đà như mẹ đối với con; với tâm nguyện là phải nhiếp phục đức vua, tế độ đức vua, đặt đức vua trong Chánh đạo; nên dù đức vua có nói gì ngài cũng chỉ ngồi làm thinh và mở rộng lòng từ.

Để cho ngạo khí và sự xao động trong tâm trí đức vua yên lắng lại một chút, đại đức Na-tiên mới chậm rãi nói:

- Tâu đại vương! Ngài là một bậc đế vương nhiều phước báu và nhiều an vui, tháng ngày sống trong hạnh phúc cao sang. Nhưng vì tâm cầu đạo, ngài chẳng quản đường xa, đến đây giữa cơn nắng nóng oi bức nên có lẽ ngọc thể cũng bất an. Lại nữa, từ hoàng cung đến đây mà sao đại vương không đi bằng xe mà lại đi bằng chân cho mệt?

- Bạch đại đức! Trẫm đến chùa bằng xe chứ! Chỉ đi bộ từ cổng, nhưng vào giảng đường mới đi bằng chân không!

- Thế ra đại vương tới đây bằng xe.

- Vâng, trẫm đến bằng xe.

Đại đức Na-tiên giờ cũng làm như cách của vua Mi-lan-đà , phân bua với mọi người:

- Năm trăm tùy tùng quan chức, thị vệ của đức vua và tám mươi ngàn chư tỳ kheo đại chúng hãy xác nhận cho: đức vua đã nói rằng ngài đến đây bằng xe!

Rồi quay sang đức vua, ngài Na-tiên hỏi lại:

- Đại vương bảo rằng đạivương đến đây bằng xe, đấy là lời nói thật chứ?

- Chắc chắn là thật.

- Vậy đại vương hãy nói cho rõ về cái xe ấy! Cái gì gọi là xe? Cái gọng chăng?

- Không phải.

- Hay cái trục, cái bánh là xe?

- Cũng không phải.

- Cái thùng, cái mui là xe chăng?

- Chẳng phải đâu.

- Hoặc roi, dây cương là xe?

- Chẳng phải.

- Thế chắc cái ách, căm xe?

- Không phải nốt.

- Vậy cái gì là xe?

Đức vua Mi-lan-đà im lặng.

Đại đức Na-tiên cất giọng chậm rãi:

- Tâu đại vương! Bần tăng đã đưa từng bộ phận một, và hỏi rằng cái gì là xe thì đều bị đại vương phủ nhận. Mà quả thật, bần tăng cũng thấy vậy, chẳng có cái gì được gọi là xe trong tất cả các bộ phận chi tiết ấy. Tuy nhiên, đại vương là vị hoàng đế cao cả, là đấng nhân chủ, là bậc anh minh cai quản một quốc độ mênh mông; quả thật là không thích đáng khi đạivương nói dối rằng, ngài đến đây bằng xe! Xin tất cả chư vị và Chư Tăng đại chúng ở đây hãy làm chứng cho!

Mọi người không ngớt lời tán dương ca ngợi biện tài của đại đức Na-tiên . Riêng năm trăm người tùy tùng thì cung thỉnh đức vua tìm cách luận thắng đối phương.

Sau một hồi làm thinh, đức vua Mi-lan-đà nói:

- Đại đức biện luận hay lắm! Nhưng mà hãy nghe trẫm nói đây! Tất cả những bộ phận chi tiết như thùng, mui, căm, bánh, trục v.v... nếu nằm riêng lẻ thì không thể gọi là xe, nhưng chúng kết hợp toàn bộ lại thì giả danh gọi là xe, có phải thế chăng? Vậy trẫm bảo rằng, trẫm đến đây bằng xe đâu phải lời nói dối?
- Tâu đại vương! Cũng thế, tất cả những cái gọi là tóc, lông, móng, răng, da, ngũ uẩn, lục căn... nếu chúng nằm riêng lẻ thì làm sao được gọi là Na-tiên? Nhưng nếu được kết hợp lại thì giả danh gọi là Na-tiên! Bần tăng nói rằng, bần tăng tên là Na-tiên thì đâu phải lời nói dối?

Còn tiếp.

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#8
Nghe đến đây, đức vua Mi-lan-đà vô cùng thích thú, hết lòng tán thán đại đức Na-tiên:

- Hay lắm! Hôm nay, lần đầu tiên trong đời cái lỗ tai của trẫm rất là hoan hỷ, đại đức có biết thế chăng?
Cả đại giảng đường vang lên tiếng "lành thay, lành thay" làm chấn động cả kinh đô Sàgala.
* * *

2. Con số hạ lạp

Để cho không khí im lắng lại một lúc, đức vua hỏi tiếp:
- Đại đức năm nay được bao nhiêu hạ lạp rồi?
- Thưa, bần tăng tu mới được bảy hạ.
- Con số 7 ấy là đếm luôn cả đại đức vào trong, hay là chỉ đếm cái hạ không thôi? Con số 7 ấy là con số của đại đức hay con số của hạ?
Khi ấy, đức vua đang mặc y phục vương giả với những đồ trang sức quý báu, cái bóng sáng rỡ của ngài rọi vào trong chai đựng nước ai cũng trông thấy rõ ràng. Đại đức Na-tiên đưa tay chỉ, rồi hỏi ngược lại rằng:
- Tâu đại vương! Cái bóng với đồ trang sức rực rỡ trong chai nước kia là đại vương, hay người đang đối thoại với bần tăng đây là đại vương?
- Trẫm đây mới thật là trẫm, còn cái bóng kia nương nơi trẫm mà có. Nó có là bởi trẫm.
- Cũng thế, tâu đại vương! Số 7 kia là số hạ lạp chứ không phải bần tăng, nhưng nó có được là do nương gá nơi bần tăng. Nó có là bởi bần tăng.
- Hay lắm! Quả thật đúng như vậy! Cục đá quăng qua thì cục chì ném lại. Thật thú vị làm sao!
* * *

3. Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả?

Sau hai câu hỏi mở đầu, đức vua biết là gặp được bậc trí tuệ, nên ngài muốn đi sâu vào giáo pháp, bèn ướm lời:
- Bạch đại đức! Trẫm rất thích đàm đạo với đại đức về nhiều vấn đề khác nữa, nhưng không rõ đại đức có hoan hỷ không?

- Tâu đại vương! Cái đó còn tùy thuộc nơi đại vương! Nếu đại vương đàm thoại mà lấy tư cách một Trí giả (Panditavàda), thì bần tăng sẵn sàng hầu đáp. Nhưng nếu đại vương đứng trên tư cách mình là bậc Vương giả (Ràjavàda), thì xin thưa thẳng, bần tăng sẽ không thể hầu đối được.

- Tư cách một Trí giả là như thế nào?

- Tâu đại vương! Phàm là Trí giả nói chuyện với nhau, bao giờ cũng nói lời ngay thật, muốn trao đổi hiểu biết, soi sáng hiểu biết cho nhau. Trong câu chuyện, nếu có những lý lẽ đưa ra, dù đúng, dù sai, dù cao, dù thấp, dù phải, dù trái v.v... các bậc Trí giả không bao giờ vì thế mà phiền lòng hay nóng giận. Họ tôn trọng nhau, dù ý kiến, tư tưởng có bất đồng chăng nữa. Thắng, bại không hề làm cho họ chau mày, mà chính chân lý, sự thật mới thuyết phục được họ. Nếu gặp phải đối phương là tay lợi trí, lợi khẩu, hùng biện đại tài, bậc Trí giả không vì thế mà tìm cách cản ngăn, áp chế, bắt ngừng nói, đuổi ra khỏi chỗ ngồi; hoặc lươn lẹo dùng những xảo thuật miệng lưỡi, ngụy biện nhằm tranh thắng cho kỳ được! Đấy là cốt cách, phong thái đầy hiểu biết của bậc Trí giả, tâu đại vương!

Đức vua gật đầu mỉm cười:

- Đúng bậc Trí giả là vậy! Còn tư cách của bậc Vương giả là thế nào, thưa đại đức?

- Tâu đại vương! Bậc Vương giả vì quen sống trong quyền lực, nhất hô bá ứng, nên khi đối thoại thường quen áp đảo, bắt buộc kẻ khác chấp thuận quan điểm của mình. Nếu có ai đó nói một câu không vừa ý, hoặc đối nghịch với tư kiến của mình; bậc vương giả sẽ không hài lòng, sẵn sàng dùng quyền uy của mình mà bắt tội, chẳng dựa vào lẽ phải và công bằng. Những cuộc nói chuyện như thế rồi chẳng đi đến đâu, vì thái độ và lối xử sự của các bậc Vương giả đã tự ngăn chặn con đường về với sự thật, đốt cháy mối cảm thông và cắt đứt sự hiểu biết. Đối thoại trong tư thế bậc Vương giả thường rơi vào một chiều, phiến diện và ngõ cụt như vậy đấy, tâu đại vương!

Đức vua Mi-lan-đà lại gật đầu nữa:

- Hay lắm, thưa đại đức, trẫm đã hiểu rõ rồi. Trẫm chẳng thích cách nói chuyện của người Vương giả, trái lại, trẫm sẽ cố gắng xem mình là người Trí giả để hầu chuyện với đại đức. Khi đối thoại, đại đức hãy quên cái hào nhoáng cao sang bên ngoài của trẫm đi, mà hãy tiếp xúc với chính con người của trẫm thôi. Đại đức cứ nói chuyện một cách tự nhiên, bình thường như đại đức nói chuyện với chư tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, sa di ni, cận sự nam, nữ v.v...; thậm chí như nói chuyện với người hộ tự, người quét rác, người nấu ăn trong ngôi chùa này cũng được vậy, trẫm không bắt lỗi gì đâu!

- Tâu đại vương! Ngài đã phán những lời rất cao quý, rất hay, rất đúng đắn, đúng là lời của một bậc minh quân vĩ đại nhất trên thế gian. Bần tăng rất khâm phục, và bần tăng sẽ rất hoan hỷ, thoải mái để hầu chuyện với Đại vương như là một bậc Trí giả

- Vậy đại đức hãy nghe Trẫm hỏi.

- Tâu, xin ngài cứ hỏi đi?

- Bạch, trẫm đã hỏi xong rồi.

- Thưa, bần tăng đã đáp rồi.

- Đại đức đáp như thế nào?

- Đại vương hỏi như thế nào?

Đức vua Mi-lan-đà vì vui thích mà thử trí tuệ của đại đức Na-tiên đó thôi, các câu hỏi này chỉ lặp lại, nhưng giảng đường thì mọi người hoan hô, tán thán vang rân.

* * *



4. Thỉnh mời vào Hoàng cung



Lúc ấy, đức vua nghĩ rằng: "Vị tỳ kheo này trí tuệ bất khả tư nghì, lại hoàn toàn tự chủ, tự tin. Hiếm có được một người như thế trên thế gian này. Ôi! Ta còn biết bao nhiêu là câu hỏi về lẽ tử sinh, về niềm vui, nỗi khổ, về bí mật đằng sau kiếp sống, nó hằng gậm nhấm ta ngày đêm không nguôi, không dứt. Nhưng hôm nay hỏi thế là vừa đủ, ngày mai ta sẽ thỉnh ngài vào hoàng cung, thì giờ rộng rãi, tha hồ mà đàm đạo."

Nghĩ thế, đức vua bảo viên đại thần Devamantiya đến đảnh lễ đại đức Na-tiên và xin mời ngài vào hoàng cung ngày mai. Đại đức Na-tiên mỉm cười bằng lòng. Đức vua cúi đầu, chấp tay chào đại chúng và ngài Na-tiên rồi, rời khỏi chỗ ngồi, theo phái đoàn tùy tùng hộ giá, từ giã. Ngồi trên long xa mà tâm trí đức vua như để đâu đâu, cứ vẩn vơ tưởng đến hình bóng của ngài Na-tiên , chẳng khác gì một ám ảnh! Bất chợt, đức vua thốt thành lời: "Na-tiên ... trí tuệ vô song"!

Sáng hôm sau, trời vừa hửng sáng, 4 viên đại thần Nemittiya, Antakàya, Mankura và Sappadinna cùng nhau vào hầu đức vua, đồng tâu rằng:

- Chúng hạ thần nên thỉnh đại đức Na-tiên như thế nào?

- Thỉnh vào thọ thực và giảng đạo.

- Tâu, cùng bao nhiêu vị tỳ kheo tháp tùng?

- Bao nhiêu vị cũng được, tùy ý đại đức Na-tiên.

Vị đại thần Sappadinna vốn là vị quan thủ khố, muốn tiết kiệm cho hoàng gia, nên tâu rằng:

- Xin đại vương cho phép mời đại đức Na-tiên với cùng mười vị tỳ khưu nữa là lẽ phải.

- Khanh chớ nhiều lời, trẫm đã bảo là hãy để đại đức Na-tiên tùy nghi.

- Tâu đại vương, nếu lỡ đại đức Na-tiên dẫn theo cả trăm ngàn vị thì vật thực tiêu tốn hằng trăm xe và cả hằng ngàn người phục dịch cũng lo không xuể!

Đức vua chợt nghiêm mặt lại:

- Nhà ngươi thật là bủn xỉn, keo kiệt! Của tiền, vật thực là của hoàng gia chứ không phải là của ngươi mà tính toán, so đo như thế! Trẫm là bậc Đế vương, giàu sang bốn biển; lẽ nào trẫm không lo nổi một bữa ăn cho Tăng chúng chùa Sankheyya hay sao? Các ngươi hãy đi đi, ai lo việc nấy, nếu công việc không chu toàn sẽ bị tội "khi quân" đấy!

Bốn vị đại thần sợ hãi, khấu đầu rút lui. Rồi một vị chuẩn bị xuất kho, vị lo lương thực, vị đi huy động người; còn viên đại thần Antakàya tức tốc lên ngựa đi mời thỉnh đại đức Na-tiên.

Đại đức Na-tiên hỏi:

- Mỹ ý của Đức vua muốn bần tăng cùng đến với bao nhiêu vị?

Đại thần Antakàya cúi đầu:

- Thưa, hoàng cung rộng rãi, của tiền như biển, vật thực như rừng; đức vua bảo rằng, hoàng gia hân hạnh được cung nghinh, cúng dường Tăng chúng đông chừng nào tốt chừng ấy!


Lúc bấy giờ, đại đức Na-tiên đã chuẩn bị đâu đấy xong, với y bát chỉnh tề, ngài cùng với tám mươi ngàn vị tỳ khưu trang nghiêm khởi hành. Thế rồi, cả rừng mây vàng như sóng cuộn tràn qua kinh đô Sàgala, lần lượt tuôn đổ về cung điện. Dân chúng đông nghẹt các ngả đường, nô nức chen lấn nhau để xem một hiện tượng hy hữu: thời của một Tăng chúng huy hòang và cực thịnh chưa từng thấy ở châu Diêm phù đề!


Viên đại thần Atakàya trao ngựa cho quân hầu, đi bên cạnh đại đức Na-tiên, với lòng vô cùng ngưỡng mộ, y lân la hỏi chuyện:

- Bạch đại đức! Cuộc vấn đáp hôm qua hay quá chừng nhưng tiếc là đệ tử không nắm được nghĩa lý sâu xa, nên còn lắm điều thắc mắc. Trước ngài bảo rằng tên ngài là Na-tiên, sau đó ngài lại phủ nhận Na-tiên ấy, và bảo rằng không hề có Na-tiên?

Đại đức Na-tiên mỉm cười, nói nhỏ:

- Vậy theo ngài, cái gì là Na-tiên?

- Thưa, hơi thở còn là sanh mạng còn, hơi thở duy trì sự sống. Chẳng hay hơi thở ấy có phải là Na-tiên không?

- Thế hơi thở kia có ra mà không có vô thì sao?

- Tâu, sẽ chết ạ!

- Những người thổi kèn, thổi sáo, thổi ống tiêu... họ chỉ thổi ra, mà không thổi vô, là sao nhỉ?

Viên đại thần im lặng.

- Có những đạo sĩ bà-la-môn họ tu phép nhịn thở năm ngày, bảy ngày ...., chẳng vô mà cũng chẳng ra thì phải giải thích làm sao?
- Đệ tử quả thật là không biết, mong đại đức chỉ giáo cho?

 Này Atakàya! Đại đức Na-tiên chậm rãi thuyết giảng - Hơi thở vào ra kia chỉ làm cái phần việc thở vô thở ra mà thôi, tương tự như phận việc của con mắt, của lỗ tai, của cái lưỡi ...vậy. Trong tất cả chúng chẳng có cái gì được gọi là chúng sanh, là thức tánh ở đấy cả. Chúng chỉ là "thân hành", ngài nên biết như vậy.

- "Thân hành" ấy nó trú ở đâu, bạch ngài?

- Nó trú trong ngũ uẩn, chính xác là trong "sắc uẩn"! Đi sâu vào toàn bộ sắc uẩn ấy, chúng chỉ là rỗng không, chẳng có gì được gọi là Na-tiên, ngài nên hiểu như thế!

Đại thần Atakàya nghe xong, tâm trí sáng suốt, vững niềm tin trong sạch với giáo pháp, thành kính chấp tay nói:
- Bạch đại đức, từ rày xin ngài cho phép đệ tử được làm một cận sự nam trong Phật giáo!



Quote:[*] Không những sắc uẩn mà thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng trống rỗng như thế. Nhưng khi ngũ uẩn được kết hợp làm một tiến trình, một "ảo tưởng", có một chúng sanh (một linh hồn, một tự ngã) ra đời. Thật ra, tiến trình ngũ uẩn ấy sinh diệt liên tục, thay đổi liên t
[*]


5. Cứu cánh của Sa môn hạnh

Sau buổi cúng dường trọng thể, đức vua thỉnh tất cả tỳ khưu Tăng về chùa an nghỉ, chỉ xin lưu lại mười vị cùng với đại đức Na-tiên dự buổi Pháp đàm.
Đức vua thỉnh đại đức Na-tiên cùng mười vị tỳ khưu ngồi cao phía trên, ngài ngồi bên dưới cùng với quần thần, rồi bạch:
- Thưa, trẫm đã sẵn sàng rồi.
- Tâu, bần tăng cũng đã sẵn sàng rồi, đại vương hãy tùy nghi.
- Thế thì trẫm xin hỏi đây: Sống đời xuất gia có gì là lợi ích? Có gì là cao thượng?
- Tâu đại vương! Người sống đời xuất gia thành tưụ được bốn điều lợi ích:


Quote:Thứ nhất là không còn sầu khổ khi một ngũ uẩn sanh, hay gọi là "khổ sanh".
Thứ hai, không còn sầu khổ khi ngũ uẩn héo mòn , tiều tụy, hay gọi là "khổ già".
Thứ ba, không còn sầu khổ khi ngũ uẩn đau đớn, nhức nhối, khó chịu, hay gọi là "khổ bệnh".
Thứ tư, không còn sầu khổ khi ngũ uẩn tàn hoại, diệt mất, hay gọi là "khổ chết".
[*]


Sự thay đổi, biến hoại, tiêu diệt của ngũ uẩn từ sanh, lão, bệnh, đến tử - người xuất gia hằng suy niệm, hằng quán tưởng nên sẽ thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối - là những lợi ích thù thắng đấy, tâu đại vương!
- Đúng thế! Quả thật là lợi ích to lớn giữa cõi nhân sinh này. Còn có cái gì là cao thượng, thật sự cao thượng của người xuất gia, thưa đại đức?
- Thưa, khi người xuất gia không còn bị sinh lão bệnh tử của ngũ uẩn ma vương ấy chi phối nữa, vị ấy thân chứng một trạng thái quân bình tuyệt hảo, hạnh phúc tuyệt hảo; vượt cao, vượt trên tất cả hạnh phúc của trần thế, siêu việt ý niệm, ngữ ngôn: cái ấy giả danh là Niết bàn; nơi không còn sanh tử, khổ đau và phiền não nữa! Đấy là sự cao thượng trên tất cả mọi sự cao thượng, tâu đại vương!
Đức vua rất hoan hỷ hỏi tiếp:
- Tất cả sa môn đều có nguyện vọng như thế sao?
- Tâu đại vương! Cứu cánh sa môn hạnh thì như thế, nhưng trong hàng Tăng lữ hiện có bảy hạng người xuất gia vì lý do khác nhau:


Quote:1. Có người xuất gia vì muốn trốn luật vua, phép nước.
2. Có người xuất gia là để được thân cận giới quyền quý cao sang.

3. Có người xuất gia là mong được quyền hành trong một ngôi chùa hay lãnh đạo Tăng lữ, đồ chúng.
4. Có người xuất gia vì thất nghiệp, muốn kiếm miếng cơm manh áo.
5. Có người xuất gia vì cô thế, cô thân, trốn kẻ thù nghịch.
6. Có người xuất gia vì mang công mắc nợ.
7. Có người xuất gia vì sợ sanh tử luân hồi, muốn chấm dứt khổ đau, phiền não.
[*]


Thấy đại đức Na-tiên trả lời đâu ra đó rất rõ ràng, minh bạch, lại tự nhiên như hít thở khí trời; ngài phục lắm, thử ướm hỏi:
- Vậy chắc chắn đại đức vì mục đích cao thượng của hạng người thứ bảy mà xuất gia làm sa môn?
Đại đức Na-tiên mỉm cười gật đầu:
- Thưa, không phải thế! Bần tăng rời khỏi gia đình lúc bảy tuổi, còn rất nhỏ thì nào biết gì! Sau dần lớn lên, nhờ Thầy tổ, nhờ các vị trưởng lão dày công giáo hóa, trí óc mới khơi mở được chút ít. Hiện giờ thì có thể nói rằng, bần tăng tu là cốt ý để diệt khổ, đấy không còn là lời nói dối nữa!
Đức vua Mi-lan-đà nghe cách trả lời, cách nói đầy khiêm tốn của đại đức Na-tiên, ngài kính trọng quá, quỳ xuống vập đầu và nói lớn:
- Ôi lành thay! Cao quý thay!


* *
[*]


6. Tái sanh - Vô sanh

Nghỉ ngơi một lát, vua lại hỏi:
- Có ai chết rồi mà không sanh trở lại chăng?
- Thưa, có kẻ sanh trở lại và có người không sanh trở lại.
- Điều kiện nào để một người bị tái sanh? Và điều kiện nào để một người được vô sanh?

- Tâu, người nào còn tham sân si, phiền não, người ấy còn tái sanh; người nào tiêu diệt được tham sân si, phiền não, người ấy sẽ vô sanh.

Nghe trả lời vậy, đức vua lại đâm ra tò mò:

- Vậy đại đức đã vô sanh chưa?

- Tâu, nếu bần tăng còn phiền não, còn ham muốn sự sống thì bần tăng còn tái sanh; ngược lại, bần tăng sẽ vô sanh!

Đức vua lại tán thán:

- Tuyệt vời thay là cách trả lời của bậc trí tuệ!

* * *
[*]



7. Chú tâm



- Bạch đại đức, tâm niệm đúng, chú tâm đúng thì có thể nào thành bậc vô sanh được chăng?

- Tâu đại vương, không phải đơn giản như thế! Bậc vô sanh phải thành tựu đầy đủ 3 pháp sau đây:



1) Chú tâm đúng.
2) Trí tuệ.
3) Thiện pháp đầy đủ.




Thiếu một trong ba chẳng thể vô sanh được đâu.

- Vậy chú tâm đúng không phải là trí tuệ sao?

- Thưa, chú tâm đúng chỉ mới đưa đến chánh định! Chú tâm thì trâu, bò, heo, ngựa ... các loài súc sanh đều có khả năng đó, nhưng trí tuệ thì nhơn, thiên mới có!

- Kỳ lạ vậy thay!

* * *
[*]



8. Hành tướng của chú tâm và trí tuệ cùng sự khác nhau giữa chúng




Quote:[*] Lakkhana: có thể dịch là tướng trạng, tính chất v.v...
[*][*]


Đức vua hỏi tiếp:
- Xin đại đức cho biết hành tướng của chú tâm ra sao?
- Thưa, muốn chú tâm phải cần có hai yếu tố: một là phải có một sự cố gắng, một nỗ lực ở bên trong (ussàhalakkh--ana); hai là phải nắm bắt, chụp bắt, bắt dính được đối tượng (gaharalakkhana).
- Thế còn trí tuệ (panna)? Hành tướng của trí tuệ ra sao?
- Ở đây, tâu đại vương, hành tướng của trí tuệ là sự cắt đứt, sự tiêu diệt, sự phá hoại, sự đốn bỏ; như cắt đứt tham, sân, si, tiêu diệt phiền não v.v...
- Đại đức làm thế nào đưa ra một ví dụ thực tiễn, cụ thể về chú tâm (manasikàra) và trí tuệ (panna) để cho trẫm dễ lãnh hội, được chăng?
- Có thể được, tâu đại vương! Đại vương đã từng có khi nào quan sát người nông dân cắt lúa chưa?
- Thưa, trẫm biết rõ lắm.
- Họ làm như thế nào hở đại vương?
- Thưa, thợ cắt bước xuống ruộng, tay trái gom lúa lại, tay phải cầm lưỡi hái rồi cắt!
- Cũng thế, tâu đại vương! Bước xuống ruộng là một nỗ lực, một cố gắng (ussàha); tay trái gom lúa lại là nắm bắt, bắt dính (gahara). Bắt dính gì? Bắt dính tham sân si,tùy miên kiết sử. Còn trí tuệ thì cắt lìa, đọan lìa tất thảy phiền não ấy. Như vậy được gọi là chấm dứt luân hồi, được vô sanh, Niết bàn, tâu đại vương!
Đức vua lại cảm thán thốt lên:
- Hay quá! Chẳng có ví dụ nào mà sống động, dễ nghe, dễ thấy, dễ hiểu đến vậy!





[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#9
9. Tất cả Pháp lành lấy Giới làm sở y

Đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Trước đây đại đức có nói, muốn thành tựu Niết bàn, vô sanh, phải đầy đủ 3 pháp: chú tâm đúng, trí tuệ và thiện pháp. Chú tâm và trí tuệ thì trẫm đã hiểu rồi, nhưng còn thiện pháp, những gì được gọi là thiện pháp?
- Thiện pháp thì rất nhiều, nhưng Giới mới chính là nền tảng cho các thiện pháp nảy nở, tăng trưởng, tâu đại vương!
- Xin đại đức hãy giảng cho rộng ra!

- Vâng, Giới là nơi vững trú, nảy nở, tăng trưởng của những thiện pháp sau: ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc, bốn thiền, tám pháp giải thoát, một pháp định, ba pháp nhập định ...

- Đại đức hãy cho ví dụ.
- Vâng, ví dụ như đất là nơi mà các hột giống nảy mầm và lớn lên; đất là nơi mà các loại củ có thể nứt mộng đâm nhánh, đâm cây. Cũng như thế ấy, GIỚI là nơi nảy mầm, tăng trưởng của ngũ căn là tín, tấn, niệm, định, tuệ ... cùng những thiện pháp khác, tâu đại vương!
- Đại đức có thể cho thêm ví dụ nữa được chăng?

- Thưa, có thể được! Đại vương hãy đưa mắt quan sát đời sống của người nông phu trên thửa ruộng của họ! Phải chăng những người nông phu ấy, họ cày, họ bừa, họ gieo mạ, cấy lúa, gặt hái, ... ở trênđất! Rồi họ có cơm ăn, áo mặc, cưới vợ, sinh con cũng nhờ đất! Đất đã nuôi sống họ, đất đã cho họ đời sống có phải chăng?

Lại nữa, đại vương hãy quan sát những khách thương buôn bán lộ trình xa với một trăm cỗ xe hàng hóa, năm trăm cỗ xe hàng hóa. Họ phải qua sông, qua biển, qua sa mạc, qua rừng núi, thị trấn, làng mạc ... Như vậy, rõ ràng là đất đã chuyên chở họ, đất đã nuôi sống họ. Nếu không có đất không biết hàng hóa di chuyển ở đâu.
Cũng vậy, một hành giả lên đường, đầu tiên là phải biết nương tựa Giới, lấy Giới làm sở y, phát triển Giới cho sung mãn, thanh tịnh thì các thiện pháp mới có cơ hội tựu thành. Xin tâu đại vương rõ!

- Cũng chưa rõ lắm đâu, thưa đại đức! Trẫm muốn nghe nhiều ví dụ nữa.
- Được thôi, đại vương hãy nghe đây! Đại vương chắc đã từng thấy người ta tập luyện, biểu diễn các môn thể thao, các trò vui chơi công cộng chứ?
- Trẫm có thấy!
- Muốn tập luyện hay biểu diễn những nơi lộ thiên công cộng như thế, đầu tiên người ta phải làm sao?

- Đầu tiên người ta tìm một bãi đất trống, rồi sau đó người ta phát sạch lùm bụi, dẫy cỏ, dọn sạch gai góc, miểng sành, miểng chén, đá sỏi v.v..
- Cũng thế, tâu đại vương! Đất làm nơi nương tựa nhưng cũng phải dọn sạch sẽ, bằng phẳng, phong quang thì các trò thể thao, du hý, vui chơi mới biểu diễn được, ý nghĩa này như thế nào thì Giới cũng phải được hiểu như vậy.
- Hay lắm - Đức vua gật - nhưng trẫm muốn nghe ví dụ nhiều cách, nhiều kiểu khác nhau.
- Bần tăng sẽ cố gắng làm cho đại vương vừa lòng, nhưng đại vương cũng cho phép bần tăng được hỏi vài câu.
- Rất hoan hỷ - Đức vua nói - Đại đức cứ hỏi đi!

- Quốc độ của đại vương rộng lớn và đẹp đẽ, rất nhiều nơi xứng đáng để xây dựng kinh đô, sao đại vương chọn xứ Sàgala này?
- Vì nó là thượng nguồn của năm con sông lớn nhất Ấn độ. Nơi đây rừng núi bao quanh, sông xanh uốn khúc, quả thật là một nơi sơn thủy hữu tình.
- Đại vương trên thông thiên văn, dưới thông địa lý, lại còn là một nhà chiến lược quân sự nữa; vậy khi xây dựng kinh đô, ngài bắt đầu công việc như thế nào?
- Đầu tiên, trẫm cho vời một số các vị kiến trúc, dưới sự hướng dẫn của trẫm, họ lên một bản vẽ tổng quát toàn bộ hoàng thành: la thành, tường, hào, các lối đi, chính điện, bảo điện, nơi ngự triều, ngọ môn quan, các kho đụn, nơi khánh tiết, lễ hội, hý trường, sân thể thao, hội trường v.v.. và v.v..
- Rồi sau đó, lúc bắt đầu xây dựng, phải làm sao?

- Dĩ nhiên, phải san phẳng tòan bộ mặt bằng, dọn dẹp mặt bằng mới xây dựng được.
- Cũng thế ấy, tâu đại vương! Toàn bộ lâu đài, cung điện, thành quách... của đại vương đều được xây dựng trên đất sau khi đất ấy được làm cho sạch sẽ, phong quang như thế nào thì Giới cũng như thế ấy, phải được làm cho thanh tịnh thì các lâu đài Thiện pháp mới xây dựng ở trên đó được. Tứ thanh tịnh giới là chỗ trú mình, chỗ sở y của người xuất gia để thành tựu tín, tấn, niệm, định, tuệ cùng các thiện pháp tối thắng khác.
Đức vua gật đầu:
- Tuyệt vời thay là cách dẫn chuyện của đại đức, nhưng chưa đâu, trẫm muốn nghe thêm một ví dụ nữa.

- Xin vâng, thế thì cho phép bần tăng được hỏi.
- Đại đức cứ hỏi tự do.
- Trước đây, đại vương từng là một đại tướng lãnh bách chiến bách thắng, ngài đã từng chỉ huy bốn loại quân binh một cách thiện xảo, thiên tài, ngài đã từng chiến thắng những "trận địa chiến" rất lớn. Bần tăng xin được hỏi là đại vương thường thiết lập, bố trí "trận địa chiến" ấy ra sao?
- Không dấu gì đại đức, chuyện ấy đối với trẫm thì dễ dàng như mặc áo, ăn cơm vậy. Đầu tiên trẫm quan sát các thế núi, sông, rừng, sa mạc, đồng ruộng, thôn làng. Rồi dự định chỗ tấn, chỗ thoái, chỗ lập đồn lũy, chỗ hư binh, chỗ phục binh v.v.. sau đó, lập sa bàn, tập trận giả, rồi tập trận thật trên địa thế núi sông tương tự ...; rồi còn chiến thuật, tâm lý ... và nhiều lãnh vực chuyên môn khác nữa.

- Chừng đó là bần tăng hiểu rồi, tâu đại vương! Muốn chiến thắng, bách chiến bách thắng, đại vương phải thiết lập vững vàng trận địa, nơi thế đất này, thế núi kia ... tất cả đều được chuẩn bị, dự phòng sẵn. Dường thế ấy, từ Giới lập trận thế, từ Giới lập chiến thuật, chiến lược; từ Giới lập sa bàn; từ Giới mà tiêu diệt đối phương ... thì mười đội binh ma quân phiền não sẽ cởi giáo quy hàng. Nhờ Giới mà tín sẽ vững chắc không xao động. Nhờ Giới mà tấn không thối thất. Nhờ Giới mà niệm không buông lơi. Nhờ Giới mà định tâm thêm kiên cố. Nhờ Giới mà tuệ càng thêm sáng tỏ.

Tâu đại vương! Đức Phật tổ cũng hằng giáo giới chư tỳ khưu như vậy. Giới năng sanh thiện pháp. Giới năng sanh địnhđịnh năng sanh tuệ. Có Giới là có tất cả. Nơi nào có Giới thì nơi ấy có tuệ. Nơi nào có tuệ thì nơi ấy có Giới.

Quả địa cầu là nơi sanh của các loài thảo mộc, động vật, long vương, dạ xoa, đại bàng, muôn thú, người ... như thế nào - thì Giới là nơi sanh trưởng của ngũ căn, ngũ lực ... các cõi trời, phạm thiên, các tầng Thánh quả; cho chí quả vị tối thượng Chánh đẳng giác ... cũng từ Giới mà sở y, nương tựa, tâu đại vương được rõ!
- Hay lắm! Trẫm không còn có lý do gì mà nghi ngờ về Giới nữa. Thật là tuyệt hảo!
* * *

10. Hành tướng của Tín

Đức vua lại hỏi tiếp:
- Các thiện pháp đầu tiên lấy GIỚI làm nơi nương tựa, đại đức có nhắc đến ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Vậy hành tướng của Tín là thế nào? Nhờ đại đức giảng rõ.
- Thứ nhất là, Tín có công năng làm cho tâm yên lặng, trong sạch (Sampasàdanalakkhana); thứ hai là, Tín có công năng làm cho tâm luôn có khuynh hướng tiến về phía trước (Sampakkhamdanalakkhana), tâu đại vương!

- Công năng thứ nhất ấy lợi ích như thế nào?
- Tâu đại vương, Tín phát sanh trong tâm rồi thì nó như cái màng chắn các bụi bặm phiền não, không cho lan vào. Các bụi bặm phiền não ấy thường dấy sinh từ năm pháp cái; tức là năm pháp che lấp, ấy là hôn trầm thụy miên, buông lung phóng đật, sân, dục và nghi. Nhờ vậy, tâm được yên lặng, trong sạch.
- Xin đại đức hãy cho ví dụ để trẫm được sáng tỏ về lợi ích ấy.

- Ví như đại vương dẫn 4 loại quân binh vượt qua một con rạch, nước bị quấy lên đục ngầu. Lúc bấy giờ đại vương muốn uống nước, bèn sai quân hầu lấy lên bình lọc nước đặt xuống lòng rạch. Bình lọc nước ấy có công năng gạn lọc tất cả bùn dơ đục vẩn, chỉ còn lại nước trong sạch như thế nào thì Tín cũng có công năng lọc sạch uế trược phiền não như thế ấy, tâu đại vương.

- Trẫm hiểu điều đó rồi, vậy còn công năng thứ hai, tại sao lại có khuynh hướng tiến về phía trước?
- Ây là vì người có Tín luôn luôn hướng theo thiện pháp mà đi tới, tự sách tấn mà vượt qua, vượt lên mãi. Như thấy người đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A-na-hàm, A-la-hán ... người có Tín thường nhắc nhở tâm mình làm sao để chạy theo các đạo quả ấy, cố gắng cho đến lúc giác ngộ, giải thoát mới thôi.
- Đại đức có ví dụ nào chăng?

- Thưa, có chứ! Ví như trận mưa lớn ngập lụt tất cả đường sá, sông hồ. Một đoàn bộ hành dừng chân, e ngại chẳng dám vượt qua vì không biết mực nước nông sâu. Chợt một người đàn ông có vẻ thành thạo ngắm nhìn con rạch, đưa mắt nhìn thế nước, ước lượng dòng chảy, chỗ cạn, chỗ sâu, rồi xắn quần, vén áo thản nhiên lội qua. Bắt chước người đàn ông, theo dấu người đàn ông, đoàn bộ hành nhờ vậy mới tiếp tục được lộ trình. Người có Tín cũng như thế ấy, thấy người đi trước mình lội qua được dòng sông sinh tử, thì theo dấu người ấy để lội theo. Thấy người trước mình xắn quần,vén áo lội qua "bờ kia", y cũng cố gắng xắn quần, vén áo quyết bỏ "bờ mê" bên này cho bằng được . Những quả vị Thánh nhân đều là mục đích cho người có Tín hằng nỗ lực để vươn tới, lướt tới cho thành tựu hẳn thôi, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức! Trẫm hiểu rõ Tín là gì rồi.
* * *

11. Hành tướng của Tấn

Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi:
- Đại đức có nói thiện pháp thứ hai là Tấn, vậy hành tướng của nó thế nào?
- Tấn có công năng hộ trì, nâng đỡ các thiện pháp cho được vững chắc, tăng trưởng; không để cho thiện pháp hư mòn, tiêu hoại hoặc sụp đổ, tâu đại vương!
- Xin đại đức lấy ví dụ cho rõ nghĩa.

- Ví dụ một ngôi nhà muốn được vững bền, lâu năm không bị xiêu ngã thì các cột, kèo, đòn tay... cần phải được chắc chắn. Ngôi nhà chính là thiện pháp; cột, kèo, đòn tay chống đỡ là Tấn, tâu đại vương!
- Trẫm muốn nghe thêm ví dụ.
- Ví như đức vua ra trận mà quân giặc quá mạnh, phải phái thêm viện binh mới thắng địch được. Quân giặc mạnh ví như ác pháp mà viện binh chính là Tấn. Như vậy, Tấn có hai công năng, thứ nhất là hộ trì thiện pháp (ví dụ đầu) và thứ hai là tiêu trừ ác pháp (ví dụ sau), đúng như kệ ngôn Đức Thế Tôn đã thuyết:
Quote:"Này các thầy tỳ khưu! Tấn là sức mạnh của bậc Thinh Văn, nó hộ trì thiện pháp và tiêu trừ ác pháp; làm cho tội lỗi tiêu hoại và phước đức phát triển. Có Tấn thì chẳng bao giờ lìa xa Chánh pháp."
- Thế là trẫm đã sáng tỏ!


* * *
Budsas.org
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#10
12. Hành tướng của Niệm

- Còn Niệm là thế nào, thưa đại đức?
- Niệm cũng có hai chức năng. Thứ nhất là nhắc nhở tâm, thứ hai là giúp tâm cầm nắm.
- Nhắc nhở tâm như thế nào?
- Thưa, bất cứ một pháp nào phát sanh lên, Niệm có bổn phận nhắc nhở tâm ghi nhận pháp ấy. Ghi nhận một cách thuần túy khách quan. Chức năng thứ nhất của Niệm là như vậy đó, tâu đại vương!
- Xin đại đức cho thí dụ.
- Vâng! Ví như người canh cửa của đức vua, y phải tự nhắc nhở mình thường xuyên là đừng có lơ đễnh nhiệm vụ, người nào đi vô đi ra phải biết. Như vị quan giữ kho của đức vua, y phải biết rõ đây là kho lương thực, đây là kho vàng bạc, vải vóc, quân nhu, khí giới v.v... Như vậy, Niệm như là người canh cửa, như vị quan giữ kho - đấy là chức năng thứ nhất, tâu đại vương!
- Vậy là trẫm đã hiểu. Còn "cầm nắm" là thế nào hở đại đức?
- Tâu đại vương! Một pháp phát sanh lên, niệm không những nhắc nhở tâm ghi nhận pháp ấy mà còn "cầm nắm" trọn vẹn cái thiện, cái ác ấy nữa. Các pháp như tứ niệm xứ, tứ chánh cần, ngũ căn, ngũ lực... nghĩa là ba bảy trợ đạo phẩm, tứ vô lượng tâm cũng phải được hiểu như vậy.
- Trẫm muốn nghe ví dụ để hiểu rõ vấn đề hơn.
- Được thôi, tâu đại vương! Ví như người canh cửa của đức vua, sau khi không lơ đễnh nhiệm vụ thấy rõ người nào đi vô đi ra, mà còn biết đây là quan, đây là dân, đây là người được phép vào, đây là người không được phép vào. Ví như quan giữ kho của đức vua sau khi biết đây là kho vàng, kho bạc, kho lương thực mà còn nắm vững tình trạng của kho ấy, biết kho vàng, kho bạc nhiều hay ít, biết kho lương thực đầy hay vơi, v.v... Để khi vua cần hỏi, vị quan giữ kho có thể cho đức vua nắm rõ tài sản, kim ngân trong cung khố của mình. Chức năng thứ hai của Niệm là có thể trình cho biết các pháp lui tới tâm như thế nào, nó thiện hay ác, tốt hay xấu như vị quan giữ kho trình lên đức vua vậy tâu đại vương .
- Cảm ơn đại đức. Ví dụ vậy là tuyệt hảo, trẫm "nắm giữ" được pháp và nghĩa của Niệm rồi.
* * *

13. Hành tướng của Định

- Thế nào là Định? Đức vua hỏi tiếp - hành tướng của Định là như thế nào, thưa đại đức?
Đại đức Na-tiên đáp:
- Tâu đại vương! Định là quy tâm về một mối, là cột tâm, là tập trung tâm lại không cho loạn động. Trong tất cả thiện pháp, Định là chủ trì, Định là nguyên đỉnh, Định là tối thắng, Định là chỗ hướng về, Định là nơi tụ họp, Định là chỗ tiến tới, Định là chỗ chảy xuống...!
- Đại đức hãy cho ví dụ.
- Ví như đại vương dẫn 4 loại quân binh ra trận mạc. Bốn loại quân binh ấy sẽ y cứ nơi đức vua, họ xem đức vua là lớn, là bậc thống lĩnh tối cao, đức vua là chủ trì, là nguyên đỉnh, là tối thắng, là chỗ hướng về, là nơi tụ họp, là chỗ tiến tới, là nơi chảy xuống... tâu đại vương! Ví dụ này như thế nào thì các thiện pháp sẽ y cứ Định là bậc chủ trì như vậy, do Định mà phát sanh y như thế ấy; đúng như câu Phật ngôn mà Đức Thế Tôn đã thuyết:
Quote:"Này các thầy tỳ khưu! các thầy hãy tinh cần tiến tu thiền định. Người nào có thiền định rồi, người ấy sẽ dễ dàng chứng đắc đạo quả, giác ngộ ba minh."
- Tâu đại vương! Vậy đại vương có thắc mắc gì về Định nữa chăng?
- Không. Đức vua đáp - trẫm đã thông suốt lắm rồi.
* * *

14. Hành tướng của Tuệ

- Xin đại đức giảng giải cho trẫm nghe về Tuệ?
- Tuệ cũng có hai chức năng, tâu đại vương! Chức năng thứ nhất là cắt lìa, cắt đứt, đốn bỏ, diệt tận, hủy diệt như bần tăng đã trình bày. Còn chức năng thứ hai là soi sáng, là chiếu soi, là tự chiếu..., tâu đại vương!
- Chức năng thứ nhất thì trẫm đã lãnh hội rồi,vậy hãy cho nghe chức năng thứ hai? Cái gọi là soi sáng tỏ tường ấy là gì?
- Tâu đại vương! Khi Tuệ tâm sở phát sanh lên rồi thì nó có công năng soi tỏ cho ta thấy rõ đâu là mê si, đâu là vô minh, đâu là khổ, đâu là nguyên nhân khổ, đâu là vô thường, đâu là vô ngã, đâu là con đường thoát khổ ... một cách rõ ràng minh bạch.
- Xin cho nghe ví dụ?
- Ví như người cầm cây đèn sáng đi vào căn nhà tối tăm; nhờ ngọn đèn soi sáng họ thấy rõ đường đi lối lại, thấy rõ đây là bàn, ghế, tủ, giường v.v... Ngọn đèn sáng là Trí tuệ mà các vật dụng trong nhà là các thiện pháp, ác pháp ở trong tâm đấy, tâu đại vương!
- Trẫm đã rõ. Nhờ đèn sáng mà bóng tối tự lui, cũng vậy, nhờ Tuệ mà vô minh tự diệt. Hay thay!
* * *

15. Ngũ căn - riêng và chung

Đức vua Mi-lan-đà lại hỏi tiếp:
- Đại đức vừa trình bày xong ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ và gọi đó là những thiện pháp. Những thiện pháp ấy có tên gọi, chức năng, công dụng khác nhau. Thế chúng đứng độc lập, riêng biệt; chẳng có cái "chung" gì cả sao?
- Có chứ, tâu đại vương!
- Cái "chung" ấy là gì?
- Cái chung ấy là cùng hướng về một mục đích, cùng thành tựu một lợi ích, tâu đại vương.
- Mục đích ấy là gì? Lợi ích ấy là gì?
- Mục đích và lợi ích ấy chính là ngăn tất cả các điều dữ, diệt tất cả các phiền não, tâu đại vương!
- Xin đại đức cho ví dụ.
- Ví như đại vương dẫn bốn loại quân binh: bộ binh, tượng binh, mã binh, xa binh ra trận. Bốn loại binh ấy có tên gọi khác nhau, hình tướng, chức năng, công dụng khác nhau nhưng đều thành tựu chung một lợi ích, một mục đích: ấy là đem về vinh quang và chiến thắng cho đại vương!
- Đúng thế! Trẫm rất hài lòng về ví dụ ấy.
* * *

16. Tương quan thân trước và sau

- Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh, noãn sanh, thấp sanh v.v... Khi chúng chết đi, thác sanh trở lại, thì đàn ông vẫn làm đàn ông, đàn bà vẫn làm đàn bà; loài hai chân thành loài hai chân, loài bốn chân thành loài bốn chân... hay sao, thưa đại đức?
- Ý đại vương nói rằng, thân trước thân sau vẫn mang hình tướng ấy? Con người cũ ấy?
- Đúng là trẫm muốn hỏi như thế!
- Nói con người cũ là không phải, mà nói chẳng phải con người cũ cũng không phải, tâu đại vương!
- Xin đại đức cho nghe rõ hơn?
- Ngay trong kiếp sống này thôi mà lập ngôn như thế cũng đã sai rồi. Khi chúng ta sanh ra trên đời này, kể từ khi thai nhi nằm trong bụng mẹ, hài nhi nằm trong nôi, lớn lên biết bò, biết đi rồi khôn lớn trưởng thành, trung niên, già lão. Này đại vương! Vậy đứa bé và ông lão ấy cùng là một con người hay là hai con người?
- Một cũng trật, hai cũng chẳng nhằm!
- Bệ hạ lúc còn là hài nhi, còn ẵm ngữa trong lòng quốc mẫu với bệ hạ bây giờ có khác gì nhau không?
- Khác chứ sao không! Hồi đó nhỏ dại mà bây giờ lớn khôn. Thân thể đã khác mà hiểu biết cũng khác nữa.
- Nếu đại vương nói thế thì không những bệ hạ khác mà mẫu hoàng, phụ hoàng, thầy dạy học của bệ hạ cũng khác nữa. Bần tăng nghi ngờ lắm. Nghi ngờ rằng, cha mẹ của bệ hạ bây giờ không phải là cha mẹ thuở xưa của bệ hạ. Phụ hoàng và thầy dạy học của bệ hạ cũng là người khác rồi. Một kẻ tội đồ, gây ác nghiệp cách đây mấy năm là một người khác, bây giờ bị cắt tay, cắt chân lại là một người khác nữa hay sao?
- Không phải thế! Ý trẫm không phải là vậy. Nếu là đại đức thì đại đức trả lời sao?
- Tâu đại vương! Bần tăng sẽ trả lời rằng, lúc còn bé nhỏ là bần tăng, mà lúc lớn lên cũng là bần tăng chứ không phải người khác. Cái thân có thay đổi từ bé, trung niên đến già lão, nhưng vẫn tồn tục một sinh mạng ấy thôi.
- Xin cho ví dụ.
- Ví như cây đèn đốt cháy đầu hôm cho đến sáng, đầu hôm thì đầy dầu, sáng thì cạn dầu. Tâu đại vương! Vậy thì đầu hôm, giữa khuya và sáng là ba cây đèn khác nhau chăng?
- Chẳng phải thế. Nó chỉ là một cây đèn ấy được cháy đỏ liên tục đầu hôm đến sáng.
- Tất cả chúng sanh cũng y như thế đó, tâu đại vương. Danh và sắc đầu tiên kết hợp thành thân và tâm này tạo nên một sanh mạng, một đời sống hữu tình; tuy thân và tâm đều vô thường, thay đổi nhưng nó vẫn duy trì tồn tục sanh mạng cho đến lúc chấm dứt tuổi thọ. Già lão có thay đổi nhưng vẫn là một con người ấy mà thôi
- Cho xin ví dụ nữa.
- Ví như sữa tươi, để lâu thành sữa chua, thành sữa đặc, thành sữa trong v.v... Nói sữa tươi là sữa chua thì hẳn không đúng, nhưng nếu nói sữa chua không do sữa tươi mà ra thì sai. Tương quan thân lão và thân hài nhi là vậy, cho chí kiếp này qua kiếp kia cũng y như thế, tâu đại vương!
Đức vua gục gặc đầu:
- Chí lý! Sanh trở lại, bảo là con người cũ là sai, không phải con người cũ cũng sai nốt. Hay lắm! Chí lý lắm!
* * *

17. Tái sanh và Vô sanh

Đức vua hỏi:
- Thế người không còn tái sanh, có thể tự mình xác tín, biết rõ điều đó chăng hở đại đức?
- Có thể được, tâu đại vương!
- Bằng cách như thế nào?
- Thưa, ai thấy mình không còn gây nhân phiền não, cấu sanh; nghĩa là không còn vô minh và ái dục thì người đó biết chắc mình không còn sanh lại trong ba cõi, sáu đường nữa.
- Trẫm muốn nghe ví dụ.
- Ví như người làm ruộng, đầu mùa lo cày bừa, gieo mạ thì cuối vụ ông ta gặt lúa, cất lúa vào bồ. Năm sau, vì một lý do nào đó, người làm ruộng kia không còn cày bừa, gieo mạ nữa - thì ông ta có còn gặt lúa, cất lúa vào bồ chăng, tâu đại vương?
- Có lúa đâu mà gặt, mà cất!
- Tại sao đại vương biết?
- Vì ông ta có cày bừa và gieo mạ đâu!
- Đúng thế! Cày bừa, gieo mạ là nhân; gặt lúa cất vào bồ là quả. Cũng thế, chúng sanh có gây nhân cấu sanh, ái dục nên còn quả tái sanh; người tu hành đắc đạo tự biết mình không gây nhân cấu sanh, ái dục nên biết chắc rằng không còn tái sanh nữa, tâu đại vương!
- Rất dễ hiểu, thưa đại đức .

* * *

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#11
18. Trí và Tuệ (nana-panna)

- Trí và Tuệ khác nhau như thế nào, thưa đại đức?
- Trí thuộc về nhận thức, kiến thức, hiểu biết; còn Tuệ là thấy rõ vô thường, khổ não, vô ngã. Trí là thông minh mà Tuệ là sáng suốt, vậy nó khác nhau, tâu đại vương!
- Thông minh và sáng suốt khác nhau sao?
- Thông minh là học nhanh, hiểu nhanh, học một biết hai, có thể có kiến thức sâu rộng, nhưng nếu không biết tu tập có thể đi đến tà trí. Còn người sáng suốt thì tự biết tâm mình, có tu tập, thấy rõ pháp; nó cũng được gọi là chánh trí hay chánh tuệ, tâu đại vương!
- Người có được Tuệ có thể biết mọi sự, mọi vật không, thưa đại đức?
- Có điều biết, có điều không biết.
- Tại sao?
- Những gì có học thì biết, những gì không học thì không biết. Đơn giản có vậy. Trí thuộc phạm trù hiểu và biết, Tuệ thuộc về cái thấy không còn lầm lẫn như: vô thường cho là thường, vô ngã  cho là ngã, khổ cho là lạc!
- Vậy người có Trí còn si mê, lầm lẫn; người có Tuệ thì hết si mê, lầm lẫn?
- Đúng vậy!
- Thế khi Tuệ phát sanh thì si mê, lầm lẫn ấy đi đâu?
- Nó diệt mất.
- Đại đức hãy cho ví dụ.
- Ví như cầm cây đèn rọi vào hóc tối, ánh sáng hiện thì bóng tối tự tiêu, tâu đại vương.
- Còn Tuệ, nó mất chăng?
- Nó cũng diệt mất, nhưng công việc mà Tuệ đã làm, như cho ta thấy biết chân tướng của cuộc đời, cho ta thấy rõ lý vô thường, khổ và vô ngã của pháp thì vẫn còn, tâu đại vương!
- Sao lạ vậy? Điều đó trẫm ngờ lắm. Hãy cho trẫm nghe ví dụ xem nào?
- Vâng, ví như một người thắp đèn để viết sách, viết xong, tắt đèn; đèn tuy tắt nhưng chữ vẫn còn lưu lại trên giấy, tâu đại vương .
- Xin cho một ví dụ nữa.
- Một người đề phòng hỏa hoạn, sắm sẵn năm chum đầy nước. Khi hỏa tai, người ấy lấy nước trong năm chum đem ra sử dụng, dập tắt được lửa. Tai qua nạn khỏi, người ấy chẳng cần dùng năm chum nước ấy nữa, phải thế chăng? Cũng như thế, năm chum nước được ví cho ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ; khi rưới tắt được lửa tham sân si, phiền não rồi, xong phận sự rồi nó sẽ tự diệt; nhưng không, vô tướng và giải thoát thì vẫn còn, tâu đại vương!
- Trẫm muốn nghe ví dụ nữa.
- Ví như vị lương y dùng năm loại dược thảo, bào chế ra phương thuốc trị bệnh cho bệnh nhân. Uống xong, lành bệnh, vị lương y có còn dùng lại năm loại dược thảo kia để cho bệnh nhân uống nữa không, tâu đại vương?
- Không cần thiết nữa.
- Đúng thế, bệnh lành rồi không cần thuốc như thế nào, các tùy miên kiết sử phiền não đã diệt rồi thì ngũ căn tín, tấn, niệm, định, tuệ cũng không dùng nữa y như thế ấy. Chỉ còn lại niềm hạnh phúc chân thật thôi, tâu đại vương!
- Đã rõ lắm rồi nhưng đại đức còn có thể cho thêm ví dụ nữa chăng?
- Có thể được chứ! Ví như đại vương có lần cầm quân xuất trận. Cứ mỗi lần đại vương bắn một mũi tên lửa là dấu hiệu tấn công, bắn năm mũi tên lửa là năm đợt tấn công, quân địch bại trận. Thế thì sau khi chiến thắng, đại vương có cần bắn năm mũi tên nữa hay chăng?
- Bắn làm gì nữa, đại đức.
- Đúng thế! Năm mũi tên chính là năm đội quân thiện pháp, quân giặc bại trận ví như ác pháp, vô minh, ái dục. Người giác ngộ sẽ không còn sử dụng binh khí gì nữa mà chỉ thọ hưởng an lạc siêu thế thôi, tâu đại vương!
- Hay lắm! Trẫm không còn ngờ gì nữa.
* * *

19. Bậc vô sanh có còn đau khổ không?

Đức vua hỏi:
- Bậc Vô sanh, nghĩa là người đã Niết bàn, có còn đau khổ chút ít nào không, thưa đại đức?
- Một chút ít thọ khổ ấy cũng không có, tâu đại vương!
- Vậy thì trong đời này, các ngài chứng ngộ lý Vô sanh rồi có còn thọ khổ chút ít không?
- Thọ khổ nơi thân thì còn mà thọ khổ trong tâm thì không, tâu đại vương!
- Tại sao thế?
- Thân còn thọ khổ vì thân còn bị già, bị bệnh, còn bị sự biến hoại đổi khác do các định luật tự nhiên chi phối như định luật sinh học, định luật khí hậu, thời tiết, nắng mưa v.v... Tâm không còn thọ khổ nữa là do tâm ấy đã dập tắt tất cả mọi nguyên nhân tạo tác đau khổ: ấy là vô minh, ái dục!
- Giác ngộ, giải thoát rồi mà còn đau khổ nơi thân, thế sao các ngài không Niết bàn đi?
- Tâu đại vương! Các ngài chưa Niết bàn vì các ngài chẳng tham cầu sự sống mà cũng chẳng bất bình, chán ghét sự sống. Các bậc A-la-hán ấy họ sống an nhiên, tự tại giữa cuộc đời, còn duyên thì đến, hết duyên thì đi. Trái cây kia chưa đúng thời, chưa chín thì họ chẳng mong chín mau, chín vội bao giờ! Cho nên tôn giả Xá-lợi-phất thuở còn sinh tiền, có câu kệ ngôn sau:
Quote:" - Tịch diệt chẳng ưa thích
Mà sự sống cũng không
Chẳng hy cầu tham luyến
Chẳng trái ý nghịch lòng
Còn duyên, thời thì ở
Hết duyên, thời thì đi
Không, vô tướng, vô tác
Tùy hữu vi, vô vi!
"

Đức vua Mi-lan-đà cảm thán thốt lên:
- Hay thay! Tuyệt vời thay! trẫm đã hiểu.
* * *

20. Cảm Thọ

Đức vua lại hỏi tiếp:
- Thưa đại đức! Khi một người cảm thấy vui thì cái ấy là thiện chăng? Và khi cảm thấy khổ thì cái ấy là ác chăng?
- Cũng tùy trường hợp, tâu đại vương! Thọ vui thiện cũng có, ác cũng có, mà vô ký cũng có, ngược lại thọ khổ cũng y như thế.
- Sao lạ vậy? Vui sao có thể là ác? Khổ sao có thể là thiện? Thiện và khổ có lẽ nào lại tương hợp, đi chung đường?
- Khó nói lắm! Tâu đại vương! Trên thế gian này biết bao người đắm đuối trong ngũ dục, trong ác pháp, trược pháp mà họ cứ vẫn nghĩ là vui, là hạnh phúc? Biết bao người làm việc lành, cố gắng lìa xa ngũ dục mà họ cứ vẫn nghĩ là khổ, và họ bảo rằng đấy là khổ thanh cao? Các quan niệm vui khổ quả thật tương đối lắm thay! Nếu như đại vương hiểu rõ về tất cả mọi cảm thọ thì đại vương sẽ không đặt những câu hỏi tương tự.
- Trẫm vẫn chưa hiểu ra điều ấy.
Đại đức Na-tiên hỏi:
- Có người tay mặt nắm lấy một cục sắt nóng, tay trái nắm một phiến băng lạnh! Bần tăng hỏi thử đại vương; hai tay người ấy thọ nhận cảm giác gì? Cả hai tay đều run rẫy chăng?
- Không phải.
- Cả hai tay đều bị nóng đốt chăng?
- Cũng không phải.
- Một tay nóng, một tay lạnh chăng?
- Trong một lúc làm sao có hai cảm giác?
- Vậy thì nóng lạnh giao hòa, đã hòa nhau thì nóng lạnh triệt tiêu?
- Cũng chẳng phải thế!
Đại đức Na-tiên bèn giảng giải:
- Tâu đại vương! Ngay chính những cảm giác nóng lạnh thô tháo ở nơi thân mà chúng ta cũng khó nhận biết, huống hồ là những cảm thọ vi tế thuộc vui, thuộc khổ ở nơi tâm! Vui khổ, thật ra, rất tương đối vậy!
- Xin đại đức giảng rộng ra cho trẫm được lãm tường.
- Thưa vâng, có sáu lạc thọ nương sáu trần cảnh của người thỏa thích trong ngũ dục, đấy gọi là sáu lạc thọ thô trược của thế gian. Có sáu lạc thọ hành trình trong sáu trần cảnh của người xuất ly thế gian, có minh sát tuệ, đấy gọi là sáu lạc thọ thanh cao. Có sáu thọ khổ nương sáu trần cảnh của người đắm say ngũ dục, đấy là sáu khổ thọ thô trược của thế gian. Có sáu khổ thọ hành trình trong sáu trần cảnh của người xuất ly thế gian, có minh-sát-tuệ, đấy gọi là sáu khổ thọ thanh cao. Có sáu xả thọ của người thỏa thích trong ngũ dục, đấy gọi là sáu xả thọ thô trược của thế gian. Có sáu xả thọ hành trình trong sáu trần cảnh của người xuất ly thế gian, có hành minh sát tuệ, được gọi là sáu xả thọ thanh cao. Tất cả mười hai thọ lạc , mười hai thọ khổ, mười hai thọ xả ấy nhân với ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, tổng cọng có một trăm lẻ tám cảm thọ, tâu đại vương! Vậy thì những cảm thọ ấy, ta có thể xác định được rằng, cảm thọ này là thiện, cảm thọ kia là ác được chăng?
- Khó nói lắm, thưa đại đức .
- Thảng hoặc, có thể xác định được rằng, thọ khổ chính là ác và thọ lạc chính là thiện chăng?
- Cũng khó nói vậy thay!
Trầm ngâm một lát, đại đức Na-tiên hỏi tiếp:
- Thế đại vương còn thắc mắc gì về cảm thọ nữa chăng?
- Còn đấy, thưa đại đức! Tại sao một tay cầm cục sắt nóng, một tay cầm phiến băng lạnh, ta khó cảm nhận được nóng hay lạnh?
- Tâu đại vương! Vì khi xúc phát sanh thọ, thì thọ ấy chỉ có một tâm. Một tâm thì trong một lúc không thể nhận hai trần cảnh được!
- Trường hợp ấy có thể ví, là nếu đã thọ khổ thì không thể thọ lạc, đã thọ lạc thì không thể thọ khổ, phải thế không thưa đại đức?
- Vâng!
- Vậy thì trẫm đã hoàn toàn lãnh hội rồi!

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#12
21. Cái gì dẫn dắt đi tái sanh?

Đức vua hỏi:
- Cái gì dẫn dắt chúng sanh đi tái sanh, thưa đại đức?
- Là danh, sắc, tâu đại vương!
- Nghĩa là danh sắc của con người cũ này sanh trở lại?
- Không phải vậy, tâu đại vương! Chính danh sắc này làm các việc thiện ác; và chính do năng lực của nghiệp thiện ác ấy mà một danh sắc khác kế tục được sanh ra để nhận lãnh quả phước hoặc tội đã tạo tác.
- Nếu danh sắc cũ mà không sanh trở lại, thì đời này làm ác, đời sau đâu có chịu tội báo? Và như thế có nghĩa là mình đã thoát khỏi luân hồi sinh tử sao?

- Không phải vậy, tâu đại vương! Chỉ có người không còn gây nhân thiện ác mới chấm dứt tái sanh, chứ nếu còn gây nhân thiện ác thì sẽ sanh trở lại để thọ nhận quả báo, vòng sinh tử vì thế sẽ tiếp nối mãi không ngừng. Danh sắc cũ và danh sắc mới cũng chính là mình đấy chứ không phải ai khác.

- Xin đại đức hãy cho ví dụ.

- Ví như kẻ trộm xoài, chủ nhà bắt được quả tang dẫn đến đại vương nhờ xử trị. Bị cáo cãi rằng: "Hạ thần không hái xoài của người ấy. Trái xoài của anh ta trồng hồi trước chỉ là hạt mầm ở dưới gốc còn trái mà hạ thần hái là trái to ở trên cành. Hạ thần không có ăn trộm." Tâu đại vương! Với lý lẽ như thế, đại vương có xử phạt y được không?

- Thưa đại đức, dẫu có ngụy biện hay ho, trẫm vẫn xử phạt tên ăn trộm kia như thường!

- Sao lại thế được? Y đâu có hái cắp trái của người kia trồng đâu mà xử tội, hở đại vương?

- Đành rằng thế, nhưng mà trái cây y hái trộm ấy cũng do từ trái kia sanh ra, nó nẩy mầm, tăng trưởng mà thành. Cho nên người kia cũng không thoát khỏi tội.

Tỳ khưu Na-tiên gật đầu:

- Cũng như thế đó là danh sắc cũ và danh sắc mới, tâu đại vương . Việc tái sanh từ đời này sang đời kia cũng vậy. Các nghiệp thiện ác trong đời giống như đã gieo hạt giống, nẩy mầm, tăng trưởng, mai sau tất có quả báo.

Đức vua Mi-lan-đà cũng gật đầu:

- Trẫm đã hiểu, nhưng xin Đại đức cho một ví dụ nữa.

- Có thể được. Ví dụ có người đốt lửa sưởi ấm bên bờ ruộng, lửa ấy cháy lan sang một đám ruộng, người chủ ruộng bắt dẫn đến đại vương xử trị. Người đốt lửa tâu rằng: "Lửa của hạ thần đốt lên là lửa khác, lửa cháy ruộng ấy là lửa khác, không phải là lửa của hạ thần." Người kia nói lý như vậy, đại vương có bắt tội chăng?

- Dĩ nhiên là bị tội rồi.

- Vì cớ sao, tâu đại vương?

- Vì lửa cháy ruộng ấy cũng do từ lửa anh ta sưởi ấm trên bờ ruộng mà sanh ra, nên y không thể chạy tội được.

- Cũng vậy, ngon lửa trước là danh sắc cũ, ngọn lửa cháy ruộng tức là danh sắc mới, có được cũng từ danh sắc cũ mà ra.

- Xin cho nghe một ví dụ nữa.

- Ví như người đốt đuốc ngoài sân để ăn cơm, vô ý để tàn lửa bay sang đống rơm, lan sang nhà hàng xóm rồi thiêu rụi cả làng. Dân làng bắt y dẫn đến cho đại vương xử tội. Y cãi cố rằng, lửa cháy nhà là lửa khác còn lửa của y là ở nơi bó đuốc dùng để ăn cơm mà thôi! Đại vương có trị tội được y chăng?

- Trị tội được chứ!

- Vì cớ sao?

- Vì lửa cháy nhà có được là do từ lửa nơi bó đuốc của y.

- Cũng như thế đó là ngũ uẩn cũ và ngũ uẩn mới, tâu đại vương! Ngũ uẩn này (danh sắc cũ) tuy đã tắt nhưng cũng bởi nó mà tạo nên ngũ uẩn mới (danh sắc mới).

- Cho nghe một ví dụ nữa.

- Có người đàn ông nạp lễ vật dạm hỏi một cô gái còn nhỏ, đợi lớn lên hẳn cưới, nhưng sau đó ông ta đi làm ăn xa. Cô gái lớn lên, có người đàn ông khác đem lễ vật hậu hỉ đến cưới đem đi. Người đàn ông đi làm ăn xa trở về vác đơn thưa kiện. Người kia cãi rằng: "Vợ cũ của anh chỉ là một cô bé, còn vợ của tôi đây là một thiếu nữ." Vậy thì trường hợp ấy, đại vương xử cho ai thắng?

- Dĩ nhiên là cho người đàn ông trước thắng kiện.

- Tại sao lại như thế?

- Vì thiếu nữ kia cũng từ cô bé mà trưởng thành chứ có phải là người khác đâu.

- Cũng như thế đó là thân này và thân kia, danh sắc cũ và danh sắc mới, tâu đại vương!

- Đại đức còn có ví dụ nào nữa chăng?

- Có thể được, tâu đại vương! Ví như có người đến một chủ nuôi bò mua sữa. Mua xong, anh ta gởi bình sữa lại hẹn lát sau đến lấy, nhưng vì bận việc, hôm sau mới tới lấy sữa. Nhưng sữa đã chua, anh ta bảo rằng, anh không mua sữa chua và yêu cầu chủ bò đổi bình sữa mới. Người chủ bò không chịu, bảo rằng sữa chua là vì để cách đêm chứ không phải là sữa khác. Thế rồi hai người cãi vả nhau. Trường hợp đại vương thì đại vương xử cho ai được kiện?

- Chủ nuôi bò.

- Tại sao?

- Sữa để cách đêm thì nó chua chứ có phải là sữa khác đâu.

- Danh sắc cũ tạo nghiệp thiện ác nên có được danh sắc mới cũng y như thế, tâu đại vương .

- Trẫm hoàn toàn lãnh hội rồi, cảm ơn đại đức!

* * *



22. Không nên hỏi lại câu đã hỏi



Đức vua Mi-lan-đà chợt hỏi:

- Đại đức hiện nay có còn tái sanh nữa chăng?

- Câu này, đại vương đã hỏi rồi mà bần tăng cũng đã trả lời rồi: rằng, nếu bần tăng còn tham sân si phiền não, còn ham muốn sự sống thì bần tăng còn tái sanh, bằng ngược lại, bần tăng sẽ vô sanh.

Tuy nhiên, đại vương nghĩ như thế nào, nếu có kẻ hết lòng trung thành với đại vương, lập nhiều chiến công cho đại vương, đã được đại vương ban thưởng trọng hậu, thế mà người ấy cứ than phiền với người khác rằng, đại vương chẳng hề cho y cái gì cả! Lời nói của người ấy là lời nói đáng hay không đáng nói, hở đại vương?

- Thật không nên nói như thế.

- Cũng vậy là câu hỏi của đại vương! Câu hỏi ấy thật không đáng hỏi một tí nào.

Đức vua Mi-lan-đà cười, nói nhũn nhặn:

- Trẫm đã lĩnh ý, cảm ơn sự quở trách khéo léo của đại đức.

* * *


23. Danh sắc tương quan liên hệ



Vua hỏi:

- Đại đức đã nói đến danh sắc, vậy cái gì là danh, cái gì là sắc?
- Thưa, phàm vật gì mắt thấy được, sờ nắm được, xúc chạm được, cái ấy được gọi là sắc pháp; cái gì có tính trừu tượng như tâm vương, tâm sở... thuộc ý niệm, tư tưởng... thì gọi là danh phá- Tại sao các danh pháp thì có tạo tác đến đời sau còn sắc pháp thì không?

- Chẳng phải thế đâu, tâu đại vương! Hai pháp danh sắc này tương quan tương liên với nhau. Danh phải nương gá vào sắc, sắc phải nhờ danh mới hiện hữu để cấu tạo thành một sanh mạng. Chúng luôn luôn nương nhau, không từng lìa nhau bao giờ.

- Xin cho nghe ví dụ.

- Ví như một cái phôi trứng, ban đầu nó trong và ướt, sau đó nó đặc sệt, dần dần tượng hình thành quả trứng rồi nở thành chim, thành con gà. Cái phôi thai ban đầu ấy sở dĩ có được là do nhờ thức tái sanh (danh) nương gá vào sắc chất (sắc) của gà mà tạo nên mầm sống. Trong mầm sống ấy đã có danh và sắc nương gá lẫn nhau, tương quan tương liên với nhau, đồng sanh, đồng hiện hữu đã từ vô thỉ đến nay rồi, trải qua thời gian dài vô tận.

- Hay lắm!

* * *



24. Thời gian và không còn thời gian



Đức vua lại hỏi tiếp:

- Đại đức vừa nói đến thời gian, rồi lại còn nói thời gian dài vô cùng tận, điều ấy được hiểu như thế nào?

- Thưa, thời gian thường trải qua ba thì: quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ thì vô thỉ (không có khởi đầu) vị lai thì vô chung (không có chấm dứt), nên nói quá khứ, vị lai đều vô cùng, vô tận; còn hiện tại thì chỉ là cái chớp mắt thoáng trôi, đại vương nên có ý niệm về thời gian như vậy.

- Cả ba thì quá khứ, hiện tại, vị lai tức là thời gian; và thời gian này luôn luôn hiện hữu và chi phối tất cả chúng hữu tình, có phải vậy không thưa đại đức?

- Có khi có, có khi không, tâu đại vương!

- Trường hợp nào không có thời gian, không còn thời gian?

- Trường hợp những người đã dập tắt tất cả pháp hành, tức là pháp hữu vi, tạo tác, đã chấm dứt mọi nguyên nhân sanh tử thì không còn diễn tiến trong thời gian, không còn bị quy định trong thời gian, không còn bị chi phối bởi thời gian. Nói cách khác, các vị Thánh nhân đắc đạo họ sống không có thời gian. Họ vô sanh vậy.

- Trường hợp nào là có?

- Trường hợp tạo tác, còn pháp hành, còn gây nhân thiện ác; nghĩa là còn thọ nhận quả báo từ đời này sang kiếp kia là còn thời gian. Nói cách khác, thời gian đồng nghĩa với tử sinh và luân hồi vô tận vậy.

- Rõ ràng lắm, tri ân đại đức.

* * *



25. Nguyên nhân của thời gian



Đức vua hỏi:

- Thưa đại đức! Phàm cái gì có quả thì phải có nhân. Vậy nguyên nhân đâu mà có thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai?

Na-tiên tỳ khưu nói:

- Đại vương đặt câu hỏi hay lắm! Trước khi trả lời, đại vương cho phép bần tăng được hỏi lại ít câu.

- Đại đức cứ hỏi!

- Muốn chấm dứt thời gian thì phải làm sao?

- Là phải chấm dứt pháp hành (Sankhàra), pháp hữu vi, pháp tạo tác, pháp cấu sanh... như đại đức đã trả lời trong câu hỏi trước.
- Đúng thế. Vậy muốn chấm dứt pháp hành ấy thì phải làm sao nữa?p.
 Thì phải chấm dứt vô minh, vì "vô minh" sinh "hành" như Đức Thế Tôn đã thuyết.

- Đúng thế. Và như vậy, câu hỏi của đại vương đã được đại vương tự trả lời rồi.

Đức vua cười ha hả:

- Khéo lắm, nhưng xin đại đức giảng giải cho rõ ràng hơn một tí.

- Có thể được, tâu đại vương! Có thời gian là vì còn bị pháp hành chi phối, pháp hành là do vô minh mà có. Vậy muốn chấm dứt thời gian thì phải chấm dứt vô minh. Từ vô minh, chúng ta sẽ lần theo tiến trình sanh tử ấy như sau:

Vô minh là tình trạng bất giác, thiếu tỉnh thức, thiếu sáng suốt nên khởi tâm vọng động, tạo nên hành, và hành chính là ái, thủ, hữu quá khứ. Do hành nghiệp mà phát sanh năng lực đưa tâm nương gá nơi bào thai [kết sanh thức (danh) + tinh trùng và noãn châu (sắc)]. Kết hợp danh sắc hiện rõ chức năng sáu căn để nhận thức sáu trần (lục nhập). Khi có sáu giác quan của một chúng sanh ra đời, tùy đối tượng nhận thức mà phát sanh nhãn xúc, nhĩ xúc...ý xúc (xúc). Từ đây có các cảm thọ khổ ưu, hỷ lạc và xả (thọ). Có thọ liền có tham sân si (ái). Có ái, chấp thủ, tạo nên các thủ (dục thủ, kiến thủ, ngã thủ và giới cấm thủ). Thủ là sức mạnh tạo thành nghiệp (hữu) thiện, bất thiện và bất động. Hữu là lực tạo tác để trở thành (bhava), nghĩa là tạo năng lực để hiện hữu trong tương lai. Rồi thức tái sanh kết hợp với sắc pháp (tinh trùng + noãn châu) tạo tác nên một chúng sanh mới, chịu sự chi phối của già chết và sầu bi khổ ưu não...; và tiến trình của mười hai duyên khởi này chính là tiến trình sinh tử không đầu, không đuôi kéo dài đến vô tận, chẳng thể phanh ra đầu mối. Tìm kiếm nguồn gốc đầu tiên của chúng sanh, của thời gian là một việc làm không thể được, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức đã giảng giải rất tận tường.

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#13
26. Thời gian tối sơ?

Đức vua hỏi tiếp:
- Đại đức vừa nói là không thể phanh ra nguồn gốc của thời gian, tức là không thể tìm ra thời gian tối sơ. Điều ấy trẫm hiểu, nhưng trẫm muốn nghe ví dụ.
- Ví dụ như trái cây. Trái chín rụng, hạt rơi xuống thành cây khác, trái khác; và cứ thế tiếp tục đến vô cùng, vô tận. Đại vương có thể nào tìm ra gốc nguồn của trái cây kia chăng?
- Không thể được.
- Cũng thế là thời gian tối sơ của chúng sanh, chẳng thể tìm được, tâu đại vương.
- Cho nghe ví dụ khác.
- Ví dụ trứng gà ấp nở ra gà. Gà con thành gà mẹ, lại đẻ trứng, ấp nở ra bầy gà con. Gà con lớn lên đẻ trứng, ấp nở ra gà nữa và cứ thế tiếp tục đến vô cùng vô tận. Đại vương có thể nào tìm ra gà sinh trứng hay trứng sinh gà? Có thể tìm ra nguồn gốc của con gà kia chăng?
- Không thể được.
- Cũng thế là thời gian tối sơ của chúng sanh, chẳng thể phanh tìm được, tâu đại vương.
- Cho nghe ví dụ nữa.
Na-tiên tỳ khưu vẽ theo cái hình bánh xe rồi nói:
- Đại vương có thể chỉ cho bần tăng thấy chỗ nào là điểm khởi đầu trên cái hình bánh xe này chăng?
- Thưa, chẳng thể.
- Cũng như thế đó là điểm bắt đầu của chúng sanh, chẳng thể tìm ra, tâu đại vương! Trong vòng tử sanh, sanh tử ấy, giống như bánh xe này, không đầu không đuôi; chúng sanh lui tới, vần xoay mãi mãi không ngừng. Đức Thế Tôn đã giải thích về điều ấy như sau:
Quote:"Khi có mắt và có sắc thì có nhãn xúc. Có nhãn xúc liền có các cảm thọ. Khổ, lạc và xả. Có các cảm thọ liền có ái phát sanh. Có ái liền có thủ. Có thủ liền có hữu, tức là tạo nghiệp. Có tạo nghiệp nên phải sanh trở lại để nhận quả báo.
Khi có tai và có âm thanh thì có nhĩ xúc. Có nhĩ xúc liền có các cảm thọ. Có thọ liền có ái, có thủ, có hữu, tức là tạo nghiệp thiện ác hoặc bất động. Có tạo nghiệp nên phải sanh trở lại để thọ nhận quả báo. Cũng giống như thế với mũi và hương, lưỡi và vị, thân và vật xúc chạm, ý và pháp. Tất cả chúng là những tác động, là nhân, là duyên đưa đến tái sanh, tương tục vần xoay không gián đoạn, vô thỉ, vô chung".

Như thế thì làm thế nào tìm ra được đầu mối của sinh tử, thời gian tối sơ, nguyên nhân đầu tiên của chúng sanh được, hở đại vương?
- Thưa, quả vậy.
* * *

27. Có rồi không, Không rồi có!

Đức vua hỏi:
- Thời gian tối sơ không thể phăng tìm được, điều đó thì trẫm lãnh hội rồi, nhưng thời gian tối sơ ấy có thể nào khi có, khi không chăng, hở đại đức?
- Đúng là như thế, tâu đại vương!
- Xin đại đức nói cho rõ hơn.
- Ví như có một giống cây, chưa mọc thì chưa có, đến khi người ta đem giống ấy, trồng tỉa nên cây, hoa, lá, trái. Như thế được hiểu trước đây là không mà bây giờ là có vậy, tâu đại vương!
- Thế còn từ có mà trở thành không?
- Cũng tương tự thế, có một giống cây trước đây mọc đầy rừng, đầy đất, không biết có mặt từ bao giờ nhưng bây giờ thì hoàn toàn mất hẳn, diệt hẳn. Vậy là có mà trở thành không đấy, tâu đại vương!
* * *

28. Pháp hành thì sao?

Đức vua hỏi:
- Thế còn pháp hành (Sankhàra) thì sao, hở đại đức?
- Pháp hành, pháp hữu vi đã sanh rồi thì nó cứ sanh mãi, tương tục mãi như thế.
- Xin đại đức giảng cho rõ.
- Pháp hành này phải được hiểu là những pháp cấu tạo ở trong tâm. Đại vương đã từng hiểu mười hai duyên khởi rồi thì cứ từ cái duyên khởi ấy mà suy ra. Khi có lục căn, lục trần thì có lục xúc. Có xúc thì có thọ, ái, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não. Khi thọ mạng chấm dứt thì nghiệp lực tạo sức mạnh cho thức tái sanh đi tìm cảnh giới mới. Như thế thì pháp hành (Ai, thủ, hữu) đã sanh rồi thì sanh sanh đến vô tận theo vòng luân hồi tử sanh của chúng sanh vậy.
- Trẫm hiểu. Nhưng đại đức có nói là có thể chấm dứt pháp hành ấy, nghĩa là có thể từ  mà trở thành không?
- Đúng thế.
- Xin đại đức giảng giải.
- Điều ấy đại vương hiểu rồi mà! Nghĩa là nếu không có vô minh thì không có hành, chấm dứt hành thì không có thức đi tìm cảnh thú tái sanh để cấu tạo nên danh sắc mới... cứ thế mà suy diễn ra, nếu mười hai duyên khởi không còn tồn tục được thì vòng luân hồi tử sanh ấy sẽ chấm dứt. Pháp hành từ có mà trở thành không là vậy, tâu đại vương.
- Hay vậy thay!
* * *

29. Tự nhiên sanh?

- Thế có vật gì mà do tự nhiên sanh, hở đại đức?
- Không có vật gì trên thế gian này mà do tự nhiên sanh cả, tâu đại vương .
- Thế sao đại đức bảo có vật từ không mà thành có?
Tỳ khưu Na-tiên mỉm cười:
- Trước đây khi dẫn quân đi chinh chiến, đại vương có ở trong cung điện này chưa?
- Thuở ấy chưa có cung điện này!
- Rồi sau sao lại có?
- Khi lập kinh đô, trẫm mới làm cung điện.
- Đại vương làm như thế nào?
- Trẫm cho người san bằng đất, chở đá sỏi từ nơi khác đến, cho lấy gỗ trong rừng và để thợ mộc làm cột, kèo, đòn tay, chạm trổ v.v... Sau đó làm thành quách, cửa ngõ, lối đi, trồng cây, đào ao hồ, nuôi chim, thả ca v.v...
- Thế thì cung điện này đâu phải do tự nhiên sanh mà do chính công kiến tạo, tập kết vật liệu, sức người làm, đá, sỏi, vôi, đường v.v... Tất cả chúng kết hợp lại mới thành cung điện, phải thế chăng?
- Đúng như thế.
- Cũng thế, không có thể trở thành , nhưng có ấy không phải tự nhiên sanh mà do sự cấu tạo, kết hợp nhiều yếu tố, nhiều phụ liệu khác mà thành, tâu đại vương .
- Xin cho ví dụ.
- Ví như hạt lúa có thể trở thành cây lúa không, hở đại vương, nếu như nó không có đất, nước, ánh sáng, phân, công chăm sóc, thời gian và ý niệm trồng lúa của người chủ ruộng?
- Không thể thành cây lúa được nếu thiếu các yếu tố, điều kiện đi sau.
- Cũng như thế, chẳng có vật gì do tự nhiên sanh, do tự nó sanh mà do sự kết hợp nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác, tâu đại vương .
- Xin cho ví dụ nữa.
- Ví như đất sét có thể trở thành đồ gốm không, hở đại vương?
- Không thể được. Đất sét mang về phải lấy nước nhồi cho nhuyễn, xong rồi phải nặn thành cái nồi, niêu, chén, bát v.v...; kế nữa phải có củi, lửa, bỏ vào lò nung cho chín v.v...Ây mới thành đồ gốm dùng được.
- Thế rõ ràng là nó chẳng do tự nhiên sanh mà do sự kết hợp của nhiều yếu tố, nhiều điều kiện vậy.
- Đại đức còn ví dụ nào nữa chăng?
- Có thể được. Ví dụ như người gãy đàn. Nếu không có dây, phím, da bịt, thùng gỗ v.v... thì âm thanh có thể vang tiếng được không, tâu đại vương?
- Cây đàn, âm thanh như thế cũng không phải tự nhiên sanh, nó cần nhiều yếu tố và điều kiện vậy.
- Có người muốn cưa cây lấy lửa, nhưng y không có hai thanh gỗ, không có bùi nhùi, không có cả người cưa thì có thể tạo ra lửa không hở đại vương?
- Thưa không.
- Ví như người có kính thủy tinh, có ánh nắng mặt trời, lại có người cầm kính ấy chiếu lên đống cỏ khô, rơm khô... thì có thể tạo ra lửa được chăng?
- Thưa được.
- Ví như có gương soi, có người đứng trước gương, có ánh sáng thì có hình người hiện ra trong gương không, tâu đại vương?
- Thưa có.
- Hết thảy mọi sự mọi vật trong thế gian đều y như thế, chẳng có cái gì do tự nhiên sanh, phải cần các yếu tố, điều kiện, kết hợp lại mà thành. Nói cách khác, vạn pháp, muôn loài đều do nhân duyên sanh vậy, tâu đại vương!
- Hay lắm! Trẫm đã hoàn toàn lãnh hội.
* * *

30. Tự ngã trong thân?

Đức vua hỏi:
- Tất cả mọi nhận thức, hiểu biết dường như là do một tự ngã ở trong thân, phải vậy không, đại đức?
- Đại vương hiểu điều đó như thế nào, có thể nói rộng ra được chăng?
- Trẫm nhận thấy thế này. Tất cả chúng sanh có sanh mạng, phải có một chủ thể nhận thức nương gá ở trong thân, nhờ thế mới có thể thấy sắc bằng mắt, nghe tiếng bằng tai, ngửi hương bằng mũi v.v...Nghĩa là tự ngã ấy có thể thấy được ngoại cảnh bên ngoài qua sáu cửa sổ giác quan vậy. Ví như chúng ta đang ngồi trong bảo điện này, nếu muốn nhìn thấy cảnh phía đông, ta mở cửa phía đông, muốn nhìn cảnh phía tây, phía nam, phía bắc thì ta mở cửa phía tây, phía nam, phía bắc. Mở bốn cửa sổ ở bốn hướng ta nhìn thấy ngoại vật như thế nào, thì tự ngã ở trong thân nhìn thấy ngoại vật qua sáu giác quan cũng y như thế. Đấy là ví dụ của trẫm, không biết có đúng chăng?
- Bần tăng đã hiểu. Như bốn cửa sổ ở bốn hướng này, ta muốn xem hướng nào thì mở hướng ấy?
- Đúng thế.
- Nếu tự ngã muốn thấy sắc thì nó mở nhãn môn để thấy sắc?
- Đúng thế.
- Vậy thì tự ngã ấy có thể thấy sắc bằng nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý môn được chăng?
- Không thể.
- Có thể nghe âm thanh bằng mắt, mũi, lưỡi, thân và ý chăng?
- Không thể.
- Có thể ngửi được mùi hương bằng mắt, tai, lưỡi, thân và ý chăng?
- Không thể.
- Tương tự như thế, nếm vị bằng mắt, tai, thân và ý? Xúc chạm bằng mắt, tai, mũi, lưỡi và ý? Và suy nghĩ bằng mắt, tai, mũi, lưỡi và thân?
- Không thể.
- Vậy tại sao đại vương lại bảo là muốn thấy hướng nào thì mở cửa hướng ấy bằng ví dụ những cửa sổ? Sáu giác quan mà ví dụ là sáu cửa sổ, ấy là thí dụ không thích đáng, không tương hợp chút nào cả. Đại vương có thấy như thế chăng?
- Trẫm đã thấy.
- Các cửa sổ ở cung điện này nếu được mở rộng ra thì ta có thể thấy ngoại cảnh xa rộng hơn. Nhưng mắt mà được khoét rộng ra thì có thể thấy ngoại cảnh xa rộng hơn chăng?
- Không thể.
- Tương tự như thế ấy. Nếu tai, mũi, lưỡi, thân, ý mở rộng ra thì ta có thể nào nghe xa rộng , ngửi xa rộng, nếm xa rộng, xúc xa rộng, suy nghĩ xa rộng được chăng?
- Thật không thể được.
- Như vậy chứng tỏ luận cứ của đại vương là không tương hợp, không thích đáng. Lại nữa, ví dụ đại vương đứng ở cổng thành bố thí cho dân nghèo, một người ở hướng đông đến, nhận vật bố thí rồi đi, đại vương có thấy chăng?
- Dĩ nhiên là trẫm thấy.
- Một người ở hướng tây lại, nhận của bố thí xong, người ấy không đi mà đứng yên trước mặt đại vương, thế đại vương có thấy chăng?
- Có thấy.
- Tương tự như vậy, khi lưỡi nếm vị, cái lưỡi biết rõ ấy là vị chua, ngọt, béo, bùi chăng?
- Dĩ nhiên là biết.
- Nhưng nếu cái vị ấy chưa đến lưỡi, còn đứng ở ngoài lưỡi, thì đại vương có thể nào biết nó là đắng, chát, ngọt, bùi không?
- Không thể biết được.
- Như vậy, rõ ràng là lối ví dụ so sánh của đại vương là không tương hợp, không thích đáng. Lại nữa, nếu ta đem mật ong đổ đầy trong lu lớn, bắt một người nằm vào trong và bịt kín miệng người đó lại, thì y có thể nào biết được cái ngọt của mật chăng?
- Không nếm thì làm sao biết được.
- Như vậy, thêm một lần nữa, đại vương biết rõ đâu là không tương hợp, không thích đáng.
Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ hồi lâu:
- Bây giờ trẫm đã thấy rõ sự kém cỏi, nông cạn của mình, xin đại đức giảng giải cặn kẽ cho trẫm nghe thêm.
Na-tiên tỳ khưu bèn thuyết như sau:
- Tâu đại vương! Con mắt tiếp xúc với sắc nhưng chưa chắc con mắt ấy biết rõ sắc ấy là xanh, đỏ, trắng, vàng đâu, nếu không có nhãn thức. Và nhãn thức ấy cũng không phải là một tự ngã, một chủ thể. Nhãn thức sanh lên khi căn xúc với trần, nhưng nó không phải sanh khởi một mình, nó có những tâm sở đồng sanh khác, gọi là biến hành tâm sở: xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn.
Quote: - xúc là xúc chạm trần cảnh,
- tác ý là khởi ý đến trần cảnh,
- thọ là cảm giác,
- tưởng là tri giác, nhận biết,
- tư là tư tác do tham sân hoặc bất động,
- nhất tâm làm cho các tâm sở được liên tục
mạng căn duy trì mạng sống của một tiến trình tâm.
Và nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng được hiểu như thế. Tất cả căn, trần, thức, và những tâm sở đồng sanh ấy chúng tương quan tương duyên với nhau. Như vậy thì thức, cái nhận biết, đâu phải là chủ thể, đâu phải là cái độc lập, đâu phải là tự ngã thường hằng nương gá ở trong thân? Đại vương có biết rằng luận cứ của đại vương đã rơi vào thường kiến, một tà kiến nguy hiểm cho những người học Phật chăng?
- Cảm ơn đại đức, cái tự ngã ấy chỉ là ảo giác, ảo tưởng, trẫm đã rõ rồi.



* * *
Budsas.org
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#14
Đề nghị Xí Xọn post vấn đáp số 177. Đề tài này đang "hot". Winking-face4
[Image: K6bu1Jw.png]
Reply
#15
(2024-08-06, 12:03 AM)005 Wrote: Đề nghị Xí Xọn post vấn đáp số 177. Đề tài này đang "hot". Winking-face4

Chào Ngũ Huynh. 


XX muốn đăng theo thứ lớp, nhưng nếu anh muốn thì XX sẽ đăng trước rồi sẽ tuần tự đăng lại. :)
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
[-] The following 1 user Likes Xí Xọn's post:
  • 005
Reply