2022-04-22, 09:06 AM
Nguồn: Roger Cohen, “The Making of Vladimir Putin,” New York Times, 26/03/2022
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Hãy cùng điểm lại hành trình 22 năm của Putin, từ một chính khách trở thành bạo chúa.
Sử dụng loại ngôn ngữ mà ông gọi là “ngôn ngữ của Goethe, Schiller, và Kant,” được rèn luyện trong thời gian là sĩ quan KGB ở Dresden, Tổng thống Vladimir V. Putin đã phát biểu trước Quốc hội Đức vào ngày 25/09/2001. “Nước Nga là một quốc gia châu Âu thân thiện,” ông tuyên bố. “Hòa bình ổn định tại lục địa là mục tiêu tối quan trọng đối với chúng tôi.”
Nhà lãnh đạo Nga – người đã đắc cử tổng thống một năm trước đó, ở tuổi 47, sau khi thăng tiến như vũ bão – tiếp tục mô tả “các quyền tự do và dân chủ” là “mục tiêu chính trong chính sách đối nội của Nga.” Các thành viên của Hạ viện Đức đứng dậy hoan nghênh nhiệt liệt, xúc động trước sự hòa giải mà Putin dường như đang là hiện thân, giữa thành phố Berlin, vốn là biểu tượng cho sự chia rẽ lâu đời giữa phương Tây và thế giới Xô Viết độc tài.
Norbert Röttgen, một nghị sĩ trung hữu, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện trong nhiều năm, là một trong số những người đã đứng lên khi ấy. Ông nói: “Putin đã thu hút chúng tôi. Đó là một giọng nói nhẹ nhàng, bằng tiếng Đức, một giọng nói có thể khiến bạn tin vào những gì bạn nghe. Chúng tôi có lý do để cho rằng có một viễn cảnh đoàn kết khả thi.”
Ngày nay, mọi sự đoàn kết đều tan vỡ, Ukraine chìm trong biển lửa, bị vùi dập bởi đội quân xâm lược mà Putin gửi đến, nhằm chứng minh niềm tin cá nhân rằng quốc gia Ukraine chỉ là chuyện thần thoại. Hơn 3,7 triệu người Ukraine phải đi tị nạn; số người chết ngày càng tăng cao trong một cuộc chiến chỉ mới kéo dài một tháng; và giọng nói nhẹ nhàng của Putin nay biến thành giọng nói giận dữ của một người đàn ông đang gồng mình gọi bất kỳ người Nga nào dám chống lại bạo lực từ chế độ độc tài của ông ta là “kẻ cặn bã và bọn phản bội.”
Các đối thủ của ông, “đạo quân thứ năm” do phương Tây thao túng, sẽ gặp phải số phận kinh hoàng, Putin tuyên bố trong tháng này, với gương mặt nhăn nhó, vì kế hoạch chiến tranh chớp nhoáng của ông ở Ukraine đã bị đình trệ. Ông nói, những người Nga chân chính sẽ “nhổ họ ra như một con muỗi vô tình bay vào miệng” và qua đó đạt được “sự tự thanh lọc xã hội cần thiết”.
Đây có lẽ không phải là ngôn ngữ của Kant, mà là một tuyên bố mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc gắn với thời thanh niên khó khăn và hỗn loạn ở St.Petersburg của Putin.
Giữa hai tiếng nói của lý trí và của sự kích động, giữa hai hình ảnh tựa hai người khác nhau hoàn toàn này, là 22 năm cầm quyền và 5 đời tổng thống Mỹ. Khi Trung Quốc trỗi dậy, khi Mỹ tham chiến và rồi thua cuộc ở Iraq và Afghanistan, khi công nghệ kết nối toàn thế giới, một bí ẩn của nước Nga đã thành hình trong Điện Kremlin.
Phải chăng Mỹ và các đồng minh, vì quá lạc quan hay quá ngây thơ, nên đã hiểu sai về Putin ngay từ đầu? Hay phải chăng Tổng thống Nga đã dần thay đổi, trở thành một kẻ hiếu chiến theo chủ nghĩa phục thù như hôm nay, cho dù là bởi niềm tin vào sự khiêu khích của phương Tây, làm khơi dậy bất bình, hay bởi sự độc hại xuất phát từ nền cai trị kéo dài và ngày càng cô lập – kể từ thời Covid-19?
Putin là một bí ẩn, nhưng ông cũng là người lộ diện nhiều nhất. Nhìn từ góc độ canh bạc liều lĩnh ở Ukraine, chúng ta sẽ thấy một bức tranh nổi lên, về một người đàn ông xem hầu hết các động thái của phương Tây là hành động chống lại Nga – và có lẽ là chống lại chính ông. Khi bất bình dâng cao, từ ngày này qua ngày khác, từ năm này qua năm khác, sự khác biệt lại càng trở nên mờ nhạt. Trên thực tế, Putin đã trở thành nhà nước, ông hợp nhất với nhà nước Nga, số phận của cả hai hòa vào một tầm nhìn ‘cứu thế’ về sự phục hưng của vinh quang đế quốc.
Từ tro tàn của đế chế
“Theo tôi, với Putin, sự cám dỗ của phương Tây chủ yếu là ở chỗ nó là công cụ cần thiết để xây dựng một nước Nga vĩ đại”, theo lời Condoleezza Rice, cựu Ngoại trưởng từng gặp Putin vài lần trong giai đoạn đầu tiên khi ông lên nắm quyền. “Ông ta luôn bị ám ảnh bởi việc 25 triệu người Nga ‘mắc kẹt’ bên ngoài Mẫu quốc sau sự tan rã của Liên bang Xô Viết. Ông nêu lên vấn đề này, hết lần này đến lần khác. Đó là lý do tại sao, đối với ông, hồi kết của đế chế Liên Xô là thảm họa lớn nhất của thế kỷ 20.”
Nếu quả thật có tồn tại sự phẫn nộ của một kẻ ước mong phục quốc, bên cạnh mối nghi ngờ mà một gián điệp Liên Xô dành cho Mỹ, thì Putin vẫn có những ưu tiên khác. Trước hết, ông là một đầy tớ ái quốc của nhà nước. Nước Nga hậu cộng sản của thập niên 1990, dẫn dắt bởi Boris N. Yeltsin, nhà lãnh đạo dân cử tự do đầu tiên của đất nước, đã sụp đổ.
Năm 1993, Yeltsin ra lệnh nã pháo vào tòa nhà quốc hội để dập tắt một cuộc nổi dậy, khiến 147 người thiệt mạng. Phương Tây đã phải cung cấp viện trợ nhân đạo cho Nga, nền kinh tế của nước này sa sút nghiêm trọng, tình trạng nghèo đói cùng cực lan tràn, trong khi hàng loạt các công ty công nghiệp lớn bị bán tháo với giá rẻ bèo cho một tầng lớp đầu sỏ mới nổi. Tất cả những điều này, đối với Putin, đại diện cho hỗn loạn. Chúng là một sự sỉ nhục.
“Ông ấy ghét những gì đã xảy ra với Nga, ghét ý tưởng rằng phương Tây đã phải giúp đỡ họ,” Christoph Heusgen, trưởng cố vấn ngoại giao của cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel từ năm 2005 đến năm 2017, nhận xét. Tuyên ngôn chính trị đầu tiên của Putin trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2000 là đảo ngược mọi nỗ lực của phương Tây nhằm chuyển giao quyền lực từ nhà nước sang thị trường. Ông viết, “Đối với người Nga, một nhà nước mạnh không phải là điều bất thường cần chiến đấu chống lại.” Mà ngược lại, “nó là nguồn gốc và phương tiện canh giữ trật tự, nơi khởi xướng và là động lực chính của bất kỳ sự thay đổi nào.”
Nhưng Putin không phải là người theo chủ nghĩa Marx, dù rằng ông đã cho phục hồi bài quốc ca thời Stalin. Ông đã chứng kiến thảm họa của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, ở cả Nga và Đông Đức, nơi ông là điệp viên KGB từ năm 1985 đến 1990.
Tổng thống mới sẵn sàng bắt tay với các nhà tài phiệt đầu sỏ được tạo ra bởi chủ nghĩa tư bản hỗn loạn, thị trường tự do, thân hữu – miễn là họ thể hiện lòng trung thành tuyệt đối. Nếu không, họ sẽ bị thủ tiêu. Nếu đó là nền dân chủ, thì nó là một “nền dân chủ có chủ quyền,” một cụm từ được các nhà chiến lược chính trị hàng đầu của Putin chấp nhận, nhấn mạnh vào vế chủ quyền.
Bị ảnh hưởng bởi thành phố quê nhà St. Petersburg, được Peter Đại đế xây dựng vào đầu thế kỷ 18 như một “cửa sổ đến châu Âu,” và bởi những trải nghiệm ngày đầu làm chính trị tại văn phòng thị trưởng với nhiệm vụ thu hút đầu tư nước ngoài từ năm 1991, Putin dường như cởi mở, dù thận trọng, với phương Tây trong giai đoạn đầu lên nắm quyền.
Ông đề cập đến khả năng Nga trở thành thành viên NATO với Tổng thống Bill Clinton vào năm 2000, một ý tưởng chẳng bao giờ đi đến đâu. Ông duy trì một thỏa thuận đối tác mà Nga ký với Liên minh châu Âu năm 1994. Một Hội đồng NATO-Nga được thành lập vào năm 2002. “Người Petersburg” đối đầu với “Người Xô-viết”.
Đó là một hành động cân bằng khéo léo, mà một Putin có tính kỷ luật đã được chuẩn bị. “Anh không bao giờ được mất kiểm soát,” ông nói với đạo diễn người Mỹ Oliver Stone trong The Putin Interviews, một bộ phim tài liệu năm 2017. Ông từng tự mô tả mình là “một chuyên gia về quan hệ giữa người với người.” Không chỉ có các nhà lập pháp Đức mới bị cuốn hút bởi người đàn ông với gương mặt không biểu lộ cảm xúc và ý định không thể lay chuyển, vốn được mài giũa trong thời gian làm nhân viên tình báo.
“Anh phải hiểu rằng, ông ấy đến từ KGB, nói dối là nghề, chứ không phải tội” – Sylvie Bermann, Đại sứ Pháp tại Moscow từ năm 2017 đến năm 2020, nói. “Ông ấy giống như một chiếc gương, thích nghi với những gì bản thân nhìn thấy, theo cách mà ông được đào tạo.”
Vài tháng trước bài phát biểu tại Hạ viện Đức, Putin đã nổi tiếng khi giành được cảm tình của Tổng thống George W. Bush, người sau lần đầu tiên gặp ông, vào tháng 06/2001, nói rằng mình đã nhìn vào mắt Tổng thống Nga, thấy được “tâm hồn của ông ấy” và nhận ra ông “rất thẳng thắn và đáng tin cậy.” Tương tự, Yeltsin đã chỉ định Putin làm người kế nhiệm chỉ ba năm sau khi ông đến Moscow vào năm 1996.
“Putin biết cách thay đổi bản thân cho phù hợp với người đối diện,” Mikhail B. Khodorkovsky, từng là người đàn ông giàu nhất nước Nga trước khi lãnh bản án dài một thập niên trong một nhà tù Siberia và phải chứng kiến công ty của mình sụp đổ, nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2016 tại Washington. “Nếu ông ấy muốn anh thích ông ấy, anh sẽ thích ông ấy.”
Lần trước đó tôi gặp Khodorkovsky là ở Moscow vào tháng 10/2003, chỉ vài ngày trước khi ông bị các đặc vụ có vũ trang bắt giữ vì các cáo buộc tham ô. Lần đó, ông kể cho tôi nghe những tham vọng chính trị táo bạo của mình – điều mà với Putin, là tội khi quân phạm thượng.
Sự trỗi dậy của một nhà độc tài
Căn nhà gỗ được chọn làm dinh thự tổng thống bên ngoài Moscow trông rất thoải mái, nhưng không được trang trí công phu. Thời điểm năm 2003, sở thích cá nhân của Putin vẫn chưa đạt đến mức xa hoa. Các nhân viên bảo vệ lượn lờ xung quanh, nhìn chằm chằm vào màn hình TV đang trình chiếu những người mẫu thời trang trên sàn diễn Milan và Paris.
Như mọi khi ông vẫn làm, Putin đã khiến chúng tôi phải chờ đợi nhiều giờ. Một hành động như để thể hiện rằng mình trên cơ kẻ khác, cố tình thô lỗ ngay cả với những người như Ngoại trưởng Rice, và giống như việc ông mang chó đến cuộc gặp với Thủ tướng Merkel vào năm 2007 dù biết rõ rằng bà ấy sợ chó.
Merkel nói: “Tôi hiểu tại sao ông ta làm việc đó. Để chứng tỏ mình là một người đàn ông.”
Khi cuộc phỏng vấn với ba nhà báo của New York Times cuối cùng cũng được bắt đầu, Putin tỏ ra thân thiện và tập trung, thoải mái với khả năng trình bày chi tiết rõ ràng của mình. “Chúng tôi kiên định đi trên con đường phát triển của dân chủ và kinh tế thị trường,” ông nói, “Nếu xét về tâm lý và văn hóa, người Nga là người châu Âu”.
Ông cũng nói về “mối quan hệ tốt đẹp, gần gũi” với chính quyền Bush, bất chấp việc chiến tranh Iraq xảy ra, và khẳng định “các nguyên tắc chính của chủ nghĩa nhân văn – nhân quyền, tự do ngôn luận – vẫn là nền tảng cho tất cả các quốc gia.” Theo ông, bài học lớn nhất ông rút ra được là “tôn trọng luật pháp”.
Vào thời điểm này, Putin rõ ràng đã kiểm soát các phương tiện truyền thông độc lập; tiến hành một cuộc chiến tàn bạo ở Chechnya, nơi thủ phủ Grozny bị san bằng; và cho các quan chức an ninh – được gọi là siloviki – giữ vị trí trung tâm trong chính quyền. Thường thì đó là những người bạn cũ ở St.Petersburg, như Nikolai Patrushev, hiện là Thư ký Hội đồng An ninh của Putin. Nguyên tắc đầu tiên của một sĩ quan tình báo là luôn nghi ngờ.
Khi được hỏi về các phương pháp của mình, tổng thống bất ngờ giận dữ, nói rằng người Mỹ không thể tỏ ra trịch trượng. Ông nói: “Ở Nga, chúng tôi có một câu châm ngôn thế này. Đừng chỉ trích chiếc gương nếu bạn có một khuôn mặt méo mó.”
Ấn tượng sâu sắc nhất với chúng tôi là hình ảnh một người đàn ông có nội tâm bị chia rẽ ẩn đằng sau ánh mắt không chút nao núng. Michel Eltchaninoff người Pháp, tác giả cuốn sách Inside the Mind of Vladimir Putin (Thế giới nội tâm của Vladimir Putin), nói rằng “những bài diễn văn vào đầu thập niên 2000 của ông ấy khoác lên một lớp áo tự do,” nhưng khao khát khôi phục sức mạnh đế quốc Nga, và theo đó báo thù cho việc Nga suy thoái, trở thành thứ mà Tổng thống Barack Obama gọi là “cường quốc khu vực,” luôn là mong muốn sâu sắc nhất của Putin.
Sinh năm 1952, tại một thành phố khi đó có tên là Leningrad, Putin lớn lên trong bóng tối hậu kỳ của cuộc chiến giữa Liên Xô với Đức Quốc xã, mà người Nga gọi là Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Cha ông bị thương nặng trong chiến tranh, anh trai thì chết trong cuộc bao vây Leningrad tàn bạo kéo dài 872 ngày của quân Đức, và ông nội là đầu bếp riêng của Stalin. Những hy sinh to lớn của Hồng Quân trong việc đánh bại chủ nghĩa Quốc xã không hề trừu tượng, mà có thể được cảm nhận thực sự trong gia đình khiêm tốn của ông, cũng như trong nhiều người Nga cùng thế hệ với ông. Ngay từ khi còn trẻ, Putin đã học được rằng, “kẻ yếu sẽ bị đánh bại”.
“Phương Tây đã không quan tâm đủ đến sức mạnh của huyền thoại Xô-viết, sự hy sinh về mặt quân sự, và chủ nghĩa phục thù ở trong ông ấy.” Eltchaninoff, người có ông bà đều là người Nga, nói: “Ông ta tin tưởng sâu sắc rằng người Nga sẵn sàng hy sinh bản thân vì một lý tưởng, còn người phương Tây chỉ thích được thành công và thoải mái.”
Dù vậy, Putin đã mang sự thoải mái đến cho nước Nga trong 8 năm đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống. Nền kinh tế tăng trưởng phi mã, đầu tư nước ngoài đổ vào ồ ạt. “Đó có lẽ là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của đất nước, với thước đo về sự thịnh vượng và mức độ tự do đạt tới mốc chưa từng có trong lịch sử nước Nga,” Alexander Gabuev, thành viên cấp cao tại Trung tâm Carnegie Moscow cho biết.
Gabuev, cũng như hàng nghìn người Nga theo chủ nghĩa tự do, đã chạy đến Istanbul ngay khi cuộc chiến ở Ukraine bắt đầu, nói thêm rằng “có rất nhiều tham nhũng và tập trung của cải, nhưng cũng có rất nhiều người được lợi. Và hãy nhớ rằng, vào những năm 1990, ai nấy đều nghèo như chuột nhà thờ”. Giờ đây, tầng lớp trung lưu đã có thể đi nghỉ mát ở Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Việt Nam.
Vấn đề đối với Putin là, để đa dạng hóa nền kinh tế, một nền pháp quyền sẽ hữu ích. Ông từng theo học ngành luật tại Đại học St.Petersburg và tuyên bố tôn trọng pháp luật. Nhưng thực tế, quyền lực mới là điều ông nhắm đến. Putin coi thường những điều tốt đẹp của pháp luật. “Tại sao lại chia sẻ quyền lực khi ông ấy có thể sống nhờ vào dầu mỏ, khí đốt, các tài nguyên thiên nhiên khác, và tái phân phối đủ để giữ cho mọi người hạnh phúc?” Gabuev nói.
Timothy Snyder, nhà sử học nổi tiếng về chủ nghĩa phát xít, lý giải thế này: “Sau khi chơi đùa đã đời với một nhà nước pháp quyền độc tài, ông ta đơn giản trở thành nhà đầu sỏ lớn nhất và biến nhà nước thành cơ chế thực thi cho gia tộc đầu sỏ của mình.”
Tuy nhiên, đất nước lớn nhất trên Trái Đất, trải rộng trên 11 múi giờ, không chỉ cần sự phục hồi kinh tế để có thể vươn cao một lần nữa. Putin trưởng thành trong một thế giới Xô-viết luôn cho rằng Nga sẽ không phải là một cường quốc trừ khi nước này thống trị các nước láng giềng. Những người bất đồng sống kề cận nước Nga đã thách thức học thuyết đó.
Tháng 11/2003, Cách mạng Hoa hồng ở Gruzia đã đưa nước này đi theo con đường của phương Tây. Năm 2004 – năm mà NATO mở rộng lần thứ hai sau Chiến tranh Lạnh, tiếp nhận thêm Estonia, Litva, Latvia, Bulgaria, Romania, Slovakia và Slovenia làm thành viên – nhiều cuộc biểu tình lớn trên đường phố, được gọi là Cách mạng Cam, đã nổ ra ở Ukraine. Chúng cũng bắt nguồn từ việc từ chối Moscow và đón nhận một tương lai phương Tây.
Cũng từ đó, việc Putin chuyển từ hợp tác sang đối đầu với phương Tây chính thức bắt đầu. Điều này diễn ra chậm rãi nhưng xu hướng chung đã được xác lập. Một lần, khi được Merkel hỏi rằng sai lầm lớn nhất của ông là gì, Tổng thống Nga đáp: “Tin tưởng các người.”
(Còn tiếp 2 phần)
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Hãy cùng điểm lại hành trình 22 năm của Putin, từ một chính khách trở thành bạo chúa.
Sử dụng loại ngôn ngữ mà ông gọi là “ngôn ngữ của Goethe, Schiller, và Kant,” được rèn luyện trong thời gian là sĩ quan KGB ở Dresden, Tổng thống Vladimir V. Putin đã phát biểu trước Quốc hội Đức vào ngày 25/09/2001. “Nước Nga là một quốc gia châu Âu thân thiện,” ông tuyên bố. “Hòa bình ổn định tại lục địa là mục tiêu tối quan trọng đối với chúng tôi.”
Nhà lãnh đạo Nga – người đã đắc cử tổng thống một năm trước đó, ở tuổi 47, sau khi thăng tiến như vũ bão – tiếp tục mô tả “các quyền tự do và dân chủ” là “mục tiêu chính trong chính sách đối nội của Nga.” Các thành viên của Hạ viện Đức đứng dậy hoan nghênh nhiệt liệt, xúc động trước sự hòa giải mà Putin dường như đang là hiện thân, giữa thành phố Berlin, vốn là biểu tượng cho sự chia rẽ lâu đời giữa phương Tây và thế giới Xô Viết độc tài.
Norbert Röttgen, một nghị sĩ trung hữu, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện trong nhiều năm, là một trong số những người đã đứng lên khi ấy. Ông nói: “Putin đã thu hút chúng tôi. Đó là một giọng nói nhẹ nhàng, bằng tiếng Đức, một giọng nói có thể khiến bạn tin vào những gì bạn nghe. Chúng tôi có lý do để cho rằng có một viễn cảnh đoàn kết khả thi.”
Ngày nay, mọi sự đoàn kết đều tan vỡ, Ukraine chìm trong biển lửa, bị vùi dập bởi đội quân xâm lược mà Putin gửi đến, nhằm chứng minh niềm tin cá nhân rằng quốc gia Ukraine chỉ là chuyện thần thoại. Hơn 3,7 triệu người Ukraine phải đi tị nạn; số người chết ngày càng tăng cao trong một cuộc chiến chỉ mới kéo dài một tháng; và giọng nói nhẹ nhàng của Putin nay biến thành giọng nói giận dữ của một người đàn ông đang gồng mình gọi bất kỳ người Nga nào dám chống lại bạo lực từ chế độ độc tài của ông ta là “kẻ cặn bã và bọn phản bội.”
Các đối thủ của ông, “đạo quân thứ năm” do phương Tây thao túng, sẽ gặp phải số phận kinh hoàng, Putin tuyên bố trong tháng này, với gương mặt nhăn nhó, vì kế hoạch chiến tranh chớp nhoáng của ông ở Ukraine đã bị đình trệ. Ông nói, những người Nga chân chính sẽ “nhổ họ ra như một con muỗi vô tình bay vào miệng” và qua đó đạt được “sự tự thanh lọc xã hội cần thiết”.
Đây có lẽ không phải là ngôn ngữ của Kant, mà là một tuyên bố mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc gắn với thời thanh niên khó khăn và hỗn loạn ở St.Petersburg của Putin.
Giữa hai tiếng nói của lý trí và của sự kích động, giữa hai hình ảnh tựa hai người khác nhau hoàn toàn này, là 22 năm cầm quyền và 5 đời tổng thống Mỹ. Khi Trung Quốc trỗi dậy, khi Mỹ tham chiến và rồi thua cuộc ở Iraq và Afghanistan, khi công nghệ kết nối toàn thế giới, một bí ẩn của nước Nga đã thành hình trong Điện Kremlin.
Phải chăng Mỹ và các đồng minh, vì quá lạc quan hay quá ngây thơ, nên đã hiểu sai về Putin ngay từ đầu? Hay phải chăng Tổng thống Nga đã dần thay đổi, trở thành một kẻ hiếu chiến theo chủ nghĩa phục thù như hôm nay, cho dù là bởi niềm tin vào sự khiêu khích của phương Tây, làm khơi dậy bất bình, hay bởi sự độc hại xuất phát từ nền cai trị kéo dài và ngày càng cô lập – kể từ thời Covid-19?
Putin là một bí ẩn, nhưng ông cũng là người lộ diện nhiều nhất. Nhìn từ góc độ canh bạc liều lĩnh ở Ukraine, chúng ta sẽ thấy một bức tranh nổi lên, về một người đàn ông xem hầu hết các động thái của phương Tây là hành động chống lại Nga – và có lẽ là chống lại chính ông. Khi bất bình dâng cao, từ ngày này qua ngày khác, từ năm này qua năm khác, sự khác biệt lại càng trở nên mờ nhạt. Trên thực tế, Putin đã trở thành nhà nước, ông hợp nhất với nhà nước Nga, số phận của cả hai hòa vào một tầm nhìn ‘cứu thế’ về sự phục hưng của vinh quang đế quốc.
Từ tro tàn của đế chế
“Theo tôi, với Putin, sự cám dỗ của phương Tây chủ yếu là ở chỗ nó là công cụ cần thiết để xây dựng một nước Nga vĩ đại”, theo lời Condoleezza Rice, cựu Ngoại trưởng từng gặp Putin vài lần trong giai đoạn đầu tiên khi ông lên nắm quyền. “Ông ta luôn bị ám ảnh bởi việc 25 triệu người Nga ‘mắc kẹt’ bên ngoài Mẫu quốc sau sự tan rã của Liên bang Xô Viết. Ông nêu lên vấn đề này, hết lần này đến lần khác. Đó là lý do tại sao, đối với ông, hồi kết của đế chế Liên Xô là thảm họa lớn nhất của thế kỷ 20.”
Nếu quả thật có tồn tại sự phẫn nộ của một kẻ ước mong phục quốc, bên cạnh mối nghi ngờ mà một gián điệp Liên Xô dành cho Mỹ, thì Putin vẫn có những ưu tiên khác. Trước hết, ông là một đầy tớ ái quốc của nhà nước. Nước Nga hậu cộng sản của thập niên 1990, dẫn dắt bởi Boris N. Yeltsin, nhà lãnh đạo dân cử tự do đầu tiên của đất nước, đã sụp đổ.
Năm 1993, Yeltsin ra lệnh nã pháo vào tòa nhà quốc hội để dập tắt một cuộc nổi dậy, khiến 147 người thiệt mạng. Phương Tây đã phải cung cấp viện trợ nhân đạo cho Nga, nền kinh tế của nước này sa sút nghiêm trọng, tình trạng nghèo đói cùng cực lan tràn, trong khi hàng loạt các công ty công nghiệp lớn bị bán tháo với giá rẻ bèo cho một tầng lớp đầu sỏ mới nổi. Tất cả những điều này, đối với Putin, đại diện cho hỗn loạn. Chúng là một sự sỉ nhục.
“Ông ấy ghét những gì đã xảy ra với Nga, ghét ý tưởng rằng phương Tây đã phải giúp đỡ họ,” Christoph Heusgen, trưởng cố vấn ngoại giao của cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel từ năm 2005 đến năm 2017, nhận xét. Tuyên ngôn chính trị đầu tiên của Putin trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2000 là đảo ngược mọi nỗ lực của phương Tây nhằm chuyển giao quyền lực từ nhà nước sang thị trường. Ông viết, “Đối với người Nga, một nhà nước mạnh không phải là điều bất thường cần chiến đấu chống lại.” Mà ngược lại, “nó là nguồn gốc và phương tiện canh giữ trật tự, nơi khởi xướng và là động lực chính của bất kỳ sự thay đổi nào.”
Nhưng Putin không phải là người theo chủ nghĩa Marx, dù rằng ông đã cho phục hồi bài quốc ca thời Stalin. Ông đã chứng kiến thảm họa của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, ở cả Nga và Đông Đức, nơi ông là điệp viên KGB từ năm 1985 đến 1990.
Tổng thống mới sẵn sàng bắt tay với các nhà tài phiệt đầu sỏ được tạo ra bởi chủ nghĩa tư bản hỗn loạn, thị trường tự do, thân hữu – miễn là họ thể hiện lòng trung thành tuyệt đối. Nếu không, họ sẽ bị thủ tiêu. Nếu đó là nền dân chủ, thì nó là một “nền dân chủ có chủ quyền,” một cụm từ được các nhà chiến lược chính trị hàng đầu của Putin chấp nhận, nhấn mạnh vào vế chủ quyền.
Bị ảnh hưởng bởi thành phố quê nhà St. Petersburg, được Peter Đại đế xây dựng vào đầu thế kỷ 18 như một “cửa sổ đến châu Âu,” và bởi những trải nghiệm ngày đầu làm chính trị tại văn phòng thị trưởng với nhiệm vụ thu hút đầu tư nước ngoài từ năm 1991, Putin dường như cởi mở, dù thận trọng, với phương Tây trong giai đoạn đầu lên nắm quyền.
Ông đề cập đến khả năng Nga trở thành thành viên NATO với Tổng thống Bill Clinton vào năm 2000, một ý tưởng chẳng bao giờ đi đến đâu. Ông duy trì một thỏa thuận đối tác mà Nga ký với Liên minh châu Âu năm 1994. Một Hội đồng NATO-Nga được thành lập vào năm 2002. “Người Petersburg” đối đầu với “Người Xô-viết”.
Đó là một hành động cân bằng khéo léo, mà một Putin có tính kỷ luật đã được chuẩn bị. “Anh không bao giờ được mất kiểm soát,” ông nói với đạo diễn người Mỹ Oliver Stone trong The Putin Interviews, một bộ phim tài liệu năm 2017. Ông từng tự mô tả mình là “một chuyên gia về quan hệ giữa người với người.” Không chỉ có các nhà lập pháp Đức mới bị cuốn hút bởi người đàn ông với gương mặt không biểu lộ cảm xúc và ý định không thể lay chuyển, vốn được mài giũa trong thời gian làm nhân viên tình báo.
“Anh phải hiểu rằng, ông ấy đến từ KGB, nói dối là nghề, chứ không phải tội” – Sylvie Bermann, Đại sứ Pháp tại Moscow từ năm 2017 đến năm 2020, nói. “Ông ấy giống như một chiếc gương, thích nghi với những gì bản thân nhìn thấy, theo cách mà ông được đào tạo.”
Vài tháng trước bài phát biểu tại Hạ viện Đức, Putin đã nổi tiếng khi giành được cảm tình của Tổng thống George W. Bush, người sau lần đầu tiên gặp ông, vào tháng 06/2001, nói rằng mình đã nhìn vào mắt Tổng thống Nga, thấy được “tâm hồn của ông ấy” và nhận ra ông “rất thẳng thắn và đáng tin cậy.” Tương tự, Yeltsin đã chỉ định Putin làm người kế nhiệm chỉ ba năm sau khi ông đến Moscow vào năm 1996.
“Putin biết cách thay đổi bản thân cho phù hợp với người đối diện,” Mikhail B. Khodorkovsky, từng là người đàn ông giàu nhất nước Nga trước khi lãnh bản án dài một thập niên trong một nhà tù Siberia và phải chứng kiến công ty của mình sụp đổ, nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2016 tại Washington. “Nếu ông ấy muốn anh thích ông ấy, anh sẽ thích ông ấy.”
Lần trước đó tôi gặp Khodorkovsky là ở Moscow vào tháng 10/2003, chỉ vài ngày trước khi ông bị các đặc vụ có vũ trang bắt giữ vì các cáo buộc tham ô. Lần đó, ông kể cho tôi nghe những tham vọng chính trị táo bạo của mình – điều mà với Putin, là tội khi quân phạm thượng.
Sự trỗi dậy của một nhà độc tài
Căn nhà gỗ được chọn làm dinh thự tổng thống bên ngoài Moscow trông rất thoải mái, nhưng không được trang trí công phu. Thời điểm năm 2003, sở thích cá nhân của Putin vẫn chưa đạt đến mức xa hoa. Các nhân viên bảo vệ lượn lờ xung quanh, nhìn chằm chằm vào màn hình TV đang trình chiếu những người mẫu thời trang trên sàn diễn Milan và Paris.
Như mọi khi ông vẫn làm, Putin đã khiến chúng tôi phải chờ đợi nhiều giờ. Một hành động như để thể hiện rằng mình trên cơ kẻ khác, cố tình thô lỗ ngay cả với những người như Ngoại trưởng Rice, và giống như việc ông mang chó đến cuộc gặp với Thủ tướng Merkel vào năm 2007 dù biết rõ rằng bà ấy sợ chó.
Merkel nói: “Tôi hiểu tại sao ông ta làm việc đó. Để chứng tỏ mình là một người đàn ông.”
Khi cuộc phỏng vấn với ba nhà báo của New York Times cuối cùng cũng được bắt đầu, Putin tỏ ra thân thiện và tập trung, thoải mái với khả năng trình bày chi tiết rõ ràng của mình. “Chúng tôi kiên định đi trên con đường phát triển của dân chủ và kinh tế thị trường,” ông nói, “Nếu xét về tâm lý và văn hóa, người Nga là người châu Âu”.
Ông cũng nói về “mối quan hệ tốt đẹp, gần gũi” với chính quyền Bush, bất chấp việc chiến tranh Iraq xảy ra, và khẳng định “các nguyên tắc chính của chủ nghĩa nhân văn – nhân quyền, tự do ngôn luận – vẫn là nền tảng cho tất cả các quốc gia.” Theo ông, bài học lớn nhất ông rút ra được là “tôn trọng luật pháp”.
Vào thời điểm này, Putin rõ ràng đã kiểm soát các phương tiện truyền thông độc lập; tiến hành một cuộc chiến tàn bạo ở Chechnya, nơi thủ phủ Grozny bị san bằng; và cho các quan chức an ninh – được gọi là siloviki – giữ vị trí trung tâm trong chính quyền. Thường thì đó là những người bạn cũ ở St.Petersburg, như Nikolai Patrushev, hiện là Thư ký Hội đồng An ninh của Putin. Nguyên tắc đầu tiên của một sĩ quan tình báo là luôn nghi ngờ.
Khi được hỏi về các phương pháp của mình, tổng thống bất ngờ giận dữ, nói rằng người Mỹ không thể tỏ ra trịch trượng. Ông nói: “Ở Nga, chúng tôi có một câu châm ngôn thế này. Đừng chỉ trích chiếc gương nếu bạn có một khuôn mặt méo mó.”
Ấn tượng sâu sắc nhất với chúng tôi là hình ảnh một người đàn ông có nội tâm bị chia rẽ ẩn đằng sau ánh mắt không chút nao núng. Michel Eltchaninoff người Pháp, tác giả cuốn sách Inside the Mind of Vladimir Putin (Thế giới nội tâm của Vladimir Putin), nói rằng “những bài diễn văn vào đầu thập niên 2000 của ông ấy khoác lên một lớp áo tự do,” nhưng khao khát khôi phục sức mạnh đế quốc Nga, và theo đó báo thù cho việc Nga suy thoái, trở thành thứ mà Tổng thống Barack Obama gọi là “cường quốc khu vực,” luôn là mong muốn sâu sắc nhất của Putin.
Sinh năm 1952, tại một thành phố khi đó có tên là Leningrad, Putin lớn lên trong bóng tối hậu kỳ của cuộc chiến giữa Liên Xô với Đức Quốc xã, mà người Nga gọi là Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Cha ông bị thương nặng trong chiến tranh, anh trai thì chết trong cuộc bao vây Leningrad tàn bạo kéo dài 872 ngày của quân Đức, và ông nội là đầu bếp riêng của Stalin. Những hy sinh to lớn của Hồng Quân trong việc đánh bại chủ nghĩa Quốc xã không hề trừu tượng, mà có thể được cảm nhận thực sự trong gia đình khiêm tốn của ông, cũng như trong nhiều người Nga cùng thế hệ với ông. Ngay từ khi còn trẻ, Putin đã học được rằng, “kẻ yếu sẽ bị đánh bại”.
“Phương Tây đã không quan tâm đủ đến sức mạnh của huyền thoại Xô-viết, sự hy sinh về mặt quân sự, và chủ nghĩa phục thù ở trong ông ấy.” Eltchaninoff, người có ông bà đều là người Nga, nói: “Ông ta tin tưởng sâu sắc rằng người Nga sẵn sàng hy sinh bản thân vì một lý tưởng, còn người phương Tây chỉ thích được thành công và thoải mái.”
Dù vậy, Putin đã mang sự thoải mái đến cho nước Nga trong 8 năm đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống. Nền kinh tế tăng trưởng phi mã, đầu tư nước ngoài đổ vào ồ ạt. “Đó có lẽ là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của đất nước, với thước đo về sự thịnh vượng và mức độ tự do đạt tới mốc chưa từng có trong lịch sử nước Nga,” Alexander Gabuev, thành viên cấp cao tại Trung tâm Carnegie Moscow cho biết.
Gabuev, cũng như hàng nghìn người Nga theo chủ nghĩa tự do, đã chạy đến Istanbul ngay khi cuộc chiến ở Ukraine bắt đầu, nói thêm rằng “có rất nhiều tham nhũng và tập trung của cải, nhưng cũng có rất nhiều người được lợi. Và hãy nhớ rằng, vào những năm 1990, ai nấy đều nghèo như chuột nhà thờ”. Giờ đây, tầng lớp trung lưu đã có thể đi nghỉ mát ở Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Việt Nam.
Vấn đề đối với Putin là, để đa dạng hóa nền kinh tế, một nền pháp quyền sẽ hữu ích. Ông từng theo học ngành luật tại Đại học St.Petersburg và tuyên bố tôn trọng pháp luật. Nhưng thực tế, quyền lực mới là điều ông nhắm đến. Putin coi thường những điều tốt đẹp của pháp luật. “Tại sao lại chia sẻ quyền lực khi ông ấy có thể sống nhờ vào dầu mỏ, khí đốt, các tài nguyên thiên nhiên khác, và tái phân phối đủ để giữ cho mọi người hạnh phúc?” Gabuev nói.
Timothy Snyder, nhà sử học nổi tiếng về chủ nghĩa phát xít, lý giải thế này: “Sau khi chơi đùa đã đời với một nhà nước pháp quyền độc tài, ông ta đơn giản trở thành nhà đầu sỏ lớn nhất và biến nhà nước thành cơ chế thực thi cho gia tộc đầu sỏ của mình.”
Tuy nhiên, đất nước lớn nhất trên Trái Đất, trải rộng trên 11 múi giờ, không chỉ cần sự phục hồi kinh tế để có thể vươn cao một lần nữa. Putin trưởng thành trong một thế giới Xô-viết luôn cho rằng Nga sẽ không phải là một cường quốc trừ khi nước này thống trị các nước láng giềng. Những người bất đồng sống kề cận nước Nga đã thách thức học thuyết đó.
Tháng 11/2003, Cách mạng Hoa hồng ở Gruzia đã đưa nước này đi theo con đường của phương Tây. Năm 2004 – năm mà NATO mở rộng lần thứ hai sau Chiến tranh Lạnh, tiếp nhận thêm Estonia, Litva, Latvia, Bulgaria, Romania, Slovakia và Slovenia làm thành viên – nhiều cuộc biểu tình lớn trên đường phố, được gọi là Cách mạng Cam, đã nổ ra ở Ukraine. Chúng cũng bắt nguồn từ việc từ chối Moscow và đón nhận một tương lai phương Tây.
Cũng từ đó, việc Putin chuyển từ hợp tác sang đối đầu với phương Tây chính thức bắt đầu. Điều này diễn ra chậm rãi nhưng xu hướng chung đã được xác lập. Một lần, khi được Merkel hỏi rằng sai lầm lớn nhất của ông là gì, Tổng thống Nga đáp: “Tin tưởng các người.”
(Còn tiếp 2 phần)