Im Lặng Còn Vang
#31
Ổ Tạm
Du Quang

Nhu về nhà nhét ít đồ đạc vào ba lô dọn đến nơi ở mới. Nhưng thứ gì cũng thấy thừa thãi, nhấc lên đặt xuống rồi quyết định không mang. Thành ra cuộc chuyển nhà chỉ vỏn vẹn vài bộ quần áo, quyển sách gối đầu giường, đồ sạc pin điện thoại và mấy liều thuốc cúm.

Bà già lắc đầu, miệng càu nhàu chưa thấy đứa nào đi lấy chồng mà nhẹ tênh như thế. Còn nhẹ nhàng hơn mấy lần nó đòi bỏ nhà đi du lịch với giai. Những cái túi hình như không đủ chứa đựng sự nông nổi điên rồ.

Nó đã sống như ngọn cỏ hoang bên bìa rừng hiu hắt. Bà già chưa bao giờ nắm bắt được ý nghĩ của nó nên cũng thất bại trong việc nuôi dạy đứa con gái nhỏ. Ông già trách ngày xưa lúc mang thai Nhu, bà già nghén ăn tạp toàn cây cỏ. Bạ cây gì cũng đút vào miệng nhai nên chắc nhựa cây đã nuôi cái thai đó lớn. Ông đã quen với cảnh nó hay đánh lộn, bỏ học chui vào một xó xỉnh nào đó làm thơ. Thỉnh thoảng nó lao như điên vào một kế hoạch chẳng thấy gì khả thi. Có hề chi vì nó nghĩ tuổi trẻ được quyền được sai lầm và làm lại. Nó không giống bất cứ ai trong gia đình, họ tộc này. Nhưng mỗi lần nghe ông già càu nhàu vậy Nhu đều đáp tỉnh bơ “con tưởng con ngông cuồng là do gien của bố?”. Bà già nghe vậy bụng dạ hả hê...

Nhu lấy chồng. Là thấy nó tuyên bố vậy chứ chẳng thấy nhà trai dạm ngõ, cũng chẳng hề có cưới hỏi gì. Nó dẫn người yêu về ra mắt một lần, ngồi ăn chung một bữa cơm thế là nghiễm nhiên trở thành con rể. Nó chẳng buồn bận tâm xem hai thân già nghĩ gì, bà con lối xóm dị nghị ra sao. Nhà nằm giữa chợ, những sạp hàng nối đuôi nhau chèo kéo khách tối ngày. Chợ đông thì thi nhau giành giật khách mà vắng vẻ thì ngồi buôn đủ thứ chuyện trên đời.

Nhu luôn là chủ đề bàn tán của mọi người và là nỗi ê chề của bà già suốt bao nhiêu năm tháng. Con nhỏ ấy chống đối thầy cô. Con nhỏ ấy trốn học đi chơi. Nghe nói con nhỏ ấy bỏ học giữa chừng theo bạn đi buôn. Sao không tin? Trường đại học còn gởi cả giấy mời về cho gia đình, hôm qua bác bưu điện mới ghé tai tôi nói nhỏ. Buôn gì đấy à? Ai mà biết, con nhỏ ấy máu liều thì cái gì mà nó chẳng dám buôn. Mà nghe đâu nó mới bỏ theo trai. Yêu đương gì cái bọn trẻ con, được ba ngày lại đánh lộn nhau như trò hề. Nhà bà ấy chả biết dạy con, cứ mải buôn bán kiếm tiền. Nhưng tiền mà làm gì, khéo nó ôm cái bụng bầu lùm lùm về nhà thì đẹp mặt cả họ. Con cái bây giờ hở ra là hư, đẻ con thế thì đẻ ngay hòn sỏi cho đỡ cực.

Mỗi lần Nhu đi qua là kéo theo cả trăm đuôi mắt. Họ dè bỉu con nhỏ ấy ăn mặc gì thấy gớm, quần áo te tua, tóc tai bù xù. Trên gáy nó mới có thêm hình xăm xanh lét. Nhu nghe như gió thoảng bên tai dù bà già đôi lúc gầm lên “mày sống cho ra hồn người một chút”. Kỳ lạ thật, Nhu thấy mình đang sống rất người.

Rồi cái tin Nhu lấy chồng lan ra khắp chợ chỉ sau buổi sáng dẫn Phong về. Đâu cũng thấy người ta chụm đầu to nhỏ hỏi nhau biết gì chưa? Con nhỏ nhà ấy theo không về nhà chồng. Một cơi trầu còn chẳng có nói gì lễ lạt. Cũng đáng thôi, con gái sống buông thả vốn làm gì có giá. Được người ta rước cho là may còn đòi hỏi cái gì.

Bà già than thế là biếu không đứa con gái nuôi cực nhọc mấy chục năm trời. Ông già cười, chỉ sợ mấy hôm nữa người ta dắt về tận nhà trả lại. Chứ ông thừa biết con nhỏ không có thời gian để phân vân. Chúng thuê một phòng trọ đâu đó trong thành phố và gọi là tổ ấm. Chẳng cần phải nhìn tận mắt ông già cũng có thể hình dung ra căn phòng tạm bợ. Dư thừa những thứ phù phiếm và luôn thiếu thốn vật dụng thật cần. Chúng nghênh chiến với khó khăn, với nhiệt độ ngoài trời và vô vàn định kiến. Chúng có thể khiến cả thế giới ghen tỵ về hạnh phúc của mình. Dù bữa ăn đôi khi chỉ mì tôm và mọi sinh hoạt quẩn quanh bên chiếc đệm. Huống hồ con nhỏ vốn xoay xở rất tài. Nó đủ giỏi giang để không lo chết đói. Bà già nói bâng quơ:

“Ở nhà này có cái gien tạm bợ. Để rồi xem nó sống cái cảnh già nhân ngãi non vợ chồng ấy được bao lâu. Khéo có ngày lại chia đôi đến từng cái bát”. Ông già nhột, thấy đâu đó trong mình nhói một cái vu vơ...

Thời trẻ, ông cũng đã từng xốc nổi dẫn theo cô gái xinh đẹp nhất làng bỏ lên Tây nguyên sinh sống. Tuổi hai mươi như cánh rừng, chỉ biết xanh ngắt một màu. Không có gì ngoài tình yêu và hai bàn tay trắng. Chàng trai nghĩ có thể dẫn cô gái mình yêu đi khắp thế gian này, bỏ lại đằng sau bao trái ngang, cấm cản. Nhưng rồi cuộc tình ấy cũng chết yểu cùng mùa cà phê rớt giá. Chủ rẫy không có tiền trả công ngoài hai bữa cơm ăn không đủ no. Cô gái quá ngán ngẩm cảnh ở tạm bợ trong căn lều giữa rẫy.
Mùa mưa dầm dề tưởng như nếu ngủ quên một giấc thì sẽ không còn cơ hội thức giấc. Cơ thể cũng sẽ rữa ra từng giọt ngấm vào lòng đất như mưa. Mùa nắng, cái nóng xối xả truy đuổi con người đến cạn kiệt sức lực. Nuốt một miếng cơm vào miệng còn thấy nóng bốc hơi.

Cô gái lần đầu rời vòng tay mẹ đi xa đêm nào cũng khóc than số phận. Oán trách nhau khi gạo hết, tiền khan, ốm nằm co ro trong cơn thiếu thốn. Đến lúc ấy mới nhận ra mình chỉ có hai bàn tay trắng. Còn thứ cảm xúc bồng bột thuở ban đầu đâu phải tình yêu. Qua một năm dầm sương dãi nắng đã đường ai nấy đi. Kẻ bẽ bàng trở về, kẻ đơn độc tha phương kiếm tìm đường sống.

Nên bây giờ mỗi lần thấy Nhu đeo ba lô bỏ nhà đi, miệng ông già mắng khơi khơi chứ trong thâm tâm xót xa vài mảnh cuộc đời mình sót lại trong hình hài con nhỏ. Ông nhìn thấy những mất mát mơ hồ chảy trong lòng nó. Nơi mà sự kiêu hãnh một khi đã tổn thương thì sẽ không cho phép bất cứ ai chạm đến...

* * *

Ổ thiên đường của đôi chim cu tạm gọi là đàng hoàng. Nhu lùng sục gần một tháng trời mới tìm được một căn phòng lý tưởng. Nhà chủ ít người không dùng đến nên cho thuê bớt tầng hai. Tiền thuê phòng bằng nửa tháng lương của Phong. Nhưng tụi Nhu không tiếc, vì chỗ ở luôn cần phải rộng rãi. Trong phòng không có đồ đạc gì ngoài giá sách và bàn làm việc. Rộng rãi quá thành ra Nhu được bày biện đủ thứ phù phiếm theo ý thích. Những bộ váy áo lòe loẹt bạn bè tặng vốn chỉ để treo trang trí. Ít hoa khô được mang về từ một cuộc chu du nào đó. Cả chục đôi giày đủ kích cỡ và màu sắc bày la liệt cho vui. Để mỗi sáng xỏ chân vào chúng và tự nhủ có những thứ đẹp đẽ mấy cũng không dành cho mình. Và cái tổ luôn luôn phải ấm áp một cách bề bộn nhất với chăn ấm đệm êm. Bà chủ nhà có lần ghé mắt vào ngó chơi đã suýt la lên vì tưởng đi nhầm vào căn phòng trẻ nhỏ. Sự bề bộn đáng yêu và ấm áp. Gối ôm vứt khắp nhà để mệt lúc nào cũng có thể ngả lưng ngay chỗ đó. Một chiếc đệm lớn được đặt ở giữa phòng, để đi làm về là thích thú buông thõng mình xuống đó. Cảm giác như trút sạch bách gánh nặng cơm áo, gạo tiền của cả một ngày dài. Nhiều khi chỉ muốn nằm bất động, nghe những âm thanh khe khẽ vọng vào. Cảm thấy đời bình yên đến mức Nhu sẵn sàng đánh đổi mọi thứ mà không nuối tiếc gì.

Phong sẽ về vào sáu giờ tối. Căn bếp nhỏ chỉ chờ có vậy là mùi vị lên hương. Nhu không thích nấu nướng sớm rồi phải ngồi đợi chờ. Thứ gì làm được cùng nhau sẽ gắng thu xếp để làm. Tụi Nhu nghĩ bữa cơm ngon không chỉ bởi món ăn mà còn là cảm giác vui vẻ cùng nhặt rau, xào nấu. Ở đời may mắn nhất vẫn là được ngồi ăn cơm cùng người tri kỷ. Đạm bạc mấy cũng vui, gắp cho nhau cọng rau cũng thấy xanh lòng. Dù thỉnh thoảng Phong có lỡ tay khi nêm gia vị. Và đôi khi thất bại thảm hại trong việc chế biến một món ăn kiểu Pháp. Có hề chi, sẽ nhắm mắt ăn hoặc chạy ào ra chợ mua đồ ăn khác. Sẽ không giống cảnh than vãn, càu nhàu của mẹ.

Ôi những người mẹ, họ luôn muốn con mình hoàn hảo mà chẳng cần một lần thất bại nào. Những đứa trẻ không phải thần đồng nên cần có những sai lầm để thêm khôn lớn. Người lớn không chịu chấp nhận nên những đứa trẻ loay hoay không dám thử sức mình. Nhu cũng vậy, không dám nấu thêm những bữa ngon cho cả gia đình. Vì mẹ từng nhìn nồi cá kho bị cháy và buông ra “đồ ăn hại”. Không dám may tặng ai thêm bộ quần áo nào vì mẹ từng mang sản phẩm đầu đời của Nhu làm giẻ lau chân. Không dám bày tỏ yêu thương vì mẹ từng bĩu môi kêu “lắm chuyện”. Nhu chỉ có thể ngoan ngoãn, im lặng sống từ ngày này qua ngày khác. Hoặc là bung ra mà sống, đơn độc trong vỏ bọc bất cần. Nhu chọn cách thứ hai...

Ổ thiên đường này quá đủ đầy đối với Nhu dẫu người ta có gọi là ổ tạm. Kể cả mai này tụi Nhu không thể sống và yêu thương nhau được nữa thì cũng có gì phải nuối tiếc đâu. Hạnh phúc vốn chỉ tồn tại ở từng khoảnh khắc nhất định trong đời. Học phí cho sự trải nghiệm không phải lúc nào cũng thanh toán được bằng tiền.

Xóm chợ với những sạp hàng nối dài mãi không hiểu nổi con nhỏ ngông cuồng ấy sống kiểu gì. Chỉ vì Nhu không trở thành con ngoan trò giỏi theo khuôn mẫu thông thường. Chỉ có Nhu mới hiểu mình đã sống đến tận cùng đam mê tuổi trẻ. Đối đãi với nhau chân thành nhất mà chẳng cần ràng buộc. Giống cuộc hôn nhân không váy cưới, không một lời chúc tụng. Chỉ toàn là nghi hoặc đậu trên môi người đời, họ đã không thể bao dung ngay cả một nụ cười đối với những cô gái như Nhu. Nên bà già không biết con nhỏ từng rất yêu xóm chợ của những ngày nghèo nàn xa lắc. Khi ấy, người ta quen chia sẻ hơn phán xét, nỗi đau nào cũng dễ được cảm thông. Bà già cũng không biết rằng rất nhiều lần khi bắt đầu nhóm lửa hoặc bật bếp nấu ăn, con nhỏ ước được tự tay chuẩn bị một bữa ăn ấm cúng. Bà già yêu căn bếp đến mức chẳng bao giờ cho Nhu động vào vì sợ mọi thứ đang yên lành bỗng trở nên xáo trộn. Và ông già cũng đâu biết Nhu vẫn thương từng sợi bạc trên mái đầu đẫm nước thời gian.

Một buổi chiều mùa thu nắng vàng tươi trên những nhánh cây bàng. Phong đóng thêm những chiếc đinh lên tường để treo vài khung ảnh. Nhu nằm đọc sách bà bầu và nghĩ xem mình nên nghén thứ gì. Phong trêu nên nghén rau cho lành để anh kiếm ít thùng xốp và bắt đầu gieo hạt. Khi nào đứa nhỏ ra đời, nhà phải gọn gàng hơn và đồ đạc cũng nên tươm tất. Mười năm nữa tụi Nhu sẽ mua nhà, đất đai đắt nên ước mơ cũng kéo dài suốt phần đời tuổi trẻ. Nhưng chẳng nên buồn rầu, Nhu hạnh phúc với những điều đang có. Những chiếc đinh trên tường rồi sẽ treo ảnh của một thiên thần nhỏ. Bao giờ con biết đi, Nhu sẽ dắt nó về chơi quanh phố chợ...

Reply
#32
(2021-07-25, 08:28 AM)Ech Wrote: Ổ Tạm
Du Quang

...

Ôi những người mẹ, họ luôn muốn con mình hoàn hảo mà chẳng cần một lần thất bại nào. Những đứa trẻ không phải thần đồng nên cần có những sai lầm để thêm khôn lớn. Người lớn không chịu chấp nhận nên những đứa trẻ loay hoay không dám thử sức mình. Nhu cũng vậy, không dám nấu thêm những bữa ngon cho cả gia đình. Vì mẹ từng nhìn nồi cá kho bị cháy và buông ra “đồ ăn hại”. Không dám may tặng ai thêm bộ quần áo nào vì mẹ từng mang sản phẩm đầu đời của Nhu làm giẻ lau chân. Không dám bày tỏ yêu thương vì mẹ từng bĩu môi kêu “lắm chuyện”. Nhu chỉ có thể ngoan ngoãn, im lặng sống từ ngày này qua ngày khác. Hoặc là bung ra mà sống, đơn độc trong vỏ bọc bất cần. Nhu chọn cách thứ hai...

...


Tội nghiệp Nhu    Umbrella .
Reply
#33
(2021-07-25, 08:42 AM)LeThanhPhong Wrote: Tội nghiệp Nhu    Umbrella .

Tui thường gặp những bà mẹ thế này trên đời. Dù rất là thương yêu con, nhưng do bản tính cay nghiệt vẫn luôn đối xử với con cái (và chồng) rất tệ, luôn buông những lời chỉ trích nặng nề làm thương tổn lòng tự trọng/tự ái của họ.

Reply
#34
(2021-07-25, 08:46 AM)Ech Wrote: Tui thường gặp những bà mẹ thế này trên đời. Dù rất là thương yêu con, nhưng do bản tính cay nghiệt vẫn luôn đối xử với con cái (và chồng) rất tệ, luôn buông những lời chỉ trích nặng nề làm thương tổn lòng tự trọng/tự ái của họ.


Có lần, trong diễn đàn khác, có người than thở về cha mẹ mình được trả lời cha mẹ ở Việt Nam là  như thế đó, vì thế không sao .  

Đa số làm sai không có nghĩa là đúng .  Tội nghiệp đứa con . 
=============================

Bao giờ Ếch viết hồi ký chuyến đi chơi của mình ?
Reply
#35
(2021-07-25, 10:05 AM)LeThanhPhong Wrote: Bao giờ Ếch viết hồi ký chuyến đi chơi của mình ?

Đi chơi đâu có gì mà viết lại, tui là người rất boring. Theo bạn bè, đi đây đó, chụp hình gia đình, có dịp cho các bà vợ chụp hình áo dài trên biển. Nếu nói về vui thì có lẽ tui chỉ nhớ duy nhất là được tắm biển, biển sạch, đẹp, cát mịn, nước ấm. Vui hơn hết là biết các con vui, chúng chả cần biết cha mẹ làm gì, hể có dịp là chúng lang thang phố thị, đi ăn uống chung với nhau, tắm biển chung với nhau. Có lẽ như thế là quá đủ đối với tui rồi.

Reply
#36
Lăn Đá Tùy Duyên
Phan

Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.


[Image: lan-da-tuy-duyen.jpg]
Tượng Phật trước nhà.


***

Hồi nhỏ. Tôi gặp khó khăn khi thỉnh thoảng bạn bè hỏi tôi, “nhà mày theo đạo gì?”

Tôi biết chắc là nhà tôi không theo đạo thờ Chúa vì tất cả những gia đình bạn bè tôi theo đạo Chúa đều đọc kinh mỗi tối trước khi cả nhà đi ngủ. Điều ấy không diễn ra trong gia đình tôi nên tôi kết luận nhà tôi không phải là một gia đình theo đạo Chúa.

Còn nữa, gia đình các bạn tôi đều phải đi lễ nhà thờ vào sáng Chúa nhật, gia đình tôi thì không, càng khiến cho tôi tin tưởng là mình đã suy nghĩ đúng. Nhưng riêng tôi, hôm nào thích thì đi lễ nhà thờ như đi chơi với bạn bè, không bị ai trong gia đình ngăn cản hay có ai bên đạo cấm tôi vào nhà thờ…

Song, trả lời bạn bè là, “nhà tao đạo Phật” thì trật lất. Vì trong nhà không có tranh hay tượng Phật, không có bàn thờ Phật thì sao gọi là một gia đình đạo Phật cho được. Nói tóm lại tôi là đứa trẻ ưa suy nghĩ nhưng trời lại không cho thông minh, nên suy nghĩ chồng chất lên nhau trong cái đầu bé tẹo thì làm gì còn chỗ cho những câu trả lời thoả đáng.

Tới hôm đi học về, ghé nhà bạn tôi một lát để cùng làm toán hình học không gian vì đó là môn học thích thú của con trai nhưng ưa làm khó bạn gái. Gặp bà nội của bạn tôi rất tốt bụng nên bà nội mời ăn cơm. Mà chuyện gặp bữa thì ăn cơm chung với gia đình bạn ở miền nam dễ như ăn cơm, đâu cần thiết phải từ chối vì người nam không mời lơi như người bắc, ngặt bà nội cứ hỏi hoài một câu? “Vậy, nhà con theo đạo gì?”

Tôi giải thích hết nồi cơm tới nồi canh, sang nồi cá kho của nội ngon quá nên sạch nhách… nội cũng không hiểu là gia đình tôi đạo gì vì không đi lễ nhà thờ. Trong nhà, chỉ mình mẹ tôi đi chùa ngày rằm, lễ, tết… nhưng nhà không có bàn thờ Phật nào hết. Nhà tôi chỉ cúng giỗ ông bà, tổ tiên của gia đình tôi.

Chuyện chưa ngã ngủ thì bà nội rửa cẳng leo lên bàn thờ chỉ sau một trận cảm mưa vì nội mắc mưa chợ chiều hôm công an càn quét chợ chồm hổm để dọn dẹp lòng lề đường - mừng lễ ba mươi tháng tư - mà mẹ của bạn tôi là người bán chợ chồm hồm, bị công an đá thúng mẹt, đá người bán như đá banh. Bà nội phải bỏ bếp bữa chiều để đội mưa ra chợ cứu con dâu vì ba của bạn tôi đang trong tù cải tạo.

Hồi tôi qùy lạy, thắp nén nhang trước linh cửu của bà nội xong. Bạn tôi nói nhỏ cho tôi nghe, “bà nội nói ông là người đạo Lương. Tức là không đi nhà thờ Thiên Chúa Giáo, không thờ Phật trong nhà; chỉ thờ cúng ông bà…”

Tôi không chịu là người đạo Lương. Vì từ “lương” thời tôi là trộm cắp! “Nó lương của tao cây viết, cái nón, đôi giày đá banh…” Tôi nghe hoài trong trường, ngoài sân banh.

Sau từ “lương” thì tiếng lóng ở Sài gòn mới có từ “chôm”, từ “chôm chĩa”. Nó chôm của tao; Tao thì mới chĩa được…

Chỉ tiếc là cãi nhau chưa xong thì cha của bạn tôi từ trại tù được cho về nhà đôi ngày vì mẹ chết. Vậy là ông với người vợ quá tài giỏi, đã thu xếp sẵn nên cả nhà bạn tôi đi vượt biên âm thầm ngay sau tang lễ bà nội. Gia đình bạn tôi định cư bên Úc từ đó.

Tôi lang thang ở Sài gòn tới ngày gặp được một ông già mài dao mài kéo dạo ở khu chợ Cây Quéo. Ông nói cho tôi an tâm: “Đạo của con thì người mình gọi là đạo Lương cũng được, là đạo thờ cúng ông bà cũng là ý đó! Lương là lương thiện chứ không phải lươn lẹo…” Mãi khi trên đầu đã có tóc bạc tôi mới nghe được một người bạn giải thích có căn cứ lịch sử. Bạn tôi nói, thời vua Tự Đức, ngài không thích những người cố đạo tây phương sang nước ta truyền đạo, ngài xem là tà giáo nên mới gọi những người thờ cúng ông bà là người “Lương”. Từ “đạo Lương” từ đó mà có để chỉ những người chỉ thờ cúng ông bà, tổ tiên…

Thôi thì dòng sống đẩy đưa. Mới đó tôi đã nên gia thất. Thằng bạn thân ở chung nhà trọ những năm còn đi học thì nay đã là bác sĩ của bệnh viện Chợ Rẫy. Nó muốn mừng tân gia cho tôi là cái tủ thờ trảm xà cừ. Tôi nhất quyết từ chối vì có tủ thờ thì phải thờ chứ không thể để hương tàn khói lạnh cho đau lòng người sống, tủi thân ông bà đã quá vãng…

Hai thằng bạn thân lại cãi nhau cho tới tôi đi cũng chưa ngã ngũ. “Tình thân là những cuộc cãi vã không có ai thắng, người ta chỉ thương nhau hơn khi biết cùng thua thì đã xa nhau.” Những đêm buồn viễn xứ, tôi đã gõ cho thằng bạn thân còn ở quê nhà, khi đọc lại thấy sến chảy nước, nhưng trong một hoàn cảnh nhất định với thời gian, không gian, và hoài niệm...

Rồi thì cuộc sống Mỹ tôi từng chứng kiến, trên thành hồ bơi nhà thằng Mỹ hàng xóm, con nhỏ Mỹ hai mảnh trắng như trứng gà bóc, nó kề vai, quàng cổ cái tượng Phật, ưỡm ẹo chụp hình. Tượng Phật bằng đất nung còn trương lên do nắng hay tôi hoa mắt?

Ở xứ sở này, người ta dùng tượng Phật để trang trí nội thất, vườc cảnh, hồ bơi… là chuyện thường. Chỉ tâm thức hữu thần cồ lỗ trong tôi kính ngưỡng thần linh theo kiểu chân truyền Việt nam. Nghĩ cho cùng, người Mỹ cũng rất kính ngưỡng Đức Chúa nên họ mới dậy sớm vào ngày nghỉ cuối tuần để đi lễ nhà thờ. Nhưng họ không kinh hãi Đức Chúa như thói quen từ nhỏ của tôi là vừa kính ngưỡng, lại vừa sợ hãi tượng Đức Phật…  Là lỗi của người lớn thời tôi đã dạy bọn trẻ kính ngưỡng Đức Phật thì đúng, nhưng sợ trẻ nhỏ phá hư tượng nên hù doạ, răn đe quá đáng mất rồi.

Thôi thì cả cái tốt lẫn cái nghèo, cái khó của cha ông đã hằn trong lòng tôi sự kính ngưỡng lẫn một chút e dè với thần linh. Đi đâu thấy tượng, nơi thờ phượng dù là tôn giáo nào thì cũng kính trọng và không cho phép bản thân có hành vi vô lễ, bất nhã với thần linh.


Nhưng ở Mỹ, cuộc sống dễ dãi quá về cả tài chánh và tư tưởng. Người mở tiệm nail cũng mua tượng thần tài, Phật bà về thờ ngay trong tiệm; tiệm sửa xe, tiệm ăn, tiệm giặt, thậm chí nhà chứa sòng bài chui cũng nhang khói và thờ phượng tưng bừng: Thần tài, Thần bài, Phật bà Quan âm, Phật Di lạc... Chỉ quan trọng là làm ăn nên thì tượng thờ sạch sẽ bụi bặm, phong phú nhang đèn, bánh trái; làm ăn không xong thì tượng ăn váng nhện, bụi mờ… tới ngày vô thùng rác cùng với những thứ vứt đi khi dẹp tiệm.

Sống trong đời sống dễ dãi ở Mỹ mà cứ mang lòng bảo thủ thì cũng như tự làm khó bản thân, nhưng biết làm sao được? Hôm tôi thấy cái tượng Phật rất có duyên, tôi tin là người tạc bức tượng bằng đất nung rất có duyên với nhà Phật nên đã tạc ra bức tượng rất có hồn. Nhìn Đức Phật oai nghiêm nhưng hiền, tượng toát ra vẻ nhân từ như hào quang. Chuyện Đức Phật bị đổ đống, bán chung với những thứ phế thải trong chợ Ross mà tôi đã gặp lần ấy cứ ám ảnh tôi với ông Phật bị mẻ một bên tai, miếng giấy đỏ dán ngang ngực Phật với giá một đồng.

Nhưng vốn tôi ngại chuyện thỉnh Phật về nhà mà không nhang khói hương hoa cho tươm tất được thì thà đừng thờ; không gì nhìn đau lòng bằng cái miếu hoang, ngôi chùa không sư sãi, ngôi mộ vô chủ… Nhưng từ đó bất an, tôi cứ ám ảnh hình ảnh ông Phật bị mẻ một bên tai, bị dám tem đỏ đại hạ giá chỉ một đồng. Rồi tự trách sao mình vụng tính? Sao hôm đó không mua ha? Rồi cứ để trong xe, đến hôm nào đi ngang chùa thì ghé lại, để trong sân chùa cho ai thích thì thỉnh ngài về đoàn tụ với gia đình họ…

Tôi tính toán dở nên hay ân hận, nên hôm nghỉ lễ Độc lập Hoa kỳ vừa rồi, tôi quyết thông minh, quyết đoán để không ân hận! Chuyện là tôi đi chợ Home Good để mua cái thớt vì thấy cái thớt ở nhà đã cũ, nhân nghỉ lễ rảnh rỗi thì đi ta bà một chút cũng không sao. Hồi đã chọn được cái thớt ưng ý, trên đường ra trả tiền thì gặp chị bạn làm chung hãng khi xưa.

Thăm hỏi nhau và bạn bè một lát, chị cho tôi hay, “Chị thấy ở góc chợ đằng kia kìa, chỗ mấy quầy clearance - đại hạ giá, cũng có mấy cái thớt giống giống như cái em mua. Em lại đó xem đi, nếu chọn được cái nào ưng ý thì một, hai đồng thôi. Cái thớt em mua tới mười mấy đồng, mắc quá!”

Tôi đến cái đống rác tạp nham đại hạ giá của chợ do người mua cứ bới tung cả lên mà không để lại đúng chỗ khi họ không mua… Lòng lại bồi hồi, bấn động tim gan khi tôi thấy một ông Phật nằm trong thúng chó, quanh ngài là đồ chơi của trẻ em, cây chổi lông gà xơ xác xác xơ, hộp son phấn của phụ nữ bị mở tung, vương vãi. Tôi nhớ ông Phật mẻ tai bên chợ Ross cũng trong khu thương mại này. Không biết nay ngài đã ra bãi rác nào, vì khi tôi trở lại bởi lòng ân hận thì ngài đã đi xa.

Lòng ân hận thấy chết không cứu ngài trong tôi cứ ray rứt mãi. Nên lần này tôi không suy nghĩ nữa, nếu không phải là bí tích thì Đức Chúa không sinh ra trong máng lừa, không phải là huyền cơ thì Đức Phật không nằm trong cái thúng đan có lót nệm cho chó mèo; và không có tâm nhãn thì tôi không thấy được kiếp nạn của thần linh ở Mỹ.

Hữu duyên tương ngộ nên mới dám vời Phật ông về tệ xá hàn huyên. Thế là mấy ngày nghỉ lễ tôi cứ dọn dẹp trong nhà cho ra một chỗ cho Phật ông ngự toạ. Nhưng nơi trang nghiêm nhất trong nhà là bệ lò sưởi thì đã một Phật bà từ Việt nam qua, hết hạn visa không về nên cư trú bất hợp pháp ở một góc phòng khách.

Tôi không chủ trương thờ tượng hay hình Phật trong nhà vì thờ mà không nhang khói hương hoa được tươm tất thì đừng thờ. Nhưng khi thấy chết mà không cứu thì áy náy trong tôi. Tôi thỉnh Phật bà lên bề lò sưởi cho trang trọng với thành tâm kính ngưỡng Phật bà. Rồi biết bao nhiêu ráng nhớ mới có ngày nhớ được là mua bó nhang ngoài chợ Việt nam về nhà; rồi ráng nhớ dữ lắm mới thỉnh thoảng nhớ thắp được nén hương dâng lên Phật bà; không cầu mà xin là xin lỗi: Con xin lỗi Phật bà vì bận quá, con để áo bà vương bụi nhà…

Nay Phật ông hết chỗ vì mời ngài an toạ ở đâu trong nhà cũng không xứng đáng với đức độ của ngài. Tôi thật là rối trí khi chiều buông mà sáng mai phải đi làm lại rồi, trong khi vẫn chưa an toạ được cho Đức Phật là lớn tội lỗi lắm vì khi đã đi làm lại là không có thời gian để lo chuyện tâm linh.

Nhưng tôi tin chắc một điều là trong lòng có thần linh thì linh thần khai trí, bất chấp thí chủ mất trí như tôi cũng nghĩ ra được tảng đá to trước sân nhà, lại dưới bóng cây mát rượi… là nơi thích hợp nhất cho ngài quán thế.

Thế là tôi vần thêm đá tảng ở sau nhà ra sân trước để làm chỗ đứng cho Phật ông thật thoải mái, đủ mát, đủ cao, trang nghiêm và thanh thản nhìn đời ngoài đường xe chạy…

Hồi làm xong công trình tâm linh thì trời đã tối, nhưng tôi vẫn nhìn ra được ông Phật chỉ có một tay, mức độ thương tật nặng hơn ông Phật mẻ tai nhiều. Tôi hãnh diện đã cứu ngài một bàn thua trông thấy, mong tạ ơn ngài được hạt bụi so với biển thức bao la mà ngài đã cứu độ chúng sanh.

Chắc ngài vui bụng nên hôm sau tôi đi làm về, lái xe vô garage xong là ra sân trước ngay để xem Phật có vãi mồ hôi không vì trời đã nóng hơn trăm độ. Ngài tươi cười nhìn tôi, còn khoe tôi nữa chứ, “Ta đủ hai tay chứ không thương phế binh. Một tay ta niệm chú trước ngực, mong cho nước Mỹ bao dung hơn chút nữa với di dân lậu; còn tay kia phải giữ chắc cái passport trong áo cà sa vì nước Mỹ đang truy quét di dân lậu dữ quá! Dù sao ta cũng không phải người bản xứ và đã đến đây theo mớ hàng hoá từ Trung quốc rẻ mạt, nên cảm ơn người lăn đá tuỳ duyên…

Phan

Reply
#37
CÁI GHẾ
SONG KHÊ

[Image: 230501493_129085269393882_22782781792071...e=6130BAB7]

Cái ghế nệm có chân xòe ra năm nhánh gắn năm bánh xe nhỏ, xoay tại chỗ hoặc di chuyển tới lui - loại ghế thường thấy ở các văn phòng.
Nhưng cái ghế không ở trong văn phòng, mà bị vứt ra bên ngoài căn nhà cổng đen, đứng chung với mấy túi rác màu đen. Dì Tư nhìn thấy nó lúc quét lẹt xẹt dọc con hẻm vào sáng sớm.

Ban đầu, dì ngờ rằng người trong nhà đó đang dọn dẹp đồ đạc, họ đưa cái ghế ra ngoài để tạm, lát nữa đem vào. Nhưng một hồi nhìn lại, dì thấy cánh cổng sắt sơn đen vẫn đóng chặt, cái ghế vẫn chôn chân tại đó. Chắc họ bỏ, dì đoán, rồi bước tới nhìn cái ghế.

Nó còn tốt, người ta bỏ thì mình lấy thôi. Dì kéo cái ghế về phía cuối xóm, cố ý ấn mạnh cho năm bánh xe quẹt xuống nền hẻm phát ra tiếng lột rột, xem có ai chạy ra đòi lại không.

Không có, vậy là họ bỏ nó thật rồi.

Dì nhìn kỹ cái ghế, thầm thắc mắc: nó còn dùng được, sao lại bị vứt đi? Nhìn thêm chút nữa, dì Tư thấy nó thiếu thiếu một thứ gì… À, lưng ghế! Thì ra nó mất chỗ tựa nên bị quẳng đi. Đời, cũng phải có lý do, chứ đâu phải khơi khơi mà một thứ đẹp đẽ như vầy trở thành rác rưởi. Nhưng rác của người ta vào tay dì Tư sẽ khác.

Dì không ngồi lên ghế, chỉ đặt nó trước cửa quán. Cái quán cóc trong xóm lao động với chiếc kệ nhỏ sắp vài chai nước ngọt, hơn chục cái ly, một bàn gỗ cũ dùng pha cà phê, một thùng nước đá và bếp gas mini đang đun nước. Chỉ vậy thôi, mà là nguồn sống của dì, cũng là chỗ cà kê dê ngỗng của nhiều người trong hẻm.

- Ha a a! Quán dì Tư bữa nay có ghế mới ta!

Tiếng thằng Ngao. Và nó đặt mông lên ghế, xoay xoay, thấy thư thái hết sức sau mấy cuốc xe chở thịt heo từ lò mổ về giao cho mấy bà trong chợ. Ngao gọi một ly đen đá như mọi khi, tận hưởng cái nhún người trên ghế. Bất chợt gã nhấp nhổm như ngồi phải gai vì dì Tư nhắc: "Ly này là sáu ly rồi nghen mậy, bữa nay trả tao à!". Ngao đứng bật dậy, hút cạn nước, đặt cạch cái ly xuống bàn:

- Bữa sau tui trả hết.

Dì Tư nhăn nhó, tiện tay phất cái giẻ lau lên mặt ghế như đuổi tà. Ngao bực bội la hét:

- Phủi phủi phủi cái gì, ghế đó tui đếch thèm ngồi nữa!

Dì Tư căng mặt lên, mới sáng sớm gặp thằng cà chớn, hứa ngang kiểu đó dám chừng tiền thiếu mình nó quỵt luôn.

Kẻ thứ hai phát hiện ghế - mới là con bé Quắn, sáu tuổi, cháu dì Tư. Nó lèo nhèo kỳ kèo khi mẹ dựng nó dậy đi học. Vậy rồi lúc bước ra cửa, nhìn thấy cái ghế, mắt nó sáng lên:

- A a a… Ngoại Tư có ghế mới!

Nó đánh phịch mông xuống mặt ghế, co hai chân lên, xoay xoay… trượt trượt… Cơn say ngủ tan biến sạch sanh. Mẹ nó giục lần nữa, rồi lần nữa, nó mới đứng lên đeo cặp. Thấy con Quắn phụng phịu tiếc cái ghế, mẹ nó dỗ dành: "Ráng học đi, mơi mốt được ngồi ghế xoay trong văn phòng máy lạnh cho sướng".

Quán cóc của dì Tư không đông khách, cứ lác đác vậy thôi, người này đứng lên lại có người khác trám vào, mà hôm nay ai cũng chú ý ghế - mới. Ông già Năm mới đầu ngồi ghế cũ, nhìn qua ghế - mới một lúc như bị thôi miên. Rõ ràng ông thấy nó thiếu thiếu cái gì, nhưng chưa nghĩ ra là cái gì. Ông hỏi trỏng:

- Ghế này ở đâu ra vậy?
- Mới lụm được - dì Tư đáp.
- Để đây hổng hạp - già Năm nhận xét.

Dì Tư không góp chuyện vì bận rửa mấy phin cà phê. Già Năm ngồi ngó trời ngó đất một hồi, uống hết ly đen đậm rồi đứng lên móc tờ năm trăm ngàn đồng. Dì Tư giãy nảy:
- Gì mà sáng sớm đưa tờ bự dữ, ông già?
- Con gái út mới cho.
Dì Tư thầm công nhận ông già may mắn, tuy hai thằng con trai lo tranh chấp đất đai to tiếng với cha hoài, nhưng bù lại được cô út thảo hiền, tuần nào cũng ghé thăm cha. Dì lục lọi túi trên túi dưới tìm tiền thối.

Có vẻ tờ năm trăm ngàn làm khó bà chủ quán, dì tặc lưỡi mấy lần, nói:"Chờ chút nghen ông già", rồi chạy biến vào trong. Vậy thì đứng chi cho mỏi chân, già Năm ghé ngồi tạm cái ghế - mới. Già rón rén lắm, vì hơi ngán mấy bánh xe, lỡ nó trượt một phát té như chơi, mà xương cốt già thì không cho phép té dù là nhẹ nhất.

Nhưng kỳ thực cái ghế này khiến già muốn ngồi thử, chỉ một chút thôi. Vậy mà bà chủ quán lục lọi tiền thối lâu quá, nên một chút thành ra hai chút, ba chút… Tại bả, già Năm khẳng định, chứ già đâu có cố ý ngồi cái ghế này lâu, mất công tụi nhỏ nó nói già mà ham.

Gần trưa, có người mẹ trẻ trong xóm "vật lộn" với chuyện đút con ăn. Phát hiện cái ghế, chị đặt đứa bé ngồi lên đó, trượt tới trượt lui cho nó cười nắc nẻ, cho nó chịu há miệng ra "ùm"… Hết chén cháo, chị ta cười rạng rỡ như vừa lập kỳ tích. Nhưng dì Tư thấy chả hay ho, cái ghế không có lưng tựa, đứa bé suýt té ngửa nếu dì không kịp chụp lại. Rõ ràng cái ghế này không hợp với trẻ đang tập đi.

Chiều muộn, một cậu sinh viên dọn đồ đến phòng trọ cạnh quán cóc của dì Tư. Thấy cái ghế, cậu hỏi mượn, chất mấy túi sách nặng lên đó, rồi đẩy từ đầu hẻm vô phòng trọ như đẩy xe cút kít. Dì Tư vui vui vì cái ghế cũng được việc quá.

Rất tối, dì đóng cửa quán. Trong nhà chật chội nên dì để ghế - mới ở bên ngoài. Sáng ra, nó biến mất. Dì Tư rảo bước từ cuối hẻm về đầu ngõ, lăm lăm tìm mà chả thấy ghế đâu, chống nạnh hỏi đổng:

"Cái ghế tao lụm về cho cả xóm xài, đứa nào cướp làm của riêng vậy hả?".

SONG KHÊ

Reply
#38
MỘT CHUYỆN Ở XÓM CỤT
Đỗ Duy Ngọc

☘ Khu dân cư đó người ta gọi tên là Xóm Cụt. Nó cách đường lộ khoảng cây số, đi vào bốn cái xuyệt thì mới đến xóm. Xóm cụt nằm mép bờ kinh, đây đó vẫn còn những bụi cây xơ xác không lớn nổi vì nắng và vì nước kênh đầy ô nhiễm. Xóm có khoảng hơn hai ba chục hộ, toàn nghèo. Từ lộ vào, đầu đường có dãy nhà lầu hai ba tầng, đi vô nữa là những căn nhà trệt, qua ba bốn đường vòng chỉ thấy mấy nhà tôn và khi đến xóm cụt thì toàn nhà lá, nhà tạm bợ như những cái lều chăn vịt đắp bằng bìa, bằng bạt nhựa, bằng những tấm thép han rỉ. Người không quen lọt vào đây sẽ ngửi thấy mùi thum thủm của những vũng nước tù đọng, mùi thối khẳm của mấy đống rác trộn lẫn mùi hôi của dòng nước đen kịt từ bờ kinh xông lên. Ở đây nắng cũng khổ mà mưa cũng mệt ghê lắm. Nắng như đổ lửa xuống những mái tôn, tấm bạt hắt hết vào những con người ở đấy. Mưa thì trút xuống những mái lều, những căn nhà có lắm khe hở, nhiều nhà thức suốt đêm, bì bõm trong vũng nước từ đất trồi lên và từ trên giội xuống. Xóm cũng có một cái chợ nhỏ, nằm ở cái quẹo thứ ba trước khi vào ngõ cụt. Chợ bán lèo tèo vài miếng thịt đã đổi màu, đôi ba con cá từ sông lên, một ít rau cỏ và cũng có một gánh bún chẳng biết gọi là bún gì cho mấy người nghèo ăn sáng, ăn trưa qua bữa. Thoạt nhìn, xóm Cụt như là vùng quê nào còn sót lại ở thành phố nhộn nhạo này. Hình như cái xóm này bị bỏ quên. Nằm im lìm như một cảnh quê nghèo trong những cuốn phim kể về một thời của quá khứ.

Một hôm sau một đêm mưa tầm tã, sáng ra người đi làm sớm thấy có một lão già nằm ngủ bên mái hiên của ngôi nhà sang nhất xóm, nhà ông Tư Lực, chuyên làm nghề xây dựng. Tư Lực là người giàu nhất xóm Cụt này, nhà Tư Lực xây tường, lợp tôn, còn có cái sân và mái hiên nhỏ. Sân nhỏ đó có tráng xi măng đàng hoàng dù đã loang lổ vài nơi. Lão già khoảng tuổi sáu mươi, dáng còm cõi với áo quần tả tơi. Khuôn mặt lão nhàu nhĩ, đôi mắt buồn nhưng cũng không dấu nét phong trần, khá đàn ông của một thời. Tư Lực dắt chiếc xe Honda ra uống cà phê buổi sáng, nhìn thấy lão ngồi co ro ở mép tường bèn hỏi:
- Ngồi làm gì đây?
Lão ngước mắt lên, lí nhí:
- Lang thang, hôm qua mưa lớn quá nên tạt vào đây ngủ đỡ tránh mưa
- Ở đâu mà lại vào xóm này, có giấy tờ chi không? Tư Lực hạch hỏi.
- Tui nghỉ một bữa rồi đi thôi mà, tôi đi ngay đây
Nói rồi lão dợm đứng lên, tay xách cái túi cũng nhàu nhĩ như thân hình của lão. Liêu xiêu bước về phía bờ kênh. Tư Lực nhìn theo một lát, lẩm bẩm gì trong miệng rồi rú xe đi.
Khi chợ bắt đầu nhóm thì người ta lại nhìn thấy lão. Lão đứng ở gần hàng canh bún, nhìn thèm thuồng theo bàn tay múc của bà hàng bún. Đứng một lát, mỏi chân, lão ngồi bệt xuống đất. Bà hàng canh bún thấy thế la lên
- Ối dào! Cái ông này, ở đâu ra mà ám sớm thế. Đi giúp tôi cái. Để cho người ta còn bán buôn nữa chứ.
Vừa nói bà vừa khoát tay xua xua đi. Lão ngước nhìn, mắt như van lơn, miệng lắp bắp: Tui đói. Tui đói quá. Bà cho xin một miếng bún, tui xin. Ở hai khoé mắt đọng hai giọt nước mắt, tay lão chắp trước ngực, khẩn cầu. Có một chị đang ăn bún, quay nhìn ông, ngẫm nghĩ một lát thì bảo:
- Bà múc cho ông ấy một tô đi. Tôi trả tiền.
Nghe thấy thế, lão như vươn người lên, hai tay xá xá, miệng cứ cám ơn, cám ơn mãi.

Rồi ngày mai, ngày mốt vẫn thấy lão loanh quanh trong cái xóm Cụt ấy. Lúc ngồi lê la ở cái chợ nhỏ, khi thì ngồi ở bờ kè nhìn ra con kênh. Lão ăn bất cứ thứ gì người ta cho, ăn bất kể thứ gì nhặt được, ăn được trên đường đi. Nhiều hôm lão ra tận ngoài lộ, đi vất vưởng trên phố, xin tiền khách qua đường, bới đống rác kiếm ăn, nhặt chai bao phế liệu mang bán. Đêm lại về xóm Cụt. Trời không mưa lão nằm ngoài bờ kè, hôm nào mưa lão lại lê thân về hàng hiên nhà lão Tư Lực. Nằm ở chỗ đấy, lão phải thức dậy sớm vì sợ Tư Lực mắng nhiếc, đuổi như đuổi tà. Riết rồi thành quen, lão trở thành cư dân của xóm Cụt này lúc nào cũng chẳng ai hay.

Một đêm trời mưa lớn lắm, sấm sét đì đùng. Lão nằm ở hàng hiên nhà Tư Lực, người ướt sũng vì mưa tạt vào. Lão không thể ngủ được đành ngồi chập chờn nơi góc tường lim dim. Nửa đêm thì có hai thằng thanh niên đi xe gắn máy lượn là lượn lờ. Một lát chúng dừng lại trước nhà Tư Lực. Một thằng bước xuống xe, nhìn quanh quan sát. Nhìn thấy lão, nó bước tới đá nhẹ vào chân lão. Lão ngồi im. Nó đá thêm mấy cái, thấy lão không nhúc nhích liền trở lại với thằng ngồi trên xe. Hai đứa bàn tán chi đó rồi một thằng đến trước cửa nhà, dùng cái kềm lớn bắt đâu cạy cửa. Lão ngồi im nhưng mắt mở he hé xem chúng làm gì. Đến khi cánh cửa sắp bung thì lão hét lớn: trộm, có trộm ông Tư ơi. Trộm. Tiếng của lão vang trong tiếng mưa. Thằng trộm quay lại đánh vào mặt lão tới tấp. Nó đấm cú nào ra cú nấy vào mặt, vào thân thể còm cõi của lão. Nó vừa đấm đá vừa chửi. Lão cũng vừa bụm mặt vừa la: trộm. Trộm ông Tư ơi! Lão gục xuống, máu đầm đìa trên mặt. Đèn nhà Tư Lực bật sáng. Hai thằng trộm hậm hực rú xe đi buông lời chửi: Đụ má thằng già. Khi Tư Lực bước ra với cây sắt dài cầm tay cùng với mấy người nhà thì lão đã bất tỉnh, nằm gục một đống với máu me. Lão được Tư Lực chở vào trạm y tế, băng bó vết thương và nằm ở đấy hai hôm. Lão lại về xóm Cụt, lúc này thì lão không ngại Tư Lực đuổi nữa. Vì từ hôm đấy, Tư Lực xem như lão là kẻ canh nhà cho y. Lâu lâu y lại cho lão gói thuốc hút dở dang, có khi mấy miếng thức ăn thừa. Lão vui trong bụng. Lần nào gặp Tư Lực lão cũng chắp hai tay xá xá.

Cuối năm, xóm Cụt tổ chức tất niên trong xóm. Lão cũng lân la khiêng cái ghế, kéo cái bàn, sắp xếp chén dĩa. Lão cũng phụ các cô, các bà kéo nước, nhóm lửa, cắt tiết gà, vịt. Lão lăng xăng giúp mọi người. Đến lúc tiệc, xóm cũng dành cho lão một ghế góc sân với mấy món ăn và chai bia. Lão sướng. Cười móm mém. Giữa tiệc, bia rượu ngà ngà, Tư Lực đứng lên nói lớn với hơn hai chục người trong xóm:
- Xin thưa với bà con, lão này về với xóm ta cũng khá lâu rồi. Chắc bà con cũng thấy lão hiền lành, thật thà. Tui lại còn mang ơn lão cứu gia đình tui khỏi bị trộm. Giờ năm hết, Tết đến tui xin đề nghị bà con thế này...
Mọi người ngừng đũa, nghe Tư Lực nói. Lão cũng nhìn Tư Lực xem y nói gì về mình. Tư Lực e hèm, nói tiếp:
- Lão này tứ cố vô thân, đến xóm ta và giờ xem như người của xóm ta. Tui thấy cuối đất của xóm, gần bờ kè còn chút rẻo. Hay là ta để cho lão dựng cái lều cho lão có chỗ trú nắng mưa. Tui sẽ cho lão mấy tấm tôn lợp mái, còn chung quanh thì ai cho gì tốt đấy hay lão kiếm được gì đắp vào thành cái chỗ trú của lão. Bà con thấy thế nào?
Cũng chẳng ai có ý kiến chi, đất hoang chó ỉa, người đái, ai làm gì cũng chẳng phạm, chẳng mất gì của mình nên chẳng ai tranh giành.

Thế là từ đó, lão có nhà. Chỉ là mấy tấm ván với mấy tấm bạt làm vách. Chỉ là mấy cây cừ người ta đóng cọc bỏ ra lão lượm về làm cột chống. Chỉ là hai tấm tôn của Tư Lực. Cái nhà đã hình thành. Lão không ngại nắng, cũng không sợ mưa nữa. Chấm dứt những đêm giữa trời, kết thúc những bữa nằm hàng hiên nhìn mưa. Tư Lực lại dẫn lão giới thiệu với một đại lý vé số, giao cho lão ít vé số bán kiếm cơm. Lão tươm tất hơn lúc mới xuất hiện ở cái xóm Cụt này. Áo quần tuy cũ nhưng sạch sẽ, tóc tai buộc gọn thành búi sau đầu. Chỉ còn bộ râu quai nón không cạo, nhìn xồm xoàm như nhân vật Cái bang. Và lão đã trở thành công dân xóm Cụt.

Lão ít nói nhưng gặp ai lão cũng chào, có khi chắp tay xá xá. Lão đi bán vé số suốt ngày, với cặp giò khẳng khiu, lão lội bộ từ Bình Thạnh sang Gò Vấp. Từ Gò Vấp đến quận một, quận ba. Xem như lão đi khắp thành phố. Chiều về, lão ra chỗ mép nước, nấu cơm, chế biến thức ăn rồi ngồi ăn giữa trời. Cũng có hôm lão uống rượu say một mình, ngồi nói một mình, kể chuyện một mình rồi cười khóc một mình. Và cũng qua những cơn say ấy, mọi người lờ mờ đoán được nhân thân của lão.

Lão gốc ở Long An, chẳng biết huyện, xã nào. Là con ở cô nhi viện, không biết cha mẹ, họ hàng là ai.
Đại khái là lão cũng có vợ. Vợ lão là người cũng có chút nhan sắc. Lão cũng thuộc loại đẹp trai mà. Hai vợ chồng sống với nhau gần hai chục năm mà không có con. Không rõ là lỗi ở ai. Lão chuyên chở hàng cho mấy sạp ở chợ. Vợ lão có gian hàng xén. Không con nhưng sống hạnh phúc, tuy cũng không giàu có gì nhưng cũng khá trung lưu, thu nhập cũng kha khá. Hai vợ chồng thuê một căn nhà trên phố, đang vun vén để có thể sắm riêng cho mình một căn. Người ta bảo sống có nhà thác có mồ mà. Nhà chưa sắm được thì sinh chuyện. Lão có thằng bạn học, xa cách nhau đã lâu mới gặp lại. Thấy bạn bơ vơ, sống một mình, kiếm sống bằng nghề xe ôm cũng nhiều khó khăn, lão cho bạn về ở chung nhà. Nhưng đúng là làm ơn mắc oán. Vợ lão và bạn lão lại tằng tịu với nhau. Lão chỉ lo kiếm tiền nên chẳng hay biết gì. Một bữa bỗng mệt, lão trở về sớm nhìn thấy bạn lão đang nằm trên người vợ lão mà nhún như ngựa phi. Vợ lão thì rên ư ử, hình như sướng lắm. Cả hai trần truồng như nhộng. Lão đứng sững ở cửa, máu như đông đặc lại, chân không nhúc nhích được, miệng không kêu được. Lão nghĩ chúng nó kiểu này đã ngủ với nhau lâu rồi, giờ làm ầm lên chỉ mất mặt chứ chẳng ích lợi chi. Đành im. Sau một lúc trấn tĩnh, lão đi ra đường, vào quán kêu một ly cà phê, ngồi suy nghĩ. Lão định đợi dịp sẽ nói chuyện công khai với vợ, ba mặt một lời, giải quyết cho xong. Nhưng rồi thấy thái độ lầm lì của lão lúc về nhà, linh tính của đàn bà khiến cho vợ lão biết là đã vỡ chuyện nên một bữa đẹp trời vợ lão và bạn lão cuốn gói đi mất. Bao nhiêu tiền bạc, vàng vòng vợ lão mang đi tất. Thế là lão trắng tay. Vợ mất, tiền mất. Lão hoá điên sa vào rượu chè, chẳng thiết gì làm việc. Lần hồi trở thành kẻ lang thang với nỗi buồn và lòng căm thù ngùn ngụt trong lòng. Lão đi khắp chốn để tìm đôi gian phu dâm phụ đó mà không tìm được. Một lần, trong khi lang thang, lão bắt gặp hai người trong một quán ăn, lão đã dùng dao chém tới tấp vào tên bạn lão. Vết thương nặng lắm, lão ra toà và bị kết án mười năm. Mười năm ở trong tù, lão ngẫm ra nhiều điều, lão sáng ra nhiều thứ và lão cũng tập quên được hận thù. Ngày ra tù, chẳng biết về đâu. Lão nghĩ với thân tàn ma dại thế này, cứ bám thành phố mà kiếm cơm hơn là về chốn cũ. Hơn nữa, chắc mọi người cũng chưa quên chuyện lão bị cắm sừng. Nên lão sống vất vưởng mãi thế cho đến ngày lão trôi giạt đến cái xóm Cụt này.

Giờ thì lão xem như cũng đã ổn. Có cái lều đi ra đi vô, tránh nắng che mưa, có cái nghề bán vé số kiếm ăn qua ngày, có buổi chiều nhìn nước chảy, có buổi tối nhìn trăng lên. Lão thấy thế cũng chấp nhận chờ tới tuổi thì ra đi trong lặng lẽ.

Một bữa trời mưa cũng lớn lắm, xóm Cụt tràn trề nước. Lão đi về với một thằng bé khoảng mười hai tuổi. Hai người ướt sũng, co ro đi vào xóm Cụt. Hôm sau lão dẫn thằng nhỏ đi, gặp ai lão cũng bảo là thằng cháu. Từ nay hai người sống chung với nhau trong cái lều bé tí. Thằng nhỏ cũng dân mồ côi, đi bán vé số thì gặp lão. Nó ở gầm cầu, ăn cơm hàng cháo chợ. Kiểu như nó lớn lên chút nữa sẽ không bán ma tuý thì cũng thành ăn cướp. Lão xót cho nó lắm mà chẳng biết làm sao. Hôm lão và nó về xóm Cụt là bữa đó thằng nhỏ lên cơn sốt. Không đành lòng lão mang nó về chăm sóc và từ đó nó ở luôn với lão. Sáng sáng hai ông cháu dắt nhau đi bán vé số. Chiều chiều về, ông cháu tắm cho nhau giữa bãi đất hoang. Ông gội đầu cho cháu, cháu kỳ lưng cho ông. Chiều nào cũng đầy tiếng cười. Lão thương thằng bé lắm, lão không con giờ có một thằng bé bên cạnh cuộc sống hẩm hiu và cô đơn. Lão xem nó như con. Lão định khi nào để dành kha khá sẽ cho nó đi học, chỉ có con đường học hành mới giúp nó thoát khỏi số phận thôi. Thằng bé cũng thương lão lắm. Từ bé đã không có cha mẹ, sống vất vưởng ở vỉa hè, đường phố. Giờ gặp lão xem nó như con, nó cũng coi lão như cha của mình. Nó gọi lão là sư phụ nhưng trong lòng nó, nó đợi sẽ có ngày nó gọi lão là cha. Nó thèm được gọi cha ơi. Nhiều lần lão tắm cho nó, nhiều đêm lão ôm nó trong giấc ngủ, nó định mở miệng gọi cha ơi, nhưng khi nó mở miệng lại gọi là sư phụ. Nhiều người trong xóm hỏi nó tên gì, nó bảo nó tên Tèo. Nên dân xóm Cụt cứ gọi nó là thằng Tèo con ông lão.

Mấy năm trôi qua, lão cũng bắt đầu già, tóc đã muối tiêu, muối nhiều hơn tiêu. Thằng nhỏ cũng đã lớn, ra dáng thanh niên rồi. Hai ông cháu kiếm được chiếc xe đạp, sáng sáng thằng Tèo chở lão đi, lang thang hè phố bán vé số kiếm ăn, dòng đời cứ lặng lẽ trôi đi.

Nhưng rồi cơn dịch ập đến, người ta không cho bán vé số nữa. Gạo hết, tiền cạn dần, hai ông cháu ăn mì gói, đến lúc mì gói cũng hết. Thằng Tèo bương ra đường kiếm cơm, có bữa nó mang về hộp cơm từ thiện xin được đâu đó, có bữa nó mang về ổ bánh mì, gói xôi, hai người cùng ăn. Cái khoảnh đất rẻo bờ kè vắng hẳn tiếng cười. Đôi khi cũng có một đoàn thiện nguyện ghé vào xóm Cụt, phát cho mấy phần cơm rồi mất hút. Xóm Cụt trong những ngày dịch đã bắt đầu đói. Dân xóm Cụt tản mát bốn phương kiếm sống. Xóm Cụt lặng lờ như xóm ma, đêm đêm im lìm không tiếng nói. Nghèo quá, chẳng ai giúp được nhau. Ban đầu nhà Tư Lực còn tặng cho mỗi nhà vài gói mì qua bữa, rồi thôi. Tiền bạc còn đâu mà cho mãi. Rồi một ngày người ta phát hiện trong xóm Cụt có người dương tính với con virus. Thế là dây giăng, là thép gai tung ra từng cuộn, là chốt chặn và chẳng ai còn được đi đâu. Một toán y tế đến xét nghiệm từng người, rùng rùng đầy lo âu. Thằng Tèo bị dính dương tính. Xe hú còi vang cả ngõ, Tèo bị giải đi như tội phạm lúc nửa đêm. Tiếng loa um sùm thông báo. Lão hớt hãi chạy theo nhưng mấy dân phòng giữ lại. Thằng Tèo bước qua chỗ dây giăng, ngó lại thấy lão nhìn theo với đôi mắt đẫm lệ. Lão quơ quào hai tay trong không khí như muốn níu giữ điều gì. Lão thét lên: Tèo ơi! Con ơi! Đừng bỏ cha Tèo ơi. Thằng Tèo chân bước lên xe, miệng hét lớn: Cha ơi! Chiếc xe cứu thương hú còi í e í e rú đi. Tèo đưa tay lên cửa kính, nói trong hơi thở: Cha ơi! Lão gục xuống, ngất đi.

Từ hôm Tèo đi, lão buồn hiu hắt. Ngõ xóm Cụt giăng dây, đã có mấy người đi cách ly rồi không về nữa. Lão đi loanh quanh trong xóm Cụt rồi ra bờ kè ngồi. Hôm nào có đoàn từ thiện phát cơm, lão lặng lẽ ra xếp hàng lãnh hộp cơm về chỉ ăn được vài muỗng. Gặp ai lão cũng hỏi về thằng Tèo, nhưng chẳng ai biết để trả lời. Có lần nó nghe mấy anh em dân phòng gác chốt bảo hình như đưa thằng Tèo về bệnh viện dã chiến đâu ở Củ Chi. Lão nhờ mấy người trong xóm điện hỏi thăm nhưng chẳng ai trả lời. Lão xọp đi trông thấy, râu tua tủa đầy mặt, đôi mắt hõm sâu, dáng đi như không muốn vững. Lại một lần nữa, lão nhờ người hỏi thăm thằng Tèo. Lần này là nhờ lão Tư Lực. Tư Lực gọi mấy lần, đầu dây bên kia mới có người bắt máy.
- Tèo. Tèo nào. Ở đâu? Cái gì Tèo, nói họ tên rõ ràng mới trả lời được.
- Dạ. Tèo này không có họ tên vì không giấy tờ, nó 14 tuổi ở xóm Cụt.
- Chờ chút gọi lại nhé. Để tôi tìm.
Lão đứng cạnh, lắng nghe, tim đập như muốn nhảy ra lồng ngực. Lão nghe hết nhưng vẫn hỏi lại Tư Lực
- Sao rồi chú? Họ bảo sao chú?
- Họ bảo chờ. Họ đang tìm. Nó chẳng có giấy tờ tên tuổi gì nên cũng khó.
Ừ! Đợi thì phải đợi thôi. Cầu trời khấn Phật. Cầu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát giúp cho thằng Tèo con của con tai qua nạn khỏi. Nó qua được bệnh, Trời Phật muốn con làm gì con cũng làm, con giảm thọ mấy năm con cũng chịu. Trời Phật giúp con.

Tư Lực định bước đi thì chuông điện thoại reo
- Phải người nhà của Tèo 14 tuổi ở xóm Cụt không ?
- Đúng rồi, tôi nghe đây.
- Báo cho thân nhân của Tèo nhé. Tèo đã chết hôm qua. Sáng nay đem thiêu rồi. Anh cho địa chỉ để gởi cốt về nhé.
- Dạ. Này chị ơi! Cứ gởi về xóm Cụt là có người nhận, xóm này không có số nhà.
- Rồi.
- Chị ơi chị! ...
Tút...tút. Máy bên kia cắt ngang. Lão đứng cạnh, lão nghe hết. Nhưng lão vẫn đứng mắt mở trừng trừng, đôi tay run lên bần bật. Rồi ngã xuống bất tỉnh.

Hai hôm sau ở ngay chốt chặn, một chiếc xe Grab mang lủ khủ một đống hũ cốt đem đến đưa cho anh dân phòng nhờ mang giúp cho người nhà anh Tèo. Hũ cốt bé tí, ghi mấy chữ nguệch ngoạc: Tèo- Xóm Cụt. Nhìn thấy hũ cốt, lão khóc không thành tiếng, những giọt nước mắt đầm đìa trên mặt xạm đen và đôi mắt trõm sâu. Lão lặng lẽ kiếm miếng bìa cứng, đặt hũ cốt trên đống đồ đạc ngổn ngang, đốt lửa thắp một cây nhang. Lão vái và bật lên tiếng khóc bi ai.

Mấy hôm rồi không có ai thấy lão, mấy lần người ta vào phát cơm, cho gạo, cho mì cũng không thấy lão ra lãnh. Đến khi dân xóm Cụt nghe thấy mùi hôi của xác vật chết mới nghi ngờ lão đã qua đời. Chẳng ai dám đến cái lều bên rìa bờ kênh để xem lão thế nào. Cuối cùng cũng chính Tư Lực cả gan hé cửa nhìn xem sau khi trang bị cho mình bộ áo quần và cái nón có lưới che mặt cùng cái khẩu trang. Tư Lực nhìn vào và quay ra nói với mọi người
- Lão ấy chết rồi. Chắc mấy hôm rồi. Trương phình.

Gọi xe đến chở xác lão đi, nhiều căn nhà không dám mở cửa. Người ta xịt thuốc diệt khuẩn ướt cả cả căn lều của lão. Hũ cốt của thằng Tèo chổng chơ có cắm cây nhang cháy nửa chừng.

Đêm đó, Tư Lực đem hũ cốt của thằng Tèo chôn ở góc bờ kè và lấy lửa đốt cháy căn lều. Lửa cháy sáng rực một góc xóm Cụt. Sáng ra người ta chỉ thấy còn lại một đống tro tàn.
🍁🍁🍁
6.8.2021-Sài Gòn Lockdown
DODUYNGOC

Reply
#39
ĐÁNH THỨC TRINH NGUYÊN
Võ Diệu Thanh

🍁Tôi hét với tôi. Người ta không thể lấy được từ đứa bé bảy tuổi cái chữ trinh nguyên. Mà, người ta chỉ có thể vùi lấp cái mầm trinh nguyên xuống tận cùng vực thẳm.
*****

[Image: 230569235_2918622501722565_4913048876200...e=61148A44]


Trễ phà, khát và nắng làm tôi quạu. Nó tỉnh queo ngổn ngoảm nhai, lừa lọc cục kẹo dừa dẻo quẹo. Bất thần nó nhăn mặt lại, hả miệng hết cỡ. Kẹo nhậm nhày giữa hai hàm răng sẫm màu hô hốc. Nó thọc tay vô họng lấy móng nại chỗ kẹo, búng tứ tung, văng cả qua mình tôi.

Kiểu ăn uống thô thiển của nó đã bị bọn con gái cùng khóa lên án nhiều lần. Lúc mới còn vị nể “nhõ nhẽ nhai cho phải thế con gái hơn!” sau cứ nói tạt vô mặt nó “ con gái con đứa gì mà ăn uống thô thiển”. Nó nhích môi, cười khịt “mủ mỉ duyên dáng đặng chi? Làm đồ trang sức cho... thiên hạ là cùng chớ gì”. “Vậy chớ mày ăn mắm hút dòi mà vẫn đi học để làm gì? Không phải để mình sống có văn hoá hơn sao?” “Học chỉ là để sinh tồn, ăn cũng vậy!”. Đúng là bản tính khó dời, mười mấy năm trước nó đã vậy.

Hồi đó, có vẻ rất xa xôi như chuyện đời xưa vậy. Ra khỏi nhà tôi một đỗi đường là sân đình. Trước sân đình là một bến sông có hàng sầu đâu bộn tuổi. Chúng đã đứng đó rất lâu năm, ngả ngớn giương xuống sông, xuống đường làng mấy cánh tay khẳng khiu lại uốn lượn cầu kì như những vũ công điệu nghệ. Tháng mười một, nước sông trong dần, vực ráo riết. Cũng là lúc hàng sầu đâu vươn vai trút lá, chuẩn bị chu đáo cho một mùa khai hoa nở nhụy mới của mình. Dáng cổ thụ sần sù kiêu hãnh nhìn mớ lá tả tơi rơi nghiêng, rơi thẳng, chao lượn vòng vèo. Chắc bụng hài lòng như người mẹ muộn con, cười tự mãn trong cơn oặn mình nôn oẹ khi cấn thai ốm nghén. Cọng sầu đâu trụi lá cũng rụng theo, bu đầy gốc.

Tiểu Hồi ốm tong trong bộ đồ nặng mùi hôi, đi tới đi lui lượm mấy cọng lá sầu đâu, bung thành mấy cái vòng nhỏ cỡ nắm tay, chơi thay dây thun, chơi một mình, tay phải luôn luôn thắng. Khi nào chán, nó đứng đằng xa nhìn tụi tôi chơi búng vòng bằng dây thun thật.

Tôi là thằng con trai có nhiều đồ chơi nhất xóm. Má tôi mua bán đường dài. Mỗi bận đi xa về, sau khi móc tiền trong túi cất vô tủ, má luôn đưa cho tôi một món đồ chơi gì đó. Trừ xe pháo, súng ống ra, cái gia tài hơn năm trăm cọng thun của tôi tụi Hoa Liên còn thèm, huống gì con nhỏ nghèo rớt mồng tơi như Tiểu Hồi.

Tiểu Hồi thiếu đủ thứ, dữ dội nhất là sức khỏe. Má nó ngày nào cũng len lỏi qua mấy đám cỏ, mấy vườn cây tạp trong xóm lục lọi cây thuốc trị bệnh cho nó. Bà quen mặt các loại thuốc Nam. Trong xóm ai có bị ho kéo dài hay nghe đau chỗ nào đó trong bụng trong xương thế nào bà cũng chỉ cho một bài thuốc, hiệu nghiệm lắm .

Vậy mà nó cũng ốm như nhánh củi. Món tẩm bổ duy nhất bà có thể cho nó mỗi ngày là cóc bầm nhừ nấu cháo. Da thịt nó mởn từng ngày trong cái nhìn no nê của má nó với mớ lòng cóc. Hạnh phúc của nó tới đó rồi thôi vì lộn xộn trong mớ lòng đó có gan, có bao tử và một lần có cả trứng cóc. Rồi ngày ngày kế đó, nó cong cổ nuốt mấy hột cơm nguội khô ran trong con mắt ngó lom lom của bà mẹ kế.

Bà ngoại lưng còm, tóc trắng, để nguyên nón trên đầu bước lẹ vô nhà, quét mắt ngang nó một cái như sợ đụng phải cái gì có thể làm chảy nước mắt. Bà gom mấy bộ đồ cụt ngủn (được may hồi má còn sống). Mau như lúc tới, miệng bà im ỉm, tay cắp cái giỏ, tay quắp cánh tay mỏng lét của Tiểu Hồi, kéo nó về phía ngôi nhà sàn sùm sụp ngoài bìa xóm.

Mùa tết năm đó, xùng xình trong bộ đồ quá cỡ được sửa từ bộ đồ mới độc nhất của bà, nó giương con mắt không chớp về phía bộ đồ bông chói lọi của Hoa Liên. Ngoại nó lừ mắt. “Phải biết thân biết phận. Mày là đứa mồ côi” Nó cúi mặt chui vô nhà. Suốt ngày lủi thủi cạnh ngoại học đươn lưới, bắt ốc, mò cua, mót lúa. Bao nhiêu tiền bà dành mua sách vở cho nó đi học vì cái câu “Nhất sĩ nhì nông…” Nó quên cái mùi cháo cóc lâu rồi, không còn thèm nữa. Nhưng có bữa, nó thấy tôi ăn mì gói, hít no nê mùi từ xa nuốt ực nước miếng, cắm phập mặt tôi câu hỏi “Có ngọt như cái mùi của nó không?” Những lúc thấy nó, tôi bưng tô mì chạy trốn. Sợ quá mùi nước đái khai ngấy, mùi bùn tanh rình. Lỡ bá vô cái hỗn hợp đó, nuốt cái gì rồi cũng ọi ra muốn lộn cả ruột.

Có một lần duy nhất trong đời tôi dám đụng mình nó. Là cái ngày hai cha con tôi đang ăn cơm, Hoa Liên réo tôi từ đầu cổng. Nó thông báo về Tiểu Hồi và chùm dây thun nó nghi là của tôi. Tôi nghinh nghinh mặt với Hoa Liên. Hồi sáng sau khi chơi xong, tôi nhét tuốt trong kẹt tủ giữa buồng, kín bưng.

Nhưng nghe nó diễn tả thì trúng của tôi rồi. Tôi buông chén cơm xuống ván cái cộp, chạy tốc tới sân đình. Ba tôi chỉ kịp đưa tay về phía tôi như muốn can, nhưng chỉ kịp với theo bằng câu gấp gáp:

- Chỉ là chùm dây thun thôi mà, bỏ đi con!

Mớ thun tôi không quý lắm nhưng một cọng tôi cũng không bỏ. Đồ chơi của tôi đứa nào trong xóm chơi cũng được trừ Tiểu Hồi. Sân đình hiện ra rất mau. Máu trong mình tôi sôi lẹ như bước chân tôi vậy. Nó ngồi bẹp, xổ tung chùm thun ra đất, tỉ mẩn đếm từng nhợ, cái đầu nghiêng nghiêng vẻ rất hài lòng. Tôi nhào tới xô dạt nó qua một bên, lùa lia lịa mớ thun đầy hai tay, đứng lên cong môi rủa :

- Đồ tham lam, dám vô nhà tao ăn cắp!

Nó chống tay ngồi bật dậy, nhảy xốc tới:

- Trả tao, tao không ăn cắp!

- Làm gì mầy có?

Chúng tôi giằng co nhau. Nó dường như cũng không có ý nhượng bộ, như là tôi đang cướp của nó không bằng. Hoa Liên vừa lúc đó chạy tới, hùng hồn làm chứng.

Thấy yếu thế, Tiểu Hồi buông tay, quay lưng đi. Nó còn kịp hất tạt mặt tôi một cái nhìn ghẻ lạnh sáng quắc. Sợi thun bị kéo giãn quá mức, lại được buông ra bất ngờ búng vào tay tôi bóc một cái. Đau điếng! Tôi đổ quạu, nhào tới xô nó ngã chúi nhũi. Nó ngước lên, mặt tèm lem. Một vệt máu chảy thành dòng nhỏ thấm vô cát đang dính đầy trán nó, ròng xuống mũi... Mắt nó sòng sọc trợn dọc như có thể văng ra khỏi hóc rồi bắn thẳng mặt tôi…Nhìn ánh mắt nó, tôi dự cảm nó đang xông vào tôi mắng nhiếc, cào cấu, cắn xé và bẻ cổ tôi cái một. Bự con hơn nó, một chọi một tôi cũng ăn, huống gì phe tôi lại có Hoa Liên. Vậy mà tôi rúm người lại, co giò chạy ...

Mau như lúc đi, tôi thở dốc bước lên nhà. Ba tôi đang chờ bên mâm cơm, nhổm hẳn người ra trước trông ngóng. Thấy tôi cầm chùm dây thun, ông bệt ngay xuống ván. Đôi đũa trên tay ông rớt xuống mâm đánh cốp một tiếng khô khốc. Ông giật mình cầm đũa lùa lia lịa.Và gần chục đũa mà không có hột cơm nào vô miệng. Mép chén chỉ có mấy hột cơm nằm hờ hững, khô queo. Tôi cũng chẳng ăn được gì. Miếng cơm nào qua miệng cũng như có dính mấy hột cát nhậm nhày máu đỏ của Tiểu Hồi. Tự nhiên tôi ngẩng lên kiếm ba cầu cứu, đụng ngay cái nhìn của ba. Cái nhìn làm tôi chợt nhớ, có một lần tôi ăn cắp tiền của má đi mua điếu thuốc, vừa hút vừa rọi kiếng coi mình đã giống người lớn chưa. Tôi thấy hai con mắt trong gương đang lấm lét nhìn mình ...

Ba nói lập bập từng lời :

-Nó … có nói ở đâu nó có không?

Tôi lắc đầu ngao ngán, cũng không hiểu nổi vì sao tôi ở nhà suốt buổi chiều nay lại để Tiểu Hồi lẻn vô nhà …

Mùa nước lên năm đó, chỗ gốc sầu đâu Tiểu Hồi hay lượm làm vòng, nước cao quá đầu bọn con nít như tôi. Nhà bà cháu nó ngập ngoi ngóp chỉ còn cái mái. Bà nó phải dời tới cái chỗ mà bà không muốn chút nào. Nó ở tận đâu? Tôi không chú ý, chỉ biết hình như đó là quê vợ của cậu Tiểu Hồi. Từ đó về sau tôi quên phứt nó.

Tưởng vậy thôi chớ khi mới vô trường sư phạm, ngay cái chạm mặt đầu tiên tôi đã nhận ra nó. Thấy kiểu ăn mặc lôi thôi, cái thẹo giữa trán như một con dế trũi đang cựa quậy trong đám bọt vàng ố, phủ trên mặt ruộng hồi mùa nước mới tràn, ước ông trời đừng dung rủi cho đụng mặt với nó thêm lần nào nữa. Nhưng tôi nể nó “vậy mà cũng học được tới chừng này”. May là nó không nhận ra tôi.

Mười mấy năm rồi còn gì. Ngày đó tôi trắng trẻo, chẳng mê gì, cả việc học lẫn chuyện ăn, ngoại trừ đồ chơi. Ba tôi hiền khô, không thể đưa tôi vào bất kì một khuôn khổ giáo huấn nào. Ông hiền bẩm sinh mà. Hồi năm bảy tuổi, nội đưa tới trường học nhưng bị một thằng bạn cùng tuổi gầm gừ nói “nhìn cái mặt thấy ghét”, “hứa” bữa nào cũng đón đường đánh chơi. Vậy là bỏ học. Tới tuổi nghĩa vụ, ông sợ đạn lạc tên rơi nên trốn khỏi nhà, sống chui rúc cho qua tuổi. Lén lút cưới má rồi bó gối ở nhà nấu cơm cho tôi ăn, dành phần bươn chải cho má. Má tôi quắn quíu với những đồng tiền, tới một ngày trở về nhà ngồi khóc ngất trước gương. Nhìn làn da dày dạn nắng gió của mình, nhìn thằng con trai học hành rớt lên rớt xuống, còn chồng bỏ nhà theo người đàn bà mập như thùng phi nhưng nói chuyện ngọt sớt, nghe thất bát xoi ruột nhói ran. Má rũ sạch mọi thứ về nhà buôn bán lặt vặt đủ sống nuôi tôi. Mọi chuyện về ba chấm hết vì ba bệnh ngặt qua đời khi mới sụp bốn mươi một dạo. Những giọt nước mắt của má, sự ra đi của ba đã để lại trong lòng tôi một vết thương lớn. Nhưng cũng nhờ vậy tôi có trách nhiệm hơn với bản thân mình và những người xung quanh. Tôi chịu học chịu ăn chớ không mê chơi như hồi đó. Sự tỉnh ngộ này đã giúp tôi có chân trong trường sư phạm.

Tốt nghiệp ra trường với số điểm cao cao. Nhưng tôi nhận ngôi trường dở chợ dở quê này làm nơi tập sự là vì một cô bạn mảnh mai trong trẻo như lõi chuối non nắm tay tôi rớm nước mắt “em sợ ma lắm mà nhà công vụ ở đó vắng tanh vắng ngắt, chắc em bỏ dạy”. Tiểu Hồi cũng nhiều điểm nhưng muốn về trường này vì nó không quen chỗ có đông người. Nó nói “Ở đó buồn!”.

Lần đổi chác nhiệm sở này giúp nó có được một chiếc xe đạp làm chân. Chỉ có tôi là khổ. Cái giá cho việc dại gái thiệt đắt đỏ. Phải cùng Tiểu Hồi chung trên một chuyến phà xa lơ, chung khúc đường dài nhằng, cưỡi xe đạp càn lên đám ổ gà ổ voi xốc cồng cộc. Chung cả những ngày dài trên ngôi trường nhỏ mà lũ học trò tèm hem như Tiểu Hồi mười mấy năm trước và ... cả bây giờ. Ước gì người đồng hành này là một cô gái khác.

*****

Cục phấn chai sạn chạy sồn sột trên tấm bảng lở lói. Cặm cụi một hồi tôi cũng đề xong thứ ngày tháng một cách tề chỉnh lên đầu bảng. Thứ hai…? Buổi dạy đầu tiên của đời người. Tự dưng điều ấy vô nghĩa khi Tiểu Hồi đứng chình ình trước cửa lớp tôi.

-Coi mòi cũng hăng hái quá ta- Sau câu nói mỉa mai là nụ cười nham nhở, nện trên một gương mặt cõi cằn đầy mụn nhọt. Và cái thẹo như là cái mụn bự nhất … Chút lý trí lôi kéo tôi yêu nghề rệu rã tan. Tôi bỏ lớp ra dựa lan can trường nhìn xa về hướng thị trấn…

Lũ học trò bắt đầu ó ré lên. Một số xếp máy bay phóng thẳng xuống đám ruộng chưa cắt. Rất nhanh, chúng ào ra khỏi lớp, lội bừa xuống lúa lùng sục đồ chơi. Mấy bông lúa quấn ràn rạt quanh chân chúng, rụng xao xác. Bác nông dân bẻ nhánh tre dứ dứ lên không trung la vơi vơi. Có chuyện rồi đây, tôi trở về lớp giải quyết cái lũ đứng hàng thứ ba sau ma và quỷ. Học trò tôi quậy hơn quỷ. Vô tình tụi nó đã bẻ khóa một cánh cửa tưởng đã đóng kín vĩnh viễn rồi hồn nhiên đẩy tôi vô đó.

Bắt đầu câu chuyện từ một con gấu bông tôi lượm được lúc đi qua xóm. Tôi đưa nó cho một đứa học trò quậy nhất lớp “Cho em về nhà chơi” Chẳng qua là một kiểu dàn xếp tình cảm rẻ tiền để nó bớt lộn xộn. Vậy mà nó đưa cho Tiểu Hồi nói thầy Minh gởi tặng.

Ngay chiều đó tôi ghé phòng Tiểu Hồi truyền lại một số thông tin của Ban giám hiệu đưa xuống giáo viên tập sự. Mặt tôi phừng phừng, hơi thở chạy lung tung tới độ tôi ngồi chệch cả ghế. Con gấu ngồi chễm chệ trên bàn viết, tươi rói như gương mặt Tiểu Hồi lúc này:

- Không có sự ban ân nào là vô tư cả. Nếu không cầu sắc cầu tài cũng cầu đức độ. Còn con gấu này Minh tặng có lẽ không cầu gì cả vì Tiểu Hồi đâu có gì để Minh cầu…

Bất giác nó quay mặt đi, làm động tác giả vuốt lại mấy sợi tóc mai. Nhưng khi nó quay lại mắt đục ngầu, mi sụp xuống. Tự nhiên tôi thấy mình á khẩu, cũng chẳng thể ú ớ.

Ánh mắt đỏ ấy lại quét vội sang tôi rồi quay đi, nhanh tới mức giọt nước mắt rớt xuống nền nhà, bể tan, thấm vào gạch đỏ. Chuyện gì xảy ra? Tôi cứ xoa, cứ nắm hai tay dính nhau rồi nắn bóp thành ghế, lục lọi trong bộ nhớ coi lời nào có thể moi ra nghe được lúc này:

-Hồi mít ướt quá phải không Minh? – Nó chành miệng cười gượng, mặt chèm nhẹp như con nít- Chỉ vì một con gấu mà cũng khóc.

Tôi mở lớn hai mắt nghe ngóng, suy tính. Nước mắt phụ nữ, dù cô ta đẹp hay xấu đều làm đàn ông rối ruột.

-Nếu Minh biết có một con nhỏ thèm được quà, thèm được nghe mấy lời ngọt ngào như thế nào. Ngày nào cũng nghe ngoại nói “mày đừng có phân bì với người ta. Ráng mà học đặng ngóc đầu lên” Con nhỏ biết ngoại nói đúng nhưng nó thèm nghe một lời êm ái, một cử chỉ nâng niu biết chừng nào…

Tiểu Hồi đang trôi giữa dòng ký ức. Có cảm giác ngay lúc này không phải là tôi, một con người, mà chỉ là một cái ghế ngồi, nó vẫn kể. Hoặc giả như trước mặt nó là cả một hội trường trong ngày hội có đủ thành phần, nó vẫn nói đều đều, giọng ứa nước mắt. Ứ nghẹn từ hồi bảy tuổi …

Đó là ngày người đàn ông rề tới bên nó, vuốt ve nó, cho nó món đồ chơi mà nó hằng ao ước... chỉ cần nó im lặng cho ông muốn làm gì thì làm, một chút thôi, không sao đâu, không ai biết đâu… Chuyện này là chuyện không nên cho nhiều người biết. Mà cho ai biết làm gì, nó thấy người đàn ông đó tốt gấp trăm lần thằng con trai ông ta, cái thằng luôn chê nó ở dơ. Cái thằng đẩy nó ra khỏi cuộc chơi của những đứa con nít trong xóm. Nhưng... khi thằng con trai xốc tới giật lại mớ thun, chỉ tay ngay mặt nó “Đồ ăn cắp”, còn xô nó một cái… Nó biết là đời nó đừng mong mỏi người ta cho cái gì dù chỉ là chùm thun.

Năm tuổi gián tiếp hại chết mẹ, bảy tuổi đã không còn gì để mất. Không phải người ta cưỡng bức, là nó tự nguyện, Minh hiểu không ? Nó tự nguyện đổi chác với một cái giá rẻ mạt, rẻ hơn rác rưởi. Cái loại này là ác mộng của thế giới, đừng dại dột dính tới, tốn nhiều công phu dọn dẹp, nhiều công nghệ tiêu huỷ. Rác người nên cũng ao ước sinh tồn, sống được tới đâu hay tới đó, có dáng người là may rồi.

Tôi gầm mặt xuống nhớ như in cái ánh mắt ba ngày nào, lấm lét lùa lia lịa đũa vào cái chén không cơm…

Tôi đã nhốt mình giữa lớp học và cái phòng nhỏ của mình trong khu nhà công vụ để khỏi gặp mặt Tiểu Hồi. Nếu có tình cờ thấy nhau trên hành lang tôi len lén tìm hướng quay đi.

Tôi lại có cảm giác mọi người đang đưa tất cả những gì liên quan tới Tiểu Hồi đổ đầy tai tôi. Chẳng hạn vì sao nó không thân thiện với mọi người nhất là mấy cô gái được người yêu tâng tiu.

Chẳng hạn có một gã đàn ông nào đó trong xóm lân la lại gần phòng Tiểu Hồi. Mấy lúc thấy nó xách nước gã đã tới xách giùm. Nó không đồng ý nhưng gã đã giành xô nước trên tay nó. Những cử chỉ đó có lẽ lần đầu tiên Tiểu Hồi được nhận… Chỉ có điều vợ gã với bốn đứa con ở nhà vừa căm ghét gã và đổ dồn mọi kinh tởm lên những người bị gã gạt gẫm. Gã dâm đãng và lẻo mép nổi tiếng. Xấu cỡ nào nghe gã ca tụng người đó cũng tưởng mình thành tiên. Không ai có ý cản gã giùm Tiểu Hồi “Ai biểu vô duyên làm chi, khiến tụi con trai không dám tới gần, trống chỗ cho thằng điếm thúi lãng vãng.” Một số người đã nói vậy.

Tôi nghĩ bụng, nếu mình ở đây, ngày ngày nhìn thấy những gì còn sót lại sau cái hành vi nông nỗi của ba, tôi sẽ không thể ngóc đầu lên nổi. Phải rời khỏi nơi này thôi, sẽ nói với má mình bị tranh nước không ở đây được. Một số giáo viên tới vùng này đã bị chứng bệnh đó.

Tôi gặp gã đàn ông đó lúc bước ra khỏi cổng trường. Lập tức tôi thu ánh mắt về để khỏi phải bị cảm giác tởm lợm làm gan ruột mình trạo trực. Trường học ngày chủ nhật vắng như chùa bà đanh. Tôi thấy rõ đôi mắt phong tình của gã nhìn đắm đuối Tiểu Hồi. Cái kiểu nhìn già đời tới mức đá cũng phải mềm. Mưa gió sẽ vần vũ, rồi tầm tã, rồi ngoi ngóp. Tất cả cũng sẽ bình lặng. Chỉ còn lại một Tiểu Hồi với mênh mông lầy lội. Tôi bước chân đi, đem theo cả những mớ dây nhợ tủa lòng thòng trong ý nghĩ.

Tôi có cảm giác đi tới đâu những ê chề của Tiểu Hồi cũng theo sát gót, bày đầy trước mặt. Có lẽ những bất hạnh đó cũng đang giày vò linh hồn của ba còn vật vờ quanh đây hay là chốn a tỳ lạnh lẽo nào. Tôi càng bước càng thấy mình chới với giữa dòng ý nghĩ. Cho tới một lúc tôi không đi nổi, dựa người vào một gốc cây ven đường. Tôi thả ngửa mặt lên trời, thấy lởn vởn gương mặt đểu cáng của gã đàn ông “già không bỏ nhỏ không tha”. Rồi lại thấy ba. Những gương mặt họ khi thì tách ra khi nhập thành một. Có khi lại biến thành gương mặt tôi đang nghinh nghinh... Ý nghĩ mình đang ở chung một phe với gã làm tôi nóng mặt. Tôi quay về hướng trường bước những bước thiệt dài.

Tôi dự định sẽ tống khứ gã bằng một cái nhìn té lửa. Nhưng gã đã sớm tìm đường rút vì Tiểu Hồi đã đuổi gã bằng cái ngó trân trân, vừa lạnh vừa như đang đổ những cơn uất ức trào ra tròng mắt. Tôi không ngờ lại có thể chứng kiến cái nhìn này từ Tiểu Hồi. Vừa ngất ngưỡng bất cần lại như đang vùi sâu lòng kiêu hãnh xuống nơi tồi tàn nhất. Ở đó chỉ có ta với ta. Tất cả các người đều sinh ra để may mắn thì các người hãy mỉm cười với hạnh phúc của mình đi. Ta cũng có một nơi chỉ có ta là chúa tể. Các người không phải là đồng loại của ta. Đồng loại của các người đầy rẫy ngoài kia, những kẻ tươi tắn vuông tròn, tươi tắn không tỳ vết. Ta bấy bá bụi đời, ta rút giữa tòa lâu đài ẩm mốc, tường cao cổng kín của riêng ta. Nơi đó không ai được bén mảng, kể cả người tốt, kể cả lũ đê hèn… Nhìn mắt nó tôi như bị một bàn tay nào đó vô hình bóp siết toàn thân, bẻ gập từng cái lóng tay.

*****

Mỗi tuần Tiểu Hồi đều nhận được một món quà với những dòng chữ động viên. “Cô ơi cô, là một cô giáo đáng yêu.” “Cô giáo ơi, cô ráng lên nghe, mọi người quý trọng cô lắm.”

Tiểu Hồi đẩy những món quà thành một đống trên góc tủ. Một sự nhầm lẫn hay một kiểu giỡn dai để thu lại được những trận cười nghiêng ngả gì đây?. Tôi chỉ dám khuyên “Hồi nhận đi rồi vui sống để không phụ lòng người tặng, dù, người đó là ai. Xung quanh Hồi vẫn còn nhiều người quan tâm tới bạn”. Nó vẫn không tin tất cả những cái đó là của nó…

Một bữa nó xin nghỉ dạy hai ngày đi đâu đó. Khi trở về mắt nó bớt lạnh hơn. Tôi thấy nó xếp mấy món quà ngăn nắp, bắt đầu chú ý tới lời ăn tiếng nói, cách ăn mặc cũng gọn gàng hơn. Nó học cái gì cũng mau giỏi kể cả chuyên môn và cách giao tiếp. Ngày tết nhà giáo nó bắt đầu nhận được nhiều quà. Mớ của học trò, mớ của một người ẩn mặt.

Người hay giúp tôi gởi quà, chuyển những món ăn tẩm bổ tới chỗ Tiểu Hồi là chị bảo vệ hiền lành. Chị hỏi sao mà tôi lo cho Tiểu Hồi vậy lại không cho nó biết.

- Tôi sợ cổ thương tôi.

- Bộ thầy không thương cổ sao? Không thương sao lại lo cho cổ từng miếng ăn?

Tôi nói chị đừng có hỏi. Nếu thương tôi hãy giúp tôi lo cho Tiểu Hồi.

Tiểu Hồi tuy vẫn cảnh giác nhưng nó đã thấy vui vui vì “ai mà kỳ công giỡn dai không biết”. Thỉnh thoảng tôi thấy nó khui vài món quà, nhìn rồi cười. Dù không xài tới bất cứ món nào.

Những nổ lực của tôi kể cả trước mặt và sau lưng bơm cho Tiểu Hồi sức sống mới. Nét mặt nó hửng lên, ngày càng đầy đặn. Nó như đang thành một người khác. Mùa tết nhà giáo năm thứ ba nó được trường cử đi thi giáo viên duyên dáng, nhận được giải cao cả về ứng xử tình huống và phong cách biểu diễn.

Trong khi đó tôi ngày càng gầy guộc. Tôi không biết cái gì đã diễn ra trong mình. Những lúc đi chung, tôi hay bị chân nọ đá chân kia, mặt rần nóng khi thấy mấy thằng con trai dòm miết Tiểu Hồi. Mấy đồng nghiệp nam thì có trăm ngàn lý do để ghé trường kể cả ngày chủ nhật. Tôi cố tình dựng trong đầu hình cảnh một cô gái nào khác để khỏi nghe tim mình se thắt từng cơn. Nhưng, tôi chỉ thấy trước mắt một Tiểu Hồi với cặp mắt trong xanh. Tôi thèm biết bao được chạy ngay tới, ghì sát thân hình trong trẻo của Tiểu Hồi bằng đôi tay nồng ấm của mình, ao ước được áp mũi vào đôi má hồng hào mướt rượt kia, hít những hơi no đầy... Những cơn thèm tuột sâu tận đâu đó trong tôi, moi ra những cơn đau bủn rủn tay chân.

Tiểu Hồi nhận được khá nhiều những gói quà có ghi rõ tên người gởi, cả những lá thư xài nhiều từ thương nhớ. Nhưng Tiểu Hồi lại không nhìn tới họ. Nó vẫn chưa nhen được trong lòng mình một ao ước nào về hạnh phúc. Trong số những lá thư nó nhận được có những cái do tôi đưa tới từ chỗ mấy thằng bạn chí cốt của tôi. Tôi nghĩ mỗi một lá thư đem tới cho bạn tôi một hi vọng mới, cũng là cho Tiểu Hồi những cơ hội lựa chọn. Tôi gần như đã đạt được cái điều mình mong mõi. Nhưng sao tôi cứ đuối dần cho tới khi phải nhập viện.

Tưởng bệnh thường thôi, uống vài ngàn thuốc là có thể làm anh hùng. Nhưng bác sĩ nói bị suy nhược nặng, cả thể lực và tinh thần. Phải nghỉ dạy một thời gian. Chỉ có tôi biết mình đang tương tư. Má vuốt tóc tôi. Sao mà ráng sức chi dữ vậy con. Tôi cười cười. Vậy chưa đủ nữa má à. Con bò xuống vực sâu mà, tuốt dưới đáy lận nên bị hao hụt chút sức có sao đâu, phải đổi mạng còn được nữa à. Má khóc thôi là khóc. Con tôi bị tâm thần rồi bác sĩ ơi, nó nói sảng kìa.

Tôi tỉnh táo nhất trong đời. Tiểu Hồi sẽ tìm được người yêu thương nó bằng cả sinh mạng. Gương mặt Tiểu Hồi rực rỡ trước mắt tôi ngày một chói lòa, cho tới khi tôi sụp vào vùng mù mịt. Tôi nghe rõ má tôi vừa khóc vừa lay tôi. Tôi nghe rõ hơi ấm bàn tay Tiểu Hồi siết chặt tay tôi, một làn da mát rượi áp sát má tôi.“ Em có cần gì những món quà đó mà anh phải cực khổ vậy. Em đã về xóm cũ, đã biết anh là ai lâu rồi. Nhưng nếu em nói em biết hết rồi, anh đừng lo cho em nữa, có lẽ anh không yên, nghĩ em còn hận…?”. Tôi thấy tôi cười mà sao mắt nhướng không lên.

🍀Võ Diệu Thanh

Reply
#40
THƯƠNG NHỚ HOÀNG LAN
--Trần Thùy Mai--

[Image: 232928443-10223631749474740-4573850198580849588-n.jpg]

Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi:
Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?
Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo:
Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại.
Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ đấy, thầy ẩn tu, ít khi xuống núi.
Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì:
Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ?
Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi:
-Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H.
Rồi bà cười ha hả:
-Đi tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da.
Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm.
Cô ruột tôi giận lắm, bảo:
-Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng.
Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói "Đừng". Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương? Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa.
-Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.
Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...
Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo:
-Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?
Tôi chỉ lắc đầu...
Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi:
-Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác.
Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch:
Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà tránh?
Thầy hỏi:
Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong.
Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì. Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng:
-Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng.
Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày:
-Này, đừng nghịch.
Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi:
-Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan.
Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại:
-Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy.
Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh:
-Mấy con Thị Màu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử?
Tôi cự:
-Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ.
Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước giò. Lan phụng phịu:
-Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có.
Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ.
-Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi.
Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo:
-Không can gì.
-Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?
Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu.
-Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó.
Tôi động lòng, hỏi:
-Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong.
Thầy cười:
-Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín rầng mây.
Tôi vái thầy mà thưa:
-Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa.
Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi.
-Anh không thích phong lan nữa sao?
-Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan.
Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất. Lan bảo:
-Thích ghê, em chưa thấy bao giờ.
Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra.
-Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường.
Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo:
-Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng.
Tôi hãi hồn, vội nói:
-Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây.
Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu:
-Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa.
Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng tôi đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...
Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.
-Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà.
-Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó.
-Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức.
Tôi im lặng, một lát sau mới bảo:
-Khó tin.
-Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra - bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn.
Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi:
-Nhà chùa có việc gì mà nhắc cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi.
Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu:
-Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu.
Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống, Lan lắc đầu, Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn:
-Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi.
Quay sang Lan, tôi nạt: "Đi về!"
Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi.
Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc:
-Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?
Tôi cau mặt:
-Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?
-Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến.
-Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn.
Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi.
-Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?
Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa...
-Em có thích nghe chuyện cổ tích không?
-Thích.
Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt.
Lan nghi ngờ:
-Sao có người làm được như thế?
Tôi gật đầu:
-Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền sư trả lời: "Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua.
Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng.
-Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?
Tôi bảo:
-Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con.
Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. "Thôi, về đi em". Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...
Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo:
-Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu.
-Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên.
Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức:
-Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?
Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về."Con ma nữ" đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát:
-Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con.
Tôi cuống quýt:
-Bác bảo con làm sao được?
-Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra.
Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ:
-Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng.
Tôi thở dài:
-Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thuỷ Sám.
Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo:
-Sao con bỏ học?
Tôi nói:
-Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng.
Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy:
-Bạch thầy.
Thầy tôi bảo:
-Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.
Tôi nói:
-Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An.
Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi:
-Tâm không an, có cầu cũng vô ích.
Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ. Nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió.
-Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?
Thầy nhìn vào mắt tôi:
-Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình.
Tôi lắc đầu:
-Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi.
Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã úa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian. Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: "Chú Ninh!" Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan:
-Bác lên chùa cầu cho em đi bình an...
Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt. Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan:
"Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan. Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi..."
Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng.
-Cứ khóc đi con - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ.
Tôi nức nở:
-Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây Hoàng Lan không?
Thầy bảo:
-Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?
Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống. Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh, mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.
Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ.

Reply
#41
NỬA ĐỜI NGƠ NGÁC
Nguyễn Ngọc Tư

[Image: 237774950_3664315070459646_4492558805800...e=611CEDD3]

Lúc rày mưa dữ quá, mưa nhâm nhi, rả rích cả tuần, đứa cháu nhỏ lật lịch, kêu lên, “Ui chao, tháng 7, hèn chi mưa liền tù tì, chắc là ông Ngưu Lang với Chức Nữ đang gặp nhau, dì Út ha?”. Nhỏ cháu lập luận ngây ngô, làm nó mắc cười, bởi nếu có Ngưu - Chức thật, thì lúc gặp lại họ cũng chẳng khóc lóc gì đâu. Xa bẵng nhau, mỗi năm gặp một lần, chỉ sợ ngượng ngập đến nỗi chỉ nói vài câu lạt lẽo, nhát gừng. Trong một năm rất dài đó, mỗi người gặp những biến cố khác nhau, làm những công việc khác nhau với những bạn bè khác nhau, có gì chung đâu mà nói. Yêu thương có cao như núi thì cũng bị mài mòn bởi thời gian, bởi những lo toan thường nhật. Nó vu vơ nghĩ thầm, suýt cất thành lời, nhưng nhìn vào đôi mắt trong vắt của đứa cháu, lại thôi. Ngước mặt nhìn mưa, bỗng nó có cảm giác bàng hoàng, ủa, tôi-trong-veo đã chết tự hồi nào?

Câu hỏi đó làm nó bần thần cả buổi. Thật khó chịu khi một thứ đã từng thuộc về mình, gắn bó với mình, nhưng rồi nó tan biến lúc nào mình không biết.

May mà còn lại một vệt ký ức long lanh, không ngắn không dài, vừa đủ để nó nhớ rằng, mình đã từng có một quãng đời thơ ngây, mơ mộng, ngông cuồng. Mỗi khi nhớ lại, nó thường buột miệng kêu lên, thời điên. Có điên mới tin mưa tháng Bảy là nước mắt tương phùng; tin vào những truyện cổ tích có cô gái nghèo lấy chồng hoàng tử, hay nghĩ đơn giản nàng Kiều rốt cuộc hạnh phúc với người yêu.

Buồn cười, là quãng ấy, nó tốn biết bao nhiêu nước mắt vì thương cho những thân phận người, những chuyện tình trái ngang, lận đận trong… phim. Tệ hơn, là nó tin có ngày Cổ Thiên Lạc sẽ… yêu mình. Vào năm hai mươi hai tuổi, nó còn làm một việc ngông cuồng khác, khi đặt tên cho quyển sách đầu tay là “Ngọn đèn không tắt”. Chắc nụi. Đáng ra phải là “Ngọn đèn chưa tắt” hay “Ngọn đèn sẽ tắt”, bởi chẳng có gì là miên viễn, là bất biến hết (đèn lại càng không).

Dân gian có lý khi ghép từ “dại” đi ngay phía sau chữ “nhỏ”. Phải mất nhiều năm nó mới rút ra kết luận đó. Những cảm nhận của ngày xưa giờ đổi thay ngoay ngoắt. Như thể nó đã sống cuộc đời khác. Nó cười nhạo câu cuối cùng (hay xuất hiện) trong các truyện cổ tích, “hai người cùng nhau sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long”. Nó cảm nhận được cái cay đắng tủi buồn khi Kiều về với Kim Trọng, khi nàng đã lưu lạc trầm luân, đã yêu người khác thật lòng, đã tan nát vì chia biệt và đổ vỡ thì làm sao tỉnh bơ sống với chồng của đứa em, người mà mười lăm năm trước có gặp sơ sơ, nói nói cười cười, lấy nước mây ra hứa hẹn, cùng lắm là nắm tay nhau được… một lần. Nó nổi quạu khi nghe kể sau bao năm bị chồng cho người ta… mượn, Châu Long lại cười ngỏn ngoẻn trở về mà trái tim không hề lung lay, thương tổn. Nó nghi ngờ những mối tình xuyên qua kiếp này, kiếp sau, sau nữa, ai mà kiên nhẫn dữ vậy?! Nó nghĩ giá trị của những lời thề hẹn chỉ như chọi cục đá xuống ao bèo. Nó ngờ ngợ khi thấy đôi trai gái đi qua, không biết cuộc tình này được bao lâu, chưa chắc có đám cưới… Nó dửng dưng, nguội ngơ trước những khóc, cười của người đời, bởi cảm xúc vừa nhen nhóm đã tắt rụi bởi ý nghĩ, thấy ngoài mặt cười, khóc vậy, thân thiết vậy nhưng chưa biết lòng dạ làm sao à nghen.

Tất cả những thứ đó cho nó một cảm giác, mình khôn ra rồi. Có điều, cuộc sống dạy chậm rãi quá, nhẩn nha quá. Tốn mười năm, nó chỉ học được vài bài học thí dụ như “không có gì là mãi mãi”, như “đừng mù quáng tin vào cảm xúc” hay “yêu phải để dành”. Nó rất nôn nóng được học nhanh nữa, để chứng tỏ bản lĩnh, sự già dặn của mình.

Bữa nay, nó nhận ra mình buồn quá, khôn mà buồn. Biết nhiều mà buồn. Tỉnh táo mà buồn. Trải đời mà buồn. Ngoái lại thì thời vui nhất đã bỏ đi lâu rồi, từ lúc hoài nghi lên ngôi.

Nó bỗng thèm được như đứa cháu, nhìn mưa tháng Bảy nẫu nuột mà lòng vui, vì biết cữ này có đôi lứa gặp nhau, trên trời.

Reply
#42
Quote: bởi nếu có Ngưu - Chức thật, thì lúc gặp lại họ cũng chẳng khóc lóc gì đâu. Xa bẵng nhau, mỗi năm gặp một lần, chỉ sợ ngượng ngập đến nỗi chỉ nói vài câu lạt lẽo, nhát gừng. 

Đúng rồi ở đó mà ôm nhau khóc lóc ỉ ôi, một năm mà được gặp "người ta" một lần mày biết phải làm cái gì chứ hả Ếch  Rollin .
Reply
#43
(2021-08-14, 08:06 AM)phai Wrote: Đúng rồi ở đó mà ôm nhau khóc lóc ỉ ôi, một năm mà được gặp "người ta" một lần mày biết phải làm cái gì chứ hả Ếch  Rollin .

Tao nghĩ chắc không có thì giờ để nói gì, chỉ bận rộn làm thôi Biggrin

Reply
#44
Trùng hợp hay là bài này NNT có ý viết về ngày Thất Tịch. Goole hôm nay cũng chạy headline về ngày này.

[Image: 2021-08-14-124943.png]
Reply
#45
[Image: 236816882_137405128546825_87632158919689...e=613ECB1F]

Reply