LTP Học Phật Pháp
[Image: tuong-phat-bon-su-thich-ca-nam-tong-4-8300.jpg]

Dòng Chảy Liên Tục Hiện Tại Diệt Ý Niệm Tôi, Ta và Tà Kiến

https://tuniemxu.org/dong-chay-lien-tuc-...a-ta-kien/


Có câu truyện thiền kể rằng có một vị pháp sư thuộc nhiều kinh điển và giảng kinh thuyết pháp rất nổi tiếng. Khi gặp một bà lão bán nước, bà lão hỏi ngài pháp sư rằng: “Tâm quá khứ đã qua, tâm tương lai chưa đến, tâm hiện tại thì luôn liên tục trôi chảy. Ngài lấy tâm gì để thuyết giảng?!” Vị pháp sư không đáp được liền bỏ đi thẳng vào trong núi để chuyên tâm hành thiền .

Nếu vị pháp sư ấy đã trải nghiệm hành thiền Tứ Niệm Xứ thì câu trả lời không còn là vấn đề nữa. Vì ngay khi bà lão hỏi xong câu hỏi thì câu hỏi ấy cũng trở thành quá khứ. Nếu vị pháp sư trả lời thì khi âm thanh truyền đến tai của bà lão thì cũng là quá khứ. Bất cứ cái gì chúng ta nắm bắt qua sáu giác quan đều trở thành quá khứ ngay khi chúng vừa nắm bắt. Nói cách khác hiện tại mà chúng ta nắm bắt nó trôi chảy liên tục như tuột khỏi tay chúng ta ngay khi vừa nắm bắt. Cũng giống như khi chúng ta dùng tay vốc nước lên rồi nắm chặt tay lại. Cho nên vị pháp sư chỉ cần trả lời bà lão rằng: Bà dùng tâm gì để nói thì tôi cũng dùng tâm ấy để thuyết giảng. Đây cũng là điều đã được dạy trong thiền Tứ Niệm Xứ, phần quán nội tâm và ngoại tâm: Tâm của hành giả quán như thế nào thì tâm của người khác cũng cùng cách quán như thế.

Ngay khi bạn vừa đọc những dòng chữ này thì những dòng chữ này đã trở thành quá khứ trong cái nhìn của bạn. Tâm đọc những câu chữ tiếp theo là một tâm khác sinh lên thay thế cho tâm vừa đọc, trong dòng chảy sinh diệt bất tận của tâm và cảnh và cứ tiếp nối như vậy mãi trong đời sống chúng ta.

Điều gì xảy ra trong tâm bạn khi bạn chứng kiến mình không thể nắm giữ được bất cứ cái gì qua sáu giác quan?! Bởi bạn đã thấy rằng chúng biến mất ngay khi chúng vừa có mặt. Bạn sẽ cảm thấy bất lực khi nắm giữ bất cứ cái gì và thấy rõ có lực của sự áp chế nào đó trong dòng chảy sinh diệt liên tục này. Áp chế bởi sinh diệt liên tục gọi là Khổ (dukkha). Bất cứ cái gì hiện hữu dưới dạnh thân tâm (sắc và danh) đều bị áp chế diệt ngay khi chúng vừa hiện hữu nên chúng là Khổ đế. Sự bất lực khi không thể thoát khỏi lực áp chế này thể hiện sự vô ngã của mọi hiện hữu. Nghĩa là nếu bạn có ngã, có cái tôi và của tôi, thì không có cái tôi nào muốn bị diệt ngay khi nó vừa sinh lên. Đây là sự phủ định cái tôi hiện hữu bằng sự thực chứng, hành giả thấy được sự sinh diệt liên lục của danh sắc, nhất là khi sự diệt rõ hơn cả sự sinh. Nghĩa là không cái gì là chính nó khi nó vừa được sinh ra. Cái tôi ảo tưởng bị huỷ diệt trong khi hành thiền minh sát. Chúng ta không còn là chúng ta khi vừa có mặt. Bởi sự thật chúng ta là vô ngã, cái tôi, chúng tôi là một ảo tưởng do sự vô minh bởi không thấy dòng chảy sinh diệt của vật chất và tâm, của danh và sắc, hay không thấy Khổ đế như lời Đức Phật định nghĩa về vô minh.

Để phá tan sự vô minh, Đức Phật để tuyên bố con đường duy nhất là Tứ Niệm Xứ. Nghĩa là trong Tứ Niệm Xứ, hành giả sẽ thấy được dòng chảy sinh diệt liên tục của thân tâm. Thấy được sự mất ngay khi vừa có trong từng hơi thở, bước chân, co tay, quay đầu, nhai nuốt…. hay bất cứ cái gì trong bốn xứ là thân, thọ, tâm, pháp. Hành giả thấy được sự áp chế buộc phải diệt đi của mọi tư thế, mọi cảm thọ, mọi ý muốn, mọi cảnh được thấy qua sáu giác quan trong sự vô thường (sinh diệt liên tục). Hành giả thấy không gì có thể nắm giữ được trên cái thân và tâm gọi là thân tôi, tâm tôi này. Chẳng có gì để hành giả có thể nương tựa, nắm giữ trong cái dòng chảy sinh diệt nhanh đến mức sự nối tiếp của thân và tâm như bị cô đặc, như đang đứng yên.

[Image: dong-chay.jpg]

Dòng Chảy Liên Tục Hiện Tại

Do không thực chứng sự sinh diệt vô cùng nhanh chóng gần như đứng yên của tâm, mà ý niệm tánh thấy, tánh biết của tâm là bất sinh bất diệt được tạo ra trong pháp môn “tự tánh”, “chân tâm” trong sáng, thanh tịnh, thường hằng, thường trú. Một tà kiến mới khởi sanh lên bởi ý niệm này tạo ra. Một cái ngã có tên gọi là “tánh thấy”, “tánh biết” được tạo ra để tu tập trên ý niệm về sự bất sinh bất diệt, nên không thể có Chánh kiến bằng sự tu tập trên ý niệm tà kiến này.

“Sự kiện này không xảy ra, này các Tỷ-kheo, không có được: Một người thành tựu chánh kiến có thể chấp nhận các hành là thường còn, sự kiện này không xảy ra. Và sự kiện này có xảy ra, này các Tỷ-kheo, kẻ phàm phu có thể chấp nhận các hành là thường còn, sự kiện này có xảy ra.” (Kinh Chấp Nhận Các Hành Là Thường Còn, HT T.M.Châu dịch)

Như Đức Phật đã dạy trong câu nói trên: Một khi đã thực chứng nghĩa là có Chánh Kiến về sự sinh diệt của thân tâm thì 
tà kiến về thường hằng thường trú của các hành (thân hành và tâm hành) sẽ không thể có nữa. Chỉ có phàm phu chưa có Chánh kiến mới chấp nhận các hành (thân hành và tâm hành) là thường còn. Bất cứ cái gì bên trong và bên ngoài thân tâm này đều đang vận hành theo quy luật sinh diệt liên tục của vô thường. Chúng ta không thể tìm thấy bất cứ cái gì bên trong và bên ngoài thân tâm chúng ta mà không bị biến đổi, vô thường.

Tà kiến về thường còn của vật chất và tâm bị diệt ngay khi chúng ta thực chứng sự sinh diệt liên tục của thân tâm. Tà kiến về đoạn diệt (diệt rồi không sinh lên nữa) của vật chất và tâm cũng diệt theo vì không có cái gì bị diệt trên thân tâm mà không sinh lên ngay sau sự diệt đó để nối tiếp dòng chảy liên tục của sự sinh diệt.

Đồng thời mọi tham muốn và ghét bỏ trở nên vô nghĩa trong tâm hành giả. Ảo tưởng về cái tôi, ta cũng biến mất theo trong khoảnh khắc đó. Chúng ta sẽ không thể thực chứng được dòng chảy liên tục sinh diệt trong hiện tại này ở bất cứ đâu ngoài thân tâm, ngoài các đề mục trong Tứ Niệm Xứ. Nghĩa là chúng ta không thể phá vỡ vô minh, không thể phá vỡ tà kiến về thường còn và đoạn diệt, không thể phá vỡ ảo tưởng “tôi, ta” để thực chứng vô ngã, một khi không thực hành thiền Tứ Niệm Xứ. Khi thực chứng vô ngã, theo thời gian, mọi gánh nặng của nghiệp sẽ được đặt xuống từng phần và toàn phần. Nghĩa là khi nhân quả và nghiệp xảy ra nhưng vị hành giả ấy sẽ không còn thấy đó là gánh nặng nữa như Đức Phật đã dạy: “Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vật gì ở trên đời.” (Kinh Đại Niệm Xứ)

(Thấy Biết, tuniemxu.org)
Reply
Con đem hết lòng thành kính

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

[Image: thanh-kinh.jpg]

https://tuniemxu.org/con-dem-het-long-thanh-kinh/

1-Hỏi: Tại sao tôi học thiền Tứ Niệm Xứ nhiều năm mà không thấy bớt phiền não?

Đáp: Bạn cần tính số thời gian mình chánh niệm thì sẽ đúng hơn là thời gian học Tứ Niệm Xứ. Vì Tứ Niệm Xứ chính là thực hành chánh niệm trên thân, thọ, tâm, pháp. Không có chánh niệm thì không có Tứ Niệm Xứ dù bạn học Tứ Niệm Xứ đến 100 năm.

2-Hỏi: Tôi cần thái độ gì khi thực hành chánh niệm?

Đáp: Bạn cần HẾT LÒNG thực hành chánh niệm với sự TRÂN TRỌNG đề mục và quan sát của chính mình. Đây chính là cách thực hành sự “nhiệt tâm” được dạy ngay từ đầu bài kinh Đại Niệm Xứ. “Này các Tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo sống quán thân trên thân, sống quán thọ trên các thọ, sống quán tâm trên tâm, sống quán pháp trên các pháp, NHIỆT TÂM, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời.”

HẾT LÒNG là cách thể hiện sự nhiệt tâm, tinh tấn vượt qua mọi trở ngại để có thể thực hành chánh niệm.

TRÂN TRỌNG là cung kính và tri ân pháp hành. Pháp hành bao gồm liên hệ với 7 yếu tố liên quan là: trú xứ, vị thầy, bạn đạo, pháp môn, thời tiết, thức ăn, đề mục thích hợp. Bạn cần trân trọng và tri ân đẩy đủ cả 7 yếu tố này. Nếu chỉ 1 yếu tố như thức ăn làm bạn khó chịu dễ duôi, nếu không kịp quan sát tâm mình thì phiền não sẽ che lấp chánh niệm của bạn ngay lúc đó.

3-Hỏi: Xin giải thích rõ hơn về sự hết lòng và trân trọng pháp hành Tứ Niệm Xứ?

Đáp: Gặp được pháp hành Tứ Niệm Xứ chính là chúng ta đã gặp được kho báu khó gặp ở đời hội đủ 7 yếu tố hành thiền tốt đẹp để đưa tới sự giải thoát khỏi khổ đau trong luân hồi sinh tử của vô số kiếp. Đức Phật còn gọi việc thực hành Tứ Niệm Xứ là thực hành Thánh đạo. Nếu chưa giác ngộ thì sẽ là nhân lành giúp chúng ta tích lũy Minh và Hạnh cùng các Ba la mật để thực hành trong các kiếp vị lai. Vì thế khi gặp được pháp hành Tứ Niệm Xứ, nếu không hiểu đúng giá trị của Tứ Niệm Xứ thì sẽ không có thái độ hết lòng cũng như trân trọng. Như vậy, dù gặp được pháp hành Tứ Niệm Xứ thì cũng như “muôi với vị canh”. Tức là đạo lộ Tứ Niệm Xứ sẽ bị che khuất nơi hành giả. Còn nếu hết lòng và trân trọng pháp hành thì như “lưỡi với vị canh”. Chúng ta nên nhớ rằng tất cả các đề mục trong Tứ Niệm Xứ gồm thân, thọ, tâm, pháp được hiện lộ qua 7 yêu tố hành thiền là trú xứ, vị thầy, bạn đạo, pháp môn, thời tiết, thức ăn, đề mục. Đừng nghĩ rằng chỉ đề mục hơi thở hay oai nghi…mới là đề mục trong Tứ Niệm Xứ. Tất cả các loại tâm mà chúng ta phản ứng với 7 yếu tố hành thiền cũng là đề mục Tứ Niệm Xứ.

Sự TRÂN TRỌNG sẽ là thiện pháp làm duyên cho các tâm sở tịnh hảo đồng sinh lên dễ dàng, trong đó có tâm sở chánh niệm và tỉnh giác (trí tuệ).

Sự HẾT LÒNG sẽ trở thành bố thí ba la mật để hành giả có thể sớm thành tựu pháp hành như ý nguyện. Ngược lại nếu chúng ta có thân, khẩu, ý bất thiện như chê trách, nói xấu vị thầy, bạn đạo, thức ăn, trú xứ…thì các tâm sở bất thiện sẽ sinh lên cản trở không cho tâm sở chánh niệm sinh lên. Khi đó, cho dù bạn đang trong khóa thiền nhưng vẫn không có khả năng có tâm chánh niệm sinh lên.

Ngay khi vào đầu mỗi thời thiền, các hành giả luôn đọc tụng 3 lần câu: “Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa”. Nghĩa là: “Con đem HẾT LÒNG THÀNH KÍNH làm lễ đức Bhagava đó, Ngài là bậc Araham cao thượng, được chứng quả chánh biến tri do ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy”. Bốn chữ HẾT LÒNG THÀNH KÍNH luôn được nhắc lại 3 lần như vậy trước khi hành thiền để tâm kiên cố hơn và làm duyên cho các tâm sở thiện trong đó có chánh niệm, tỉnh giác sinh lên.

Đức Phật dạy rằng thấy pháp là thấy Đức Phật. “Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đang thấy Pháp, là thấy Ta. Ðang thấy Ta, là thấy Pháp.” (Kinh Tương Ưng). Nghĩa là nếu chúng ta hết lòng thành kính thực hành Pháp cũng chính là hết lòng thành kính với Đức Phật. Ngài cũng dạy rằng Tứ Niệm Xứ còn thì Chánh pháp còn. Tứ Niệm Xứ mất thì Chánh pháp mất. Ngày nào chúng ta không HẾT LÒNG THÀNH KÍNH thực hành chánh niệm hay Tứ Niệm Xứ thì Chánh pháp đang mất ngay ở trong tâm của chúng ta ngày đó, và ngày đó phiền não cũng tràn ngập trong tâm chúng ta.

“Do bốn niệm xứ không được tu tập, không được làm cho sung mãn, này Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không có tồn tại lâu dài. Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.

Với những ai, này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ này được thực hành, đối với những người ấy, cũng được thực hành là Thánh đạo đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau.

Với những ai, này các Tỷ-kheo, bốn niệm xứ bị thối thất, đối với những người ấy, cũng bị thối thất là Thánh đạo đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau.” (Kinh Tương Ưng)

“Này các Licchavì, sự hiện hữu của năm châu báu khó tìm được ở đời. Và thế nào là năm?
1-Sự hiện hữu của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác khó tìm được ở đời.
2-Hạng người có thể thuyết giảng Pháp và Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời.
3-Người hiểu được lời thuyết giảng về Pháp là Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời.
4-Người đem thực hành các pháp và tùy pháp được hiểu từ lời thuyết giảng về Pháp và Luật do Như Lai tuyên bố khó tìm được ở đời.
5-Người biết ơn, và nhớ ơn khó tìm được ở đời.
Sự hiện hữu của năm châu báu này, này các Licchavì, khó tìm được ở đời. (Kinh Tăng Chi)


Kinh Pháp Cú dạy rằng: Ra đời gặp Đức Phật là khó. Gặp Chánh pháp là khó. Phước lành thay! Hy hữu thay! Vi diệu thay! Khi chúng ta được gặp Chánh pháp Tứ Niệm Xứ cũng như là được gặp Đức Phật. Đó là lý do chúng ta cần HẾT LÒNG THÀNH KÍNH thực hành Tứ Niệm Xứ trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

(Thấy Biết)
Reply
Dukkha là tất cả những gì vô thường


Reply
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
14. Kinh Ðại bổn 
(Mahàpadàna sutta) (1-3)


Tụng phẩm I

1. Như vậy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở tại nước Sàvatthi (Xá-vệ) rừng Jeta (Kỳ-đà), vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc), trong am thất cây Kareri (Hoa Lâm). Lúc bấy giờ, số đông các Tỷ-kheo đi khất thực về, sau khi dùng bữa xong, cùng ngồi và tụ họp lại Hoa Lâm viên đường, pháp thoại thuộc về tiền thân được khởi lên: "Ðây là tiền thân, đây là tiền thân".

2. Thế Tôn, với thiên nhĩ thanh tịnh vượt quá loài người nghe được câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo. Rồi Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Hoa Lâm viên đường. Khi đến xong, Ngài ngồi trên ghế đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn hỏi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, câu chuyện gì, các người đang ngồi bàn? Câu chuyện gì đã bị gián đoạn giữa các người?

Khi được nói vậy, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, chúng con đi khất thực về, sau khi dùng bữa xong, cùng ngồi và tụ họp tại Hoa Lâm viên đường, pháp thoại về tiền thân được khởi lên: "Ðây là tiền thân, đây là tiền thân". Bạch Thế Tôn, đó là câu chuyện đang được bàn đến giữa chúng con thời Thế Tôn đến.

3. - Này các Tỷ-kheo, các người có muốn nghe pháp thuộc thoại về tiền thân không?
- Bạch Thế Tôn, thật là đúng thời; bạch Thiện Thệ, thật là đúng thời để Thế Tôn giảng pháp thoại thuộc về tiền thân. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
- Vậy này các Tỷ-kheo, các người hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
- Dạ vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo này đáp lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

4. - 
  1. Này các Tỷ-kheo, chín mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn Vipassì (Tỳ-bà-thi), bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. 
  2. Này các Tỷ-kheo, ba mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn Sikhì (Thi-khí) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. 
  3. Này các Tỷ-kheo, cũng trong ba mươi mốt kiếp ấy, Thế Tôn Vessabhù (Tỳ-xá-bà) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. 
  4. Này các Tỷ-kheo cũng trong tiền kiếp ấy, Thế Tôn Kakusandha (Câu-lâu-tôn) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. 
  5. Này các Tỷ-kheo, cũng trong tiền kiếp ấy, Thế Tôn Konàgamana (Câu-na-hàm) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. 
  6. Này các Tỷ-kheo, cũng trong tiền kiếp ấy, Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp) bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. 
  7. Này các Tỷ-kheo, cũng trong tiền kiếp ấy, nay Ta, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
5. 
  1. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipasì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sanh thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ. 
  2. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ. 
  3. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ. 
  4. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cấp Bà-la-môn. 
  5. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cấp Bà-la-môn. 
  6. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh trong giai cấp Bà-la-môn. 
  7. Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ.
6. 
  1. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipasì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna (Câu-ly-nhã). 
  2. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna. 
  3. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna. 
  4. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa. 
  5. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamara, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa. 
  6. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa. 
  7. Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuộc danh tánh Gotama (Cù-đàm).
7. 
  1. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là tám vạn năm. 
  2. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là bảy vạn năm. 
  3. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là sáu vạn năm. 
  4. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là bốn vạn năm. 
  5. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ loài người là ba vạn năm. 
  6. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ của loài người là hai vạn năm. 
  7. Này các Tỷ-kheo, nay tuổi thọ của Ta không bao nhiêu, ít oi, tuổi thọ loài người khoảng một trăm năm hay hơn một chút.
8. 
  1. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây pàtali (bà-bà-la). 
  2. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây pundarika (phân-đà-ly). 
  3. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây sirĩsa (thi-lợi-sa). 
  4. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây udumbara (ô-tam-bà-la). 
  5. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây nigrodha (ni-câu-luật-đà). 
  6. Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giác ngộ dưới gốc cây assattha (bát-đa-la).
9. 
  1. Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhứt đệ tử của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Khanda (Kiển-trà) và Tissa (Ðề-xá). 
  2. Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhứt đệ tử của Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Abhibhù (A-tỳ-phù) và Sambhava (Tam-bà-bà). 
  3. Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Vessabhu, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Sona (Phù-du) và Uttara (Uất-đa-la). 
  4. Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Vidhùra (Tỳ-lâu) và Sanjìva (Tát-ni). 
  5. Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Bhiyyosa (Thư-bàn-na) và Uttara (Uất-đa-la). 
  6. Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Tissa (Ðề-xá) và Bhàradvàja (Bà-la-bà). 
  7. Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Ta là Sãriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallàna (Mục-kiền-liên).
10. 
  1. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội sáu mươi tám triệu Tỷ-kheo, một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo.
  2. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
  3. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội bảy vạn Tỷ-kheo.
  4. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
  5. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội bảy vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội sáu vạn Tỷ-kheo.
  6. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
  7. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội bốn vạn Tỷ-kheo.
  8. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
  9. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội ba vạn Tỷ-kheo.
  10. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc Lậu tận.
  11. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội hai vạn Tỷ-kheo.
  12. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có một Tăng hội như vậy, tất cả đều là bậc A-la-hán. 
  13. Này các Tỷ kheo, nay trong thời của Ta có một Tăng hội một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, tất cả đều là bậc Lậu tận.
11. 
  1. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Asoka (A-dục), vị này là vị thị giả đệ nhất. 
  2. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Khemankara (Nhẫn Hành), vị này là vị thị giả đệ nhất. 
  3. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhũ, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Upasannaka (Tịch Diệt) vị này là vị thị giả đệ nhất. 
  4. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Vuddhija (Thiện Giác), vị này là thị giả đệ nhất. 
  5. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Sotthija (An Hòa), vị này là vị thị giả đệ nhất. 
  6. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Sabbamitta (Thiện Hữu), vị này là vị thị giả đệ nhất. 
  7. Này các Tỷ-kheo, nay Ta có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Ananda (A-nan), vị này là vị thị giả đệ nhất.
12.
  1.  Này các Tỷ-kheo, phụ vương của Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Bandhumà (Bàn-đầu); mẫu hậu tên là Bandhumati (Bàn-đầu-bà-đề). Kinh thành của vua Bandhumà tên là Bandhumatì. 
  2. Này các Tỷ-kheo, phụ vương Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Aruna (Minh Tướng); mẫu hậu tên là Pabhãvatĩ (Quang Huy); kinh thành của vua Aruna tên là Pabhàvatì.
  3. Này các Tỷ-kheo, phụ vương Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Suppatìta (Thiện Ðăng), mẫu hậu tên là Yasavati (Xứng Giới); Kinh thành của vua Suppatita tên là Anopama (Vô Dụ).
  4. Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Aggidatta (Tự Ðắc); mẫu thân Bà-la-môn tên là Visàkhà (Thiện Chi). Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ vua trị vì tên là Khema (An Hòa); kinh thành vua Khema tên là Khemavatì (An Hòa).
  5. Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Yannadatta (Ðạt Ðức) mẫu thân Bà-la-môn tên là Uttarà (Thiện Thắng; Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ, vua trị vì tên là Sobha (Thanh Tịnh); kinh thành của vua Sobha tên là Sobhavatì (Thanh Tịnh).
  6. Này các Tỷ-kheo, phụ thân Bà-la-môn của Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Brahmadatta (Phạm Thi) mẫu thân Bà-la-môn tên là Dhanavatì (Tài Chủ). Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ vua trị vì tên là Kikì (Hấp Tỳ); kinh thành vua Kikì là Baranasì (Ba-la-nại).
  7. Này các Tỷ-kheo, nay phụ vương của Ta tên là Suddhodana (Tịnh Phạn); mẫu hậu của Ta tên là Màyà (Ma-da); kinh thành tên là Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Giảng xong Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh xá.

13. 
Thế Tôn đi ra chẳng bao lâu cuộc đàm thoại sau đây khởi lên giữa những Tỷ-kheo ấy:

- Này các Hiền giả, thật hy hữu thay! Này các liền giả, thật kỳ diệu thay, đại thần lực, đại oai lực của Như Lai! 

Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. 
Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: 

"Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy". 

Này các Hiền giả, quý vị nghĩ như thế nào? Có phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy, và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết Bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau:

"Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy? Hay là chư Thiên mách bảo Như Lai và nhờ sự mách bảo này, Như Lai nhớ được các đức Phật quá khứ, các vị này đã nhập Niết bàn đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát như thế này?"

Như vậy là cuộc đàm thoại đang khởi lên giữa những Tỷ-kheo ấy.

14. Bấy giờ Thế Tôn, vào buổi chiều tối, sau khi xuất định, liền đến Hoa Lâm viên đường, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi xong, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nay các Ngươi ngồi luận bàn vấn đề gì? Ðề tài gì đã được luận bàn giữa các Ngươi?

Khi được hỏi vậy, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đi ra chẳng bao lâu, cuộc đàm thoại sau đây đã khởi lên giữa chúng con: "Này các Hiền giả, thật hy hữu thay! Này các hiền giả thật kỳ diệu thay đại thần lực, đại oai lực của Như Lai! Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết Bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy". Này các Hiền giả, quý vị nghĩ như thế nào? Có phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy, và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy?" Hay là chư Thiên mách bảo Như Lai và nhờ sự mách bảo này, Như Lai nhớ được các đức Phật quá khứ, các vị này đã nhập Niết bàn đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát như thế này?" Bạch Thế Tôn, như vậy là vấn đề bàn luận giữa chúng con, khi Thế Tôn đến.

15. 

- Này các Tỷ-kheo, như vậy là pháp giới ấy được khéo chứng đạt bởi Như Lai, và nhờ chúng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ được chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết Bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh của những vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy". Này các Hiền giả, quý vị nghĩ như thế nào? Có phải Như Lai khéo chứng đạt pháp giới như vậy, và nhờ chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết bàn, đã đoạn các chướng ngại, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này, cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn ấy, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy".
Này các Tỷ-kheo, vậy hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, Thế Tôn giảng như sau:

16. - 
  1. Này các Tỷ-kheo, cách đây chín mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc chủng tánh Sát-đế-ly, sanh trong giai cấp Sát-đế-ly. 
  2. Này các Tỷ kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tuổi thọ đến tám vạn năm. 
  3. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Patali (Ba-ba-la). Này các Tỷ-kheo, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Khanda (Kiển-trà) và Tissa (Ðề-xá). 
  4. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội sáu mươi tám vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo. 
  5. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Asoka (A-dục), vị này là vị thị giả đệ nhất. 
  6. Này các Tỷ-kheo, Phụ Vương Thế Tôn Tỳ-bà-thi, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Bandhumà (Bàn-đầu), mẫu hậu tên là Bandhumatì (Bàn-đầu-bà-đề), kinh thành của Bandhumà tên là Bandhumatì.
17. 
Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy, Bồ-tát Vipassì, sau khi từ giã cảnh giới Ðâu-suất thiên, chánh niệm tỉnh giác nhập vào mẫu thai. 

Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi Bồ-tát Vipassì từ giã cảnh giới Ðâu-suất thiên, chánh niệm tỉnh giác nhập vào mẫu thai, khi ấy một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có các thế giới ở trên chư Thiên, thế giới của các Ma vương và Phạm thiên và thế giới ở dưới gồm các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các vị hoàng tử và dân chúng. Cho đến các cảnh giới ở giữa các thế giới, không có nền tảng, tối tăm, u ám, những cảnh giới mà mặt trăng mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu, trong những cảnh giới ấy một hào quang vô lượng, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh sống tại những chỗ ấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây". Và mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và hào quang vô lượng, thần diệu ấy, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế giới. Pháp nhĩ là như vậy.
Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ -tát nhập mẫu thai, bốn vị Thiên tử đứng canh gác bốn phương trời và nói: "Không cho một ai, người hay không phải loài người, được hãm hại vị Bồ-tát. Pháp nhĩ là như vậy".

18. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát giữ giới một cách hồn nhiên, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không uống các thứ rượu men, rượu nấu. Pháp nhĩ là như vậy.

19. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không khởi dục tâm đối với một nam nhân nào, và không vị phạm tiết hạnh với bất kỳ người đàn ông nào dầu người này có tâm ái nhiễm đối với bà. Pháp nhĩ là gì vậy.

20. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát có được năm món dục lạc đầy đủ, tận hưởng, trọn hưởng năm món dục lạc ấy. Pháp nhĩ là như vậy.

21. 
Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không bị một bệnh tật gì. Bà sống với tâm hoan hỷ, với thân khoan khoái. Bà thấy trong bào thai của mình vị Bồ-tát đầy đủ mọi bộ phận và chân tay.

Này các Tỷ-kheo, ví như viên ngọc lưu ly, thanh tịnh, thuần nhất, có tám cạnh, khéo cắt, khéo giũa, trong sáng, không tỳ vết, hoàn hảo trong mọi phương diện. Rồi một sợi dây được xâu qua viên ngọc ấy, dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lợt. Nếu có người có mắt để viên ngọc trên bàn tay của mình, người ấy sẽ thấy rõ ràng: "Ðây là viên ngọc lưu ly, thanh tịnh thuần nhất, có tám cạnh, khéo cắt khéo giũa, trong sáng, không tỳ vết, hoàn hảo trong mọi phương diện. Ðây là sợi dây xâu qua, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng lạt". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi vị Bồ-tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ-tát không một bệnh tật gì. Bà sống với tâm hoan hỷ, với thân khoan khoái. Bà thấy trong bào thai của mình vị Bồ-tát đầy đủ mọi bộ phận và chân tay. Pháp nhĩ là như vậy.

22. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Sau khi sanh vị Bồ-tát bảy ngày, mẹ vị Bồ-tát mệnh chung và sanh lên cảnh trời Ðâu suất. Pháp nhĩ là như vậy.

23. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Trong khi các người đàn bà khác mang bầu thai trong bụng chín tháng hay mười tháng rồi mới sanh, mẹ vị Bồ-tát sanh vị Bồ-tát không phải như vậy. Mẹ vị Bồ-tát mang vị Bồ-tát trong bụng mười tháng trời mới sanh. Pháp nhĩ là như vậy.

24. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Trong khi các người đàn bà khác, hoặc ngồi, hoặc nằm mà sanh con, mẹ vị Bồ-tát sanh vị Bồ-tát không phải như vậy. Mẹ vị Bồ-tát đứng mà sanh vị Bồ-tát. Pháp nhĩ là như vậy

25. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, chư Thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp nhĩ là như vậy.

26. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, vị Bồ-tát không đụng đến đất. Có bốn Thiên tử đỡ lấy Ngài, đặt Ngài trước bà mẹ và thưa: "Hoàng hậu hãy hoan hỷ. Hoàng hậu sanh một bậc vĩ nhân". Pháp nhĩ là như vậy.

27. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt nào, không bị nhiễm ô bởi loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi loại máu nào, không bị nhiễm ô bởi bất cứ vật bất tịnh nào, thanh thịnh, trong sạch. Pháp nhĩ là như vậy.

Này các Tỷ-kheo, như viên ngọc ma-ni bảo châu đặt trên một tấm vải Ba-la-nại. Hòn ngọc không làm nhiễm ô tấm vải Ba-la-nại, tấm vải Ba-la-nại cũng không làm nhiễm ô hòn ngọc. Vì sao vậy? Vì cả hai đều thanh tịnh. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, Ngài sanh ra thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi nước nhớt nào, không bị nhiễm ô bởi loại mủ nào, không bị nhiễm ô bởi loại máu nào, không bị nhiễm ô bởi bất cứ sự vật bất tịnh nào, thanh tịnh, trong sạch. Pháp nhĩ là như vậy.

28. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, hai dòng nước từ hư không hiện ra, một dòng lạnh, một dòng nóng. Hai dòng nước ấy tắm rửa sạch sẽ cho vị Bồ-tát và cho bà mẹ. Pháp nhĩ là như vậy.

29. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Vị Bồ-tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: "Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa". Pháp nhĩ là như vậy.

30. Này các Tỷ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, khi ấy một hào quang vô lượng thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm có các thế giới trên chư Thiên, thế giới của các Ma vương và Phạm thiên, và thế giới ở dưới gồm các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các vị hoàng tử và dân chúng. Cho đến các cảnh giới ở giữa các thế giới, không có nền tảng, tối tăm, u ám, những cảnh giới mà mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu, trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh sống tại những chỗ ấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau mà nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây". Và mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và hào quang vô lượng thần diệu ấy thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra ở thế giới. Pháp nhĩ là như vậy.

31. Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassì sinh ra, vua Bandhumà được báo tin: "Ðại vương đã được sinh một hoàng tử". Này các Tỷ-kheo, khi thấy hoàng tử xong, vua Bandhumà liền cho mời các vị Bà-la-môn đoán tướng và nói: "Này các Hiền giả, hãy xem tướng cho Hoàng tử". Này các Tỷ-kheo, khi xem tướng Hoàng tử Vipassì xong, các vị Bà-la-môn đoán tướng tâu với vua Bandhumà: "Ðại vương hãy hân hoan; Ðại vương đã sinh một bậc vĩ nhân! May mắn thay cho Ðại vương, đại hạnh thay cho Ðại vương đã được một Hoàng tử như vậy sanh trong gia đình. Tâu Ðại vương, Hoàng tử này có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc Ðại nhân. Ai có đủ ba mươi hai tướng tốt này sẽ chọn hai con đường này thôi, không có con đường nào khác. Nếu sống tại gia đình, vị này sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương, dùng chánh pháp trị nước, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, gia chủ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, lực sĩ, chinh phục quân thù. Vị này chinh phục cõi đất này cho đến hải biên và trị nước với chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao. Nếu vị này từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình, vị này sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời".

(còn tiếp)
Reply
(tt) Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
14. Kinh Ðại bổn
(Mahàpadàna sutta) (2-3)



32. "Ðại vương, ba mươi hai tướng tốt của bậc Ðại nhân là gì mà Hoàng tử nếu đầy đủ những tướng tốt này sẽ chọn đi hai con đường, không có con đường nào khác. Nếu sống tại gia đình, vị này sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương dùng chánh pháp trị nước, bình định bốn phương, đem lại an toàn cho quốc lộ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành vật sở hữu của vị này, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, lực sĩ, chinh phục quân thù. Vị này chinh phục cõi đất này cho đến hải biên và trị nước với chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao. Nếu vị này từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình, vị này sẽ thành bậc A-la-hán. Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời.

"Ðại vương, Hoàng tử này có lòng bàn chân bằng phẳng, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân.
"Ðại vương, dưới hai bàn chân của Hoàng tử này, có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe, vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ, tướng này được xem là tướng của bậc Ðại nhân.
"Ðại vương, Hoàng tử này có gót chân thon dài... (như trước)
"Ðại vương, Hoàng tử này có ngón tay, ngón chân dài...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân mềm mại...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân có màn da lưới...
"Ðại vương, Hoàng tử này có mắt cá tròn như con sò...
"Ðại vương, Hoàng tử này có ống chân như con dê rừng...
"Ðại vương, Hoàng tử này đứng thẳng, không co lưng xuống có thể rờ từ đầu gối với hai bàn tay...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tướng mã âm tàng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có màu da như đồng, màu sắc như vàng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có da trơn mướt khiến bụi không thể bám dính vào...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông da mọc từ lông một, mỗi lỗ chân lông có một lông...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông mọc xoáy tròn thẳng lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt...
"Ðại vương, Hoàng tử này có thân hình cao thẳng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có bảy chỗ tròn đầy...
"Ðại vương, Hoàng tử này có nửa thân trước như con sư tử...
"Ðại vương, Hoàng tử này không có lõm khuyết giữa hai vai...
"Ðại vương, Hoàng tử này có thân thể cân đối như cây bàng (nigrodha: ni-câu-luật). Bề cao của thân ngang bằng bề dài của hai tay sải rộng, bề dài của hai tay sải rộng ngang bằng bề cao của thân...
"Ðại vương, Hoàng tử này có bán thân trên vuông tròn...
"Ðại vương, Hoàng tử này có vị giác hết sức sắc bén...
"Ðại vương, Hoàng tử này có quai hàm như con sư tử..
"Ðại vương, Hoàng tử này có bốn mươi răng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng đều đặn...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng không khuyết hở...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng cửa (thái xỉ) trơn láng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tướng lưỡi rộng dài...
"Ðại vương, Hoàng tử này có giọng nói tuyệt diệu như tiếng chim ca-lăng-tần-già (Karavika)...
"Ðại vương, Hoàng tử này có hai mắt màu xanh đậm...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông mi con bò cái...
"Ðại vương, Hoàng tử này giữa hai lông mày, có sợi lông trắng mọc lên, mịn màng như bông nhẹ...
"Ðại vương, Hoàng tử này có nhục kế trên đầu, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân...

33. "Ðại vương, Hoàng tử có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc Ðại nhân, với ba mươi hai tướng tốt này, Hoàng tử sẽ chọn đi hai con đường, không có con đường nào khác. Nếu sống tại gia đình, Hoàng tử sẽ trở thành vua Chuyển luân Thánh vương, đem lại an toàn cho quốc độ, đầy đủ bảy món báu. Bảy món báu trở thành sở hữu của Ngài, tức là xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu, và thứ bảy là tướng quân báu. Vị này có đến hơn một ngàn thái tử, những bậc anh hùng, lực sĩ, chinh phục quân thù. Vị này chinh phục quả đất này cho đến hải biên và trị nước với chánh pháp, không dùng trượng, không dùng đao. Nếu Hoàng tử từ bỏ gia đình, xuất gia sống không gia đình, Hoàng tử sẽ thành bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vén lui màn vô minh che đời".

Này các Tỷ-kheo, Vua Bandhumà ra lệnh cúng dường các vị Bà-la-môn đoán tướng ấy, các áo vải mới và làm thỏa mãn mọi sự đòi hỏi ước muốn.

34. Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà ra lệnh cúng dường vị các vị Bà-la-môn đoán tướng ấy, các áo vải mới và làm thỏa mãn mọi sự đòi hỏi ước muốn.

34. Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà cho nuôi những người vú cho hoàng tử Vipassì. Người cho bú, người tắm, người lo bồng ẵm, người mang trên nách. Này các Tỷ-kheo, một lọng trắng ngày đêm được che trên hoàng tử Vipassì, và lệnh được truyền ra: "Không được để lạnh hay nóng, cỏ, bụi, hay sương làm phiền hoàng tử". Hoàng tử Vipassì được mọi người âu yếm. Này các Tỷ-kheo, cũng như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hay hoa sen trắng được mọi người yêu thích. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì được mọi người âu yếm, gần như được ẵm từ nách này qua nách người khác.

35. Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassì được sinh ra, hoàng tử phát âm rất là tuyệt diệu, âm vận điều hòa, dịu ngọt và hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, giống như con chim ca-lăng-tân-già sinh trong núi Hy-mã-lạp sơn, giọng chim rất là tuyệt diệu, âm vận điều hòa, dịu ngọt và hấp dẫn. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Hoàng Tử Vipassì phát âm rất là tuyệt diệu, âm vận điều hòa, dịu ngọt và hấp dẫn.

36. Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassì sanh ra, Thiên nhãn hiện ra với Ngài, do nghiệp báo sanh, và nhờ Thiên nhãn ấy, Ngài có thể nhìn khắp chung quanh đến một do tuần, ban ngày cũng như ban đêm.

37. Này các Tỷ-kheo, khi hoàng tử Vipassì sanh ra, Ngài nhìn thẳng sự vật với cặp mắt không nhấp nháy, như hàng Thiên ở Tam thập tam thiên. Vì hoàng tử Vipassì nhìn không nhấp nháy, nên này các Tỷ-kheo, hoàng tử được gọi tên là "Vipassì" - "Vị đã nhìn thấy". Này các Tỷ-kheo, khi vua Bandhumà ngồi xử kiện, vua cho đặt hoàng tử Vipassì ngồi bên nách mình để xử kiện. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì ngồi bên nách vua cha như vậy và chú tâm quan sát phương thức xử kiện đến nỗi tự mình cũng có thể phán đoán xử kiện. Này các Tỷ-kheo, do hoàng tử Vipassì "có thể quan sát và xử kiện đúng luật pháp" và danh từ "Vipassì" càng được dùng để đặt tên cho Ngài.

38. Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà cho xây dựng ba tòa lâu đài cho hoàng tử Vipassì, một cho mùa mưa, một cho mùa đông, một cho mùa lạnh, và năm món dục lạc đều được chuẩn bị đầy đủ. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì sống bốn tháng mưa trong lâu đài dành cho mùa mưa, được hầu hạ mua vui với các nữ nhạc sĩ, và không một lần nào, Ngài bước xuống khỏi lầu.

Tụng phẩm II

1. - Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì, sau thời gian nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, cho gọi người đánh xe: "Này khanh, hãy cho thắng các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi đến vườn ngự uyển để xem phong cảnh" - "Thưa vâng, Hoàng Tử". Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassì, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch hoàng tử Vipassì: "Tâu Hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì Hoàng tử xem là hợp thời".

Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ hoàng tử Vipassì leo lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến đến vườn ngự uyển.

2. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì trên đường đi đến vườn ngự uyển, thấy một người già nua, lưng còng như nóc nhà, chống gậy, vừa đi vừa run rẩy, khổ não, không còn đâu là tuổi trẻ. Thấy vậy hoàng tử hỏi người đánh xe: "Này khanh, người đó là ai vậy? Sao thân người đó không giống các người khác?" 

- "Tâu Hoàng tử, người đó là một người được gọi là già vậy". 

- "Này khanh, sao người ấy được gọi là một người già?" 

- "Tâu Hoàng tử, người ấy gọi là già vì nay người ấy sống không bao lâu nữa". 

- "Này khanh, vậy rồi Ta có bị già không, một người chưa qua tuổi già?"

- "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tất cả sẽ bị già nua, dầu chúng ta chưa qua tuổi già!" 

- "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy là vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung". - "Thưa vâng, Hoàng tử".

Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng tử, cho đánh xe trở về cung. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ. "Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh. Và ai sanh ra cũng phải già yếu như vậy!".

3. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà cho gọi người đánh xe và hỏi: "Này khanh, Hoàng tử có vui vẻ không, tại vườn ngự uyển? Này khanh, Hoàng tử có hoan hỷ không, tại vườn ngự uyển?". 

- "Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có vui vẻ tại vườn ngự uyển. Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có hoan hỷ, tại vườn ngự uyển" 

- "Này khanh, khi đến vườn ngự uyển, Hoàng tử đã thấy gì?" 

- "Tâu đại vương, Hoàng tử trong khi đi đến vườn ngự uyển, thấy một người già nua, lưng còng như nóc nhà, chống gậy vừa đi vừa run rẩy, khổ não không còn đâu là tuổi trẻ. Thấy vậy, Hoàng tử hỏi con: "Này khanh, người đó là ai vậy? Sao tóc người đó không giống các người khác? Sao thân người đó không giống các người khác?" 

- "Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là vậy" 

- "Này khanh, sao người ấy được gọi là người già?" 

- "Tâu Hoàng tử, người ấy gọi là già, vì nay người ấy sống không bao lâu nữa". 

- "Này khanh, vậy rồi Ta có phải bị già không, một người chưa qua tuổi già?" 

- "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tất cả sẽ bị già nua, dầu chúng ta chưa qua tuổi già" 

- "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung". 

- "Thưa vâng, Hoàng Tử!". Tâu Ðại vương, con vâng lời Hoàng tử Vipassì, cho đánh xe trở về cung. Tâu Ðại vương, Hoàng tử trở về cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ. "Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh. Và ai sanh ra cũng phải già yếu như vậy".

4. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà suy nghĩ: "Không thể để cho hoàng tử Vipassì từ chối không trị vì. Không thể để cho Hoàng tử Vipassì xuất gia. Không thể để cho lời của các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật".

Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà lại sắp đặt cho hoàng tử Vipassì đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để hoàng tử Vipassì có thể trị vì, để hoàng tử Vipassì khỏi phải xuất gia, để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không trúng sự thật. Và, này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì sống tận hưởng đầy đủ sung túc năm món dục lạc.

5. Này các Tỷ-kheo hoàng tử Vipassì, sau thời gian nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm cho gọi người đánh xe... (tương tự như đoạn kinh II.1).

6. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì, khi đang đi đến vườn ngự uyển, thấy một người bệnh hoạn, khổ não, nguy kịch, bò lết trong tiểu tiện, đại tiện của mình, cần có người khác nâng đỡ, cần có người khác dìu dắt.

Thấy vậy, hoàng tử hỏi người đánh xe. "Này khanh, người này đã làm gì, mà mắt của nó không giống mắt của những người khác, giọng nói của nó không giống giọng nói của những người khác?" 

- "Tâu Hoàng tử, đó là một người được gọi là một người bệnh vậy".

 - "Này khanh, sao người ấy được gọi là một người bệnh?" 

- "Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là một người bệnh vì người ấy chưa thoát khỏi căn bệnh của mình" 

- "Này khanh, vậy rồi ta có bị bệnh không, một người chưa bị bệnh?" 

- "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, tất cả chúng ta sẽ bị bệnh tật, dầu chúng ta chưa bị bệnh tật". 

- "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung". 

- "Thưa vâng, Hoàng tử".

Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng tử cho đánh xe trở về cung. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh! Và ai sanh ra, cũng phải già, cũng phải bệnh!"

7. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà cho gọi người đánh xe và hỏi: "Này khanh, Hoàng tử có vui vẻ không tại vườn ngự uyển? Hoàng tử có hoan hỷ không tại vườn ngự uyển?" 

- "Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có vui vẻ tại vườn ngự uyển. Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có hoan hỷ tại vườn ngự uyển"

- "Này khanh, khi đi đến vườn ngự uyển, Hoàng tử đã thấy gì?" 

- "Tâu Ðại vương, Hoàng tử trong khi đến vườn ngự uyển thấy một người bệnh hoạn, khổ não, nguy kịch, bò lết trong tiểu tiện, đại tiện của mình, cần có người khác nâng đỡ, cần có người khác dìu dắt. Thấy vậy, Hoàng tử hỏi con: "Này khanh, người đó đã làm gì mà mắt của nó không giống mắt của người khác, giọng nói của nó không giống giọng nói của những người khác?"
 
- "Tâu Hoàng tử, đó là một người được gọi là môt người bệnh" Vậy:

 - "Này khanh, sao người ấy được gọi là một người bệnh?" 

- "Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người bệnh, vì người ấy chưa khỏi căn bệnh của mình!"

 - "Này khanh, vậy rồi ta có bị bệnh không, môt người chưa bị bệnh?" 

- "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, tất cả chúng ta sẽ bị bệnh tật, dầu chúng ta chưa bị bệnh tật". 

- "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi! Hãy cho đánh xe trở về cung". 

- "Thưa vâng, Hoàng tử". Con vâng theo lời Hoàng tử cho đánh xe trở về cung. Tâu Ðại vương, Hoàng tử về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ nhục thay, cái gọi là sanh! Và ai sanh ra, cũng phải già, cũng phải bệnh!".

- Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà suy nghĩ: "Không thể để cho Hoàng tử Vipassì từ chối không trị vì! Không thể để cho Hoàng tử Vipassì xuất gia! Không thể để cho lời của các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật". Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhuma, lại sắp đặt cho hoàng tử Vipassì đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để hoàng tử Vipassì có thể trị vì, để hoàng tử Vipassì không thể xuất gia, để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không trúng sự thật. Và này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì sống tận hưởng, đầy đủ, sung túc năm món dục lạc.

9. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì, sau thời gian nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, cho gọi người đánh xe: "Này khanh, hãy cho thắng các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi đến vườn ngự uyển để xem phong cảnh". 

- "Thưa vâng, Hoàng tử".

Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassì, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch hoàng tử Vipassì: "Tâu hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì Hoàng tử xem là hợp thời".
Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ hoàng tử Vipassì leo lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến đến vườn ngự uyển.

10. - Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì trên đường đi đến vườn ngự uyển, thấy một số đông người, mặc sắc phục khác nhau, và đang dựng một dàn hỏa táng. Thấy vậy, hoàng tử hỏi người đánh xe: "Này khanh, vì sao đám đông người ấy mặc sắc phục khác nhau và đang dựng một dàn hỏa táng?" 

- "Tâu Hoàng tử, vì có một người vừa mới mệnh chung" 

- "Này khanh, vậy ngươi hãy đánh xe đến gần người vừa mới mệnh chung!" 

- "Thưa vâng, tâu Hoàng tử."

Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng tử, cho đánh xe đến người vừa mới mệnh chung. Này các Tỷ-kheo, khi thấy thây người chết, hoàng tử Vipassì hỏi: "Này khanh, sao người ấy được gọi là người đã chết?" 

- "Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người đã chết vì nay bà mẹ, ông cha, các người bà con ruột thịt khác không thấy người ấy nữa; và người ấy cũng không thấy bà mẹ, ông cha hay những người bà con ruột thịt khác!" 

- "Này khanh, vậy Ta chưa chết, rồi có bị chết không? Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Ta chăng, và Ta sẽ không thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay những bà con ruột thịt chăng?"

- "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tuy nay chưa chết nhưng rồi sẽ cũng bị chết. Phụ vương, Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Hoàng Tử, và Hoàng tử sẽ không thấy Phụ vương. Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác". 

- "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung". - "Thưa vâng, Hoàng tử".

Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử, cho đánh xe trở về cung. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì về trong cung, đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ nhục thay cái gọi là sanh! Và ai sanh ra cũng phải già, cũng phải bệnh, cũng phải chết như vậy!".

11. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà cho gọi người đánh xe và hỏi: "Này khanh, Hoàng tử có vui vẻ không, tại vườn ngự uyển? Hoàng tử có hoan hỷ không, tại vườn ngự uyển?"

- "Tâu Ðại vương, Hoàng tử không có vui vẻ tại vườn ngự uyển. Hoàng tử không có hoan hỷ tại vườn ngự uyển". 

- "Này khanh đi đến vườn ngự uyển, Hoàng tử đã thấy gì?" 

- "Tâu Ðại vương, Hoàng tử trong khi đang đi đến vườn ngự uyển, thấy một số đông người, mặc sắc phục khác nhau và đang dựng một dàn hỏa táng. Thấy vậy Hoàng tử hỏi con: "Này khanh, vì sao đám đông người ấy, mặc sắc phục khác nhau và đang dựng một dàn hỏa táng?" 

- "Tâu Hoàng tử, vì có một người mới mệnh chung". 

- "Này khanh, vậy ngươi hãy đánh xe lại gần người vừa mới mệnh chung".
 
- "Thưa vâng, tâu Hoàng tử". Con vâng theo lời Hoàng tử, cho đánh xe đến gần người vừa mới mệnh chung. Khi thấy thây chết, Hoàng tử hỏi con: "Này khanh, sao người ấy được gọi là người đã chết?" 

- "Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người đã chết, vì nay bà mẹ, ông cha hay những bà con ruột thịt khác không thấy người ấy nữa! Và người ấy cũng không thấy bà mẹ, ông cha hay những người bà con ruột thịt khác". 

- "Này khanh, vậy Ta chưa chết rồi có bị chết không? Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy Ta chăng? Và Ta sẽ không thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác chăng?" 

- "Tâu Hoàng tử, Hoàng tử và cả con nữa, chúng ta tuy nay chưa chết nhưng rồi cũng sẽ bị chết. Phụ vương, Mẫu hậu hay những người bà con ruột thịt khác sẽ không thấy hoàng tử, và hoàng tử sẽ không thấy Phụ vương, Mẫu hậu hay các người bà con ruột thịt khác" 

- "Này khanh, thôi nay thăm vườn ngự uyển như vậy vừa rồi. Hãy cho đánh xe trở về cung". 

- "Thưa vâng, Hoàng tử". Con vâng theo lời hoàng tử Vipassì cho đánh xe trở về cung. Hoàng tử về trong cung đau khổ, sầu muộn và suy nghĩ: "Sỉ nhục thay cái gọi là sanh! Và ai sanh ra cũng phải già, cũng phải bệnh, cũng phải chết như vậy!".


12. Này các Tỷ-kheo, khi ấy vua Bandhumà suy nghĩ: "Không thể để cho hoàng tử Vipassì từ chối không trị vì! Không thể để cho hoàng tử Vipassì xuất gia. Không thể để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng trở thành sự thật".

- Này các Tỷ-kheo, rồi vua Bandhumà lại sắp đặt cho hoàng tử Vipassì đầy đủ năm món dục lạc nhiều hơn nữa, để hoàng tử Vipassì có thể trị vì, để hoàng tử Vipassì không thể xuất gia, để cho lời các vị Bà-la-môn đoán tướng không đúng sự thật. Và này các Tỷ-kheo, Hoàng tử Vipassì sống tận hưởng, đầy đủ, sung túc năm món dục lạc.

13. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì, sau thời gian nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm cho gọi người đánh xe: "Này khanh, hãy cho thắng các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi đến vườn ngự uyển để xem phong cảnh". 

- "Thưa vâng, Hoàng tử".

Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassì, cho thắng các cỗ xe thù thắng rồi bạch hoàng tử Vipassì: "Tâu Hoàng tử, các cỗ xe thù thắng đã thắng xong. Hãy làm những gì Hoàng tử xem là hợp thời".
Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ hoàng tử Vipassì leo lên cỗ xe thù thắng và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, tiến đến vườn ngự uyển.

14. Này các Tỷ-kheo, hoàng tử Vipassì trên đường đi đến ngự uyển thấy một vị xuất gia, đầu trọc, đắp áo cà sa. Thấy vậy, hoàng tử hỏi người đánh xe: "Này khanh, người này đã làm gì, mà đầu người ấy lại khác đầu của những người khác, và áo của người ấy cũng khác áo của những người khác?" 

- "Tâu Hoàng tử, người ấy được gọi là người xuất gia!"

- "Này khanh, sao người ấy được gọi là người xuất gia?" 

- "Tâu Hoàng tử, xuất gia nghĩa là khéo tu phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với chúng sanh!" 

- "Này khanh, hãy đánh xe đến gần vị xuất gia". 

- "Thưa vâng, Hoàng tử".

Này các Tỷ-kheo, người đánh xe vâng theo lời hoàng tử Vipassì, đánh xe đến gần người xuất gia. Này các Tỷ-kheo, rồi hoàng tử Vipassì hỏi vị xuất gia: "Thưa Hiền giả, Ngài đã làm gì, mà đầu của Ngài không giống những người khác, và áo của Ngài không giống các người khác?"
 
- "Thưa Hoàng tử, tôi là một người xuất gia!" 

- "Thưa Hiền giả, thế nào gọi là người xuất gia?" 

- "Thưa Hoàng tử, tôi là người được gọi là xuất gia, vì tôi khéo tu phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với chúng sanh". 

- "Thưa Hiền giả, lành thay hạnh xuất gia của Ngài, lành thay khéo tu phạm hạnh, khéo tu tính hạnh, khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức nghiệp, khéo giữ không hại chúng sanh, khéo có lòng từ đối với chúng sanh".

15. Này các Tỷ-kheo, rồi hoàng tử Vipassì bảo người đánh xe: "Này khanh, hãy lấy xe này và cho đánh xe về cung. Còn Ta ở nơi đây, sẽ cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". 

- "Thưa vâng, Hoàng tử". 

Người đánh xe vâng lời hoàng tử Vipassì lấy xe và đánh xe về cung. Còn hoàng tử Vipassì, chính tại chỗ ấy, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

16. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ, tại kinh đô Bandhumatì có một đại chúng tám vạn bốn ngàn người nghe tin: "Hoàng tử Vipassì đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình". 

Khi nghe tin, các vị ấy suy nghĩ: "Pháp luật như vậy không phải tầm thường, xuất gia như vậy không phải tầm thường, vì hoàng tử Vipassì trong pháp luật ấy đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Nay hoàng tử Vipassì đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình tại sao chúng ta lại không?" 

Này các Tỷ-kheo, rồi đại chúng tám vạn bốn ngàn người ấy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, dưới sự lãnh đạo của Bồ-tát Vipassì. Rồi Bồ-tát Vipassì cùng với đồ chúng, du hành, đi ngang qua những làng, thị xã và đô thị.

17. Này các Tỷ-kheo, trong khi yên lặng tịnh cư, Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Sao Ta lại sống bị bao vây bởi đồ chúng này. Tốt hơn là Ta sống một mình, lánh xa đồ chúng này!"

Này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Bồ-tát Vipassì sống một mình, lánh xa đồ chúng, tám vạn bốn ngàn vị xuất gia này đi một ngả, Bồ-tát Vipassì đi một ngả.

18. Này các Tỷ-kheo, trong khi yên lặng tịnh cư tại chỗ thanh vắng, Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Thế giới này thật rơi vào cảnh khổ não, phải sanh rồi già, rồi chết, rồi từ bỏ thế giới này để tái sanh thế giới khác. Không một ai biết một con đường giải thoát khỏi sự đau khổ này, thoát khỏi già và chết".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, già chết mới có mặt? Do duyên gì, già chết sanh?". Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: 

"Do sanh có mặt, nên già, chết có mặt. Do duyên sanh, già chết sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, sanh mới có mặt? Do duyên gì, sanh phát khởi?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến sau đây: "Do hữu có mặt nên sanh mới có mặt. Do duyên hữu, nên sanh phát khởi".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, hữu mới có mặt? Do duyên gì, hữu phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thủ có mặt nên hữu mới có mặt. Do duyên thủ, hữu phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt thủ mới có mặt? Do duyên gì, thủ phát sanh?". Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do ái có mặt, thủ mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, ái mới có mặt. Do duyên gì, ái phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thọ có mặt, ái mới có mặt. Do duyên thọ, ái phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, thọ mới có mặt. Do duyên gì, thọ mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do xúc có mặt, thọ mới có mặt. Do duyên xúc, thọ mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, xúc mới có mặt. Do duyên gì xúc mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do lục nhập có mặt, xúc mới có mặt. Do duyên lục nhập, xúc mới phát sanh ".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, lục nhập mới có mặt. Do duyên gì, lục nhập mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc có mặt, lục nhập mới có mặt. Do duyên danh sắc, lục nhập mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, danh sắc mới có mặt? Do duyên gì, danh sắc mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thức có mặt, danh sắc có mới có mặt. Do duyên thức, danh sắc mới phát sanh".
Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì có mặt, thức mới có mặt. Do duyên gì, thức mới phát sanh?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc có mặt, thức mới có mặt. Do duyên danh sắc, thức mới phát sanh".

19. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ như sau: "Thức này xoay trở lui lại, từ nơi danh sắc, không vượt khỏi danh sắc. Chỉ như thế này, con người được sanh ra hay trở thành già, hay bị chết, hay từ biệt cõi này, hay sanh lại ở cõi khác, nghĩa là do duyên danh sắc, thức sanh; do duyên thức, danh sắc sanh; do duyên danh sắc, lục nhập sanh; do duyên lục nhập, xúc sanh; do duyên xúc, thọ sanh; do duyên thọ, ái sanh; do duyên ái, thủ sanh; do duyên thủ, hữu sanh; do duyên hữu, sanh sanh; do duyên sanh, lão, tử, sầu bi, khổ ưu não sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này".

"Tập khởi, tập khởi". Này các Tỷ-kheo, từ nơi Bồ-tát Vipassì, khởi sanh pháp nhãn từ trước chưa từng được nghe, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, ánh sáng sanh.

20. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, già chết không có mặt? Cái gì diệt, già chết diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do sanh không có mặt, già chết không có mặt, do sanh diệt, già chết diệt".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, sanh không có mặt? Cái gì diệt, sanh diệt!. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do hữu không có mặt, sanh không có mặt, do hữu diệt, sanh diệt".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, hữu không có mặt? Cái gì diệt, hữu diệt?". Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thủ không có mặt, hữu không có mặt, do thủ diệt, hữu diệt".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, thủ không có mặt? Cái gì diệt, thủ diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do ái không có mặt, thủ không có mặt, do ái diệt, thủ diệt".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, ái không có mặt? Cái gì diệt, ái diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thọ không có mặt, ái không có mặt, do thọ diệt, ái diệt".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, thọ không có mặt? Cái gì diệt, thọ diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do xúc không có mặt, thọ không có mặt, do xúc diệt, thọ diệt".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt xúc không có mặt? Cái gì diệt, xúc diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do lục nhập không có mặt, xúc không có mặt, do lục nhập diệt, xúc diệt".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì có mặt, lục nhập không có mặt? Cái gì diệt, lục nhập diệt". Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc không có mặt, lục nhập không có mặt, do danh sắc diệt, lục nhập diệt".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Do cái gì không có mặt, danh sắc không có mặt? Cái gì diệt danh sắc diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do thức không có mặt, danh sắc không có mặt, do thức diệt, danh sắc diệt".

Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Cái gì không có mặt, thức không có mặt? Do cái gì diệt, thức diệt?" Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ phát sanh minh kiến sau đây: "Do danh sắc không có mặt, thức không có mặt, do danh sắc diệt, thức diệt".

21. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì suy nghĩ: "Ôi, Ta đã chứng được con đường đưa đến Bồ-đề, nhờ pháp tu quán. Nghĩa là, do danh sắc diệt, thức diệt; do thức diệt, danh sắc diệt; do danh sắc diệt, lục nhập diệt; do lục nhập diệt, xúc diệt; do xúc diệt, thọ diệt, do thọ diệt, ái diệt; do ái diệt, thủ diệt; do thủ diệt, hữu diệt; do hữu diệt, sanh diệt; do sanh diệt, già, chết, ưu, bi, khổ, sầu, não diệt. Như vậy, toàn bộ khổ uẩn diệt".

"Diệt, diệt". Này các Tỷ-kheo, từ nơi Bồ-tát Vipassì, khởi hành pháp nhãn từ trước chưa từng được nghe, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, ánh sáng sanh.

22. Này các Tỷ-kheo, rồi Bồ-tát Vipassì, sau một thời gian sống quán sự sanh diệt trong năm uẩn: "Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc diệt. Ðây là thọ, đây là thọ tập khởi, đây là thọ diệt. Ðây là tưởng, đây là tưởng tập khởi, đây là tưởng diệt. Ðây là hành, đây là hành tập khởi, đây là hành diệt! Ðây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức diệt".

Và đối với Ngài, sau khi sống quán pháp sanh diệt trong năm thủ uẩn, chẳng bao lâu các lậu hoặc được tiêu trừ và Ngài được giải thoát.

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
14. Kinh Ðại bổn
(Mahàpadàna sutta) (3-3)



Tụng phẩm III.

1. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác liền suy nghĩ: "Nay Ta hãy thuyết pháp".

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác suy nghĩ: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý "Y tánh duyên khởi pháp" (ida-paccayata paticca samuppàda); thật khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y được trừ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta!"

2. Này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những bài kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên:

Quote:Sao nay Ta lại nói lên chánh pháp mà Ta đã chứng ngộ rất khó khăn?
Pháp này khó mà chứng ngộ với những ai bị tham sân chi phối.
Những ai bị ái nhiễm và vô minh bao phủ rất khó thấy pháp này.
Một pháp đi ngược dòng, vi diệu, thâm sâu, khó thấy, vi tế.

Này các Tỷ-kheo, với những lời như vậy, suy tư trên vấn đề tâm của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, hướng về vô vi, thụ động, không muốn thuyết pháp. Khi bấy giờ, một trong các vị Ðại Phạm thiên, khi biết được tư tưởng của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, nhờ tư tưởng của mình, liền suy nghĩ: "Than ôi, thế giới sẽ bị tiêu diệt, thế giới sẽ bị hoại vong, nếu tâm của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, hướng về vô vi, thụ động, không muốn thuyết pháp!"

3. Này các Tỷ-kheo, vị Ðại Phạm thiên ấy, như một nhà lực sĩ duỗi thẳng cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay duỗi thẳng, cũng vậy vị ấy biến mất từ thế giới Phạm thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này các Tỷ-kheo, rồi vị Ðại Phạm thiên đắp thượng y trên một bên vai, quỳ đầu gối bên phải trên mặt đất, chắp tay hướng về Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và bạch rằng: "Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít bị bụi trần che phủ sẽ bị nguy hại nếu không được nghe chánh pháp. Nếu được nghe, những vị này có thể thâm hiểu chánh pháp".

4. Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nói với vị Ðại Phạm thiên: "Này Phạm thiên, Ta đã suy nghĩ như sau: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ có người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý y tánh duyên khởi pháp; thật khó mà thấy được định lý tất cả hành là tịch tịnh, tất cả sanh y được trừ bỏ, ái được đoạn tận, ly dục, ái diệt, Niết-bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật mệt mỏi cho Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta". Này Phạm thiên, khi ấy những bài kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng nghe khởi lên nơi Ta:

Quote:Sao nay Ta lại nói lên chánh pháp mà Ta đã chứng ngộ rất khó khăn?
Pháp này khó mà chứng ngộ với những ai bị tham sân chi phối.
Những ai bị ái nhiễm và vô minh bao phủ rất khó mà thấy được pháp này.
Một pháp đi ngược dòng, vi diệu, thâm sâu, khó thấy, vi tế.

Này Phạm thiên, với những lời như vậy, suy tư trên vấn đề, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp.

5. Này các Tỷ-kheo, lần thứ hai vị Ðại Phạm thiên ấy... (như trên)...

6. Này các Tỷ-kheo, lần thứ ba, vị Ðại Phạm thiên ấy bạch Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác: "Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiên Thệ, hãy thuyết pháp! Có những chúng sanh ít bị bụi trần che phủ sẽ bị nguy hại nếu không được nghe chánh pháp, những vị này có thể thâm hiểu chánh pháp!"

Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác biết được lời khuyên thỉnh của vị Phạm Thiên, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, nhìn đời với Phật nhãn. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nhìn đời với Phật nhãn, thấy có hạng chúng sanh nhiễm ít bụi đời, nhiễm nhiều bụi đời, có hạng lợi căn độn căn, có hạng tánh thuận tánh nghịch, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm của những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, sen hồng hay sen trắng, có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước; có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước, có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước lớn lên dưới nước vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước làm đẫm ướt. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, nhìn quanh thế giới với Phật nhãn. Ngài thấy có hạng chúng sanh nhiễm ít bụi đời, nhiễm nhiều bụi đời, có hạng lợi căn độn căn, có hạng tánh thuận tánh nghịch, có hạng dễ dạy khó dạy, một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm của những hành động lỗi lầm.

7. Rồi vị Ðại Phạm thiên, với tâm mình biết được tâm tư của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, liền nói với Ngài, bài kệ sau đây:

Quote:Như con người đứng trên đỉnh núi nhìn quanh dân chúng phía dưới.
Cũng vậy Ngài Sumedha lên lầu chánh pháp, bậc biến nhãn, thoát ly sầu muộn.
Nhìn xuống quần chúng, âu lo sầu muộn bị sanh già áp bức.
Hãy đứng lên, bậc anh hùng, bậc chiến thắng ở chiến trường!
Vị trưởng đoàn lữ khách, đấng thoát ly mọi nợ nần!
Thế Tôn hãy đi khắp thế giới hoằng dương chánh pháp.
Có người nhờ được nghe, sẽ thâm hiểu diệu nghĩa!

Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trả lời vị Ðại Phạm thiên với bài kệ sau đây:

Quote:Cửa bất diệt đã được mở rộng,
Hỡi những ai được nghe, hãy từ bỏ tà kiến của mình.
Vì nghĩ đến mệt mỏi hoài công, này Phạm Thiên.
Ta không muốn giảng Chánh pháp vi diệu cho loài người!

Này các Tỷ-kheo, rồi vị Ðại Phạm thiên với ý nghĩ: "Ta đã là người mở đường cho Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuyết pháp", rồi đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.

8. Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác suy nghĩ: "Ta thuyết pháp cho ai trước tiên? Ai sẽ mau hiểu chánh pháp này?"

Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác suy nghĩ: "Nay vương tử Khanda (Kiển-trà) và con vương sư Tissa (Ðề-xá) trú ở kinh đô Bandhumatì (Bàn-đầu-bà-đề) là bậc trí thức đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm ô bởi bụi đời. Nay ta hãy thuyết pháp cho vương tử Khanda và con vương sư Tissa trước tiên, hai vị này sẽ sớm thâm hiểu chánh pháp này".

Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác như một nhà lực sĩ duỗi thẳng cánh tay đã co lại, hay co lại cánh tay duỗi thẳng, biến mất từ cây Bồ đề, hiện ra tại vườn Lộc Uyển Khenma, kinh đô Bhadhumatì.

9. Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác gọi người giữ vườn: "Này bạn, hãy vào kinh đô Bandhumatì, nhắn với vương tử Khanda và con vương sư Tissa rằng Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh đô Bandhumatì, hiện trú ở Lộc Uyển Khema và muốn gặp hai vị!" 

- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn".

Này các Tỷ-kheo, người giữ vườn vâng theo lời dạy của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vào kinh đô Bandhumatì và thưa với vương tử Khanda và con vương sư Tissa: "Thưa quý vị, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh đô Bandhumatì và hiện ở Lộc Uyển Khema. Ngài muốn gặp quý vị!"

10. Này các Tỷ-kheo, Vương tử Khanda và con vương sư Tissa cho thắng những cỗ xe thù thắng, tự mình leo lên một cỗ xe thù thắng rồi cùng với các cỗ xe thù thắng khác, cho xe ra khỏi kinh thành Bandhumati, đi đến Lộc Uyển Khema, đi xe cho đến chỗ còn đi xe được, rồi xuống xe đi bộ đến trước Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Khi đến nơi, hai vị này đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.

11. Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuận thứ thuyết pháp, thuyết về bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của dục vọng, và sự lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết được tâm trí của hai vị này đã thuần thục, nhu thuận, thoát ly triền cái, cao thượng và an tịnh, Ngài bèn thuyết pháp thoại mà được chư Phật đề cao, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Cũng như tấm vải thuần tịnh không có tỳ vết, rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy, vương tử Khanda và con vương sư Tissa, chính tại chỗ ngồi này chứng được Pháp nhãn xa trần ly cấu: "Phàm pháp gì đã sanh rồi cũng phải diệt".

12. Hai vị này đã thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự, diệt tận, chứng được tự tín, không y cứ người khác đối với đạo pháp của đức Bổn Sư, liền bạch Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác: "Thật di diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Bạch Thế Tôn, nay chúng con quy y Thế Tôn và quy y Pháp. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được xuất gia với Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được thọ đại giới".

13. Này các Tỷ-kheo, vương tử Khanda và con vương sư Tissa được xuất gia với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, được thọ đại giới. Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy hai vị này, khuyến khích làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, nêu rõ sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các pháp hữu vi và sự lợi ích của Niết-bàn. Và hai vị này nhờ Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, không bao lâu tâm trí không còn chấp thủ, được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

14. Này các Tỷ-kheo, trong khi kinh thành Bandhumatì có đại chúng khoảng tám vạn bốn ngàn vị được nghe: "Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh thành Bandhumatì và ở tại Lộc Uyển Khema. Vương tử Khanda và con vương sư Tissa đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình với Thế Tôn, Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác". Khi nghe vậy, các vị này tự nghĩ: "Chắc chắn, pháp luật này không thể tầm thường, sự xuất gia này không thể tầm thường, vì vương tử Khanda và con vương sư Tissa đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vương tử Khanda và con vương sư Tissa đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Tại sao chúng ta lại không làm vậy?"

Này các Tỷ-kheo, rồi đại chúng ấy gồm khoảng tám vạn bốn ngàn vị đi ra khỏi kinh thành Bandhumatì đến Lộc Uyển Khema, chỗ Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở. Khi đến nơi, các vị này đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.

15. Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuận thứ thuyết pháp, thuyết về bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của dục vọng và sự lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết được tâm trí của các vị này đã thuần thục, nhu thuận, thoát ly triền cái, cao thượng và an tịnh, Ngài bèn thuyết pháp thoại mà chư Phật đã đề cao, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Cũng như tấm vải thuần tịnh, không có tỳ vết rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy tám vạn bốn ngàn vị này, chính tại chỗ ngồi này, chứng được pháp nhãn xa trần ly cấu: "Phàm pháp gì đã sanh rồi cũng phải diệt".

16. Những vị này đã thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được tự tín, không y cứ người khác đối với đạo pháp của đức Bổn Sư, liền bạch Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác: "Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn, Như người dựng đứng lại, những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, nay chúng con quy y Thế Tôn và quy y Pháp. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được xuất gia với Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được thọ đại giới!".

17. Này các Tỷ-kheo, tám vạn bốn ngàn vị này được xuất gia với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, được thọ đại giới. Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy những vị này, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, nêu rõ sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các pháp hữu vi và sự lợi ích của Niết Bàn. Và những vị này, nhờ Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, không bao lâu tâm trí không còn chấp thủ, được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

18. Này các Tỷ-kheo, nay tám vạn bốn ngàn các vị xuất gia từ trước, được nghe: "Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã đến kinh thành Bandhumatì, ở tại Lộc Uyển Khema và thuyết pháp". Này các Tỷ-kheo, tám vạn bốn ngàn vị xuất gia này, đi đến Lộc Uyển Khema, chỗ Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở. Khi đến nơi, các vị này đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.

19. Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuận thứ thuyết pháp, thuyết về bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của dục vọng và sự lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết được tâm trí của các vị này đã thuần thục, nhu thuận, thoát ly triền cái, cao thượng và an tịnh, Ngài bèn thuyết pháp thoại mà chư Phật đã đề cao, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Cũng như tấm vải thuần tịnh, không có tỳ vết, rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy tám vạn bốn ngàn vị xuất gia này, chính tại chỗ ngồi này, chứng được pháp nhãn xa trần ly cấu: "Phàm pháp gì đã sanh ra rồi cũng phải diệt".

20. Những vị này đã thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được tự tín, không y cứ người khác đối với đạo pháp của đức Bổn Sư, liền bạch Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác: "Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, Bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Bạch Thế Tôn, nay chúng con quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tăng. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được xuất gia với Thế Tôn, mong Thế Tôn cho chúng con được thọ đại giới!"

21. Này các Tỷ-kheo, tám vạn bốn ngàn vị xuất gia với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác được thọ đại giới. Rồi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy những vị này, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, nêu rõ sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các pháp hữu vi và sự lợi ích của Niết Bàn. Và những vị này nhờ Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giảng dạy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với pháp thoại, không bao lâu tâm trí không còn chấp thủ, được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

22. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ đại chúng Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị trú tại kinh đô Bandhumatì, Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, trong khi yên lặng tịnh cư đã suy nghĩ như sau: "Nay đại chúng Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị trú tại kinh thành Bandhumatì. Sao Ta lại không khuyến dạy các vị Tỷ-kheo ấy: "Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp. Cứ sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumati để tụng đọc giới bổn".

23. Này các Tỷ-kheo, một vị Ðại Phạm thiên khác, với tâm tư của mình biết được tâm tư của Thế Tôn Vipassi, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Như một vị lực sĩ duỗi cánh tay co lại hay co lại cánh tay đã duỗi ra, vị này biến mất ở cõi Phạm thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn Vipassi, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này các Tỷ kheo, lúc bấy giờ vị Ðại Phạm thiên, đắp thượng y trên một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và bạch Ngài: "Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy khuyến dạy đại chúng Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị ở kinh đô Bandhumati: "Này các Tỷ-kheo hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp". Bạch Thế Tôn, chúng con sẽ làm như các vị Tỷ-kheo. Sau sáu năm, các vị này đến kinh đô Bandhumati để tụng đọc giới bổn".

Này các Tỷ-kheo, Ðại Phạm thiên thuyết như vậy. Sau khi nói xong, vị này đảnh lễ Thế Tôn Vipassi, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, lưng bên hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.

24. Này các Tỷ-kheo, rồi Thế Tôn Vipassi, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, vào buổi chiều xuất định đứng dậy và nói với các vị Tỷ-kheo:

- Này các Tỷ-kheo, trong khi Ta yên lặng tịnh cư tại chỗ thanh vắng, ý nghĩ sau đây khởi lên: "Nay đại chúng Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị trú tại kinh thành Bandhamatì. Sao Ta lại không khuyến dạy các Tỷ-kheo ấy: "Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp. Cứ sau sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumati để tụng đọc giới bổn".

25. Này các Tỷ-kheo, một Ðại Phạm thiên khác với tâm tư của mình, biết được tâm tư của Ta. Như một vị lực sĩ duỗi cánh tay đã co lại hay co lại cánh tay đã duỗi ra, vị này biến mất ở cõi Phạm thiên và hiện ra trước mắt Ta. Này các Tỷ-kheo, vị Ðại Phạm thiên, đắp thượng y trên một bên vai, chấp tay hướng đến Ta và bạch với ta: "Như vậy là phải, Bạch Thế Tôn! Như vậy là phải. Bạch Thiện Thệ! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy khuyến dạy đại chúng Tỷ-kheo khoảng sáu trăm tám mươi vạn vị ở kinh đô Bandhumatì: "Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp, sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp. Bạch Thế Tôn, chúng con sẽ làm như các Tỷ-kheo. Sau sáu năm các vị này sẽ đến kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn". Này các Tỷ-kheo, vị Ðại Phạm thiên thuyết như vậy. Sau khi nói xong, vị này đảnh lễ Ta, lưng bên hữu hướng về Ta và biến mất tại chỗ.

26. Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến dạy các ngươi: "Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe giảng chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp. Cứ sau sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn".

Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy, một phần lớn trong ngày ấy đã lên đường đi khắp quốc độ.

27. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ tại Jambudìpa (Diêm phù đề) có tám vạn bốn ngàn túc xá. Khi một năm vừa mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, một năm vừa mãn, nay còn lại năm năm. Sau năm năm, hãy đến tại kinh đô Bandhamatì để tụng đọc giới bổn!"

Hai năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, hai năm vừa mãn, nay còn lại bốn năm. Sau bốn năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!".

Ba năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, ba năm đã mãn, nay còn lại ba năm. Sau ba năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!".

Bốn năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, bốn năm đã mãn, nay còn hai năm. Sau hai năm, hãy đến kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn!"

Năm năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, năm năm đã mãn, nay còn lại một năm. Sau một năm, hãy đến tại đô Bandhumati để tụng đọc giới bổn!"

Sáu năm đã mãn, chư Thiên tuyên bố: "Này Hiền giả, sáu năm đã mãn. Nay đã đến ngày đi đến kinh đo Bandhumati để tụng đọc giới bổn".

Này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ấy, một số vị với thần lực của mình, một số với thần lực của chư Thiên trong ngày ấy đã đi đến kinh đô Bandhumatì để tụng đọc giới bổn.

28. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giữa chúng Tỷ-kheo, tụng đọc giới bổn này:

Quote:"Chư Phật dạy Niết-bàn là đệ nhất.
"Nhẫn nhục, khổ hạnh, kham nhẫn, là đệ nhất.
"Người xuất gia hại người xuất gia khác.
"Hại người khác như vậy không xứng gọi là Sa-môn.

"Mọi điều ác không làm, hướng tâm các thiện nghiệp.
"Giữ tâm trí thanh tịnh, chính lời chư Phật dạy.

"Không chỉ trích, không đánh đập, giữ mình trong giới bổn.
"Ăn uống có tiết độ, ngủ nghỉ riêng một mình.
"Hướng tâm đến cao khiết, chính lời chư Phật dạy".

29. Này các Tỷ-kheo, một thời ta ở tại Ukkhattha (Úc-Già La), trong rừng Subhaga, dưới gốc cây ta-la vương. Này các Tỷ-kheo, trong khi Ta an lặng tịnh cư, tư tưởng sau đây khởi lên: "Có một trú xứ, một loại chúng sanh rất dễ đến mà Ta từ trước không đến ở trong một thời gian khá lâu! Ðó là chư Thiên Suddhàvàsa (Tịnh Cư thiên). Vậy nay Ta hãy đến chư Thiên ở Tịnh Cư thiên!"

Này các Tỷ-kheo, như một lực sĩ duỗi cánh tay đã co lại, hay có lại cánh tay đã duỗi ra, Ta biến mất ở Ukkattha, trong rừng Subhaga, dưới gốc cây Ta-La vương và hiện ra trước chư Thiên ở Tịnh Cư thiên. Trong đại chúng chư Thiên ấy một số vài ngàn chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta như sau:

"Này Hiền giả, nay đã được chín mươi mốt kiếp, từ khi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác sanh, thuộc chủng tánh Sát Ðế Ly. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna (Câu-Ly-Nhã). Này Hiền giả, trong thời Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây Pàtali (Ba-ba-la). Này Hiền giả, hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử của Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tên là Khanda (Kiển-trà) và Tissa (Ðề-xá). Này Hiền giả, trong thời Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có ba Tăng hội, một Tăng hội sáu trăm tám mươi vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, có vị thị giả Tỷ-kheo tên Asoka (A-dục), vị này là vị thị giả đệ nhất. Này Hiền giả, phụ vương Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, tên là Bandhuma, mẫu hậu tên là Bandhumatì (Bàn-đầu-bà-đề). Kinh thành của vua Bandhuma tên là Bandhumatì. Này Hiền giả, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xuất thế tục như thế này, xuất gia như thế này, tinh tấn như thế này, giác ngộ như thế này, chuyển pháp luân như thế này. Này Hiền giả, chúng con là những người đã tu phạm hạnh với Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã diệt trừ dục vọng và đã sanh ra tại chỗ này".

30. Này các Tỷ-kheo, lại trong đại chúng chư Thiên ấy, một số vài ngàn chư Thiên (... ... ) một số vài trăm chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta: "Này Hiền giả, trong tiền kiếp này, Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nay ra đời. Này Hiền giả, Thế Tôn, thuộc chủng tánh Sát-đế -lỵ, thuộc gia tộc Sát-đế-lỵ. Này Hiền giả, Thế Tôn thuộc danh tánh Gotama (Cù-đàm). Này Hiền giả, Thế Tôn tuổi thọ không bao nhiêu, ít oi, tuổi thọ loài người khoảng một trăm năm hay hơn một chút. Này Hiền giả, Thế Tôn giác ngộ dưới gốc cây assattha (bát-đa- la). Này Hiền giả, Thế Tôn có hai vị hiền sĩ, đệ nhất đệ tử tên là Sàriputta và Moggallàna (Xá-lợi-phất và Mục kiền-liên). Này Hiền giả, Thế Tôn có một Tăng hội một ngàn hai trăm năm mươi vị. Này Hiền giả, Tăng hội này của Thế Tôn gồm toàn những vị đã diệt trừ lậu hoặc. Này Hiền giả, Thế Tôn có vị thị giả Tỷ-kheo tên là Ananda (A-nan), vị này là thị giả đệ nhất. Này Hiền giả, phụ vương của Thế Tôn tên là Suddhodana (Tịnh Phạn), Hoàng hậu là Màyà (Ma-gia) kinh đô là Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ). Này Hiền giả, Thế Tôn xuất thế tục như thế này, xuất gia như thế này, tinh tấn như thế này, giác ngộ như thế này, chuyển pháp luân như thế này. Này Hiền giả, chúng tôi là những người đã tu phạm hạnh với Thế Tôn, đã diệt trừ dục vọng và đã sanh ra tại chỗ này".

31. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng với chư Thiên Avihà (Vô Nhiệt thiên) đến chư Thiên Atappà (Vô Phiền thiên). Này các Tỷ-kheo, rồi cùng với chư Thiên Avihà và chư Thiên Atappà đến chư Thiên Sudassà (Thiện Kiến thiên). Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng với chư Thiên Avihà, chư Thiên Atappà và chư Thiên Sudassa đến chư Thiên Sudassi (Thiện Hiện thiên).

Này các Tỷ-kheo, rồi Ta cùng với chư Thiên Avihà, chư Thiên Atappà, chư Thiên Sudassà và chư Thiên Sudassì đến chư Thiên Akanitthà (Sắc Cứu Kính thiên). Này các Tỷ-kheo, lại trong Ðại chúng chư Thiên ấy, một số vài ngàn chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta như sau: "Này Hiền giả, nay đã được chín mươi mốt kiếp, từ khi Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời... (như đoạn kinh số 29)".

32. Này các Tỷ-kheo, lại trong đại chúng chư Thiên ấy, một số vài ngàn chư Thiên (như trước) một số vài trăm chư Thiên đến chỗ Ta ở, đảnh lễ Ta và đứng một bên. Này các Tỷ-kheo, sau khi đứng một bên, chư Thiên ấy đã nói với Ta như sau: "Này Hiền giả, trong tiền kiếp này đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nay ra đời... (như đoạn kinh số 30)".

33. Này các Tỷ-kheo, như vậy Như Lai khéo chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ. Như Lai cũng nhớ đến chủng tánh các vị này cũng nhớ đến danh tánh, cũng nhớ đến tộc tánh, cũng nhớ đến tuổi thọ, cũng nhớ đến hai vị đệ tử, cũng nhớ đến các Tăng hội như sau: "Các bậc Thế Tôn này, sanh tánh là như vậy, danh tánh là như vậy, tộc tánh là như vậy, giới hạnh là như vậy, pháp hạnh là như vậy, tuệ hạnh là như vậy, trí hạnh là như vậy, giải thoát là như vậy".

Thế Tôn thuyết pháp như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Reply
HỌC KINH PHẬT (I)

TRƯỜNG-BỘ KINH
Thiện Nhựt Huỳnh Hữu Hồng
Tìm Hiểu và Học Tập
2006
-----------------------------------
14. KINH ĐẠI - BỔN 

070. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH ĐẠI-BỔN?

Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại nước Xá-vệ (Sàvatthi), rừng Kỳ-đà (Jetavana), trong am-thất Hoa-Lâm (Kareri). Lúc bấy giờ, các vị Tỳ-kheo sau khi khất-thực và dùng cơm xong, tụ-họp ở Hoa-Lâm viên-đường, đang bàn về vấn-đề tiền-thân các vị Phật trong quá-khứ, thì đức Phật quá-bộ đến. Nhơn đó, Ngài giảng rõ lịch-sử của ba vị Phật thuộc Trang-nghiêm-kiếp, và ba vị Phật thuộc Hiền-kiếp, cùng với đức Phật Thích-ca hiện đương thời.

Thế-Tôn còn cho biết thêm, sở dĩ Ngài nhớ rõ được như vậy là nhờ ''khéo chứng-đạt pháp-giới nầy'' và có chư Thiên các cõi Tịnh-cư-thiên, Vô-phiền-thiên, v.v. xác-nhận là nhờ tu-tập Chánh-Pháp của các vị Phật thuở trước mà họ được sanh lên các cõi Trời đó.

071. NỘI-DUNG KINH ĐẠI-BỔN.

Kinh Đại-Bổn nhắc lại tiền-thân của các vị Phật từ thuở sơ-khai cho đến thời hiện-đại.

A.- Ý chánh: Lịch-sử về nguồn-gốc, thành-đạo, giảng-pháp, giáo-đoàn của đức Phật Tỳ-bà-thi.

B.- Phân đoạn: Kinh rất dài, chia ra ba phần:
1.- Lược-sử bảy vị Phật từ cổ-đại đến hiện-thời:
2.- Tiểu-sử của đức Phật Tỳ-ba-thi (Vipassi):
- thân-thế
- bốn lần du-ngoạn tại vườn ngự-uyển
- xuất-gia: lý nhân-duyên và năm uẩn.
- giáo-hội.
3.- Sự xác-nhận của chư Thiên cõi Tịnh-cư
.
072. TIỀN-THÂN BẢY VỊ PHẬT.
Quote:- Tỳ-bà-thi
- Thi-khí
- Tỳ-xá-phù
- Câu-lưu-tôn
- Câu-na-hàm
- Ca-diếp
- Thích-ca

073. TIỂU-SỬ ĐỨC PHẬT TỲ-BÀ-THI.

Vào thuở Trang-nghiêm kiếp, đã qua 91 kiếp, Bồ-tát Tỳ-Bà-Thi (Vipassi) từ cung trời Đâu-suất, nhập vào mẫu-thai, giáng trần tại thành Bandhumatì; cha là quốc-vương Bandhumà, mẹ là hoàng-hậu Bandhumatì, mang thai 10 tháng mới sanh nở. Hoàng-tử Vipassi có đủ 32 tướng tốt Đại-trượng-phu. Vua Cha cho xây ba toà lầu-đài cho hoàng-tử với đầy-đủ thú-vui vật-chất.

Sau bốn lần du-ngoạn vườn ngự-uyển: gặp người già-nua, kẻ bịnh-hoạn, thây người chết bị thiêu, và lần chót gặp một vị xuất-gia, hoàng-tử quyết chí rời bỏ gia-đình đi tu. Hay tin nầy, tám vạn bốn ngàn dân-chúng cũng xuất-gia theo. Rồi Bồ-tát cùng với đông-đảo đồ-chúng du-hành qua các làng ấp và đô-thị để giảng đạo.

Một thời-gian dài sau đó, Bồ-tát lìa đồ-chúng, sống tịnh-cư. Ngài suy-nghĩ về lý Duyên-sanh cùng sự sanh-diệt của năm uẩn trong thân-tâm, tự giác-ngộ và hoàn-toàn giải-thoát, trong khi ngồi dưới gốc cây pàtali (ba-bà-la). Ngài còn phân-vân chẳng biết có nên đem giáo-pháp cao-siêu, khó hiểu nầy ra giảng-dạy không, thì có vị Đại-Phạm Thiên đến khuyến-thỉnh Ngài hãy ra thuyết-pháp để cứu giúp các chúng-sanh.

Trước tiên, Thế-Tôn Vipassi thuyết-pháp cho vương-tử Khanda và con vương-sư Tissa (đó là hai vị đại-đệ-tử của Ngài); sau đó, Ngài lập Tăng-hội: một hội 68 triệu, một hội 10 vạn và một hội 8 vạn Tỷ-kheo. Ngài phân-phối họ đi khắp nơi và cứ sáu năm một lần tụ-họp về kinh-đô Bandhumatì đọc-tụng lại Giới-bổn.

074. TRÍCH-ĐOẠN: 32 TƯỚNG TỐT ĐẠI-TRƯỢNG-PHU

...''Hoàng-tử nầy có đầy-đủ 32 tướng tốt của bậc Đại-nhân. Ai có đủ 32 tướng tốt nầy sẽ chọn một trong hai con đường nầy: nếu sống tại gia-đình, sẽ trở nên vua Chuyển-luân Thánh-vương, dùng Chánh-pháp trị nước, bình-định bốn phương, đem lại an-toàn cho quốc-độ; (... ) hoặc xuất-gia sống không gia-đình, sẽ trở thành bậc A-la-hán, Chánh-Đẳng-Giác, vén màn vô-minh cho đời ...:
(...)
1. lòng bàn chân bằng phẳng,
2. dưới hai bàn chân hiện hình bánh xe với ngàn tăm xe, trục xe, vành xe... ,
3. gót chơn thon dài,
4. ngón tay, ngón chơn dài,
5. tay, chơn mềm-mại,
6. tay chơn có màn da lưới,
7. mắt cá tròn như con sò,
8. ống chơn như con dê rừng,
9. khi đứng thẳng, không cong lưng xuống, có thể rờ đầu gối với hai bàn tay,
10. có tướng mã-âm-tàng,
11. màn da như đồng, màu sắc như vàng,
12 da trơn mướt, bụi chẳng bám vào được,
13. lông da mọc từ lông một, mỗi lỗ chơn lông có một lông,
14. lông mọc xoáy tròn thẳng lên, màu xanh đậm, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ về bên phải,
15. thân hình cao thẳng,
16. có bảy chỗ tròn đầy,
17. có nửa thân trước như con sư-tử,
18. không có lõm khuyết giữa hai vai,
19. thân-thể cân-đối như cây bàng (nigrodha)
20. có nửa thân trên vuông tròn,
21. có vị-giác hếr sức bén-nhạy,
22. có quai-hàm như con sư-tử,
23. có bốn mươi cái răng,
24. có răng đều-đặn,
25. có răng không khuyết hở,
26. có răng cửa trơn láng,
27. có tướng lưỡi rộng dài,
28. có giọng nói tuyệt-diệu như tiếng chim ca-lăng-tần-già (Karavika),
29. có hai mắt màu xanh đậm,
30. có lông mi như con bò cái,
31. giữa hai lông mày có sợi lông trắng mọc lên, mịn-màng như bông nhẹ
32. có nhục-kế trên đầu....

075. TRÍCH-ĐOẠN CÁC BÀI KỆ: SAU KHI THÀNH ĐẠO, CÓ NÊN GIẢNG PHÁP ĐỘ SANH KHÔNG?

Thế-tôn Tỳ-bà-thi (Vipassi), sau khi thành-đạo, nói bài Kệ nầy:
''Sao nay ta lại nói lên Chánh-Pháp mà Ta đã chứng-ngộ rất khó-khăn?
Pháp nầy khó mà chứng-ngộ với những ai bị tham, sân chi-phối;
Những ai bị ái-nhiễm và vô-minh bao phủ rất khó thấy pháp nầy,
Một pháp đi ngược dòng, vi-diệu, thâm-sâu, khó thấy, vi-tế.''
Lúc bấy giờ, có vị Đại-Phạm-thiên đến (...) qùi hướng về phiá Thế-Tôn Vipassi, bạch bài Kệ nầy:
''Như con người đứng trên đỉnh núi nhìn quanh dân chúng phía dưới;
Cũng vậy, Ngài Sumedha lên lầu Chánh-Pháp, bậc biến-nhãn, thoát-ly sầu muộn,
Nhìn xuống quần-chúng, âu lo sầu muộn, bị sanh, già áp-bức.
Hãy đứng lên, bậc anh-hùng, bậc chiến-thắng ở chiến-trường !
Vị trưởng đoàn lữ-khách, đấng thoát-ly mọi nợ-nần!

Thế-Tôn hãy đi khắp thế-giới hoằng-dương Chánh-Pháp;

Có người nhờ được nghe, sẽ thâm-hiểu diệu-nghiã !''
Rồi Thế-Tôn Vipassai trả lời vị Đại-Phạm-thiên với bài Kệ sau đây:
''Cửa bất-diệt đã được mở rộng,
Hỡi những ai được nghe, hãy từ bỏ tà-kiến của mình.
Vì nghĩ đến mệt-mỏi hoài-công, nầy Phạm-Thiên,
Ta không muốn giảng Chánh-Pháp vi-diệu cho loài người !''
Sau đó, Thế-Tôn Vipassi đến vườn Lộc-Uyển Khema, thành Bandhumatì, giảng Chánh-Pháp cho vương-tử Khanda và Tissa ...

076. HỌC KINH ĐẠI-BỔN NÊN CHÚ-Ý ĐIỂM NÀO?

1. Nội-dung Kinh Đại-Bổn có tánh-cách huyền-sử (việc tối-sơ từ 91 kiếp về trước), người học Kinh chẳng nên câu-nệ đòi hỏi sự kiểm-chứng theo khoa-học ngày nay. Đây là lời dạy chánh-thức của đức Bổn-Sư về nguồn-gốc các vị Phật, người Phật-tử với lòng thành chỉ nên biết tin theo đó mà thôi, chớ hoài-công đi truy-tầm các chứng-tích; vì đây là vấn-đề thuộc loại bất-khả tư-nghì, nghiã là vượt khỏi sự lý-luận của thế-gian.

2. Ba mươi hai tướng tốt của bậc Đại-nhơn chỉ là hình-tướng bên ngoài, còn sự chứng-đắc giác-ngộ và giải-thoát bên trong mới thật là điều đáng qúi-trọng. Người học Kinh chớ nên xét đoán về hình-tướng, mà nên chú-trọng đến giới-đức, đến định-lực và nhứt là trí-huệ thù-thắng mới đưa hành-giả đến sự thoát khỏi mọi khổ-não của cuộc sống trong vòng Luân-hồi.


3. Lịch-sử của các đức Phật trong quá-khứ có nhiều điểm tương-đồng: sanh trong dòng-họ giàu-sang mà chẳng đắm-say thú-vui vật-chất; nhơn du-ngoạn ra ngoài thành, thấy được cảnh khổ-đau của già, bịnh, chết và thái-độ an-nhiên, tự-tại của một vị tu-hành mà đi xuất-gia tầm Đạo; tu-tập thiền-định và thành Đạo khi ngồi tịnh-cư dưới một gốc cây; suốt khoảng đời còn lại, hoằng-dương Chánh-Pháp để cứu-vớt chúng-sanh.

Đó chính là các điều mà người học bản Kinh nầy nên quan-tâm đến và cố sức noi theo trên con đường tu-tập của mình.

(TN. Mtl, 2006-03-01).
Reply
Sư Toại Khanh Giảng Nên Hay Không Nên (1-2)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...20N%C3%AAn

Nên hay Không Nên


Quote:Kalama tri ân bạn elteetee ghi chép.ba

15/09/2020 - 08:47 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Quí vị vào trong Trường bộ kinh, bài Kinh Đại bản sự (Kinh Đại bổn) (bài Kinh số 14), tiếng Pali là Mahāpadāna sutta.  (Posts #574-576)

Đọc chánh kinh đó rồi đọc chú giải, các vị sẽ thấy ra một chuyện rất là đặc biệt. Đó là tất cả Chư Phật ba đời mười phương đều có một buổi đại hội thánh tăng giống nhau. Có những vị tuổi thọ lâu thì có tới ba kỳ đại hội. Có vị tuổi thọ ít như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì Ngài chỉ có một buổi thôi. Buổi đại hội thánh tăng đó được thành tựu ngay sau khi Phật thành đạo, lúc đó ngay trong tăng chúng 100% là thánh nhân cho nên những gì Ngài nói ra trong kỳ đại hội đó được coi là cương lĩnh cho suốt thời gian hoằng đạo sau này. Và nội dung giáo pháp của tất cả Chư Phật ba đời mười phương đều nằm gọn trong đó. Nội dung gồm mấy điều sau đây:

Đó là 
  1. không làm điều ác, 
  2. làm các việc lành, 
  3. giữ tâm trong sạch.
Thông thường Phật tử mình chỉ biết có ba điều này nhưng còn có một điều nữa: lấy Niết bàn làm cứu cánh tối thượng. Bây giờ mình chết cầu vãng sanh về cõi này cõi kia, chứ còn lý tưởng cao nhất của Chư Phật ba đời là lấy Niết bàn làm lý tưởng tối thượng.

Niết bàn là gì? 
  1. Hiểu nôm na, sự chấm dứt toàn bộ dòng sanh tử, đó là Niết bàn. 
  2. Sự vắng mặt của phiền não, của năm uẩn, gọi là Niết bàn.
  1. Thứ nhất, không làm điều ác. 
  2. Sau đó làm các việc lành, 
  3. giữ tâm trong sạch, 
  4. lấy Niết bàn làm cứu cánh tối thượng, 
  5. lấy hạnh nhẫn nhục làm pháp tu căn bản
  6. ăn uống tiết độ, 
  7. thu thúc lục căn, 
  8. hạn chế ngủ nghỉ và 
  9. sống nơi thanh vắng. 
Tổng cộng là mười điều này gom lại chỉ còn có hai là nên và không nên.

Toàn bộ Tạng Luật chỉ gôm gọn có hai điều là 
  1. nên nói gì và không nên nói gì, 
  2. nên làm gì và không nên làm gì. 
Tổng cộng chỉ có hai là nên và không nên đối với thân nghiệp và khẩu nghiệp.

Riêng về Tạng kinh và Tạng A tỳ đàm thì gom chung cả ba nghiệp là 
toàn bộ Tam tạng của Đức Phật chỉ gôm gọn lại trong hai điều thôi là 
  1. karaniya là điều nên làm và 
  2. akaraniya là điều không nên làm.
  1. Mười điều giáo hối của Chư Phật ba đời mười phương, toàn bộ giáo pháp của các Ngài gom lại chỉ có mười điều đó thôi, và 
  2. gom lại chỉ còn có Bát chánh đạo. 
  3. Bát chánh đạo gom lại chỉ còn có tam học Giới Định Tuệ. 
  4. Giới Định Tuệ gom lại chỉ còn có hai là nên và không nên.
Buổi nói chuyện hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau đào xới hai chữ nên và không nên đó. Bài giảng này dành cho những người chưa biết giáo pháp, chưa từng học giáo lý có thể nghe được.

15/09/2020 - 10:15 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
4:57

Bây giờ chúng ta ôn lại bài cũ. Vô lượng vũ trụ và tất cả chúng sinh trong đời này chỉ tồn tại trong hạnh phúc và đau khổ. Quí vị có lý luận, phân tích hay chia chẻ gì đi nữa thì vô lượng vũ trụ và tất cả chúng sinh chỉ quẩn quanh trong đau khổ hạnh phúc. Và hạnh phúc là gì? Hạnh phúc chỉ có hai và đau khổ cũng chỉ có hai thôi. Ở đây ai muốn học giáo lý thì vừa nghe vừa chép xuống nha.

Hạnh phúc có hai: 
  1. có cái gì đó và 
  2. không có cái gì đó. 
Đau khổ cũng vậy, mình đau khổ là 
  1. do mình có cái gì đó và 
  2. mình không có cái gì đó. 
Từ hai định nghĩa này mới dẫn tới chuyện tu là gì. Là 
  1. nên và 
  2. không nên, 
tu chỉ gom gọn cái đó thôi. Nên cái gì và không nên cái gì. 

Vì sao? 

Vì toàn bộ vũ trụ chỉ gói gọn trong hạnh phúc và đau khổ. Mà hạnh phúc chỉ có hai nguồn thôi, đó là có cái gì đó và không có cái gì đó. Và đau khổ cũng vậy, cũng do mình có cái gì đó và không có cái gì đó.

Thí dụ không có sức khỏe, không nhan sắc, không tiền bạc, không uy tín, không tình cảm, v v... làm cho mình đau khổ, đó là nói theo thế gian. Có bệnh hoạn, thù oán, bệnh tật, v v... là những cái có làm mình đau khổ.

Nói tới hạnh phúc cũng có hai nguồn là do có và do không có cái gì đó. Có nhan sắc, sức khỏe, tiền bạc, uy tín, tình cảm, kiến thức, đức hạnh, v v... là những cái có làm cho mình hạnh phúc. Rồi những cái không mà làm cho mình hạnh phúc là không bệnh, không nợ, không oán thù, không vấn đề về pháp lý pháp luật, v v...

Như vậy thì tất cả hạnh phúc từ hạnh phúc của con chó, con heo, v v... cho tới hạnh phúc của một vị công hầu khanh tướng, mệnh phụ phu nhân, tướng quân, đại gia, văn hào, học giả, thầy chùa, linh mục, du đãng đều gói gọn trong hai chữ có và không.

Có nghĩa là nụ cười nó đến từ hai nguồn do có và do không có cái gì đó. Giọt lệ cũng đến do hai nguồn là do có và do không cái gì đó.

Và thiện ác là sao? Cũng vậy thôi. 

Thiện là 
  1. do anh có cái gì đó và 
  2. do anh không có cái gì đó, 
nên gọi là thiện. 

Ác cũng vậy, 
  1. do anh có cái gì đó và 
  2. do anh không làm cái gì đó 
nên anh mới được gọi là ác.

Như vậy toàn bộ đời sống này chỉ nằm trọn trong cái có và cái không thôi. Nội dung lớn nhất mà tôi muốn xoáy sâu, đào rộng, cuốc xới, cày bừa hôm nay là cái gì? Đó là tôi trở lại một bài học cũ khác nữa.

Tu hành có hai hướng: 
  1. Một, tu để được cái gì đó. 
  2. Hai, là tu để buông cái gì đó. 
Đa phần chúng ta trong vô số kiếp luân hồi, xưa nay chúng ta có khuynh hướng là: Thu hoạch. Đấy! Hồi làm heo, làm chó thì mình cũng nhắm đến chuyện kiếm đồ ăn. Đực cái, trống mái tìm nhau rồi kiếm cái ăn, kiếm cái ngủ. Tới lúc làm người thì chúng ta cũng cầu danh cầu lợi, cầu tình, cầu tài, cầu tiếng, cầu quyền. 

Nhưng tới lúc biết Phật Pháp rồi thì lại tiếp tục tu hành theo cái hướng thu hoạch, tu để được cái gì, tu để MÌNH có được chánh niệm nhiều hơn, có được trí tuệ nhiều hơn, kiến thức nhiều hơn, kham nhẫn nhiều hơn, từ tâm nhiều hơn, thiền định nhiều hơn. Đó là tu để thu hoạch.

Còn tu để buông bỏ, tu để mình bớt tham, tu để mình buông được cái sân, buông được cái nhỏ mọn, bủn xỉn, ganh tỵ, toan tính, là tu để buông.

Tùy vào tâm tính của mỗi người mà có người tu (mà tôi nói hoài) kiểu lượm ve chai, thu gom, thu gom. Mình nghĩ tu là thu gom công đức, nghe thì cũng sang. Nhưng tu có ý mà gom nó độc lắm. Một là đến với Phật Pháp để cầu danh, cầu lợi, cầu tiếng, cầu quyền, cầu tình, là tu để thu hoạch. Cao hơn một chút là tu để thu hoạch công đức để cho mình ngon lành hơn, mình bảnh hơn, mình chảnh hơn. 

toàn bộ giá trị cuộc tu là để buông. Các vị đừng có lo là tại sao cấm không cho nghĩ tới cái gì đẹp mà bắt phải buông cái xấu? Yên tâm, 
  1. đừng có bận tâm đến chuyện thành thánh, 
  2. mà chỉ cần bận tâm đến chuyện không làm phàm nữa là được rồi, là an toàn hơn, nha. 10:38
15/09/2020 - 04:55 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Tôi nói nhiều lần rồi, tu đừng có nóng ruột mong thành thánh mà cứ giải quyết cái phàm của mình thì an toàn hơn. Tu kiểu đổ rác nghe không sang nhưng an toàn, thấy bậy là bỏ, thấy bậy là buông. Còn tu kiểu nhặt ve chai thì đi thu gom, thấy ở đâu có hành hương, có từ thiện, có cúng dường, có trai tăng, có công đức, có làm phước là nhào tới. Cho nên theo tôi tu kiểu đổ rác chắc ăn hơn, đó là chuyện thứ nhất.

Thứ hai, tu kiểu nhặt ve chai thì nguy hiểm chỗ này, bắt chân vô ngồi thiền cứ mong đắc thánh, trong khi phàm còn nguyên đó lại không để ý. Mình tu với lý tưởng không còn là phàm thì an toàn lắm, vì mình biết phàm mặt mũi nó ra làm sao: bủn xỉn, ganh tỵ, hèn hạ, tiểu tâm, toan tính, mình biết nó ra làm sao, biết mình đang có cái đó.

Còn đàng này mình muốn cầu thành thánh không nhưng mình đâu biết thánh mặt mũi ra làm sao cho nên thấy cái gì lạ lạ, ngộ ngộ, sướng sướng, mát mát, lạnh lạnh thì cứ tưởng là thánh. Học ba mớ, đi thiền ba mớ về rồi kiêu ngạo, tưởng mình hay.

Đối với tôi, thuộc lòng Tam tạng chưa đủ, mà cái quan trọng là mình có sống chánh niệm, sống với trí tuệ hay không, cái đó mới đủ, mới quan trọng. Chỗ nào dạy giáo lý mình cũng nhào tới học nhưng vấn đề lớn nhất, căn bản cốt tủy, chí tử mình không chịu giải quyết, đó là mình không có khả năng nhìn lại bản thân mình thì biết chừng nào mới khá.

Hồi nãy tôi có nói hạnh phúc đến từ hai nguồn: có và không có cái gì đó. Và đau khổ cũng vậy. Người ta nói một câu mà tôi rất đồng ý: 

Trong đời sống này, 
  1. chỉ có 10% là những gì bên ngoài xảy đến cho ta, mà 
  2. 90% chính là phản ứng tâm lý của chúng ta.
Thí dụ trong một buổi chiều vàng, nhìn nắng hoàng hôn; trong một buổi sáng, nhìn nắng bình minh; trong một buổi đêm, nhìn trăng; trong một ngày đẹp trời mình đi ngắm hoa, hưởng cảnh; trong một phút giây nào đó mình gặp một người quen, kẻ lạ, gặp người mình thương, gặp kẻ mình ghét. Từ người đến vật, đến phong cảnh, tất cả những cái đó đem lại cho mình sự hạnh phúc hay đau khổ tùy thuộc vào phản ứng tâm lý của mình. Đừng nói rằng bữa đó trời đẹp tôi vui, sai; trời xấu tôi buồn, sai. Quan trọng là tư lương, vốn liếng, nền tảng tâm thức của mình, kiến thức giáo lý của mình, kiến thức bách khoa của mình, ba la mật của mình, tất cả những cái đó cộng lại, nó làm nên cái gọi là nền tảng tâm thức. Với vốn liếng nền tảng tâm thức này, chúng ta nhìn một cánh hoa có khác với mọi người. 

Chúng ta nhìn một ánh trăng, một mặt nước, một ngọn núi, một mặt hồ, một con đường làng, một người quen, một kẻ lạ bằng một tâm thái hoàn toàn khác. 15:02

16/09/2020 - 07:34 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Trong khi đó, cũng bao nhiêu đó, mà cái vốn liếng, cái nền tảng của mình ra sao nó sẽ làm cho mình buồn hơn hoặc vui hơn. Cho nên bài giảng hôm nay tôi đặc biệt cùng với quí vị quay lại một số bài học cũ để làm nền tảng cho một bài giảng mới.

Nền tảng cũ là gì? Đó là mình cùng nhau định nghĩa hạnh phúc là gì, đau khổ là gì. Là do có cái gì và do không có cái gì. Còn tu hành là gì? Là nên cái gì và không nên cái gì. Chỉ có chừng đó. Kể từ hôm nay làm ơn điều chỉnh lại cách nghĩ của mình thông thoáng hơn.

Trước cho đến giờ mình cứ tưởng cửa thiền là thanh tịnh là chỗ tu hành, phố xá bán buôn là chỗ tục lụy đau khổ. Hiểu như vậy đúng 50% thôi, trong khi đó 50% còn lại là gì? Đó chính là cái thái độ tâm lý của mình trong mọi tình huống, cái đó mới là cái quan trọng, chứ còn mình cứ đổ hết cho ngoại cảnh là không được.

Nói như vậy có nghĩa là xưa đến giờ mình cứ tưởng đi Ấn độ mới là hành hương, vô thiền viện mới là tu, gặp tăng ni mới là tu, cúng dường mới là tu, bỏ tiền ra mới là tu. Nhưng bây giờ mình phải thêm nữa: ngồi yên phát hiện, nhìn ra cái bậy trong lòng mình cũng là tu; đi toilet cũng là tu; nấu ăn bằng chánh niệm cũng là tu; trước bàn thờ Phật mà sống bằng chánh niệm cũng là tu; tật đố ganh tỵ là không tu.

Đi hành hương Ấn độ mà lòng tỵ hiềm, bủn xỉn, ghen ghét, đố kỵ người này người kia là tội chứ không phải hành hương. Trong khi đó trong toilet mà sống bằng tâm lành, đó là tu. Toilet bấy giờ là đạo tràng. Trong khi đó, đi tại Bồ đề đạo tràng mà bằng tâm tà kiến, cầu danh, vụ lợi, bủn xỉn, tật đố, đố kỵ, ghen ghét, tỵ hiềm, nhỏ mọn, toan tính, tiểu tâm thì lúc bấy giờ Bồ đề đạo tràng đối với ai là thánh địa nhưng đối với mình không là thánh địa nữa. Nhớ, điều đó rất quan trọng.

Cho nên ngày xưa mình cứ đi tìm đối tượng, địa điểm, thời điểm để mình tu. 

Còn bây giờ hiểu đạo ra, thì 
  1. địa điểm nào cũng là đạo tràng, 
  2. đối tượng nào cũng là thầy bạn và 
  3. hoàn cảnh nào 
cũng là cái để mà mình tu tập giống nhau y hệt.

Mình quan sát là mình đang hạnh phúc, mình biết rõ là mình đang sống bằng tâm tham, mình biết rõ là mình đang sống bằng tâm sân, mình biết rõ là mình đang sống bằng tâm thiện, mình biết rõ là mình đang sống bằng tâm đố kỵ bủn xỉn. Tất cả đối với Phật Pháp giống nhau, miễn là có niệm và tuệ, biết rõ cái gì đang diễn ra.

Cho nên tôi nói hoài, toàn bộ nội dung của tuệ quán Vipassana Tứ niệm xứ chỉ nằm trong hai công phu thôi, đó là biết rõ How và What

How là 
  1. biết rõ mình đang như thế nào; 
  2. biết rõ mình đang đứng, đi, nằm, ngồi, tắm rửa, ăn uống, nhai nuốt, tiểu tiện;
đó gọi là biết rõ cái How. 

Còn What là gì? 
Biết rõ cái gì nó xuất hiện trong lúc đó. 

  1. Mình đang đi bằng chánh niệm, biết rõ mình đang đi, đó là biết rõ cái How.
  2. Lúc đang đi đó, nẩy sinh một tâm thái bực mình khó chịu thì mình biết rõ đây là tâm sân, tâm ganh tỵ, tâm bủn xỉnđó là biết cái What.
Sẵn đây tôi nói luôn, có những người không học giáo lý không đồng ý với tôi là đi toilet mà giữ chánh niệm là tu, họ nói toilet là chỗ bất tịnh. Tôi xin các vị mở ra bài Tứ niệm xứ trong Trung bộ và Trường bộ kinh, xem trong đó có nói như vậy hay không. "Ở đây vị tỳ kheo chánh niệm tỉnh giác khi co tay biết rõ là co tay, duỗi tay biết rõ là duỗi tay, bước tới biết rõ đang bước tới, đứng yên biết rõ đang đứng yên, tiểu tiện biết rõ đang tiểu tiện; đắp y, mặc áo biết rõ đang đắp y, mặc áo". Xem dùm trong bài kinh có cái đoạn này hay không. 20:00

16/09/2020 - 01:56 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

... 21:27 

  1. Đến với Phật Pháp không có ý thức, không có đánh giá đúng mức tầm quan trọng của kiến thức giáo lý, chúng ta đã vô tình phủ nhận tuệ giác của Đức Phật, gia tài mà Ngài đã để lại cho mình. 
  2. Thứ hai, không có kiến thức giáo lý lấy gì mà học, lấy gì mà tu. 
Cho nên sẵn đây tôi nói luôn, toàn bộ cuộc tu của mình được đặt trên nền tảng nhận thức của mình. Có hai nền tảng, 
  1. nền tảng nhận thức mới dẫn đến 
  2. nền tảng hành trì, 
nhớ nha.

... Tuổi trẻ còn khỏe thì không nói gì, còn ai mà 70 năm tuổi đời có 40-50 năm theo đạo mà không biết gì hết, chỉ là một người cư sĩ tới lúc đối diện với tuổi già quạnh hiu, lúc đó mình hối hận cũng quá trễ rồi. Trong khi người biết giáo lý ở hoàn cảnh nào đi nữa thì họ cũng vững vàng dù có thầy có bạn hay phải tu một mình vẫn ok. Còn mình hồi trẻ mình sung, mình theo những theo những người chủ trương không học không hành gì hết, tuổi trẻ thì ok, nhưng một ngày chồng bỏ, vợ bỏ, con bỏ; vô trong nhà già nằm, đói, lạnh, bệnh hoạn, cô đơn, lúc đó mới nhớ lại tại sao Phật Pháp không cứu được mình? Không phải Phật Pháp không cứu được mà trong đầu mình vốn không có Phật Pháp! ... Tuổi trẻ không học giáo lý thì biết lấy gì để làm nền tảng hành trì rồi tới hồi về già ngáp ngáp rồi mới biết thân!
... Người 50 tuổi rồi thì toàn bộ cơ thể đang trong giai đoạn xuống đồi, các vị có đi đánh tennis, đánh golf mỗi ngày đi nữa, nhưng mà không chắc ăn đâu, cơ thể nó đang xuống dốc dữ lắm. Và nếu ngay bây giờ 50, 60 mà không có lận lưng một số kiến thức căn bản, cứ lơ mơ thì tới hồi mà nó lăn đùng ra... Người ta mời tôi đi cầu an, tôi nhìn thấy mấy người mấy chục năm là Phật tử kỳ cựu giáo lý thì không học tới bây giờ nằm ngáp ngáp với cặp mắt thất thần vô hồn sợ hải... Các vị có ra sao đi nữa, phải lận lưng kiến thức giáo lý để làm một chuyện thôi: Để sống chánh niệm.

Mà chánh niệm là cái gì? Không có quán chiếu gì hết, đừng có sắc ngồi danh ngồi, sắc nằm danh nằm, danh muốn ăn rồi sắc đút vô mồm, sắc nhai danh thích danh không thích v v... Cái đó là người ta phân tích cho mình nghe thôi, chứ mình không nên lấy đó làm điều rồi đi nhồi vô trong hành trì thì sai bét. Không có sắc danh gì ở đây hết. Cứ học giáo lý danh là gì, sắc là gì rồi quên mất, rồi sống chánh niệm thôi, làm gì biết nấy. Trong lúc làm gì biết nấy tự nhiên trí tuệ có mặt. 27:09

Thí dụ tôi đã chỉ cho các vị biết rõ là nấm này ăn được nè, nấm này nấm độc nè, rau này ăn được nè, rau này rau độc nè, cái này là mắt mèo nè, cái này mắc cở nè; cái này rau dền nè, cái này ăn được nè, cái này mồng tơi nè. Tôi chỉ, các vị cứ học xong xuôi rồi quên mất. 



Khi đi rừng tập trung ngó bước chân của mình, cẩn thận coi chừng té nha, đây có hố nè cẩn thận nha, cẩn thận nha cái đó coi kỹ phải rắn không, không phải, đó là khúc cây, ok, đi tới. Cứ đi đứng đàng hoàng .



Trong lúc đi như vậy khi mình đói bụng tự nhiên mình sẽ nhìn quanh coi cái gì ăn được. Lúc đó là kiến thức mấy năm nay quí vị học: rau nào ăn được, trái nào không ăn được, nấm nào ăn được, nấm nào không ăn được là lúc đó mình xài. Còn bình thường chưa tới lúc thì cứ đi cho cẩn thận coi chừng vấp té, lọt hố, đạp sình nè, vũng nước nên tránh nè, có cây che ngang trán kìa cúi xuống rồi đi qua, có vũng sình tránh qua một bên, có cục đá tránh luôn, bước lên được thì bước nhưng phải luôn luôn cẩn thận nha. 


Làm ơn nhớ dùm một cái là đi đứng cẩn thận trong rừng thôi, đừng có dùng ba cái kiến thức cây này nấm kia mệt lắm. Khi cần thì đem ra xài, xài xong dẹp qua một bên, đi tiếp. Đó là kinh nghiệm đi rừng.

29:09


16/09/2020 - 04:56 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

... 31:10 Ở đây hành giả cũng vậy, làm ơn học giáo lý rồi sống chánh niệm. Ba cái vụ quán chiếu, quán mền gì đó dẹp, không có quán. Hôm nay có thể nghe tôi giảng xong, các vị đi tìm các vị cao tăng các vị đi hỏi. Tôi chịu trách nhiệm với tuyên bố của tôi, đó là chúng ta chỉ học giáo lý rồi sống chánh niệm. Tất cả các kinh đều nói như vậy. 

Tôi gợi ý cho các vị biết, 
  1. học giáo lý chính là pháp học còn 
  2. sống chánh niệm chính là pháp hành. 
Chính Đức Phật Ngài cũng dạy, giáo pháp chỉ có ba thôi là pháp học, pháp hành và pháp thành. Pháp thành đừng có nhắc tới, đó là lúc đắc rồi. Mình chỉ còn có hai chuyện để làm thôi, đó là pháp học và pháp hành.


Pháp học là học giáo lý. Học giáo lý để làm cái gì? 

  1. Biết rõ cấu tạo của mỗi chúng sinh của vô lượng vũ trụ chỉ nằm ở trong lục đại: đất, nước, lửa, gió, hư không và thức. 
  2. Hoặc là nó chỉ nằm trong năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc, thọ, tưởng là cái gì; hành, thức là cái gì. 
  3. Biết rõ rằng vô lượng vũ trụ và tất cả chúng sanh chỉ gói gọn trong năm uẩn, trong mười hai xứ tức là sáu nội và sáu ngoại xứ. 
  4. thứ chỉ gói gọn trong mười tám giới tức là sáu căn, sáu cảnh và sáu thức. 
  5. Mọi thứ chỉ gói gọn trong danh và sắc. 
  6. Mọi thứ chỉ gói gọn trong nhân và quả. 
  7. Mọi thứ chỉ gói gọn trong tam tướng: vô thường, khổ và vô ngã. 
Chỉ nhớ chừng đó thôi. Phải học cái đó.

Còn cái chuyện cõi này cõi kia học sơ sơ cho biết thôi, chỉ học đại khái là sống nhiều với tâm dục giới sẽ quay trở về cõi dục, sống với tâm sắc giới sẽ về cõi sắc, sống với tâm vô sắc sẽ sanh về cõi vô sắc. Trong cõi dục ấy, sống với tâm lành thì về các cõi nhân thiên, sống với tâm bất thiện thì về các cảnh giới sa đọa. Chỉ nhớ căn bản chừng đó. Đừng có ham mà cõi này sống bao nhiêu, cõi kia sống bao nhiêu. Mình gần chết rồi, không có thời gian mà nhớ mấy cái đó đâu, không cần nhớ. Rồi còn nhớ chi ba cái chuyện bà Visākhā có bao nhiêu cháu nội, bao nhiêu cháu ngoại, quan hệ thông gia giữa cư sĩ này với cư sĩ kia, ông đó ổng giàu lắm ổng người xứ nào quên rồi ta. Dẹp, dẹp hết.

Chỉ còn nhớ bấy nhiêu đó thôi, nhớ cấu tạo của vô lượng vũ trụ và tất cả chúng sinh gồm cái gì? Học cái gì mà gọn nhất rồi sống chánh niệm. Làm gì biết nấy . 

Thêm nữa, trong thân tâm mình biết rõ. Hồi nãy tôi nói gọn thôi nha, chứ trong năm uẩn phải biết rõ sắc, thọ, tưởng, hành; thì trong cái hành uẩn đó mình phải biết rõ cái này là bất thiện nè, cái này là thiện nè.

Bất thiện gồm có gì? Tham, sân, si, ái, mạn, kiến, nghi v v... Còn bên thiện có gì? Tín, tấn, niệm, định, tuệ, tàm, úy, trí tuệ, kham nhẫn, thiền định. Chỉ học mấy cái đó thôi. Tất cả ngoài ra gọn được thì gọn. Cái quan trọng, căn bản nhất là quay về sống chánh niệm.

Tôi biết nhiều người trong room nghe đơn giản không có thích, nghe cái gì cụ thể không có thích. Thích cái gì mơ hồ như đọc chú mà khoái, còn không là cầu nguyện khấn khứa được này được kia. Chứ còn pháp môn gì kỳ cục quá: Sống chánh niệm. Nhưng tin tôi đi, chỉ có pháp môn chánh niệm là làm gì biết nấy cộng với kiến thức giáo lý thì sẽ có một ngày các vị thấy ra nhiều điều mà không có kinh sách nào có thể tả một cách chi tiết được hết, nhớ nha, không có. Kinh sách chỉ nói cho mình biết chừng chừng đại khái như vậy. 35:09

16/09/2020 - 05:40 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Và tôi đã có nói nhiều lần, con đường trên tấm bản đồ không giống như con đường ở ngoài thực tế. Con đường trên tấm bản đồ chỉ là một vệt mực ngoằn ngoèo khúc khuỷu thôi. Trong khi con đường ở ngoài thì có nhà cửa, cây cối, hoa lá, chim muông, nắng gió, mây trời v v... Nhưng có điều mình không thể phủ nhận tấm bản đồ được, phải có tấm bản đồ rồi bà con mới có thể đi được con đường ngoài thực tế. Ở đây cũng vậy, giáo lý là phải học, nhưng tất cả những hướng dẫn trong giáo lý chỉ là cái vệt mực ngoằn ngoèo trên tấm bản đồ thôi.

Trong khi đó, khi mình sống chánh niệm là mình đang có mặt trên con đường thực tế ở ngoài. Hồi đó mình học về lý thuyết định nghĩa tham là sao, ngã mạn là sao; tật đố, bủn xỉn, ganh tỵ là sao. Nhưng bây giờ mình sống chánh niệm, đi biết là bước đi trong chánh niệm; ngồi trong chánh niệm; ngồi xuống biết rõ ngồi xuống. Vậy thôi, tôi đâu kêu làm gì đâu. Muốn rót nước là biết rót nước; muốn uống nè, làm gì biết nấy. Cộng với kiến thức giáo lý, chỉ vậy thôi.

Nãy tôi có nói rồi, làm ơn đi đường cẩn thận dùm tôi. Chỉ vậy thôi. Cẩn thận đây là chánh niệm, leo núi cẩn thận, đi rừng cẩn thận, men theo mép vực cẩn thận. Đừng có đem kiến thức gì ra. Tự nhiên chỗ nào nó cần tự nó lòi ra, tin tôi đi. Chỗ nào cần, tự nhiên kiến thức nó văng ra. Còn chỗ nào không cần thì tự nhiên kiến thức nó ẩn vô, khuất vô. Lúc đó mình chỉ sống chánh niệm thôi, khi nào cần tự nhiên kiến thức giáo lý nó trào ra cho mình xài, xài xong nó rút trở vô. Nhớ như vậy.

Cho nên tôi nhắc lại một lần nữa: 
  1. Chỉ có 10 % đời sống của chúng ta là những gì xảy ra cho mình, mà 
  2. 90 % chính là phản ứng tâm lý của chúng ta.
Bắt đầu tôi nói hơi sâu một chút. Toàn bộ mắt, tai, mũi, lưỡi của quí vị đều do tiền nghiệp quá khứ tạo ra. Tấm thân này là do tiền nghiệp quá khứ tạo ra. Những chuyện vui buồn hên xui may rủi mà nó xảy đến cho mình trong kiếp này cũng đều là cái quả thiện ác của đời trước. Vấn đề ở chỗ là mình đón nhận cái quả thiện ác nó ra làm sao.

Người không biết Phật Pháp chia ra mấy hạng sau:

1. Chỉ biết có thích ghét buồn vui. Ngoài ra bất kể thiện ác.
2. Biết quan tâm đến thiện ác nhưng mục đích cũng là trốn khổ tìm vui.
3. Chán cả chuyện thích ghét buồn vui nhưng vẫn tiếp tục sống thiện để mai sau chứng thánh không còn thiện ác buồn vui nữa. 38:12

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Nên Hay Không Nên (2-2)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...20N%C3%AAn

17/09/2020 - 09:12 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Và tôi nhắc lại, đời sống của mình nó chỉ là sự ghép nối của nhân quả thôi, quả cũ và nhân mới chứ không có gì khác. Đời sống của mình chỉ là sự ghép nối của quả cũ và nhân mới. 

  1. Quả cũ là cái gì? Đó chính là hình hài này, đời sống này, đó là quả cũ. 
  2. Còn nhân mới là gì? Đó chính là phản ứng tâm lý của chúng ta trước những quả cũ đó. 
Thí dụ như tôi gặp được một người mà tôi thích, phản ứng tâm lý của tôi trước họ ra sao, đó là nhân mới, nhân thiện hay nhân bất thiện là chuyện có mình tôi biết thôi. Người đó, vật đó, cảnh đó đều do nghiệp cũ dẫn đến cho tôi, nhưng cái nhân mới của tôi là cái gì? Đó là phản ứng tâm lý của tôi ngay bây giờ. Cái chuyện mà người ta mắng tôi, đó là cái quả cũ của tôi nhưng cái phản ứng tâm lý của tôi ngay bây giờ nó là nhân mới.

Quả cũ mình tránh không được, Phật còn tránh không được nói gì mình! Nhưng cái nhân mới lại khác, Phật vẫn chịu cái quả cũ nhưng Phật không tạo nhân mới. Dĩ nhiên Ngài là vị A la hán đã vượt khỏi thiện ác rồi, bây giờ mình nói mình nè. 

Tuy mình không thể tuyệt đối tránh được chuyện gieo nghiệp mới nhưng ít ra mình làm được hai chuyện.

  1. Một là gieo nhân thiện
  2. hai là giảm nhân ác
Giảm bằng cách nào? Tôi nói kinh nghiệm của tôi, người nào vật nào mà nghĩ tới làm mình thấy phiền, tôi hạn chế không nghĩ tới. 

  1. Chứ tôi không hề nói rằng tôi không có phiền não. 
  2. Tôi cũng không nói rằng các vị đương đầu nhìn thẳng vào phiền não. 
Mà tôi chỉ nhắc các vị thôi. 

Chính trong kinh, Đức Phật Ngài dạy, nếu trừ không được thì nên tránh, công thức trong Tứ chánh cần. Trừ phiền não mình có nhiều cách, hoặc trừ hoặc tránh. Nếu nó trồi lên mình chịu không nổi, thôi mình tránh trước. 40:35@

Nhiều lần tôi nói, 

đối với bất thiện pháp, đối với chuyện bậy bạ tội lỗi, mình chưa có ly dị được thì mình cũng nên ly thân. 

Còn đối với thiện pháp mình chưa có kết hôn thì cũng nên đính hôn, là chỗ đó. 

Có nghĩa là sao? 

Nghĩa là nhiều khi mình trừ không nổi thì mình nên tránh từ xa nó cũng đỡ. Khi mình đối diện với sáu trần (sắc thinh khí vị xúc pháp) mà mình có niệm, có trí thì mình làm được hai chuyện:

Một là mình đối diện với nghiệp xấu bằng chánh niệm, bằng trí tuệ. Nghĩa là nhận quả xấu bằng cách là gieo nhân mới, nhân tốt.

Hai là nếu mình không gieo được nhân tốt thì mình cũng hạn chế được nhân xấu. Là không có để mình phải nặng lòng với nó quá lâu, quá nhiều. 41:30

... Trên đời này nên nhớ chỉ có bốn thứ mà mình không nghĩ tới nó mà nó vẫn có, ngoài bốn thứ này ra ta không nghĩ tới nó thì nó không có. Mà vô lượng vũ trụ chỉ có bốn thứ thôi: 

  1. Một là bệnh hoạn. Mình không nghĩ tới nó, nó vẫn có. 
  2. Hai, thù oán. Mình không nghĩ tới nó, vẫn có người thù mình.
  3. Ba, là pháp luật. Mình không nghĩ tới, nhưng mình đã làm chuyện bậy bạ thì pháp luật, trát tòa cũng gởi tới. 
  4. Thứ tư, là nợ. Mình không nghĩ tới thì nợ cũng có thật.
Như vậy thì ngoài bệnh, nợ, thù oán và pháp luật ra, làm ơn dẹp hết, không có cần bận tâm tới bất cứ cái gì. Có nghĩa là ngoài bốn thứ này ra tất cả còn lại, mình không nghĩ tới nó thì nó không có, dầu nó là lợi danh, tình cảm, uy tín, quyền lực. Không có. Nếu không tin các vị thử tưởng tượng, các vị hình dung đi. Các vị ngồi trên xe buýt, trên xe lửa, trên máy bay, đi shopping, bên cạnh các vị có biết bao nhiêu người, chỉ cần các vị không có lo để ý tới họ, các vị cứ tập trung vô cái phone hoặc là các vị cứ lo nói chuyện với người trước mặt hoặc trong đầu các vị đang nghĩ tới chuyện gì khác, thì bao nhiêu người ngồi bên mình, mình đâu có biết. Và lúc bấy giờ, những người đó dầu họ ngồi bên cạnh mình hay họ cách mình ngàn dặm nó giống nhau quí vị à, giống nhau lắm, y chang. 43:45

17/09/2020 - 10:14 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Một người cách mình một đại dương mà lòng mình cứ nghĩ tới họ hoài thì giống như họ ở bên cạnh mình vậy. Trong khi đó cái người láng giềng cách mình một cái giậu rào, một phên thưa thôi, một rào tre, rào trúc mà nếu mấy năm trời mình không có tiếp xúc với họ thì coi như họ sống chết mình đâu có hay. Ông Pascal có nói rằng "Tôi suy tư tức là tôi tồn tại". Ở trong Phật Pháp mình còn thêm một cái nữa, đó là "Tôi được nhắc tới cũng là cách tôi được tồn tại. Và tôi nghĩ đến cái gì thì cái đó nó tồn tại." Mình nghĩ tới cái gì thì cái đó tồn tại, hoặc là mình còn được nhớ tới cũng là mình còn tồn tại. Có nhiều cách nói, tùy trường hợp mà xài câu nào. Nhưng ở đây tôi muốn nói tới câu này "Ta nghĩ tới nó thì nó mới tồn tại".

Thí dụ, cũng một cái tát, nếu đó là đứa con của mình, nó giỡn với mình, nó nắm tóc, kéo tóc mình rồi nó tát mình thì mình không có bỏ bụng. Lúc đó mình nghe phone, thấy đau quá thì nắm tay nó mình kéo ra, sau đó mình vịn nó lại, mình vẫn nghe phone bình thường. Rồi sau đó mình quên luôn là con mình nó mới nắm tóc mình, nó mới tát mình. Đúng không? Quên mất. Trong khi đó mình là đàn bà đang đi ra đường, tự nhiên có bà nào đó nhào ra nắm tóc mình, tát mình, nói mình giựt chồng bả, mình về mình nhớ suốt đời. Đúng không quí vị? Cũng nắm tóc, cũng tát tai, nhưng mà có cái mình nhớ hoài là vì sao? Vì mình cột cái tâm mình vào trong đó, mình muốn giữ nó lại, mình có lưu ý, mình có quan tâm đến nó thì nó còn đó. Còn nếu như mình không quan tâm, không lưu ý thì nó mất.

Cho nên, nhớ cái này, cái chuyện mà nói là tu hành là đoạn trừ phiền não, chuyện đó trên trời tôi không dám nói, nhưng mà tôi dám nói cái này: Tránh. Tránh là rất tốt, tránh, hạn chế, tránh chuyện gặp gỡ những người mà chỉ làm phiền mình. Tránh nghe những cái làm phiền mình. Tránh nhìn những cái làm phiền mình. Tránh ngửi những cái làm phiền mình. Tránh nghĩ đến những cái làm phiền mình. Rất quan trọng. Chứ còn ai đó nói tu là đoạn trừ phiền não, chữ "đoạn trừ" nghe nó mơ hồ lắm. Chữ thật nhất là "Tránh".

Ở trong giáo lý duyên khởi có Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc, do Vô Minh trong Bốn Đế mới tạo ra các nghiệp thiện ác, do các nghiệp thiện ác mới có các tâm đầu thai, do có các tâm đầu thai nên ta mới có Sáu Căn; do có Sáu Căn nên ta mới có Sáu Xúc, Sáu Thọ. Cái đó rất là quan trọng. Rất là nhiều người không hiểu chỗ này, cứ nói nguy hiểm nhất là do Vô Minh, Vô Minh tạo ra các nghiệp thiện ác; rồi Sáu Ái dẫn đến chuyện đầu thai ba cõi sáu đường, ngũ thú lục đạo, tứ thủ v v... Cứ nhắm ba cái phiền não mà họ quên một chuyện rất là quan trọng, đó là từng cái mắc xích ở trong duyên khởi. Chẳng hạn tôi lấy cái mắc xích Sáu Xúc (mà hồi nãy tôi mới nói tu là tránh). Ở đây Xúc quan trọng lắm. 47:10

17/09/2020 - 04:01 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Tại sao mà mình phải giữ giới? 
Là tại vì giữ giới nó hạn chế cho mình những tiếp xúc không cần thiết. 

Thí dụ như bát quan trai, sau 12 giờ là mình không có tiếp xúc với thực phẩm, mà nếu cần mình cũng hạn chế không có tiếp xúc với nhà bếp. Mình không ăn đã đành rồi, mà mình cũng không tiếp xúc với chuyện xào, nấu, nướng, xuống bếp bầm bầm, xắt xắt. Hạn chế sử dụng và cắt chuyện thưởng thức ca vũ nhạc kịch. Không sử dụng các hương liệu, phấn son, mỹ phẩm, nữ trang. Hạn chế không sử dụng giường cao chiếu rộng để hưởng thụ. 

Tại sao vậy? Tại vì Xúc. Tu đây là tu Xúc, cái chuyện hạn chế của Sáu Căn tiếp xúc với Sáu Trần thì ngay cái chuyện hạn chế đó đã là tu rồi.

Đừng có nói với tôi tu là diệt trừ phiền não, là đoạn trừ phiền não, tôi không có tin cái đó, nhưng mà tránh thì tôi tin, tránh từ xa.

Còn chuyện đoạn trừ, chuyện đó có chứ không phải không, nhưng đối với bậc thượng thừa kìa. Biết đây là tâm sân thì tâm sân liền biến mất; biết đây là tâm tham, tâm tham liền biến mất; đây là vô úy, biết xong vô úy liền biến mất; biết đây là hôn trầm thụy miên, biết xong hôn trầm thụy miên liền biến mất. Mấy cái đó là cao siêu lắm. 

Cái chuyện đầu tiên có thể là mình tránh bớt, hạn chế bớt những cái thấy nào mà nó làm cho mình có phiền não. Những cái thấy mà nó làm cho mình thích, những cái thấy mà nó làm cho mình bực. Những cái nghe nào mà nó làm cho mình thích, những cái nghe nào làm cho mình bực. Những tiếp xúc nào mà nó làm cho mình thấy thích, những tiếp xúc nào mà nó làm cho mình bất mãn. Tất cả những tiếp xúc đó mình phải hạn chế tối đa cho nó còn ở mức tối thiểu. Nhớ cái đó rất quan trọng.

Tôi nhắc lại cái bài giảng hôm nay của tôi là cái gì? Chỉ có hai điều thôi là nên làm và không nên làm. Vì sao? Là vì toàn bộ đời sống của chúng ta nó chỉ là hạnh phúc và đau khổ. Mà hạnh phúc là đến từ hai nguồn có và không có cái gì đó. Và đau khổ cũng đến từ hai nguồn có và không có cái gì đó. Cho nên cái chuyện tu hành cũng gom gọn còn có hai điều thôi là nên làm và không nên làm cái gì đó. Chính phản ứng tâm lý của chúng ta mà cảnh trần nó làm cho chúng ta trở nên đau khổ hay là an lạc.

Và cái an lạc đây tôi cũng phải nói thêm là nó có nhiều cấp. 

Có ba trường hợp an lạc phải nhớ là: 
Thứ nhất, là tránh được cái mình ghét, đó là một thứ hạnh phúc. 
Thứ hai, có được cái mình muốn. 
Nhưng cái hạnh phúc thứ ba này chính là thứ hạnh phúc mà tôi đặc biệt hướng tới và thiết tha kêu gọi bà con trong room nên quan tâm lưu ý. Hạnh phúc thứ ba này mới quan trọng, mà muốn nói tới nó thì mình phải ôn lại hai cái hạnh phúc trước.

  1. Hạnh phúc thứ nhất là hạnh phúc vì tránh được cái mình ghét. 
  2. Hạnh phúc thứ hai là có được cái mình muốn. 
  3. Và cái hạnh phúc thứ ba là gì? Là không còn thích, không còn ghét nữa. 
Có một ngày bà con sẽ tin điều này là sự thật. Còn có cái để thích mà lỡ không có được cái đó là đau khổ. Còn có cái để mình ghét thì khi không tránh được cái ghét là mình bị đau khổ. 

51:06

Hạnh phúc và đau khổ, cái này là con của cái kia. Hạnh phúc là mẹ của đau khổ, mà đau khổ lại là mẹ của hạnh phúc. Nãy tôi có nói hạnh phúc nó đến từ cái gì? Một là tránh được cái mình ghét, mà không tránh được thì sao? Khổ. Hạnh phúc thứ hai là gì? Là có được cái mình muốn, nhưng mà nếu không có được thì sao? Khổ. Như vậy, cái hạnh phúc thứ ba mới là cái hạnh phúc của người hiền trí, hiền giả bởi vì hai cái hạnh phúc đầu nó rất là mong manh. Chỉ có cái hạnh phúc thứ ba là hạnh phúc thứ thiệt, sông có thể cạn núi có thể mòn nhưng nó không bao giờ bị mất, là vì sao? Vì nó nằm ngoài thích và ghét. 

Sẽ có một ngày các vị thấy rằng không còn ai để mình thương ghét, không còn cái gì để mình thích và không thích, mình không cần tìm tới cái gì nữa hết. Nhưng nhớ một điều có một lằn ranh rất nhỏ và rất mảnh bằng 1 phần ngàn cái (?), đó là gì? 

Nhiều người thấy rằng mình không thích gì hết họ tưởng là họ đã tu. Sai. Ngay lúc đó tạm thời họ chưa có nghĩ ra cái họ ghét, tạm thời họ chưa có nghĩ ra cái họ thích, họ tưởng rằng họ đã làm đúng cái điều mà trong kinh nói. Chỉ cần một lát nữa gặp một chuyện gì đó mà nó làm cho họ ghét, làm cho họ thích thì họ mới biết rằng họ vẫn còn là phàm nguyên con.

Cho nên, lý do tại sao chúng ta phải học giáo lý? Đó là học để biết rõ rằng về mặt lý thuyết, thật sự mình còn là phàm, phiền não của mình còn nguyên khối. Đừng có chạy trốn đi đâu hết, đừng có nghĩ tưởng mình là thánh, không có đâu nha. Chẳng qua là ngay lúc này phiền não nó chưa đủ điều kiện, chưa đúng môi trường, chưa đúng bối cảnh, chưa đúng đối tượng thì nó không có xì ra.

Tại sao tôi mở ngoặc tôi nói thêm cái điểm này là bởi vì tôi đang giảng ba thứ hạnh phúc.

Hạnh phúc thứ nhất đó là né được cái mình ghét (né được khổ). Hạnh phúc thứ hai, có được cái mình thích là hạnh phúc (không có được cái đó là mình khổ). Hạnh phúc thứ ba là cái hạnh phúc không cần ngoặc đơn. 

Hạnh phúc thứ ba là gì? Là một ngày nào đó mình thấy ra rằng thật sự không có người, vật hay cảnh nào để mình thích hay ghét một cách đặc biệt hết. Như vậy đúng chưa? Chưa đúng. 

Mình phải hiểu tại sao mình không còn thích ghét. Là vì mình hiểu, do có hiểu rằng mọi thứ do duyên mà có, có rồi phải mất. Bây giờ không mất, chiều nay không mất, thì khuya nay hoặc sáng mai nó mất. Phải luôn luôn nhớ như vậy. Khi hiểu như vậy thì có được lòng bình thản, không thích ghét đặc biệt gì hết. Cái đó mới là hạnh phúc. Hạnh phúc của cái người mà không màng tới cái chuyện hạnh phúc thì đó mới là hạnh phúc thứ thiệt. Hạnh phúc của người không màng tới đau khổ thì hạnh phúc đó là hạnh phúc thứ thiệt. Hạnh phúc của người mà không màng tới giọt lệ và nụ cười thì hạnh phúc này mới thật sự là hạnh phúc. Bởi vì cái tên này lúc nào nó cũng cười được hết trơn, nha.

Còn thứ mà còn trốn khổ tìm vui, còn tìm cái mà nó thích, có ý chạy trốn cái nó ghét thì hạnh phúc đó bấp bênh lắm, bởi vì chỉ cần ngày nào nó không trốn được cái nó ghét thì nó khổ. Cái nó ghét là cái gì? Người nè, cảnh nè, vật, mà các vị biết đời sống mình mà, cái đồ mình ghét nó nhiều lắm. 55:05

18/09/2020 - 09:08 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

... Có những người họ chưa từng nghe Phật Pháp. Phật Pháp đối với họ là một cái gì đó một là mơ hồ hay là tật nguyền, một thứ Phật Pháp thuần túy tín ngưỡng, niềm tin cuồng tín mù quáng. Thật ra họ có thể tiếp nhận một thứ Phật Pháp tinh khôi, uy nguyên, thông tuệ. Bây giờ họ không được nghe cái đó thì uổng cho họ. Cách đây mấy hôm tôi có biết được một vài người họ đã lặng lẽ âm thầm nghe các pháp thoại từ lâu và họ rút ra được một vài cái mà tôi giựt mình. Giựt mình ở chỗ là những cái đó mình nói phớt qua nhưng không ngờ nó đã giúp cho họ. Hôm nay, cũng vì tấm tình nghĩ đến những người đó mà tôi tiếp tục rút ruột phơi gan để mà tôi chia xẻ những điều mà tôi cho là điểm tâm dắc của tôi.

Điều quan trọng nhất mà tôi muốn nói trong bài giảng hôm nay, đó là làm ơn làm gọn lại cái nội dung giáo lý để mình có thể dễ nhớ và dễ làm hơn. Các vị có thể bị rơi vào hai cực đoan sau đây: Một là tu không cần học gì hết. Hai, cho rằng phải trở thành học giả. Tôi chỉ đi ở kẻ giữa thôi. Đặc biệt hôm nay tôi thiết tha nhắm tới những người mà họ đang cần có cái gì đó rất là căn bản rồi bỏ túi xài liền bây giờ. Sau khi màn hình này đóng lại tắt đi, thì họ có cái họ xài liền. Họ sẽ có được một định nghĩa rất ngắn gọn về hạnh phúc và đau khổ theo tinh thần Phật Pháp. Họ có một định nghĩa rất là ngắn gọn về ba Tạng. Nãy tôi đã nói rồi, họ có một định nghĩa ngắn gọn về quan điểm nhận thức và quan điểm hành trì mà Phật tử cần có phải như thế nào. Thì đó chính là điều mà tôi đặc biệt nhắm tới và đặc biệt lưu ý trong bài giảng hôm nay.

Tôi nhắc lại một cái ý mà tôi cũng vừa nói ở đầu bài giảng, đó là bất cứ nơi nào cũng đều có thể là đạo tràng cho chúng ta hết. Trước đây chúng ta chỉ biết trốn khổ tìm vui hoặc khá hơn một chút chúng ta tự mình có những giá trị mặc định: Đây là chỗ để tu, đây là chỗ không phải để tu. Kể từ hôm nay, với những định nghĩa mà tôi vừa cung cấp cho quí vị, quí vị thấy một điều đó là nơi nào mình cũng có thể tu được. Mình tu được ngay trong cái mình thích, mình tu được ngay trong cái mình ghét, mình tu được ngay trong lúc mình quan sát cái thiện của mình, mình tu được ngay trong lúc mình quan sát cái bất thiện của mình.

Các vị đứng trong phòng fitness, tự mình xoa bóp cơ bắp của mình, đây nó nở nè, nó cứng nè, đó cũng là một cách để bảo vệ sức khỏe. Nhưng các vị quan sát biết rằng đi thử máu, thử đường, đo tăng xông cũng là một cách để giữ sức khỏe. Làm cho mình có cơ bắp là một cách để giữ sức khỏe, mà theo dõi những mặt xấu của thân xác cũng là cách giữ gìn sức khỏe. Chứ xoa nắn cơ bắp của mình mà quên đi thử máu thì không được, phải có đi thử máu.

Như vậy tu hành là gì? Tu hành là mình quan sát cái cơ bắp thiện pháp của mình, đó cũng là tu. Mình biết đây là chánh niệm nè, cái này là trí tuệ. Nhưng bên cạnh đó mình cũng phải pháp hiện luôn cả những cái mặt trái của mình đó cũng là tu. Biết cái này là bủn xỉn nè, cái này là ganh tỵ nè, cái này là nhỏ mọn nè, cái này là tâm tham nè, cái này tâm sân hận nè, cái này oán hận nè, cái này tiểu tâm. Biết rõ. Thì đó cũng là tu.

Như một người làm vườn chăm sóc một luống hoa cũng là làm vườn, mà họ đi kiếm mấy bụi cỏ gai tào lao để họ nhổ cũng là làm vườn. Chứ nếu nói làm vườn tôi chỉ biết trồng bông thôi chứ cỏ dại tôi không để ý. Sai. Làm vườn là làm cả hai chuyện luôn. Đối với cái gì cần vun xới thì ta vun xới, cái gì cần bỏ đi thì ta bỏ đi. 1:00:10

18/09/2020 - 11:50 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Muốn làm đẹp một căn nhà, muốn làm đẹp một gương mặt, chúng ta chỉ có hai việc thôi, đó là thêm và bớt. Muốn làm đẹp một căn nhà có nhiều người có khuynh hướng trang trí thêm tranh ảnh, đồ lưu niệm, tượng thạch cao, tượng gỗ, tượng đá, tượng đồng, tượng sắt. Cứ đem về chất đầy lên, đó cũng là một kiểu làm đẹp. Làm đẹp bằng cách là chất vô. Có người lại làm đẹp bằng cách là lấy ra, tức là họ thấy trong phòng họ, cái nhà họ có cái gì nó dư là họ bèn lấy nó ra.

Tùy quí vị thôi, quí vị thuộc về nhóm nào, thích làm đẹp nhà cửa bằng cách thêm hay bớt thì tùy. Nhưng gom gọn lại thì trong cái hoàn vũ này dù làm đẹp cơ thể, làm đẹp nhan sắc hay làm đẹp nhà cửa phòng ốc, chỉ có hai thôi: Thêm và bớt. Thêm cái gì cần thêm và bớt đi cái gì nên bớt. Đó chính là cách làm đẹp một căn nhà, làm đẹp một cơ thể.

Nội tâm tu hành cũng vậy, cũng chỉ có hai việc đó thôi. Có nghĩa là cái gì cần bỏ bớt thì bỏ. Nhưng nhớ cái này quan trọng, trong cái chuyện làm đẹp về vật chất thì mình lấy ra hay mình bỏ vào cũng là cách để làm đẹp. Mình thấy rõ rằng cách bỏ ra và lấy vào là hai việc hoàn toàn khác nhau. 

Nhưng trong chuyện tu hành lại khác, tu hành chúng ta chỉ làm một việc thôi. Chỉ cần mình tập trung vào cái bất thiện, tập trung quan sát cái bất thiện của mình thì ngay lúc tập trung đó là thiện đó quí vị. Nhớ, quan trọng lắm nha.

Tôi nhắc lại, trong đời sống vật chất thêm nó là một chuyện riêng, mà bớt là một chuyện riêng. Nhưng trong pháp môn tu hành, chúng ta chỉ làm một việc thì nó có cả hai. Cứ chuyên tâm chánh niệm, biết cái gì đang có mặt, chỉ một cái đó thôi. Biết rõ đây là tâm tham thì ngay trong cái biết rõ đó nó đã là thiện rồi. Biết rõ đây là thiện, biết rõ đây là niềm tin, đây là trí tuệ là thiện đã đành rồi. Tâm biết và đối tượng được biết đều là thiện đó dễ hiểu rồi. Đằng này mình biết rõ đây là tâm tham, đây là tâm ganh tỵ, đây là tâm bủn xỉn, thì đối tượng lúc bấy giờ là bất thiện, đúng, nhưng cái tâm mà biết nó lại là tâm thiện. Nhớ cái này. Chỉ cần làm một việc thôi.

Có một câu chuyện mà tôi kể hoài, có hai ông cháu làm nghề xiếc. Nhiều năm qua ông còn khỏe lắm, nhưng mấy năm nay ông yếu. Xiếc bằng cách là cây tre thiệt dài họ bôi dầu lên, một người ôm giữ cây tre còn người kia leo lên cây tre đó. Thông thường đi đến làng nào đó người ta biết hai ông cháu có nghề đó, họ hay treo món tiền thuởng trên đầu ngọn tre, họ cho biết giá tiền trên đó là bao nhiêu và nếu leo lên được cây tre đó mà lấy thì coi như phần đó của mình. Hai ông cháu sống bằng nghề đó suốt nhiều năm trời, đến một ngày kia đứa cháu ôm cây tre cho ông nội leo. Thấy ông sao bây giờ yếu quá nó mới hỏi "Ông ơi, ông được không ông?". Ông nội trả lời một câu rất là Phật Pháp, ông nói "Cháu cứ lo cháu ôm cái gốc tre cho chắc đi. Cháu lo cái chuyện của cháu đi, phần ngoài ra để nội tính."

Ở đây cũng vậy, cứ quan sát nó, các vị đừng có lo là Tín Niệm Tàm Úy... Dẹp. Cứ nhìn coi cái gì đang xảy ra thôi. Ngay trong lúc mà đang quan sát là anh có hết tất cả, gọi là vạn đức vạn hạnh, nghĩa là muôn ân đức trong trời đất đều có trong lúc đó. Cứ sống chánh niệm đi. Nhưng nhiều người không có tin, nghĩ là chánh niệm có gì đâu, học theo trong A tỳ đàm nó chỉ là tâm sở Niệm thôi. Nhiều người không biết Niệm là gốc tất cả, chính Đức Phật dùng chữ sabbacika(?) là pháp đặc biệt hữu dụng trong mọi tình huống cho mọi thiện pháp. Niệm là cái nền, cứ làm cái gì biết nấy: ăn uống, nhai nuốt, nói cười, tiêu tiểu, rửa mặt, đánh răng; từng việc làm cầm lên, để xuống, mở vặn đều bằng chánh niệm hết. Trên cái nền tảng đó thì muôn hạnh nó đổ về. Hãy tin tôi đi. Nhưng phải có kiến thức giáo lý và sống chánh niệm thì muôn hạnh tự động nó đổ về. Lúc nào mà từ tâm nó ra được tự nhiên nó ra liền, mà trí tuệ nó ra được nó ra liền, thiền định có được nó ra được nó ra liền. Yên tâm, phải là chánh niệm. Đặc điểm của vị thánh là luôn chánh niệm. Đặc điểm của phàm phu là thường xuyên thất niệm. 1:06:14

18/09/2020 - 04:40 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Có người hỏi Đức Phật "Làm sao để trở thành một vị A la hán?" Đức Phật Ngài dạy "Sống trong Niệm xứ". Họ hỏi tiếp "Khi một vị đã đắc A la hán rồi thì đời sống của vị đó sẽ ra sao?" Ngài dạy rằng "Vẫn là sống trong Niệm xứ". Ngày xưa ta còn phàm ta sống trong Niệm xứ để ta không còn là phàm nữa, để ta kịp thời nhận diện cái phàm của mình, nhưng khi ta đã là bậc thánh thì ta không thể nào sống rời chánh niệm được là vì sao? Vì vị thánh không còn có cách sống khác ngoài chánh niệm.

Trong cái nhìn của thế gian thì trái đất này rộng lắm. Ngọn núi mình đang ở cao lắm, cái hồ nước trước mặt mình nó rộng lắm. Cái vũ trụ này nó bao la lắm, đó là nói theo thế gian. Nói theo trong kinh Phật thì toàn bộ vũ trụ này, cái khái niệm rộng hẹp không có thật. Mà cái có thật chính là cái mà ta ghi nhận được. Không biết trong room nghe có hiểu nỗi không? Hồi mình không biết đạo thì mình nói núi cao, hồ rộng, sông dài. Tới hồi biết đạo rồi thì cái cao, cái dài, cái rộng đó nó không có thật. Như vậy cái gì có thật? Cái gì mà ta đang biết đây, cái đó mới có thật.

Cho nên, người sống chánh niệm là người sống tận tuyệt rốt ráo với mọi hiện hữu nhất. Còn đằng này mình đang ăn bắt đầu nghĩ tới cái khác, nấu ăn mà kẹp cái phone nói chuyện là trật lất. Mình là cái xác chết rồi chưa chôn. Mình làm mà mình không biết là mình đang làm cái gì. 

Trong khi đó người sống chánh niệm là người sống thiết tha với thực tại nhất. Người đó là người cảm nhận vũ trụ một cách trọn vẹn nhất. Làm gì biết nấy. Bởi vì vũ trụ này nó có hay không có là tùy thuộc vào Sáu Căn của chúng sinh. Nhớ nha.

Do chúng ta có Sáu Căn nên chúng ta mới có khái niệm là vũ trụ. Chứ thử thời bây giờ mình không có Sáu Căn, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác, xúc giác và ý thức; chúng ta không có sáu cái này thì vũ trụ là không có. Tôi biết nhiều người không tin điều đó. Những cái đó nó có, gom chung lại là Sáu Trần. Mà Sáu Trần được gọi là Sáu Trần vì nó là đối tượng nhận biết của Sáu Căn. Và Sáu Căn được gọi là Sáu Căn vì nó là cái nhận biết Sáu Trần. Hai cái này nó qui định lẫn nhau. Cho nên thế giới này nó vốn không có thật. Nó chỉ có thật trong cái gì mà ta nhận biết.

Nãy tôi có nói, mình ngồi cạnh nhau mà lòng không nghĩ về nhau, không nhớ đến sự hiện hữu của nhau thì lúc đó cái người bên cạnh mình là zero. Nhưng một lát sau người đó cọ quẹt cùi chỏ của họ chạm mình thì lúc đó họ lại có mặt. Rồi mình ngồi giữa trưa nắng chang chang và đang bận tâm nghĩ đến chuyện này chuyện kia mình không nhớ tới cái nắng. Lúc đó cái nắng đối với mình nó không có thật. Nó chỉ có với người nào quan tâm tới nó thôi, chứ đối với mình cái nắng đó không có thật. Mặc dù có thể tối nay mình về mình bị cảm nắng, cái đó là phản ứng sinh học chứ nó không liên hệ gì đến điều mà tôi đang nói. Tức là cơ thể mình như vậy, với cái nhiệt độ như vậy thì sẽ có tác động tạo ra phản ứng tiêu cực trong cơ thể của mình. Và ta gọi cái phản ứng đó là cảm nắng, đó là một chuyện khác.

1:11:16

Nhưng ở đây tôi đang nói tới khía cạnh là Căn và Cảnh. Mọi thứ trong đời này: vũ trụ, con người, chúng sinh, muông thú (bò bay mái cựa, phi cầm điểu thú), kinh rạch, sông núi, ao hồ; tất cả chỉ có thật trong cái gì mà quí vị ghi nhận thôi; ngoài ra nó không có thật. Tôi đang nói về mình đó. Người kế bên cũng vậy, cái gì đó được biết đến thì cái đó nó hiện hữu, còn tất cả là không.

Chữ Không trong đạo Phật có nhiều nghĩa lắm. Thứ nhất, Không đây có nghĩa là mọi thứ ở đời không có cái gì mà tồn tại độc lập mà đều là lắp ráp hết. Thí dụ như nói chiếc xe, trên đời này nguyên thủy không có cái gì gọi là chiếc xe hết mà nó là một đống đồ phụ tùng được ráp lại. Không có chiếc xe trong đống phụ tùng và trong đống phụ tùng không có chiếc xe, là vậy đó. Ở đây cũng vậy, cái Không thứ nhất: Mọi thứ đều là đồ ráp.

Cái Không thứ hai là nó chỉ có khi ta nghĩ tới nó. Ta không nghĩ tới nó thì nó không có. Cái Không thứ ba, mọi thứ do duyên mà có rồi cũng do duyên mà mất. Duyên tụ thì nó có, duyên tán thì nó mất. Mọi thứ do các điều kiện mà có.

Đừng có nói tôi bỏ tiền ra mua thì cái đó là của tôi và tôi đang có nó, đang sở hữu nó. Bây giờ cấm tôi không được nghĩ tới nó hay quên nó thì nó không có, tôi không đồng ý. Hôm qua tôi mới mua chiếc nhẫn hột xoàn tám li để vào tủ sắt của tôi, bây giờ tôi quên rồi, vậy nói nó không có. Đúng, tôi chịu trách nhiệm câu nói đó. Đối với người mà quên cái đó thì đối với họ lúc đó nó không có hay nó tương đương với cái không có. Khi nào các vị nhớ "Ờ, ngày hôm qua tôi có mua" thì lúc đó nó mới có. Còn khi mình quên nó thì nó không có.

Tôi thí dụ đột nhiên các vị bị alzheimer hoặc các vị bị hôn mê hoặc bị loạn trí thì cái "quyền sở hữu" và "ý niệm sở hữu" lúc đó của các vị có còn không? Dứt khoát là mất. Mới ngày hôm qua tôi mua chiếc nhẫn 1 carat to đùng, lúc 10 giờ đêm tôi còn thức dậy lấy kiếng tôi coi. Sáng nay tôi bị hôn mê thì cái ý niệm sở hữu và cái quyền sở hữu lúc đó nó không còn nữa mà nó chuyển qua người khác là người thừa kế như chồng tôi, vợ tôi, con tôi, cháu tôi, mẹ tôi, cha tôi, anh em của tôi, bà con thân quyến của tôi, người giám hộ tôi. Chứ còn riêng tôi thì cái ý niệm sở hữu và quyền sở hữu không còn nữa tại vì tôi đang bị hôn mê hay bị alzheimer mà, thì lúc đó chiếc nhẫn đối với tôi không còn là gì hết.

Thí dụ thứ hai đó là tôi chết. Cũng hình hài mấy chục ký này mà chỉ cần tôi không thở trong vòng năm phút thôi thì tất cả những quyền sở hữu, ý niệm sở hữu không còn nữa. Và cái ý nghĩa pháp luật, ý nghĩa pháp lý của tôi đối với món đồ đó nó không tiếp tục tồn tại nữa. Mà nó chỉ còn khi nào tôi còn nhận biết thì cái ý niệm "Tôi có" và "Cái đó của tôi", cái "Của" và cái "Có" lúc đó mới tồn tại. Còn khi mà tôi không biết gì hết như tôi bị alzheimer hay hôn mê hay bị lãng trí thì tất cả các khái niệm "Có" và "Của" lúc bấy giờ trở thành "Không". Mà mình không nhận ra cái đó, mình mới nói "Tôi có cái này" hay "Cái đó là của tôi", "Tôi có cái đó", mình nghĩ như vậy. Nhưng khái niệm "Của" và "Có" này rất là mong manh, mong manh lắm.

Chưa kể một chuyện rất là đời nữa, mình nói mình làm chủ nó, nhưng thật ra nó làm chủ mình nhiều hơn. Mình có bề gì thì chiếc xe đó, cái nhà đó nó không có buồn. Nhưng chiếc xe đó, cái nhà đó nó có cái gì đó thì mình rất là buồn. Như vậy có nghĩa là nó là chủ mình chứ không phải mình là chủ của nó. Cứ nhiều đời, nhiều kiếp mình không nhận ra điều này.

Ok, tôi đã giảng đúng thời gian của tôi rồi. Hẹn lại các vị thứ hai tuần sau. Chúc các vị một ngày vui, một đêm an lành ở bất cứ miền đất nào các vị đang có mặt. Chúc các vị có một ngày, một đêm an lành và tiến bộ.
Mục lục các bài giảng 
Reply
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Đại Niệm Xứ (Trường Bộ Kinh 22) (1-3)
 
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=__7nMRHiVxw&abt=MAH%C4%80SATIPA%E1%B9%AC%E1%B9%ACH%C4%80NA+30.08.2016
 
 
MAHĀSATIPAṬṬHĀNA 30.08.2016
 
Kalama tri ân bạn nghianguyenntn ghi chép.
16/09/2021 - 06:14 - nghianguyenntn

Hôm nay chúng ta cùng nhau học một bài Kinh được xem là quan trọng và cũng là cốt lõi của Phật Giáo, của những người cầu Đạo giải thoát. Quý vị hoan hỉ, chánh niệm 1 chút, bình tĩnh một chút để không có phiền khi mà tôi nói “phạch” một số chuyện, bởi vì lẽ ra giảng thẳng vô trong Kinh mà mắc gì phải đi 1 vòng lại còn xin lỗi trước là sao, bởi vì có chuyện quan trọng mà chúng tôi cho là cần thiết, bắt buộc phải nhắc đến.
 
Đó là, ví dụ như bên Phật Giáo Nam Tông của mình, mình nói là Kinh Niệm Xứ là cốt lõi của Phật Pháp, là con đường duy nhất dẫn đến giải thoát, mà trong khi có người hỏi tôi là có mấy bài Tứ Niệm Xứ thôi, trước mắt là có 2 bài rất nổi tiếng là Kinh Đại Niệm Xứ trong Kinh Trường Bộ và Kinh Niệm Xứ ở Kinh Trung Bộ.
 
Nếu 2 bài quan trọng thì vì sao chỉ có 2 thôi thì tôi xin trả lời ngay, đó là nhắc đích danh Kinh Tứ Niệm Xứ thì chỉ có 2, nhưng mà được nhắc nhở tới á (nhắc tới, phân tích đầy đủ chỉ có 2), nhưng mà nhắc tới, cái tinh thần bàng bạc (tràn ngập) khắp trong 3 Tạng Kinh Luật A Tỳ Đàm thì tinh thần của Kinh Tứ Niệm Xứ bàng bạc khắp nơi. Bất cứ chỗ nào Đức Thế Tôn nói về Uẩn, 5 Uẩn, 12 xứ, 18 giới, về 4 đế thì chỗ đó Đức Thế Tôn đang nói về Tứ Niệm Xứ.
 
Tại sao tôi phải xin lỗi trước ? Bởi vì tôi rất là ngạc nhiên và sau đó là chạnh lòng là 95% người Việt Nam và người Tàu khi tìm đến Phật Pháp, rõ ràng là do thiếu duyên. Họ cứ bị nhồi nhét, tuyên truyền pháp Môn Tịnh Độ, Phật Di Đà, niệm kinh Pháp Y Thần Chú, Quán Thế Âm.
 
Mà quý vị nào có bỏ chút thời gian ra để đọc kinh điển, quý vị sẽ thấy rằng trong toàn bộ Hán tạng rồi kể cả Pali tạng (kinh Pali thì khỏi nói rồi), cái nào là nhắc tới A Di Đà, quý vị coi coi. Nhắc tới cái tên gọi là đã hiếm, rồi còn nhắc đến pháp môn tập trung, réo gọi một người nào đó để mà cầu giải thoát thì cái này tôi dám khẳng định, quý vị nếu quý vị không tin chúng tôi thì quý vị đến hỏi các danh tăng ở bên Bắc Tông hỏi họ có đúng như vậy hay không:

Có ông Nam Tông nói vây, ngoại trừ Kinh Vô Lượng Thọ thì không có tìm 1 chỗ nào đó kêu gọi tinh thần mà tu tập cái kiểu đó là tôi e rằng là không có. Nghĩa là cứ réo gọi ai đó rồi được giải thoát là không.
 
Trong Kinh Tứ Niệm Xứ thì lại khác. 
 
Trong Kinh Tứ Niệm Xứ, khi Đức Phật xác định đây là con đường duy nhất dẫn đến giải thoát thì tinh thần của Kinh Tứ Niệm Xứ bàng bạc khắp cả 3 Tạng. Chúng tôi nói là chúng tôi không bài xích, bà con Việt Nam lưu ý dùm chỗ đó.

  1. Nếu quả thật Pháp Môn Tịnh Độ quan trọng, nó hữu ích, nó lợi lạc như vậy thì ít ra cái tinh thần của Pháp Môn đó phải bàng bạc khắp Kinh điển. Có đâu mà chỉ có trong 1 bài Kinh nhỏ xíu, cực kỳ ngắn ngủn rồi thì thôi. 
  2. Ngoài cái bài đó ra mà tìm thấy trong Kinh điển mà nhắc lại tinh thần tu tập kiểu đó thì lại không thấy nữa. 
Còn Kinh Tứ Niệm Xứ lại khác. Ngoài những bài Kinh nhắc đích danh và phân tích rộng sâu về Pháp Môn Tứ Niệm Xứ thì chúng ta có thể tìm thấy sự bàng bạc, phảng phất của Kinh này khắp cả 3 Tạng. Nhớ nha.
 
Trước khi mà giảng sâu, chúng tôi phải nhắc trước cái chuyện đó 1 chút. Và xác nhận một chuyện nữa đó là bản thân chúng tôi, người đang hầu chuyện cùng quý vị, tôi không phải là hành giả chuyên nghiệp, chứ đừng có nói là Thiền sư, cũng không phải là Pháp sư Tam Tạng, đừng nói gì là Thánh Nhân, rồi quý vị hỏi tôi chứ: “Cái gì cũng không hết thì ông lấy gì, dựa vào đâu, căn cứ nào mà ông tin Phật” thì tôi xin thưa thế này, tôi tin Phật vì có 4 chuyện thôi. Tôi tin bằng cái phàm phu của tôi đó.
 
1/ Lý Vô Ngã, Lý Vô Thường:
Chuyện thứ nhất, Phật dạy cái gì ở đời này cũng vô thường hết, thì trong cái kém cỏi của mình tôi thấy hình như đúng, bởi vì bây giờ bây giờ quý vị nói với tôi là vàng ngọc, kim cương là quý hiếm, lâu bền, không bị oxy hóa, tôi không cần biết mà tôi chỉ cần biết có 1 chuyện thôi, là khoa học xác nhận rằng một ngày trái đất này sẽ không còn nữa, sẽ có 1 ngày mặt trời không còn nữa, và trước mặt là cái cục thịt mấy chục ký lô của tôi nè, nó không còn nữa thì tôi nói 3 cái đó là đủ rồi.
 
Mặt trời, mặt trăng, trái đất, rồi cái tâm thân này của tôi, mà chắc chắn một ngày nó không còn nữa thì tôi thấy Đức Phật nói đúng, Đức Phật dạy cái gì cũng vô thường hết, nên trước nhất là tôi tin Đức Phật là chỗ đó. Mà hễ cái gì vô thường thì cái đó không phải của tôi, bởi vì tôi đâu có muốn nó phải mất mát, chia ly rồi hư hao, băng hoại, tôi đâu có thích cái chuyện đó, nhưng mà nó vẫn cứ theo duyên mà nó diễn ra, xảy ra.
 
Từ cái chỗ tôi tin Lý Vô Thường, cái tôi tin luôn cái Lý Vô Ngã, không có gì là của tôi hết. Do duyên mà có, có rồi biến mất. Cho nên chuyện đầu tiên, tôi tin Phật ở chỗ đó là Lý Vô Ngã, Lý Vô Thường.

2/ Lý Nhân Quả: Chịu trách nhiệm những gì mình nói, mình làm, mình suy tư
Thứ hai là tôi tin Phật ở chỗ Ngài nói rằng mình phải chịu trách nhiệm những gì mình nói, mình làm, mình suy tư. Thì tôi nhắc lại, tôi vẫn là một người phàm, dốt nát, nói thiệt chứ không phải là khiêm tốn, cái biết của mình chẳng là cái gì trong trời đất này đâu.
 
Thì tôi cứ đem cái khờ, ngu, cái dốt của mình để hiểu theo lời Phật, Ngài nói cái Lý Nhân Quả. Ngài nói mình phải chịu trách nhiệm những việc mình làm, hễ làm chuyện tầm bậy thì lúc nào mình cũng bị khổ, bị rắc rối hết. Còn mình làm chuyện lành, chuyện tốt, chuyện thiện thì chắc chắn mình vui. Tôi một lần nữa lại tin chuyện này.

Cái chuyện thứ nhất là Ngài nói cái gì cũng vô ngã vô thường tôi tin, mà chuyện thứ 2, Ngài dạy rằng mình phải chịu trách nhiệm những việc mình làm. Mình làm tốt, làm thiện làm lành thì mình an lạc, còn làm bậy, làm xấu thì mình không thể an lạc được, cái chuyện này là tôi bằng cái kiểm nghiệm của bản thân thì thấy hình như là đúng lại nữa, điều này đúng.
 
Bên Tàu có 1 câu “Cựu Pháp triêu triêu lạc”, làm đúng, không có phạm pháp, phạm luật thì sáng ngủ dậy, vươn vai sung sướng, “Cựu pháp” tức là biết sợ luật, “triêu triêu” là mỗi sáng. Nghĩa là mình sống lành, sống thiện thì sáng dậy vươn vai sung sướng như em bé. Vậy là điều thứ 2, Phật dạy về Lý Nhân Quả là tôi thấy hình như đúng.
  
3/ Khổ quả vs khổ nhân: Khổ nhân là do thất niệm
Rồi cái điều thứ 3, Đức Phật xác nhận rằng là thế giới này nó đau khổ là do cái khổ quả, không có đáng kể bằng cái khổ nhân. Khổ quả do cái quả bỏn xẻn tôi nghèo, cái quả sát sinh tôi bệnh, do cái quả nói xấu người ta giờ tôi bị người ta chửi lại, đó là khổ quả.
Nhưng mà cái khổ nhân cái này mới đúng nè. Khi một bậc Thánh mà bị chửi, một bậc Thánh mà bị đói, họ không có khổ như phàm. Phàm nó bị đánh, nó bị chửi, nó bị bệnh nó mới khổ, khổ nhiều hơn Thánh, sao kỳ vậy ta. À, bởi vì cái nhân phiền não nó còn. Bị đánh, bị chửi, bị bệnh đó là quả xấu, quả của phiền não nhưng mà cái quả đó nó làm mình khổ ít hơn là cái nhân phiền não.
 
Cái quả phiền não thì cũng thấy ớn thiệt đó, Đức Phật cũng bị nạn này, nạn kia. Nhưng cái đó nó không làm ngài khổ nhiều bằng cái nhân. Trừ khi mình còn cái nhân phiền não cho nên bị đói, bị chửi, bị bệnh mình đón nhận nó bằng cái tâm phiền não. Cho nên chính Đức Phật, Ngài xác nhận cái khổ đời này phần lớn là do mình phiền não. Bởi vì Ngài còn có nạn này nạn kia nhưng ngài không có khổ như mình, mà cái khổ phiền não nó đến từ đâu ta, cái tham, cái sân, cái si nó đến từ đâu.
 
Quý vị học hành cao siêu, quý vị nói là do vô minh, do cái gì tôi không biết, tôi nói theo cái tinh thần của Tứ Niệm Xứ. Thất niệm, phút giây nào mà anh thất niệm thì tôi hứa, bảo đảm là anh khổ là cái chắc.
 
Quý vị nhắc lại cho tôi 2 người. Quý vị nói đây là thằng Tèo, đây là thằng Tí. Cái thằng Tèo coi như là nó đẹp trai, khỏe mạnh, học giỏi, đào hoa, làm ăn thì may mắn, suôn sẻ, thuận lợi, có điều nó sống thất niệm, đó là thằng Tèo. Thằng Tí thì coi như nó có 1 sào đất hà, trồng trọt hoa màu kiếm sống lay lất nhưng nó là thằng Phật tử thứ thiệt. Nó là một hành giả Tứ Niệm Xứ thứ thiệt thì tôi xin khẳng định với quý vị trước vong linh của mẹ tôi, đó là trong thâm tâm của tôi, tôi tin thằng Tí nó an lạc, chứ mà thằng Tèo, quý vị mà nói nó đẹp trai, nó khỏe mạnh, nó đào hoa, nó có tiền nhưng mà nó thất niệm đó, thì tôi không cách nào mà tin là thằng Tèo nó an lạc (không có cách nào mà tin thằng Tèo nó an lạc được).

--ooOoo--
 
Cho nên là, giảng Kinh Tứ Niệm Xứ mà nãy giờ quý vị thấy tôi chưa giảng Kinh mà tôi đi một vòng lớn để quý vị để chi ? Tôi đi 1 vòng lớn để mà tôi không giảng Kinh này nữa.
 
Tôi giảng tại sao tôi tin Phật, tại sao Kinh Tứ Niệm Xứ lại quan trọng. Nếu để ý kỹ sẽ thấy cái đó. Như vậy tôi tin Phật là tin cái gì. Thứ nhất, Phật dạy là vạn Pháp vô ngã vô thường. Thứ 2, Phật dạy Lý Nhân Quả. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Tôi tin Phật hai cái này.
 
Giờ tôi tin tới cái thứ 3, Phật dạy sống thất niệm là chỉ có khổ thôi.

Như vậy thì tổng cộng ba điều này lại. 
  1. Một là tam tướng, 
  2. hai là nhân quả nè, 
  3. ba là cái giá trị của chánh niệm. 
Ba điều này, thì với người tin Phật, tu Phật, thờ Phật, học Phật, theo Phật là bắt buộc phải biết ba cái này. Mà một người biết 3 cái này, tin ba cái này, liếc mắt vô Kinh Tứ Niệm Xứ là thấy mình chần dần ở trong đó, à, thì ra Kinh Tứ Niệm Xứ là xác nhận ba điều đó.
 
Xác nhận thứ nhất là trên đời không có thứ gì mình bám víu được hết, không thứ gì mình tin cậy được hết bởi cái giống gì cũng vô thường, nó có rồi nó bỏ mình. Cho dù đó là một vị Thánh, ngài có tất cả các thiện Pháp, những Pháp tánh, thành tựu, trí tuệ, đức hạnh… rồi cũng có một ngày danh và sắc của Ngài cũng phải bỏ lại hết để mà đi. Đó là Thánh nhân, nói chi là ba cái thứ tào lao của phàm phu, ba cái thứ sức khỏe, tiếng tăm, quyền lực, quen biết, quan hệ xã hội. Ba cái thứ đó sẽ có ngày bỏ đi hết.
 
Cho nên Kinh Tứ Niệm Xứ là cái phao để mà đám chết đuối mình bám vào đó mà sống. Và tôi xin nhắc lại một lần nữa, quý vị có là xuất gia hay tại gia, quý vị có già hay là đang trẻ, đang khỏe hay là đang bệnh. Cái đó tôi không cần biết tới, tôi chỉ cần một chuyện thôi, đó là “Phúc thay cho kẻ nào có niềm tin, có trí tuệ để sống Chánh niệm, và bất hạnh thay cho ai mà không có đủ niềm tin rồi sống thất niệm."
 
Và còn có nhiều người, có lẽ do thiếu phước hoặc duyên chưa tới, họ thắc mắc thế này, mình tu là mình phải nghĩ tưởng tới Phật, réo gọi Bồ Tát, thờ cúng cái gì đó. Nó linh thiêng, cao siêu, chứ có đâu mà cứ quẩn quanh, quẩn quanh trong ba cái hơi thở ra vô, ra vô, cái đó có gì đâu mà hay.
 
Rồi Chánh niệm là sao? Làm gì biết nấy, buồn vui tốt xấu ra sao… 

Cái đó có gì đâu mà hay ? Mà phải tiếp xúc cái gì đó cao siêu, nó thiêng liêng, chứ còn ba cái vụ mà tóc, lông, móng, răng, da, cái đó dơ thấy bà, nghe là thấy gớm rồi. Hơi thở của mình nó ra vô kệ nó, có cái gì phải dòm nó. Tu là phải để cái đầu mình nó hướng tới cái gì đó cao siêu.
 
Nhưng mà xin thưa! Xin thưa với bà con! Chúng tôi nhớ, chúng tôi đã nói 3000 lần: Đường vào rừng và đường ra rừng chỉ là một. Nếu bà con trong Room còn nhớ cái câu này: Đường vào rừng và đường ra rừng chỉ là một . Cái vấn đề là gương mặt quý vị hướng về đâu, ánh mắt bà con nhìn về đâu. Cho nên là các vị tu là cứ đòi, réo gọi Phật, Bồ Tát tùm lum. Các Bậc ấy cao siêu lắm, đừng có đụng tới họ. Họ không mắc mớ gì tới chuyện tu hành của mình hết trơn. Tôi biết nhiều người trong Room rất là sốc khi mà nói những Bậc ấy không có mắc mớ gì tới mình hết. Đúng! Không có mắc mớ gì. Thì người ta đã xong cái chuyện của người ta rồi.
 
Chuyện Đức Phật, Ngài là Toàn Giác, là Chánh Đẳng Giác, chuyện của Ngài, hổng mắc mớ gì tới mình hết á. Người ta là ông vua, mình là ăn mày, cũng không mắc mớ gì tới mình hết. Cái mắc mớ là vầy nè. Ngài nói cái gì, cái đó mới mắc mớ đó. Chứ mà quý vị nhớ dùm tôi cái chuyện Ngài thành Phật, Ngài lên Niết Bàn rồi. Cái quan trọng nhất là cái Ngài dạy mình cái gì . Cái đó mới quan trọng.
 
Hoặc nói cách khác, quý vị có là tỷ phú hay không tỷ phú nó không có quan trọng mà vấn đề là quý vị có cho tôi được cái gì, đó mới là quan trọng. Chứ mà trên thế giới này có biết bao nhiêu là ông tỷ phú, rồi trong Room này , mình có ăn chia được đồng xu cắc bạc nào đâu. Trên thế giới có biết bao nhiêu là tỷ phú. Cái chuyện người ta là tỷ phú là chuyện của người ta. Nhưng mà cái chuyện quan trọng nhất là người ta có cho mình được cái gì hay không, là một.
 
Cho ở đây có hai loại, một là cho hiện kim, hiện vật, hai là cho mình kinh nghiệm hay lời khuyên gì hay không. Cho mình một cái gương sống, cách thức làm ăn để mà mình giàu như họ cái đó mới quan trọng. Chứ mà bản thân chuyện giàu của họ nó không có quan trọng. Thì ở đây cũng vậy, Pháp môn Tứ Niệm Xứ, mình thấy không bóng dáng của Phật, Thánh, Bồ Tát gì ở đây hết. Đúng. Vì sao? Là vì mình khổ bởi do chính cái bầy hầy, bê bối, bề bộn của mình.
 
Cái đó là con đường đi vào rừng sinh tử mà Tứ Niệm Xứ là pháp môn dạy mình nhìn lại cái bề bộn, cái bụi bặm, bê bối của mình, để mình đi ra rừng.
 
Ở đây, tôi chỉ điểm mấy cái mà trong Chánh Kinh không có, chỉ có trong chú giải thôi. Và ngay bây giờ xin bà con đánh dùm tôi cái chữ này (search google): “Đại Niệm Xứ Silananda – Khánh Hỷ”. Đây là quyển Kinh chú giải Kinh Đại Niệm Xứ của hai vị Silananda và ngài Mahasi. Bây giờ tôi giảng cỡ nào cũng không bằng hai vị đại sư đó được.

(Đại Niệm Xứ Silananda – Khánh Hỷ:

https://www.budsas.org/uni/u-dainiemxu/dnx-idx.htm)

Nhớ nha! Coi liền, coi liền. Và tôi xin nhắc trong Room 1 chuyện nữa. Bà con nào trong Room mà mắt mờ, tai điếc, đầu óc lú lẩn, nhớ dở, hiểu chậm, tay chân lọng cọng, đầu óc lóng ngóng thì mượn hoặc thuê, chắc mượn cho đỡ tốn tiền, thuê ai có giọng tốt, thu lại bộ Kinh này nè.
 
Nếu có lái xe đi làm thì cứ nghe hoài. Trong nhà coi con coi cháu, thay vì coi phim Hàn thì cứ lấy băng này nghe đều đều. Không chỉ nghe là đủ, tôi chỉ đồng ý để quý vị chỉ nghe 3 tháng thôi, sau đó phải thực tập. Vừa nghe vừa thực tập cũng tốt. Mình nghe rồi mình làm việc, rồi thấy giờ nào ngồi được, thấy giờ nào đi kinh hành được thì tắt máy. Bắt đầu ngồi và thực tập.
 
Thực tập cho đã xong rồi tới giờ nấu ăn, rửa chén, quét dọn, lau chùi, lau bụi thì bắt đầu mở máy lên, đó là cách nghe hoài vậy đó. Tôi biết một số người quen thuộc được mấy trăm bản nhạc, nhạc vàng nhạc sến (không có nhạc đỏ). Họ thuộc không phải cầm đọc thuộc mà chỉ nghe, tin không?
 
Có người Việt Nam thuộc mấy trăm bản nhạc, hát được luôn, dĩ nhiên dở ẹc, không hay bằng ca sĩ, nhưng họ thuộc lòng, hát karaoke, hát y luôn, mà chỉ có nghe.
 
Mấy trăm bài nhạc ruồi bu, trời ơi mà còn thuộc mà trong khi Kinh điển quan trọng lại không nhét vào cái đầu bư của mình. Nên để ý bà con, giới thiệu bà con bài Kinh này là bài Kinh phải đọc.
 
Bây giờ tặng cho bà con thêm mấy điều này (mấy điều ngộ ngộ này nữa thôi). 

Tại sao chỉ có 4 Niệm Xứ mà không ít hay nhiều hơn, thì trong đây mới nói rằng là danh sắc phân tích chừng đó đã đủ cho các hạng chúng sanh. Là sao? 

Bắt đầu tôi vô giảng chánh Kinh nha.

Toàn bộ vũ trụ này, từ trăng sao, hoa lá, cây cối, đất đá, kênh rạch, sông ngòi, con người, súc vật, chim muông, nhà cửa, xe cộ, vòng vàng, kim cương, hột xoàn, hổ phách, mã não, phỉ thúy… Tất cả đều nằm ở trong danh sắc. Danh là tất cả những gì thuộc về tâm linh, tinh thần. Còn sắc là tất cả những gì thuộc về vật chất. Vật chất gọi là sắc, sắc Pháp. Mà mình, chúng sanh, phàm phu trong đời này là tại sao cứ lòng vòng, lòng vòng, đi lên, đi xuống.
 
Hồi làm Phạm Thiên, hồi làm Hoàng Đế, hồi làm ăn mày, rồi du đãng, kỷ nữ, mệnh phụ phu nhân, hoa hậu rồi chim chóc, trùng dế, cứ vòng vòng là sao? Là vì mình còn thích ở trong danh sắc. Cái hạng thấp á thì mê ở trong sắc, thanh, khí, vị, xúc thuộc về vật chất. Còn hạng cao hơn chút thì nó khoái ngồi thiền để có hào quang, sống lâu, thần thông . Cứ như vậy á mà cứ trồi lên lặn xuống, trồi lên, lặn xuống trong vô số kiếp luân hồi. Cái thời gian sanh tử nó nhiều đến mức mà Phật dạy, máu mình đổ ra cho dòng luân hồi đó, máu do bệnh hoạn, tai nạn, do này kia … nó nhiều hơn nước trong 4 biển (mỗi người đó nha). Cái sữa mà mình bú trong vòng luân hồi nó nhiều hơn nước trong 4 biển. Mồ hôi nước mắt đổ ra trong vòng luân hồi nó nhiều hơn nước trong 4 biển.
 
Nó nhiều vậy, tại sao nó nhiều dữ thần như vậy mà sao mình còn ở đây? Bởi vì mình còn mê trong danh sắc. Cứ hồi mê trong vật chất, hồi mê trong đồi sống tinh thần. Đời sống tinh thần là gì? Là thiền định. Ngồi phê quá, mát lạnh, rùng mình, lạnh xương sống, nổi da gà… chết rồi sinh ở cõi Phạm Thiên rồi sống hết tuổi thọ rồi lọt xuống cõi dục, rồi lại tiếp tục thích ăn ngon, mặc đẹp, chăn ấm nệm êm, làm tầm bậy. Rồi ít ai hưởng thụ mà lại làm lành, rồi vừa hưởng vừa làm tầm bậy, là lại đọa vào 4 đường khổ.
 
Hưởng mà không biết làm lành thì sẽ vào cõi dục thôi. Hưởng thụ vật chất mà không làm thiện thì bị đọa 4 đường khổ. Hưởng thụ vật chất mà làm thiện thì sanh lại các cõi nhân thiên, dục giới. Nhàm chán vật chất rồi tu thiền định thì sanh làm phạm thiên, hết tuổi thọ trên đó lại rớt xuống cõi dục như cũ.
 
Cứ thế, cứ nhớ nhiêu đó. Như vậy thì quẩn quanh, phàm phu là đam mê trong danh sắc, rồi tùy nghiệp thiện ác mà sinh về đâu. Tu Tứ Niệm Xứ là nhàm chán danh sắc. Đó, rồi giờ từ từ tôi siết vòng vây lại, siết lại. Quý vị cứ thấy sao tôi cứ đi xa rồi sau đó gom nó lại, xa cái tôi kéo nó vô trở lại. Đi một vòng rồi gom trở lại. Đó, tu Tứ Niệm Xứ là vậy đó.
 
(còn tiếp)
 
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Đại Niệm Xứ (Trường Bộ Kinh 22) (2-3)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=__7nMRHiVxw&abt=MAH%C4%80SATIPA%E1%B9%AC%E1%B9%ACH%C4%80NA+30.08.2016

Mà tại sao chỉ có 4 Niệm Xứ mà không có 3 hay không có 5? Bởi vì danh sắc phân tích như vậy là đã vừa đủ cho các hạng chúng sinh. Đủ là sao? Đức Phật, Ngài phân tích sao cho người ta chán cái danh sắc thôi. Mà tại sao phải chán, đã nói rồi, bởi vì cái đam mê danh sắc là… để nói rõ luôn, đam mê sắc pháp, tức là đam mê vật chất á, mà có làm thiện á thì sanh về nhân thiên, dục giới.

Mà không làm thiện thì sanh vào 4 đường khổ. Đó là đam mê sắc. Còn đam mê danh Pháp, tức là đam mê đời sống tinh thần á thì tu thiền, về Phạm Thiên. Mà lên đó mà hết tuổi thọ á rồi nó cái đùng xuống thẳng ngay cõi dục, mà trở về cõi dục, cũng con đường cũ nữa, cứ làm thiện thì vào nhân thiên, còn làm ác thì xuống 4 đường khổ.
 
Tôi phải nhắc cho quý vị đến thuộc lòng mà chán luôn á, chán luôn tôi, chán luôn tái sanh á. Cứ nhiêu đó cứ làm tới làm lui hoài vậy đó. Mà mình tu Tứ Niệm Xứ là gì. Là để nhàm chán danh sắc.
 
I/ Thân Quán Niệm Xứ
Cái thứ nhất, là cái thân quán Niệm Xứ á, là quan sát thân này , và đang ra sao. 
  1. Một cái là What, 
  2. Một cái là How.
 
What là biết thân nó là đất, nước, lửa, gió. Đó là biết theo chân đế.
 
  1. Biết theo chân đế là thân này gồm đất, nước, lửa, gió. 
  2. Biết theo tục đế chế định thì thân này chỉ là 32 món uế trược. 
Hiểu không ta? Tui đang giải thích là nó là. Thì là gì nó gồm có 2. Là gì theo chân đế thì nó là đất, nước, lửa, gió thôi, còn là gì theo tục đế thì nó gồm 32 món dơ, nhớ nha. 32 món dơ là gì Tóc, lông, móng, răng, da; Thịt, gân, xương, tủy, thận; Tim, gan, ruột, lá lách, phổi; Phèo, bao tử, thực phẩm chưa tiêu, phẩn, óc; Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ; Nước mắt, nước mỡ (huyết tương), nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu. Có cái mình sờ được, có cái mình cảm được.
 
Đại khái là người mẫu, ăn mày, cùi đui mình không cần biết, mà chỉ cần cái bánh xe nó nghiến lên một cái rồi đó thì nó là một cái đống bầy nhầy giống nhau y chang. Còn không thì vô phòng mổ xác khi mà đưa dao mổ tách ra một cái là mình khỏi ăn cơm luôn. Rồi quý vị sẽ hỏi sao tôi là sư mà tôi biết chuyện đó, thì tôi xin nói rõ, tôi có nhiều cơ hội để tôi biết. Thứ nhất là mình vô các viện bảo tàng Antomy – Giải phẫu học á, bên Thái chúng tôi có đi coi, bên NewYork chúng tôi có đi coi, mình vào trong đó mình coi là ê hề.
  
LTP xem thêm cho vui:
Ảnh Hưởng của Rượu với Cơ Thể Con Người
 
Họ cho mình coi những lá phổi, lá phổi thiệt đó, lá phổi của người bị ung thư, rồi cái bao tử của người bị ung thư. Bao tử bình thường nó ra sao, bao tử ung thư nó ra sao, phổi bình thường nó ra làm sao còn phổi ung thư nó ra làm sao. Rồi quá trình hình thành một cái phôi, một đứa bé 1-2 tuần nó ra làm sao, 1-2 tháng nó ra làm sao, rồi 4-5 tháng nó ra làm sao, đại khái như vậy.
 
Rồi cơ thể nhiễm độc nó ra làm sao, cơ thể chết cháy, phản ứng nó ra làm sao. Thì có dịp mình thấy thì mình mới thấy là à, thì ra đẹp xấu, già trẻ, nam nữ mà nó mà tới mức rồi thì nó lạnh xương sống, nha. Mà quý vị nghĩ cái này, quý vị còn ớn nữa là mình ăn đồ lòng của con này, con kia. Mình mua gan heo, gan bò về mình ăn mà trong khi bản thân mình, cái gan mình bị một chút là mình đau, mình chịu không nổi. Gan nhiễm mỡ rồi gan bị siêu vi B, C, F gì đó. Thì ngồi mình nghĩ, con bò, con trâu mình ăn của nó rồi còn mình thì đi chăm sóc lại cái gan của mình bằng các thứ thuốc men cho nên ngồi quán tưởng nó thấy mà ớn.
 
Cho nên, tôi thân quán Niệm Xứ là biết rõ cái thân này nó cái gì. Thì cái là này nó gồm có hai. Một “là” theo chế định gồm 32 món dơ. Còn “là” mà theo chân đế thì nó chỉ là đất, nước, lửa, gió thôi. Giống như ngó trong thế gian, nước là H2O (là hydro và oxygen), trong khi đó nước ở ngoài đời mình hiểu là nước cam, nước chanh, cà phê, nước chè, nước cháo, nước mưa, nước lạnh, nước cống, đó là nước trong thế gian, bên ngoài phòng lab (phòng thí nghiệm). Bên trong phòng thí nghiệm thì nước chỉ có 2 thôi. Thì ở đây trong A Tỳ Đàm cũng vậy. Trong A Tỳ Đàm nói thân này, nói rốt ráo chỉ gồm có 4 thôi, đó là đất, nước, lửa, gió, nhưng mà nói theo thế gian thì nó gồm những món dơ, sở dĩ kể 32 món dơ, có thể kể hơn nữa nhưng 32 là cách kể chuẩn, chuẩn trên y học, chuẩn trên đời sống thường nhật, nó là ta biết liền. Nhớ cái đó.
 
Thân quán Niệm Xứ, điều đầu tiên phải hiểu thân này nó là cái gì. Gồm 2 “là”. 

Tiếp theo nó đang ra sao.
 
Gồm đại oai nghi, tiểu oai nghi và hơi thở ra vào. Đại oai nghi gồm 4: đi, đứng, nằm ngồi. Còn tiểu oai nghi là tất cả các cử động, sinh hoạt, có tên và vô danh. Không biết bà con có nhận ra chữ này không? Có tên ví dụ như gãi, mình gãi đó rồi mình lúc lắc, cọ quậy… đó gọi là có tên. Còn vô danh là bất cứ 1 cái nhúc nhích lớn nhỏ nào đó cũng là tiểu oai nghi hết. Thì hành giả phải biết rõ, à mình đang làm cái đó, biết rõ. Nhớ cái đó. Đó gọi là thân quán Niệm Xứ đó.
 
Thân quán Niệm Xứ có 2 cách tu. Một là mình ngồi mình quán niệm cái thân này là từ dưới gót lên đỉnh đầu của mình nó gồm đất, nước, lửa, gió. 

Đất là cái gì cứng, mềm nói chung, là đất. 
Nước là cái gì có tính chất tan chảy, quến tụ, là nước.
 
Quý vị thử tưởng tượng đi, một cái bánh bao được gọi là bánh báo là do những miếng bột nó được quến lại, được gom lại mà mình gọi nó là bánh bao, bánh mỳ, bánh bò. Chứ nếu mà từng miếng bộ nó không chịu dính lại với nhau thì làm sao mình gọi nó là cái bánh được. Thì khả năng dính lại đó được gọi là nước – Theo A Tỳ Đàm.
 
Còn nước mình hiểu theo thế gian là “liquid” là chất lỏng thì kẹt quá, nó nghèo lắm. Còn A Tỳ Đàm nó rộng lắm. Tất cả những gì có tính chất tan chảy, ngưng tụ, cô đọng, quến lại thì đó gọi là nước. 

Còn lửa thì dù là nóng hay là lạnh, nóng cỡ nào, lạnh cỡ nào, kể cả những nhiệt độ nó nhỏ, ít, vi tế nhất, không cảm nhận được. 

Theo A Tỳ Đàm, thì dầu là một hạt bụi cũng có nhiệt độ trong đó, chỉ là nó nhỏ quá, mình không cảm nhận được thôi. Về mặt lý thuyết, bà con phải biết.
 
Đất, nước lửa, gió có mặt ở tất cả mọi thành phần vật chất, to như núi, rộng như đại dương hay nhỏ như một hạt bụi bay trong gió thì đều có đủ 4 yếu tố đất, nước, gió, lửa. 

Đất là tất cả những gì cứng mềm, chất nại, chất thô. 
Nước là những gì mà có trạng thái rất là trừu tượng: tan chảy, quến tụ. 
Lửa là tất cả các nhiệt độ, dù ta có cảm được hay không, miễn là nhiệt độ thì được gọi là lửa. 
Gió là tất cả những gì là trạng thái di động, trương phồng và áp suất, xô đẩy, thì đó được gọi là gió. 

Nhớ nha, thì cái thân mình hiểu vậy thôi.
 
Ngồi yên, từ dưới gót đi lên. Khi mình đi làm việc, có người thích đề mục tứ đại, có người thích đề mục thể trược, tùy cách tập mỗi người. Khi mình chạm tay vô cái ly, mình thấy cái ly nóng thì đây là lửa. Chạm vô ly nước đá nó lạnh thì đây là lửa. Chạm tay vô cái ly, ta thấy nó cứng, thì đây là đất. Nhớ nha, đó là cái cách tu. Đó là cách tu thiền.
 
Rồi cái thân mình cũng vậy, khi mình đi tắm rửa, mình kỳ cọ, mình chạm vô, mình tâm niệm liền, đây chỉ là đất nước lửa gió thôi. Duyên còn thì nó còn, duyên hết thì trong vòng 3 ngày là có mùi, 7 ngày là nó tan ra thành nước. 3 ngày là có mùi, 7 ngày là nó ra nước rồi. Nha.
 
Kỳ rồi tôi coi hình đám tang của ngài Upandita, tôi phải nói tôi rất là xúc động, vừa sốc, vừa xúc động. Ngài thọ 90 tuổi, một vị thiền sư, một vị danh tăng, thậm chí là một vị học giả. Những ngày tháng cuối cùng nằm ở bệnh viện Bangkok mà ngài còn – không biết nói sao cho nó hay ta – nói sao đừng hiểu lầm. Tức là trong những ngày đó mà ngài còn ghi lại những cảm niệm của ngài về cuộc đời, về tấm thân này bằng tiếng Pali . Các vị có biết không ?
  
Chúng tôi có may mắn được đọc bài thơ đó. Thì tiếng Pali kêu là kệ, còn mình kêu là thơ. Thì ngài nằm trên giường bệnh . Một ông cụ 90 tuổi mà có những cảm niệm về cuộc đời mà ngài làm bài kệ bằng tiếng Pali, tôi còn nhớ cái ý nghĩa của nó là: 

Một đời cưu mang cái gánh nặng, để rồi có lúc phải bỏ nó mà đi. 
Nó dơ từ ở trên nó dơ xuống, mà nó khổ từ ở dưới nó khổ lên. 
Nó phiền từ ở trong ra ngoài, mà nó nặng nhọc từ ở ngoài vô trong. 

Bài thơ có đại ý như vậy. 

Một đời cưu mang nó để cuối cùng phải có lúc bỏ nó mà đi. Mà tưởng hay ho gì, đằng này dơ từ trên dơ xuống, mà nó khổ từ dưới nó khổ lên. Vừa khổ mà vừa dơ vừa nặng. Từ trên xuống, từ dưới lên, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong.
 
Rồi tưởng sao, thấy nó lạnh xương sống như vậy mà cũng làm chủ không nổi, phải bỏ nó mà đi. Rồi bây giờ, cuối cùng, lạ là trước khi mất, cái bụng của ngài to một cách bất thường. Quý vị đánh chữ “Upandita Sayadaw last day” thì mình thấy, rồi nản dữ lắm.

[Image: a02f607a988110e7bd04ebb417f46f48_715__2.jpg]
 
Vô đánh coi phần hình ảnh. Thì mình cái thân này đúng là khổ thiệt. Danh tăng như vậy, tu hành như vậy, sống như vậy, thành tựu nhiều thứ như vậy thì cuối cùng cũng phải ra đi như vậy, nha. Đó là thân quán Niệm Xứ. 

Cái tôi nói nãy giờ “là gì” còn cái “ra sao” nè . Nó đang “ra sao” tức là nó đang trong tình trạng là đi hay là đứng, nằm, ngồi, co, duỗi, gãi, khều, móc… thì đó được gọi là tiểu oai nghi. Nhớ nha.
 
Bây giờ chịu khó ghi cái này chút. 

  1. Tham ái nhiều, trí chậm mà tánh tình thô tháo thì hợp với thân quán Niệm Xứ. 
  2. Ái nhiều mà trí nhanh, người sắc sảo thì hợp với thọ Niệm Xứ. 
  3. Tà kiến nhiều mà trí chậm thì hợp với Niệm Xứ 3 (Tâm Quán). 
  4. Tà kiến nhiều mà trí nhanh thì hợp với Pháp quán Niệm Xứ. 
Còn có chỗ nói khác, ghi thêm nữa, nói khác là sao. 

Hành giả thích tu Samatha (Thiền chỉ) mà trí chậm thì hợp với thân quán Niệm Xứ.
 
Trong Room này tôi tiếc có nhiều người, họ mấy cái này lúc mà tôi chưa giảng rộng ra thêm, mà mấy chỗ này nè, cái họ nghe thấy buồn ngủ, uổng thiệt. Chứ ráng đi, tôi nhắc lại lần nữa, những ai trong Room, hiện giờ đang nản thì ráng cắn răng đi, lấy dây thun buộc vô lỗ tai cho nó tỉnh. Vì khi tôi ghi cái này xong, tôi giải thích nó cần, cần lắm.
 
Mà tôi nhắc lại lần nữa, quý vị thấy rằng cái thân của quý vị nó không có gì là khổ hết. Cái chuyện quý vị có mặt ở trên đời là sung sướng vui vẻ thì đứng dậy tắt máy bỏ đi. Còn nếu mà thấy rằng cái tuổi già là một cái chuyện có thiệt, cái chết là một cái chuyện có thiệt và cái việc mình ra đi cần có sự chuẩn bị ít nhiều gì đó thì tôi e rằng quý vị phải làm quen với cái Kinh này. Và tôi nhắc lại một lần nữa, cách đây mấy tháng, tôi từng trải qua một kinh nghiệm, nằm một mình mà giữa khuya nhìn 4 bức tường trắng. Thỉnh thoảng y tá vô hỏi 2, 3 câu rồi họ bỏ họ đi.
 
Quý vị biết cái cảnh đó nó tan nát cỡ nào, đừng có mà ngồi ở đó mà làm thơ, nha, khổ dữ lắm. Quý vị có giàu có gì đi nữa thì tôi nói thiệt là cái đó là ma chướng, không có hưởng được bao lâu đâu, thời gian nó trôi qua vun vút.
 
Tôi nói tiếp về Niệm Xứ 1. 
Trí nhanh tu Samatha thì hợp Niệm Xứ 2 (Thọ Quán Niệm Xứ - feeling mình á). 
Hành giả chỉ tu Vipassana mà trí chậm thì hợp Niệm Xứ 3. 
Tu Vipassana mà trí nhanh thì hợp với Niệm Xứ 4 (Pháp quán Niệm Xứ). 

Quý vị hỏi tôi cái này dựa vô đâu thì “dạ, thưa!” nó nằm ở trong đây nè mà giờ nó nằm ở múc ở dưới đây, tôi chẳng biết nói làm sao…
 
Đọc cho nghe nè. 

Vì sao Thế Tôn giảng 4 cái Niệm Xứ mà không có ít hơn 4, không có nhiều hơn 4. Là vì căn cứ vào căn duyên của chúng sanh để mà triển khai. 

Căn cứ vào cái nhanh, chậm của các hạng chúng sanh 
  1. nặng ái hay nặng kiến, 
  2. tu chỉ hay tu quán 
mà chia hai, mỗi trường hợp. Thì ở đây có giải thích thêm. 

  1. Người chậm lụt, thô tháo mà lại ái nhiều thì hợp với thân quán Niệm Xứ. 
  2. Người tinh tế sắc sảo thì hợp với thọ quán Niệm Xứ. 
  3. Người tà kiến nhiều, tánh tình chậm lụt thì hợp tâm quán Niệm Xứ. 
  4. Người tà kiến nhiều nhưng sắc sảo, nhanh nhạy thì hợp với pháp quán Niệm Xứ. 
Đó là cái tài liệu 1.
 
Còn tài liệu 2 lại nói khác. 
  1. Cái hạng chuyên tu Chỉ nhưng mà chậm thì hợp với Niệm Xứ 1. 
  2. Chuyên tu Chỉ nhưng mà sắc sảo, nhanh lẹ thì hợp với Niệm Xứ 2. 
  3. Cái hạng mà chỉ tu Quán thôi nhưng mà chậm thì hợp với cái Niệm Xứ 3 (tâm quán Niệm Xứ). 
  4. Hạng chuyên tu Quán nhưng trí nhanh, sắc sảo thì hợp với cái 4 (pháp quán Niệm Xứ). 
Đó là lý do không ít hơn, không nhiều hơn, nhớ nha. Rồi.
 
Rồi bây giờ mới giảng nè. 

Thân quán Niệm Xứ đã giảng rồi. Thân quán Niệm Xứ có nghĩa là quan sát cái thân này nè, mà trong Kinh có nói nên tôi nói thêm câu này nữa: Khi ta thấy được thân mình như thế nào thì ta sao, người vậy. Không cần phải thắc mắc. Khi mình quán mình rồi mà cứ nhìn người khác thì ta sao người vậy. Có nghĩa là, về bản chất thân này chỉ là đất, nước, lửa, gió, chỉ là 32 thể trược. Còn về sinh hoạt của nó thì lúc đứng, lúc ngồi, lúc đi, lúc nằm, lúc co duỗi, tắm rửa, tiểu tiện, ăn uống, nhai nuốt, cọ quậy, nhúc nhích, xê dịch, cử động…
 
II/ Thọ quán Niệm Xứ
Rồi bây giờ tới thọ quán. Thọ quán Niệm Xứ là quan sát các cảm giác thân, tâm. Cảm giác thân, tâm là sao. 

Thân quán là chỉ ngó cái thân của mình thôi. Nó thật sự là gì và nó đang ra sao. Chỉ là trong cục thịt mấy chục ký của mình thôi. 

Còn thọ quán thì nó rộng hơn một chút, nó sâu hơn là vì sao. Là vì bất cứ cảm giác nào dù thuộc về tinh thần hay thể xác mình đều ghi nhận hết. Thí dụ, bây giờ tôi đang buồn quá, thì cái buồn là tâm nhân nhưng cũng là thọ ưu (theo trong A Tỳ Đàm là thọ ưu). Ưu nghĩa là ưu tư. Biết là tôi đang khó chịu, tâm đang khó chịu, nhớ nha.
 
Rồi bây, tôi đang ngồi mà cái lưng đau quá trời, sao nó mỏi cái đầu gối quá vậy ta, sao mà nó tê cái bàn chân quá vậy ta. Thì lúc đó tôi biết rõ đây là thân đang bị khổ. Còn cái tâm đang bực bội thì tôi biết tâm đang bị khổ, tâm đang khó chịu, tâm đang thọ ưu. Thân đang biết rõ, gió mát biết, biết đây là thọ lạc, thọ hỷ, biết. Cái vui của tâm gọi là thọ hỷ. Cái dễ chịu của thân gọi là thọ lạc, biết rõ.đây chỉ là cảm giác dễ chịu chứ không hề có cái tôi đang dễ chịu. Đó chỉ là cảm giác thôi, cảm giác này do duyên mà đến. Duyên hết thì nó đi. Do duyên mà nó có. Cái khổ cũng vậy. Tất cả cái khổ của thân tâm, do duyên mà có mà cũng do duyên mà nó mất đi.
 
Mà tôi nhắc lại lần nữa, những người trong Room này không có thực tập thì nghe nó kỳ lắm, pháp môn gì nghe sao không có cao siêu. Nhưng mà tôi năn nỉ quý vị 1 lần sống y như vậy thì để ý đi, làm gì biết đó. 

Bản thân chúng tôi không phải hành giả nhưng mà chúng tôi chọn 4 Niệm Xứ chứ không có riêng Niệm Xứ nào hết là vì 2 lý do. 
  1. Thứ nhất, tôi không rõ tôi là cái loại gì, là cái thứ người gì nên tôi nghĩ cả 4 đều tốt hơn. 
  2. Thứ 2, cả 4 thì nó linh hoạt và đối với tôi nó dễ hơn.
 
Thí dụ tôi đang ngồi một mình, không có giảng nha. Tôi ngồi 1 mình, tôi uống ly nước. 

Tôi cầm cái ly nước lên là thân quán Niệm Xứ. Tôi cầm lên biết cầm. Tôi uống biết đang nuốt. 

Rồi tôi đang thích tức là đang tham. Còn không thấy dễ chịu thì thấy mình đang dễ chịu. 

Tôi để ly xuống, tôi biết rõ đang để ly xuống. 

Lúc có gió thổi ngang, tôi thấy mát thì ờ dễ chịu, mình đang dễ chịu. Cái thân đang dễ chịu.
 
Hoặc có lúc làm gió thổi ngang, tôi thấy lạnh quá, mình đang khó chịu. 

Quý vị để ý kỹ là tôi không có nhắc đến chữ lạnh, tại sao vậy. Vì lạnh, nó là tục đế, còn khó chịu nó là chân đế.
 
Tôi nhắc lại nha, tôi đang ngồi mà gió thổi ngang mà tôi thấy cái gió nó nóng, hốc quá đi thì thay vì tôi nói nóng thì cái nóng đó là tục đế, đó là cái nhìn chưa rốt ráo. Còn cái nhìn rốt ráo không phải là nóng mà là khó chịu. Phải nhớ cái này. Tôi đang ngồi, một cơn gió thổi ngang, tôi thấy lạnh, ờ lạnh ha, thì cái này là tục đế. Còn cái nhìn rốt ráo không phải là lạnh mà là khó chịu.
 
Nhớ nha, cái này quan trọng, bởi vì cũng là hành giả tứ Niệm Xứ mà có người tu 80 năm mà vẫn còn quẩn quanh trong tục đế, là cái biết của phàm. Còn cái biết của Thánh là người ta biết rốt ráo. Tôi nhắc lại. Thay vì mình kêu lạnh, nóng thì mình chỉ ghi nhận là khó chịu, dễ chịu thôi. Và tôi nhắc lại một lần nữa, bà con chỉ biết nghe mà không có thực tập á thì bà con sẽ rất là ngạc nhiên và thậm chí là chán chường. Thấy Pháp môn tu hành gì mà đâu thấy nó cao siêu gì đâu ta nhưng mà thử đi, tôi năn nỉ quý vị thử đi.
 
Nó lạ dữ lắm, nó giống như bao nhiêu lần tôi đã nói rồi. Tôi thấy quý vị, bụng bự, đi đứng nặng nề, khó khăn rồi bị cao máu, bị dư đường, dư cholesterol thì tôi nói: "Nè bây giờ mỗi ngày chịu khó chạy bộ dùm tôi hoặc nằm ngửa đạp xe đạp trên giường dùm tôi đi. Nằm ngửa đạp xe đạp hoặc chạy bộ chút. Sáng đi bộ chừng 1 tiếng vậy đó, rồi tránh thịt đỏ, seafood tránh, dầu mỡ chiên xào tránh. Chỉ ăn đồ hấp chứ đừng có chiên, đừng có nướng. Mà đặc biệt là ưu tiên cho rau, trái, mật ong, nước chanh, tránh ăn đường nha."
 
Quý vị nghe rất là ngạc nhiên, bởi vì nếu quý vị có biết chút ít về y học thì không sao, còn quý vị dốt đặc, không biết gì hết thì nghe rất là lạ bởi vì sao nghe ổng nói không có gì nó cao siêu hết. Cái gì đâu mà nằm ngửa trên giường đạp xe đạp hoặc là chạy bộ, hoặc là ăn rau trái. Ít ra mình đang chờ coi ổng có nhắc gì tới sâm không, nhung nai rồi yến sào, tuyết liên, đông trùng hạ thảo, hoài sơn, câu kỷ tử, thục địa, đỗ trọng, xuyên khung, trần bì… nghe cái gì nó cao siêu chút.
 
Còn đằng nghe cả buổi thấy ổng nói gì đâu không hà. Cái gì nằm ngửa trên giường, đạp xe đạp, chạy bộ rồi hít đất, rồi ăn rau trái. Nhưng mà thử đi, khi thử mới biết à thì ra sức khỏe của mình nó đến từ những nguồn này nè. Nó rất là đơn giản nhưng mà tại vì mình không có thực tập, mình không thấy nó cần thiết thì Tứ Niệm Xứ nó y chang như vậy đó. Làm gì biết nấy nghe nó không có sang. Cái tên Pháp môn Tứ Niệm Xứ nghe nó không có sang, ít ra phải niệm Bồ Tát này, Phật kia, ít ra phải réo gọi người này người kia rồi phải quỳ lạy, xì xụp, hương đăng, hoa quả rồi khấn 8 phương 4 hướng rồi may áo tràng, thọ Bồ Tát giới nhìn cho nó sang còn hành giả Tứ Niệm Xứ gì đâu muốn mặc gì mặc à. Không có cần áo tràng, áo lam mà cũng không cần đốt liều, uống cần gì hết á. Pháp môn này lạ lắm, vấn đề chay mặn cũng không.
 
Mà chỉ xin 1 chuyện thôi, làm gì biết nấy là một cách. Còn cách nữa là mình đang trải qua cái thân tâm cảm xúc gì thì ghi nhận thôi. Tôi đang sân hận, tôi đang bực mình- à, đây là tham ái; đây là buồn ngủ nha – đây là hôn thụy, rồi biết; đang khó chịu, đang thọ khổ đó, thân khổ rồi cái này tâm khổ nè, rồi rồi. Cầm lên, tôi đang biết cầm lên, rồi nuốt, nuốt, rồi nhai, nhai rồi xong để xuống. Chỉ vậy thôi. Nhưng mà quý vị làm dùm tôi một tuần, một tháng, ba tháng. Tự nhiên quý vị sẽ gọi phone mà cảm ơn rối rít, rồi nói rằng “Sư ơi, bây giờ tôi biết vì sao ba tháng trước Sư kêu gọi tôi như vậy. Nhưng mà đó là hành giả dỏm. Hành giả mà xịn nữa thì nó không thèm gọi phone cảm ơn luôn, bởi vì khi nó bốc cái phone lên thì mất công nó niệm cái mới nữa.
 
Mà hành giả thứ thiệt họ ngại bày chuyện lắm, bởi vì sao, bởi vì những chuyện căn bản thì đã niệm hụt hơi rồi mà mắc gì bày thêm cái chuyện trồng bông, trồng cây rồi rồi trưng, dọn tùm lum hết. Hành giả Tứ Niệm Xứ không phải là người ở dơ, không phải là người bề bộn, chỉ là người không thích bày thêm. Cái này phải ghi. “Hành giả không phải lười biếng hay bê bối mà chỉ là không thích bày thêm”. Nhớ cái này, có người hiểu lầm cái này, hiểu lầm là mình tu Tứ Niệm Xứ là mình chỉ lo niệm thôi . Mình lo cái mặt Chánh niệm và trí tuệ tỉnh giác thôi, nha. Thế là nhà bụi không, nhìn thấy ớn quá thì không được. Cái này là cực đoan.
 
Còn cái người mà ăn rồi mà cứ một bình hoa bên cửa sổ rồi mấy chậu bông bên hiên, rồi ra vườn tưới tẩm. Thì tôi xin khẳng định đó là tốt nhưng với điều kiện đừng có bày nhiều quá. Và anh hứa với tôi một chuyện anh chưng hoa, anh trồng hoa, anh làm cái gì đó thì tất cả phải được thực hiện trong chánh niệm. Còn anh bày ra cho cái nhà nó đẹp thì anh nhớ một câu thôi. Cái tâm mình nó đẹp chưa mà đòi cái nhà đẹp. 

thế nào là cái tâm đẹp ?  
-- Đó là có niệm, có trí, nha. Thì cái đó gọi là tâm đẹp.
 
Cho nên muốn dọn cho cái nhà đẹp trước thì tự hỏi tâm của mình tâm mình đẹp chưa. Còn muốn bày thì tự hỏi tâm mình đã gọn chưa mà muốn bày nữa. Như vậy là thân quán Niệm Xứ là học rồi. Thọ quán là mới vừa học, đó là biết rõ 
  1. thân đang trải qua cảm xúc gì, khó chịu, dễ chịu. Đó là thân. 
  2. Còn về tâm, tâm đang có cảm xúc gì, khó chịu, dễ chịu. 
Và tôi nhắc lại lần nữa, quý vị đừng có hòng mà nghe ở đây có cái gì đó cao siêu, hổng có. Quý vị chỉ cần làm dùm tôi chuyện đó thôi.
 
Thân mình để ý, đây nó đang khó chịu, biết nó là đang khó chịu. 

Cái khó chịu này 
  1. không phải là mình, 
  2. đó là do duyên tới, do duyên tạo ra khó chịu đó. 
  3. Bây giờ duyên nó hết thì khó chịu nó đi thôi. 
  4. Nó là một vị khách không mời mà tới.
  1. Cái thứ khách mà mình trà nước hậu hĩ, trọng đãi nó thì nó sẽ ở lì ra đó. 
  2. Còn thứ khách mình làm lơ, mình đừng có mời mọc nó thì tự động nó bỏ nó đi. 
Và dĩ nhiên, câu này chỉ cho hành giả nào thứ dữ á thì họ mới tin.

Chứ quý vị mới tập tành sơ cơ thì quý vị chưa có thấy câu này đúng. Câu mà khách nào mà mình càng nồng nhiệt thì họ mới ở lại còn cái thứ khách mà mình lơ là á thì nó sẽ bỏ đi á. Cái này tôi hứa, đây là một câu rất là đúng. Nhưng mà bây giờ chưa, quý vị chưa tới lúc nhận ra cái câu này đâu. 

Sẽ có một ngày quý vị thấy tâm trạng gì, cảm giác gì mình chỉ ghi nhận nó, đừng có đặt vấn đề với nó quá nhiều, đừng nặng lòng với nó, đừng xem trọng nó, đừng xem nặng nó thì tự nó bỏ đi thôi. 

Và cái này mới quan trọng, ghi nhận thêm “tâm bất thiện khi được nhận diện sẽ biến mất nhưng tâm thiện khi được nhận diện sẽ vững mạnh hơn”. Đây là câu mà bà con bắt buộc phải thuộc lòng.
 
(còn tiếp)
 
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Đại Niệm Xứ (Trường Bộ Kinh 22) (3-3)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=__7nMRHiVxw&abt=MAH%C4%80SATIPA%E1%B9%AC%E1%B9%ACH%C4%80NA+30.08.2016


Tâm bất thiện tức là nhận diện đây là sân thì nó sẽ mất nhưng bây giờ thì chưa nha. Lúc sơ cơ thì chưa, mai này sẽ được. Khi mà biết đây là tâm sân nè, mà khi tôi đã vững rồi đó thì tôi nhìn ra nó thì nó sẽ mất. Nhưng mà khi tôi biết đây là tâm thiện nè. Tôi đang ngồi mà nghe mùi khói hương đi ngang thì tôi nghĩ đến Đức Phật, cái lòng tôi nó vui, thì lúc đó tôi biết đây là tâm thiện, thì lúc mà tôi biết đây là tâm thiện thì tâm thiện sẽ còn lại đó.

tại sao có chuyện tâm bất thiện mà được nhận diện, nó sẽ mất ? Vì tâm nhận diện chính là niệm là trí là thiện . Thiện ác không thể cộng sinh. Nhớ không. Vì tâm nhận diện chính là trí là thiện mà thiện ác không thể cộng sinh, nên khi mà thiện mà nhận diện ác thì ác sẽ biến mất mà khi thiện nhận diện thiện thì chúng chỉ mạnh hơn. 


Tại sao tâm bất thiện khi được nhận diện sẽ biến mất ? Là bởi vì cái tâm nhận diện đó là tâm thiện mà ông thiện ông ác làm sao ở chung một nhà được, nên ông ác phải ra đi. 

Còn cái thiện vì sao khi được nhận diện nó sẽ mạnh ? Là tại vì nó là thiện, còn cái tâm nhận diện nó cũng là thiện thì tụi nó là 2 cục thủy ngân.

Hai khối thủy ngân sẽ thành 1. Đơn giản, thiện này cộng thiện kia là 2 miếng thủy ngân nó bự. Còn bất thiện là thành phần khác nên khi ông thiện nhìn qua bất thiện thì nó mất là phải rồi. Hai ông đó không có chung một nhà. Tụi nó là tử thù, không đội trời chung.


Thọ quán là 

  1. biết rõ cảm giác gì đang xuất hiện ở thân, tâm. 
  2. Biết chúng do duyên mà có, rồi cũng do duyên mà mất. 
  3. Không có ai dễ chịu hay khó chịu. 
Đó là thọ quán.

III/ Tâm quán Niệm Xứ
Tâm quán Niệm Xứ là nhìn thẳng vào tâm mình xem nó lúc này đang là tham thích, hay sân hận bất mãn. Nhớ nha. Thọ chỉ là cảm giác dễ chịu hay khó chịu. Còn cái này là thiện hay bất thiện.

Thọ quán là nhận diện khó chịu hay dễ chịu

Tâm quán là nhận diện tâm đang thiện hay ác
Hai cái này nó khác nhau. 

Vị A La Hán vẫn còn có cảm giác khó chịu ở thân xác, nhớ nha. Nhưng không còn sự bất mãn ở tâm . Riêng thiện ác thì tuyệt đối không có ở vị A La Hán. 

Có nhiều vị thắc mắc, sao A La Hán không còn thiện thì tôi xin nói rõ. Tâm ác là điều kiện đưa ta về cảnh khổ, tâm thiện đưa ta về cõi lành, La Hán là người nhàm chán tất cả hình thức tái sinh nên không còn thiện ác nữa.

Tôi nhắc vị La Hán ở đây là bởi vì thọ quán khác tâm quán chỗ nào. Thọ quán là quan sát khó chịu, dễ chịu. Tôi xin nhắc lại. Ở đây, tôi cố ý giảng Kinh Niệm Xứ cho người chưa biết gì, cố tránh nói nhiều về A Tỳ Đàm. Thọ quán là quán sự dễ chịu, khó chịu và nó không phải là tôi, không phải là ta, cái cảm giác đó không phải là của mình. Và cái gọi là “mình” ở đây nó cũng chỉ là những thứ tập hợp do duyên do danh sắc, đất nước lửa gió, thiện ác, buồn vui cộng lại, chứ không có một “cái tôi” nào hết. Ngay bây giờ không có thực tập, chỉ nghe thôi thì một mình không tin, hay không hiểu. Sao tôi là do má tôi đẻ ra tôi, rồi tôi ăn uống nhai nuốt rồi tập thể dục, cái cục thịt này là của tôi, thân xác này là của tôi, buồn vui này là của tôi rồi tự nhiên cấm không cho tôi nghĩ cái này là của tôi là sao.


Người không biết đạo họ sẽ không thấy, nhưng người biết đạo sẽ thấy được cái này. Khi mà anh sống bằng cái tâm niệm mà suốt ngày đây là tôi, đây là của tôi thì anh sẽ không bao giờ an lạc bằng cái anh chàng kia hết. Cái anh mà ảnh thấy mọi thứ là do duyên mà có, có rồi phải bị mất. Mình thấy nó kỳ, nhưng về lâu về dài, ảnh an lạc lắm. Bây giờ chuyện nhẹ nhàng thôi, bác sĩ phán ung thư 1 cái thì anh chàng hành giả này ảnh nhăn răng ảnh cười. Còn trong khi mình từ đó tới giờ, cái gì cũng tôi, tôi hết tới hồi mình nghe bác sĩ phán ung thư một cái là xuống liền, xuống tinh thần.


Hôm trước mà tôi bị thận á, mà bác sĩ nói với tôi 1 câu mà nghe lạnh xương sống. Ông bác sĩ người Đức nói: 


-- “You có biết là you rất là may mắn là bởi vì cái bệnh thận của you nó không có chết được, nó chỉ làm cho you đau thôi. Nhưng nhờ you đau nên you mới ra đây và chúng tôi tình cờ phát hiện là cái gan của you có vấn đề nặng. Nó bị nhiễm mỡ rất nặng mà men gan của you rất là cao. Nó cao ghê lắm. Nó cao như là một tay bợm nhậu. Men gan rất là cao. Mà cái đó là cái chết, vì gan nhiễm mỡ mà men gan cao thì you chết là cái chắc. Mà you may mắn là vì you đau cái kia mà chúng tôi mới lôi ra được cái nọ .”

Thì lúc đó mình mới biết, à thì ra mình còn sợ chết kinh khủng, quý vị có biết không.

Cho nên ai trong Room này còn nghĩ mình giàu, mình đẹp, mình khỏe, mình trẻ đó ha thì tôi xin kề tai nói nhỏ với người đó một câu là buồn vui của quý vị do người khác nắm chứ không phải quý vị nắm đâu. 


Thứ nhất, mình lái xe ra đường, dù mình cẩn thận cỡ nào đi nữa thì chỉ có 50% là của mình thôi. Còn 50% là của cái thằng chạy ẩu á.

Quý vị đừng nói với tôi là quý vị chạy cẩn thận, quý vị chỉ có được 50%, không được 51% nữa, còn 50% còn lại là của tên khác ở trên đường á. Đó là 1.

 
Thứ hai là buồn vui của quý vị là do bác sĩ họ phán, họ giấu thì mình vui, còn họ nói huỵch toẹt ra thì mình chết thôi. Họ nói mà mặt hơi nghiêm trọng: “Chắc tôi sẽ cho ông bà đi thực hiện một cái test, tôi thấy có một chút bất thường”. Chỉ 1 câu này thôi thì tôi bảo đảm mới thi đậu hoa hậu thì cũng chết điếng như thường. Chỉ cần cái mặt của ổng (bác sĩ) không được vui vẻ lắm rồi nói: “Sao thấy nó hơi kỳ kỳ, để tôi cho ông bà đi làm một cái test (kiểm tra) chứ ở đây không có đủ cái phương tiện”.

Quý vị mà nghe như vậy mà vẫn còn nhăn răng ra cười thì tôi thật sự mà nói là vô cùng kính nể, bởi vì quý vị đã đạt đến cảnh giới không thèm sợ chết nữa. Cho nên là tâm quán Niệm Xứ, tức là biết rõ cái thâm, tâm này đang thiện hay ác.


IV/  Pháp quán Niệm Xứ
Bây giờ tới pháp quán Niệm Xứ là sao ? 


Pháp quán Niệm Xứ là cùng lúc nhận diện cả 3 Niệm Xứ trước một cách chuyên môn hơn. Ở 3 Niệm Xứ trước, ta biết đây là ông A, bà B (ví dụ thôi). Ở Niệm Xứ 4, ta biết rõ đây là ông A, bác sĩ chuyên ngành Nhi khoa, đây là bà B, luật sư chuyên kinh tế. Ở 3 Niệm Xứ trước, thí dụ như bây giờ mình biết đây là khó chịu, đây là dễ chịu, vậy thôi. Đây là tâm sân, đây là tâm tham, hết. Nhưng mà cái biết của thứ 4, nó chuyên nghiệp hơn. Ở Niệm Xứ 4, khi có tâm bất mãn người hay sự vật nào đó, ta biết đây là sân triền cái, là pháp bất thiện, là 1 trong năm chướng ngại của thiền định.

Trong khi cũng đối tượng đó nhưng mà hành giả thọ quán chỉ ghi nhận là khó chịu của tâm, hành giả tâm quán chỉ ghi nhận là tâm sân. Khi mình tu thọ quán thì mình nghĩ đây là khó chịu, rồi xong. Còn khi tu tâm quán, đây là tâm sân. Nhưng khi tu pháp quán thì cái chỗ này nè là sân triền cái, là cái biết chuyên nghiệp. Giống như hồi nãy tôi nói, mấy cái trước, mình chỉ biết đây là ông A, bà B. Bà này bả là Lê Thị Loan, ông kia là Trần Văn Tuấn nhưng mà ở cái thứ 4 này thì mình biết bà Loan là luật sư kinh tế, chuyên về kinh tế, tư vấn kinh tế cho các tập đoàn lớn.


Còn ông A, là bác sĩ chuyên ngành nhi khoa. Mấy thằng nằm nôi có gì là kêu ổng. Thì cũng là cái biết ông A, bà B thôi chứ không có gì hết á, nhưng mà cái cách biết thứ 4 này nó chuyên nghiệp, đòi hỏi phải có kiến thức nhiều hơn. Nhớ nha.


--ooOoo--

Đầu buổi giảng, tôi có nói rõ vì sao phải tu Tứ Niệm Xứ mà Tứ Niệm Xứ là cái gì. Tôi “đánh” 1 cái vòng rất là rộng mà gần giống như là lạc đề vậy đó, và nhờ vậy tôi giải thích xong lý do và ý nghĩa của Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là gì và vì sao phải tu Tứ Niệm Xứ.

Rồi đồng thời tôi cũng giảng xong cho bà con nghe về cách đại khái về 4 Niệm Xứ và cho bà con ghi rõ luôn các trường hợp, Niệm Xứ nào nó thích hợp cho hạng người nào. Ngày xưa còn Phật, còn Thánh Tăng thì quý vị dòm cái mũi thì biết mình hợp với cái gì. Còn bây giờ mình cũng còn trông cậy vào mấy nguồn nó hơi bấp bênh, ví dụ như mấy Thiền sư. Có Thiền sư này, có Thiền sư khác. Ông giỏi, ông dở. Có chứng Thánh không thì mình không biết nhưng đại khái vị nào tinh thông Pháp học, uyên thâm giáo lý chút thì mình đỡ chút. Còn sợ những người dùng kinh nghiệm bản thân thì mình cũng hơi ngại.


Nhưng quan trọng nhất thì ở đây tôi xin thưa một chuyện mà tôi cho rằng cực kỳ quan trọng, đó là, có những chuyện tôi đã nói rồi, giờ tôi nói lại nữa, nói hoài, có những chuyện tôi nói hoài không biết mắc cỡ, bởi vì nó cần thiết. Tất cả các hướng dẫn của các Thiền sư Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan, Việt Nam… đã nói là những hướng dẫn mang tính chất kinh nghiệm bản thân thì nó đều mang dấu ấn cá nhân.


Kinh nghiệm bản thân luôn mang dấu ấn cá nhân. Mỗi người luôn có những sở trường và sở đoản, ta đem cả 2 thứ đó vào trong kinh nghiệm của mình. Kinh nghiệm bản thân luôn mang dấu ấn cá nhân, nhớ nha . 


Cái câu này quý vị cũng phải xăm, quý vị học lớp của tôi riết quý vị phải xăm từ ở trên xăm xuống giống như là đại ca giang hồ vậy đó. Kinh nghiệm bản thân luôn mang dấu ấn cá nhân. Mỗi người luôn có những sở trường và sở đoản . Ta đem cả 2 thứ đó vào trong kinh nghiệm của mình.

Thí dụ như bây giờ tôi thích cái gì, tôi ghét cái gì, tôi hợp với cái gì, tôi kị với cái gì. Thí dụ như bây giờ tôi là người chơi lan đi, chơi kiểng đi, nếu quý vị để ý đi, quý vị tới học tôi thì tôi sẽ chỉ theo cái kiểu của tôi, tôi ghét cái gì thì tôi hay nói cho quý vị tránh cái đó, mà tôi mê, khoái, thích cái gì thì thường thường tôi cũng kéo quý vị về cái hướng đó. Đó là chơi lan, kiểng đó, nói chi là vấn đề tâm linh, hướng dẫn thiền định.


Thiền sư, phàm phu mình à, chỉ trừ vị chánh đẳng, chánh giác. 

  1. Các Ngài dạy người khác theo cái người ta cần, 
  2. còn mình dạy người khác theo cái mình muốn. 
Quý vị có phân biệt được cái này không. Thầy giỏi là dạy cái mà trò cần, còn thầy dở là dạy cái mình biết và mình muốn. Nó kẹt vậy đó.

Bây giờ mình không biết đi xe đạp mà học trò nó tới nó xin học thì thôi kệ mình xách xe ba gác ra, dạy thời gian ra học trò biết đạp xe ba gác, biết đạp xích lô nhưng mà chiếc xe đạp là mình đi không được. Nó khổ vậy. Mà mục đích là thằng nhỏ đó nó cần đi xe đạp để nó trở thành courer, để nó trở thành vận động viên quốc gia . Còn mình không biết chạy 2 bánh, mình chỉ biết chạy 3 bánh thôi, xách xích lô ra cái đè nó ra dạy thì cũng tội cho nó. 


Nên mình nhớ Thiền sư nào đi nữa, kinh nghiệm nào đi nữa thì cũng chỉ là để tham khảo . Nên tham khảo và đối chiếu hơn là nhắm mắt thờ phụng.

Lý thuyết Tứ Niệm Xứ của Đức Phật trong Tam Tạng rất đơn giản vì Ngài chỉ đưa ra cái chung cho toàn thể, không nhắm đến cái riêng cho cá nhân. Cái này lại xăm nữa. Lý thuyết Tứ Niệm Xứ trong Tam Tạng là Ngài chỉ đưa ra rất đơn giản là vì chỉ đưa cái chung cho toàn thể, không đến cái riêng cho cá nhân. Ngài dạy mình nấu canh chua thì Ngài nói là me, nước, đường, con thích cái gì thì bỏ cái đó, chay mặn tùy người, rau om, ngò gai, rau cần dài lá… rồi con ngoài ra thơm, giá, đậu bắp, hay cái giống gì là tùy người nhưng Ngài chỉ nói là nước, rau om, me, đây là ba món cộng lại, con sẽ có nồi canh chua.

Mà tại sao Ngài nói gọn như vậy là bởi vì khi mà Ngài nói quá chi tiết, tại vì Ngài là đấng Pháp Vương mà, cha của 3 cõi, khi Ngài nói chi tiết quá thì người ta sẽ coi lời của Ngài là khuôn vàng thước ngọc, họ sẽ đi theo. Nhưng mà có những người họ không có thích ăn rau om mà họ nấu canh với rau tần dày lá (cái rau mà có lông lông á). Có người không thích rau om, rau cần mà họ lại thích ngò gai mới ghê chứ. Đức Phật biết như vậy cho nên là Ngài không có nói tới 3 cái loại rau mùi mà Ngài chỉ nói rất là ngắn gọn, me, rau mùi, nước, được thì thêm miếng đường cho nó đằm lại, xong. Rồi đệ tử thì ai thích rau om thì người đó nói rất nhiều rau om, rau này thơm, nó có cái mùi canh chua rồi ăn nó chữa bệnh gì, bệnh gì rồi cách trồng rau om, trồng sao, trồng nước sắp sắp, nửa nước nửa bùn, mà thường ở xứ nào của Việt Nam có… nói mênh mông, cuối cùng hồi nói về nồi canh chua mà hồi lọt qua kỹ thuật trồng rau om.


Rồi nói về địa dư, xã hội, văn hóa miềng Tây Nam Bộ… càng đi càng xa. Trong khi Đức Phật thì không. Ngài chỉ nói canh chua. Ngài chỉ nói rất là gọn. Ngài chỉ nói me nè, rau thơm nè và một ít đường. Xong. Đó, nhớ cái này nha. Chứ đừng chê Đức Phật Ngài dạy ít, Ngài dạy không có chi tiết. Tôi nhắc lại, Ngài dạy chung cho tất cả, không dạy riêng cho cá nhân.


Tôi đề nghị 1 số chuyện đó là đọc dùm tôi cái bộ Tứ Niệm Xứ. Đọc cho kỹ, bởi vì, tại sao? Không phải tôi làm biếng nhưng mà tôi nghĩ rằng tôi cũng theo tinh thần của Đức Phật, chung chung gọn cho tất cả, không đào sâu cho cá nhân là một. Thứ hai nữa là tài liệu đó quá đặc biệt, quá xuất sắc do hai vị là ngài Mahasi và ngài U Silananda.


Ngài Mahasi và ngài U Silananda có một nhân thân rất đáng nể. Ngài Mahasi là người thuộc lòng Tam Tạng mà đóng vai trò của người hỏi – tức là vấn sư, trong kỳ kiết tập Tam Tạng. Vấn là sao, có nghĩa là ngài hỏi từng vấn đề, tức là cái điều luật này, bài Kinh này được Đức Thế Tôn thuyết giảng và cấm chế ở đâu, trong trường hợp nào, vì sao, nội dung như thế nào. Còn vị kia là người trả lời. Mình phải thuộc lòng Tam Tạng mình mới hỏi người ta được. Sau này, ngài trở thành tổ sư của dòng thiền “phồng- xẹp”, thì ngay cả chuyện “phồng – xẹp” cũng có nhiều cái để bàn lắm nha. Chắc chắn là ngày mai chúng tôi cũng sẽ quay lại bài Kinh Tứ Niệm Xứ.


Tuần này sẽ học riêng Kinh này. Ngày mai tôi sẽ nói nhiều về hơi thở, rồi mỗi ngày tôi sẽ nói nhiều một số chuyện là bởi vì đọc là đọc vậy thôi, chứ có vài cái quý vị cũng cần phải nghe một chút, dĩ nhiên không phải là của tôi, tôi đâu phải là thiền sư nhưng mà có thể tôi đọc nhiều hơn hoặc nhiều khi không phải nhiều hơn mà có khi cái tôi đọc mà quý vị chưa đọc, chỉ vậy thôi, tôi đọc dùm thôi. Nhớ nha.


Vậy thì ngày mai và ngày mốt, mình sẽ tiếp tục học Kinh Đại Niệm Xứ. Và nếu ai đó không có duyên theo đuổi cái lớp Kinh Tạng từ trước đến giờ thì coi chỉ riêng Kinh này cũng có cái gì đó để gọi là, trong cái thời gian là Phật tử.


Và tôi nhắc lại tuổi nào, tình trạng sức khỏe, kinh tế, gia đình ra sao thì Kinh này tuyệt đối quan trọng cho tất cả những ai tin Phật, thờ Phật và đặc biệt biết ưu tư về đời sống của mình.


Chúc quý vị một ngày vui.

 
Mục Lục các Bài Giảng
 
(Hết)
 
Reply
Hôm nay, anh bạn RungHoang quá bộ vào chơi, lại còn cho điểm tô't nữa .  Cám ơn anh nhiều  Cheer .  

Thanks-sign-smiley-emoticon RungHoang
Reply
Sư Toại Khanh Giảng Nguyện (1-3)
 
https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/2020%20Zoom/20201012.Nguy%E1%BB%87n
 
Nguyện
13/10/2020 - 09:40 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
 
Kalama Journal xin tri ân cô Ho Thi Vui ghi chép tốc ký cả buổi giảng.

Từ hôm trước tới nay chúng tôi nhận được 4-5 đề nghị về các đề tài, yêu cầu khác nhau. Có người yêu cầu giảng về chữ Pháp, có người đề nghị giảng chữ Tu, có người đề nghị giảng chữ Thiền, rồi có người đề nghị giảng chữ Nhẫn, Bữa nay các vị đề nghị chữ Nguyện. Thôi thì thế này. Phật giáo Nam Tông Việt Nam đang có Đại tang là sự ra đi của Ngài hòa thượng Tịnh Giác.
 
Nếu mà là tôi, tôi sẽ ghi thế này: Rừng còn, cây bỏ đi đâu; cây to trống gốc cho rầu thiền lâm, cây non chửa kịp nẩy mầm, biết chờ cho đến bao năm hỡi trời
 
Biết bao năm nữa mới có được  người như Ngài: Cuộc đời của Ngài gói tròn trong 3 chữ: Minh bạch (giới luật trong sạch, minh nghiêm), Khiêm nhu (Ngài là người khiêm nhu, ai đã từng có dịp gặp ngài ngoài đời, thì chúng tôi cũng có dịp đảnh lễ Ngài ở chùa bên Thái, có vị mình sợ lắm nhưng Ngài Tịnh Giác, có gì khó khăn tôi đến tôi kéo y ngài), Ngài là ông vua Pali của VIệt Nam, ngày xưa Ngài Hộ Giác tịch rồi, giờ còn Ngài Hộ Pháp, giữa 2 vị thì không có đánh giá ai, nhưng mà, tạm gọi về mặt hành chánh Ngài là vị Vua tiếng Pali của Việt Nam
 
Sự ra đi của Ngài là mất mát lớn cho chúng ta.
 
Giá trị của một người là khoảng trống người ấy để lại, có dễ dàng bị lấp đầy hay không. Khoảng trống Ngài Tịnh Giác để lại lớn quá, muốn lấp chỗ trống đó không phải dễ. Có lúc chúng ta cần đất, rác, đá (đá có nhiều loại: đá cuội, đá ong, đá cẩm thạch,...) để lấp chỗ trống. Để lấp được chỗ hư hao đó nó khó lắm.
 
Lấp sao mà nhìn vào mình không nhìn được cũ mới. Sự ra đi của Ngài Tịnh Giác để lại cho chúng ta khoảng trống không sao lấp đầy, ít nhất cũng phải vài mươi năm sau.
 
Hôm nay giảng về chữ Nguyện, theo yêu cầu quý vị.
 
Trong Kinh Thánh Cầu (Trung Bộ Kinh 26), sự xuất hiện đầu đời, mọi chúng sinh đều có điểm giống nhau là giây phút đầu tiên có mặt ở đời; nhưng sau giây phút đầu tiên đó, tùy theo bản hoài, nguyện mỗi người mà chúng ta khác nhau.
 
Thay vì ngày xưa giờ, con làm được việc lành gì, để cầu danh cầu lợi cầu công hầu khanh tướng,... thì kể từ hôm nay, từ xây cầu, dựng tháp, nuôi dưỡng tăng chúng, giúp đỡ người nghèo khó, con mèo con vịt, xin dồn hết cho bổn nguyện giải thoát. Thì kể từ đó phước báu chúng ta được  gọi là Ba La Mật (Parami)
 
Nói tới chữ Nguyện, chúng ta phải nhắc đến nhiều khía cạnh để có thể hiểu sâu sắc chữ này. Không kể người tật nguyền, nói người lành lặn nha, nghĩa là sinh ra có đủ mắt tai, thính giác, khứu giác, thị giác...đầy đủ, có đủ 6 căn giống nhau nhưng có điểm khác là tùy thuộc nhiều yếu tố, điều kiện, hoàn cảnh của mỗi người mà cặp mắt, lỗ tai chúng ta thấy, nghe được gì, không giống nhau.
 
Tùy thuộc chúng ta sinh ra trong quốc gia, gia đình,... hoàn cảnh nào mà chúng ta nghe, thấy gì. Có cái thằng Tí thấy mà thằng Tèo không thấy. Cũng sanh ra 6 căn nhưng do điều kiện hoàn cảnh mà thằng Tí, thằng Tèo, .. Con Lan, Con Hương,.... nó có cái thấy, nghe được những thứ mà đứa kia không có điều kiện. Là ở đâu nó ra? Do bổn nguyện nhiều đời
 
Cũng có 6 căn giống nhau mà tùy vào sở thích, điều kiện, trình độ, tiền nghiệp mà trước 6 trần cứ cho là giống nhau mà có người mơ nhà có bộ tranh Đông Hồ, có người thích bức tranh thủy mặc, có người thích màu trắng đen thôi, có người phải màu mè mới thích. Đó là chuyện thế gian. 

[Image: Tranh-dan-gian-Dong-Ho.png]
Tranh dân gian Đông Hồ

Nói qua Đạo. Trong số những người có cơ duyên gặp Phật Pháp, Do bổn nguyện nhiều đời, bản hoài sinh tử không giống nhau mà có người đến với Đạo chỉ làm một việc khấn khứa cầu nguyện thôi, có người chỉ làm con mọt sách, có người chỉ thích bố thí, thấy người ta hành thiền, học đạo,... quăng tiền ra; có người thích ngồi thiền, ngay bố thí cũng chỉ thích bố thí trường thiền thôi,.. loanh quanh trong thập thiện. Có người thích phục vụ, có người thích bố thí, .. thuyết pháp, … học đạo,... trau dồi tri kiến… Do bổn nguyện của mình mà có người ĐỤNG ĐÂU CHẾT đó.
 
"Thở ra biết thở ra, thở vào biết thở vào,..." khi mà nó được lắng đọng như vậy thì đương nhiên là an lạc. 

ĐỤNG ĐÂU CHẾT đó là sao? Cho đến bao giờ chưa là Thánh thì bất cứ một giai đoạn nào nó cũng chỉ là trạm dừng qua đêm thôi. 

Chưa là Thánh Nhân, chưa là Tu Đà Hườn thì bất cứ sở đắc, sở chứng nào nó cũng chỉ là trạm dừng trên con đường đi đến Giải thoát. Có người khi thấy mình là thí chủ đại gia tưởng mình đạt đến đỉnh cao công đức. Học được ba mớ tưởng đó là đỉnh của Đạo nghiệp, Ngồi thiền nghe nhẹ nhẹ mát mát tưởng là TỚI rồi, trở nên dễ ghét. Cho nên, cái thiện dục giới liên quan đến 6 trần, thiện đáo đại (liên quan đến các tầng thiền định từ sơ thiền đến phi tưởng phi phi tưởng) thì cũng do bổn nguyện, bản hoài mỗi người.
 
Biết cái gì cũng giả mà tưởng chánh niệm của mình là thứ thiệt.
NHẮC LẠI: Tùy thuộc bổn nguyện mỗi người, bản hoài mỗi người mà chúng ta đi được bao xa. Người thích cầm nắm thì đụng cái gì cũng cầm nắm. Người thích nấn ná thì không đi được  xa. Chân đi mà lòng còn ở lại. Bổn nguyện cao nhất của người tu Phật là Buông bỏ tất cả = bỏ hết nhân xấu quả xấu, nhân lành quả lành. Làm nhân lành để không còn sanh tử ở 3 cõi 6 đường nữa.
 
ANH KHÔNG THỂ SỐNG THẤT NIỆM MÀ HIỂU RỐT RÁO LỜI PHẬT. Vì sự thật đầu tiên mà Đức Phật xác định là: MỌI SỰ Ở ĐỜI LÀ KHỔ. Nột người chỉ học giáo lý, thuộc lòng TAM TẠNG mà sống thất niệm thì không có cơ hội thấy được sự thật đầu tiên: MỌI THỨ ĐỀU LÀ KHỔ.
 
CHỈ CÓ NGƯỜI SỐNG CHÁNH NIỆM MỚI CÓ CƠ HỘI THÀNH TỰU TRÍ TUỆ MINH SÁT
SỰ CÓ MẶT CỦA 5 UẨN LÀ KHỔ. CÁI NÀY MỚI QUAN TRỌNG. ĐỂ THẤY ĐƯỢC CÁI NÀY, ANH PHẢI SỐNG CHÁNH NIỆM.
 
Nếu niềm vui, đau khổ, nó chỉ là sự tiếp nối của vô số sát na. Những gì mà chúng ta thấy mình hay, mình giỏi, mình dựa vào đó để tự hào, tự mãn, tự đắc, tự đại nó chỉ tồn tại 1 sát na, rồi nó được thay thế bằng cái khác. Để thấy được cái này, anh phải sống chánh niệm. LÀM SAO CÓ THỂ SỐNG ĐÚNG NHƯ VẬY??? BỔN NGUYỆN!!!
 
NGUYỆN quan trọng lắm. Ngay bây giờ mình không có khả năng đắc thiền, nhưng cứ nguyện 4 Nguyện:
 
1/ Đời đời kiếp kiếp, hễ còn sanh tử xin cho con gặp MInh sư Thiện hữu (thầy sáng, bạn sáng)
2/ Đời đời kiếp kiếp xin cho con có được cơ hội thực hiện công đức dù giàu nghèo sang hèn, hễ có cơ hội công đức là con có cơ hội. kể cả đang đói như quỷ nhưng hề gặp hiền thánh là con có củ khoai, miếng vải,... để cúng cho ngài.
3/ Nguyện cho con đời đời gặp đối tượng đáng lạy, đáng cúng dường, lễ bái.
4/ Nguyện cho con đời đời có khả năng ly dục, chứng thiền dễ dàng.
 
Một người thiếu bổn nguyện thì tất cả công đức nó rơi rớt, rời rạc. Riêng người có bổn nguyện là đời đời sanh ra họ bắt được tần số, làn sóng của Minh sư Thiện hữu.
 
Làm thế nào để xài iPhone, iPad của người ta, dù có gần gũi cách nào mà không có password thì mình chịu không có vô được máy của họ. Tất cả MInh sư Thiện hữu để mình gặp hễ họ nói là mình hiểu, như mình có password cái iPad cái là mình vô. Nói qua cái hiểu liền.
 
Nhiều khi học thầy không tày học bạn là vậy đó, cái duyên nó không có cho phép.
 
Ngay bây giờ, cái thân này nó là gánh nặng. Vì có thân này mà nó có chuyện ngồi lâu nó mỏi, tê, nhức, ngứa, nóng, nực, đói, khát, tiêu tiểu, đi lâu mỏi chân, nằm hoài quẩn chân, kéo theo bao nhiêu hệ lụy khác trong cuộc đời trần ai khoai củ này. Khi anh thất niệm là anh sống như đứa bé không biết cái gì hết.
 
Nếu sống chánh niệm với bản thân anh, tại đây bây giờ, anh coi cái gì đang diễn ra trong thân này.
 
Trong 16 tiếng anh thức (8 tiếng anh ngủ) anh coi có bao nhiêu tiếng, anh vui được bao nhiêu. chưa nói tới cái thiện. Trong 16 tiếng anh thức anh vui được bao nhiêu? Trong 16 tiếng anh vừa đau khổ, vừa bất thiện không à. Đó là nói một ngày. Một tháng, một năm, một thập niên, một đời,... cứ vậy mà tính. Trừ cái lúc anh căng thẳng, đau khổ, lên máu, đau tim,... do ba cái chuyện tiền bạc, quyền lực,... anh vui được bao nhiêu????
 
(còn tiếp)
 
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Nguyện (2-3)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BB%87n

Do: tiền nghiệp (nghiệp thiện ác tạo ra trong nhiều đời) - khuynh hướng tâm lý (cái này quan trọng lắm, có người thích buông cái này bắt cái kia, có người bẩm sinh họ sợ cầm nắm. Tôi nói phàm phu. Có nhiều người họ hạnh phúc vì họ có nhiều cái trong tay: đi shopping cầm càng nhiều càng sướng. Có người tay rảnh họ mới sướng. Có người xài tiền thấy sướng, có người tiết kiệm thấy sướng, có người nhà đầy mới thấy sướng, có người nhà trống lổng mới sướng, có người phải mặc jacket, nón, mắt kiếng,.. phụ kiện càng nhiều mới sướng, có người quần đùi, áo may ô thậm chí không mặc gì mới sướng,...

 
Nói về đạo nghiệp: có người chỉ mong một ngày không đói, tối ngủ không lạnh là được. Có người đạo nghiệp phải sênh sang, phải có đồ chúng mới cao tâm, có người mong chết không có gì để tiếc nuối, để sợ mất, để bỏ lại sau lưng, …đó là khuynh hướng tâm lý; với 2 khuynh hướng tâm lý này, trên luân hồi đương nhiên dẫn đến 2 khuynh hướng khác nhau: kẻ buông được bao nhiêu tốt bấy nhiêu).
 
Thời Phật có những vị đệ tử Phật chỉ có tam y bình bát, đi 1 do tuần, cầm thuốc của mình thôi, vị ấy đã than do cái thân này làm khổ tôi mang cái này. Cũng có vị y nọ y kia mà Đức Phật phải cấm.
 
Hai huynh đệ tu trên núi . Lâu lâu Bồ Tát đưa sư đệ xuống đi bát dưới phố để thay đổi, cân bằng trở lại. Xuống ở đâu được ít lâu thì 2 anh em dắt nhau về núi. Không có muối, muối nó quý lắm. Vị Sư đệ mới cât túi muối lại, coi như báu vật. Lúc về núi, lúc ăn trái cây, vị sư đệ mới kêu vị sư huynh khoan hãy ăn, cái này phải có muối mới ngon. Vị sư huynh hỏi ở đâu có muối, túm muối nhỏ xíu. Vị sư đệ mới nói lúc xuống núi có được nên giữ. Vị sư huynh mới nói: "Cả vương quốc đệ còn bỏ được mà có túm muối đệ buông không được."
 
Có người, buông với họ là khỏi gồng gánh mang vác khiêng khuân, là tay họ rảnh; còn có người có khuynh hướng cầm nắm, tay không cầm gì là thiếu.
 
Người thích nắm thì đụng đâu dính đó. Làm được tí công đức, nghe được tí pháp, thiền được tí,... là dính trong đó. Lẽ ra họ phải nhớ một chuyện thế này: đi toa-let phải xài giấy, còn không thì xài nước. Xong việc, ra khỏi toa-let thì giấy ấy, nước ấy mình phải quên nó đi. Xài xong thì liệng bỏ. Phương tiện thì chỉ xài lúc cần thiết thôi. Chứ không có ai mà cầm nắm cái giấy, cái nước ấy khi ra khỏi toa-let. Tất cả chỉ là phương tiện để qua sông. Qua sông rồi, thì tất cả phải bỏ hết. Ai đã từng mua vé tàu hỏa, xe bus, máy bay,... thì biết, tấm vé chỉ dùng để đi chuyến đó thôi, xong là nó không có tác dụng gì nữa.
 
Tất cả những gian lao khó nhọc Ngài Tịnh Giác, Ngài Hộ Pháp đã gặp, các vị nghe là các vị hết hồn luôn: xứ lạ quê người, học hành gian khổ,... khi xong hết rồi, thành bác học rồi, thì tuổi già ập tới, Thì tất cả chỉ là tấm vé thôi. Thì Ngài Tịnh Giác, Ngài xé cái vé của Ngài rồi đó, qua kiếp khác là Ngài có tấm vé khác rồi.
 
Lúc Ngài Tịnh Giác lấy được cái bằng Pali, lúc đó Ngài là đỉnh rồi . Lớp 8, trình độ của Ngài là Ngài còn chấm được cho mấy vị lớp 9. nhưng vì Ngài học tài thi phận mà người ta thỉnh Ngài đi chấm cho mấy vị lớp 9 luôn. Ngài viết lách, đọc hiểu như một vị tỳ kheo đương thời Đức Phật, không có trở ngại trong Pali. Đến khi Ngài muốn dừng lại tu thiền, thì tuổi già ập đến. Ngài đang dịch lại Trường Bộ Kinh, thì Ngài mất.
 
Cho đến lúc chưa là Tu Đà Hườn, thì mỗi kiếp sinh ra Ngài lại mua cái vé mới.
 
Mỗi vị phải có bổn nguyện để theo đuổi. Tôi nhắc lại: TU LÀ BUÔNG. Nguyện là sự chọn lựa.
 
Dầu tu tập thiền định hay tuệ quán, Chưa chứng thánh thì mọi nỗ lực chỉ là để mua cái vé thôi. Bước xuống tàu rồi là xong. Tùy thuộc bản nguyện của mình mà mình có thiết tha làm thiện lánh ác hay không; tùy thuộc bản nguyện của mình mà kiểu tu tập không giống nhau; vì kiểu tu tập không giống nên chúng ta chứng thánh trong điều kiện không giống nhau. Nhưng có điều kiện nó tốt hơn, quý vị à.
 
Tôi có cái nghiệp ngộ lắm: ở chùa Việt Nam, khi Phật tử cúng dường vật gì mà không đủ chư tăng chia thì để dùng chung, còn có cái phải chia ví dụ như dao cạo râu, khăn tắm,... thì phải bắt thăm, mà tôi thường xuyên liên tục 10 lần bắt thì tôi trật hết 9 lần rồi. Ngộ lắm.
 
Người mà ghét tôi thì chửi không còn nước non nào. Còn người thương thì đi đồn, rồi tiếp tục tôi nghèo nữa.
 
Cái nghiệp nó xui mà lây qua Kalama luôn. Đổi ông khác có khi Kalama nó xây thành tháp vàng rồi . Mà tôi có ăn nhậu gì đó đâu, tôi chỉ là founder thôi.
 
Tiên thiên của tôi nó tệ lắm. Tử vi nói tôi tướng tinh con thỏ mà xương con gà, nhút nhát, gầy yếu lắm. nhưng có cái may năm nay 50 tuổi tôi chỉ bị trục trặc 1 lần đi mổ sạn thận thôi chứ không giống mấy ông bạn tôi, vị bị chảy máu cam, vị bị xoang, vị bị táo bón từ 15 tuổi tới bây giờ….
 
Tôi cầu, từ đây tới ngày tôi đi, không còn bị chọc lỗ, rạch đường, luồn ống nữa. Cho nên: Tùy thuộc kiểu tu, khuynh hướng tâm lý, mình vận dụng, ra sao mà từ cái nền tảng tâm thức đó mình tu tập khác nhau, cách tu chứng khác nhau, ...
 
Ông thì suyễn, ông thì táo bón, ông thì viêm xoang ngồi gần mùi lắm . Có người thì sức khỏe tốt nhưng mà cái này (đầu) nó không được, ngồi vô học là ngủ, coi việc học là cực hình, tra tấn . Trong khi có người hiếu học, coi việc học là quyền lợi, là sung sướng, có người nghe học là tái mét luôn, thà đi chăn trâu. Vì tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý nó dẫn đến sự khác biệt đó. Tất cả do Bổn nguyện mà ra. Kinh Apadana
 
Nếu phải lựa thì tôi xin cái biệt hạnh nào nó mềm mềm chút.
 
Riêng tôi: Em chỉ xin gặp Phật em đắc Tu Đà Hườn là được rồi, đắc xong em chết luôn cũng được. Oải quá rồi
 
Càng lúc tôi càng thấm khổ sanh tử, khổ già, khổ bệnh, thương phải xa, ghét phải gậ, chưa kể khổ sa đọa, mấy cái con giun, con trùn, biết chừng nào mới lên hả trời. Mấy con vi sinh, yếm khí sống chỗ thiếu oxy, mấy con hào chun trong đá, tôi nhìn tôi sợ lắm, biết bao giờ mới chun lên. Chưa kể trong sinh có những loài yểu mệnh sáng sinh chiều chết. cứ sanh là chết chết rồi sanh mà không biết bao nhiêu ngàn tỷ kiếp sống như vậy, mù mịt tăm tối. Làm người thì không biết bao nhiêu lần sinh ly tử biệt.
 
Cho nên, tùy bổn nguyện của mình, còn muốn nấn ná, nắm níu thì ở lâu, còn muốn đi cho nó mau, đi cho nó lẹ thì: Tôi nhắc lại: Chỉ có pháp môn chánh niệm nhưng phải học giáo lý. Rồi có một ngày trí tuệ nó hiểu ra . Tôi ghét chữ "phân tích".
 

Sống chánh niệm + kiến thức giáo lý cứ sống như vậy.

 
Đừng có phân tích, không có danh - sắc gì hết, dẹp! lúc nào ngồi được thì ngồi. xếp cái chân biết xếp cái chân. chỉ quan sát chứ không điều khiển, can thiệp. chỉ thuần túy quan sát một cách khách quan, trung thực.

 
Nếu bổn nguyện anh tệ quá, nghe cái pháp môn anh nghe thấy oải. Nhưng nếu anh có ba la mật thì anh thấy không có cái pháp môn nào hay hơn LÀM GÌ BIẾT NẤY.
 
Bình thường của ngài A-la-hán là chỉ sống chánh niệm. Chánh niệm là đời sống duy nhất mà Ngài không thể chọn cái nào khác.
 
  1. Buổi đầu nó là cái mình cố gắng có. 
  2. Bước 2: nó thành tự nhiên, mình an lạc với nó. 
  3. Bước 3: nó đủ mạnh để trí tuệ làm việc, nó không bỏ sót bất cứ chi tiết nào. 
Ngày xưa đang đi biết đang đi . Bây giờ đang đi biết đang đi biết tâm sân đang có mặt biết sự sợ hãi đang có hãi. Trong bước thứ 3 này, khi anh biết như vậy, anh hiểu thêm chuyện khác: 

  1. Tất cả đều là khổ. 
  2. Bất cứ niềm đam mê nào, giữ lại cảm giác nào hay muốn vượt khỏi cảm giác này đều là đam mê trong khổ. 
  3. Muốn hết khổ thì đừng đam mê trong khổ nữa. 
  4. Và sống trong 3 nhận thức này là đang trên đường thoát khổ.
 
Không có "sát trừ" thật ra là sự "thay thế". Trước mình thấy nó là ngon là dở, là người thân kẻ thù, cái thích cái ghét, nhưng đến lúc mình nhìn rốt ráo thì thấy rõ ràng: Đây là 5 uẩn, không có tôi, của tôi,

Nó chỉ là pháp thôi. Pháp đang có mặt. Chỉ có pháp vận hành. Chỉ có pháp đang hiện hữu. Không hề có đực cái già trẻ... Tùy điều kiện mà chớp tắt sanh diệt. Chỉ với cái thấy đó vị ấy mới buông được thương thích, ghét sợ. Chỉ có sống chánh niệm. Không có chánh niệm thì không có cơ hội thấy được chớp - tắt- chớp- tắt

 
Để thực hiện được cái này thì quay lại Bốn nguyện:
 
1/ Đời đời gặp minh sư thiện hữu ( có 3 hạng: dạy mình điều lành nhưng họ không lành; họ là người lành nhưng chỉ thể dạy mình bằng thân giáo chỉ nhìn để bắt chước; họ làm được điều họ nói, dạy cho mình, chia sẻ với mình cái họ có họ hiểu, họ đã làm được, chứng được)
 
2/ Đời đời sinh ra có điều kiện để làm công đức .  Khi cần tu thiền là có điều kiện, cần bố thí là có điều kiện. Dù điều kiện của mình không bằng người ta, nhưng mà mình có điều kiện để làm điều đó là được rồi, Cần học đạo là bèn có thầy bạn ngon lành. Cần giữ giới là bèn có người hộ trì, hỗ trợ. Đừng có nói giữ giới không cần người hộ trì, hỗ trợ. Dù cùng phát nguyện không giữ tiền, thuốc men, y dư, thực phẩm, nhưng mà có vị thì thiếu triền miên, có vị thì có người theo dõi hỗ trợ khi cần. Đừng tưởng giữ giới là không cần điều kiện vật chất. Sai bét. Nói ngoài đời đi: Nghèo quá, cũng khó giữ giới lắm. Cái gì cũng cần có điều kiện hết. Cái "điều kiện làm thiện" có nhiều thứ lắm .

3/ Đời đời kiếp kiếp xin cho con gặp được đối tượng để cúng bái, tôn thờ, gặp được các ngài tôn túc để mà cúng bái. Không có dễ đâu quý vị. Không phải có tiền là muốn gặp ai thì gặp. Sai bét. Thiếu phước gặp cao nhân, tự nhiên tới lúc mình biết tin là họ tịch rồi. Dù các vị có giàu tới cỡ nào. Rồi tới khi gặp được thì sao? Não trạng mình là đất sét, sình không à, tới lúc gặp chỉ cúng dường được chai dầu gió. Trong khi gặp cao nhân hiền thánh mình phải biết lắng nghe, thực hành, học đã luôn, hỏi đã luôn. Như gặp Ngài Hộ Pháp, Ngài Tịnh Giác, Ngài Pa - Auk, Ngài Ajahn Chah, Ngài Ledi,... ngay cả gặp Phật cũng bằng không.
 
(còn tiếp)
 
Reply