Câu Chuyện Sa Di Pandita
#61
Bước đầu hành thiền

[Image: Buddhist+monk+meditation+on+Water.jpg]

Giới thiệu: Bà Sarah Lim là một Phật tử gốc Singapore, hiện đang sinh sống tại Úc và có nhiều đóng góp tích cực trong các sinh hoạt Phật giáo. Bài nầy được trích dịch từ một bài pháp thoại của Bà tại thành phố Perth, Tây Úc, vào tháng 9 năm 2002. 

Qua kinh nghiệm cá nhân cũng như qua các trao đổi với các bạn thiền sinh khác, tôi nghĩ rằng chúng ta cần có một chương trình hành thiền tại nhà, sắp đặt rõ ràng tuần tự từng bước.

 

Nơi chốn

 

Trước tiên, cần phải có một chỗ thích hợp cho việc thực tập hằng ngày, để khỏi bị làm phiền trong lúc tập. Nơi hành thiền cần phải yên tĩnh và thoáng mát. Nếu có được một phòng nhỏ dành riêng cho việc hành thiền thì thật là tốt. Khi xây nhà, chúng tôi thiết kế một phòng ăn dành để đãi khách, đặt kế cạnh phòng tiếp khách, theo mô hình nhà cửa của dân chúng địa phương. Nhưng khi dọn về ở, chúng tôi thấy rằng mình cũng ít khi tiếp khách, không còn thích lối sống ồn ào, thù tiếp khách khứa nữa. Vì thế, chúng tôi quyết định biến đổi phòng đó thành một nơi để thờ phượng và hành thiền.

 

Trong phòng thiền, chúng tôi không trang hoàng bày biện rườm rà. Đơn giản chỉ có một bàn thờ nhỏ với tượng Phật. Chung quanh tường là các kệ sách nhỏ để lưu các bộ kinh điển và tài liệu tham khảo Phật giáo. Trên sàn nhà là một tấm thảm, nơi chúng tôi quỳ lễ bái, tụng kinh, và ngồi hành thiền. Tôi dùng một tủ thấp, có chiều cao khoảng 80 cm, để làm bàn thờ. Trên đó, chúng tôi kê thêm một bục gỗ nhỏ để đặt tượng Phật. Đây là tượng Phật bằng hợp kim đồng thau màu vàng, cao khoảng 30 cm, thỉnh từ Thái Lan. Tôi cũng đặt thêm một lư hương nhỏ và một cặp nến điện, mua ở khu thương xá Á Đông. Thỉnh thoảng, vào các dịp lễ, chúng tôi đặt thêm một lọ hoa tươi. Tôi thích bố trí như thế, đơn giản nhưng trang nghiêm. Bàn thờ có độ cao vừa tầm nhìn khi chúng tôi quỳ lạy hay ngồi hành thiền, để có thể chiêm ngắm tượng Phật, và cảm thấy gần gũi với Đức Bổn Sư.

 

Thật ra, nơi hành thiền không cần phải đặc biệt. Điều quan trọng là chúng ta nên tạo lập một chỗ nhất định và thời gian hành thiền cố định, để có được một thói quen đúng giờ, đúng nơi. Thêm vào đó, trước khi hành thiền, để tránh các cú điện thoại quấy rầy, tôi thường điều chỉnh máy điện thoại sang dạng trả lời tự động và điều chỉnh tiếng reo thật nhỏ.

 

Mỗi ngày, tôi lễ bái và hành thiền hai lần: buổi tối, lúc 10 giờ đêm; và buổi sáng sớm, lúc 5 giờ sáng, trước khi những người trong nhà thức dậy. Lúc sáng sớm là lúc tâm trí thoải mái và cơ thể khỏe khoắn. Một thiền sinh thực tập nghiêm túc sẽ luôn hành thiền vào những giờ nhất định, vì biết rằng chỉ cần đủ giờ ngủ nghỉ thì thân thể không mệt mỏi và tâm hồn tỉnh táo.

 

Khi trước, tôi thường thắp nến sáp, nhưng gần đây thì tôi chuyển sang dùng nến điện. Ánh sáng nến tỏa ra từ bàn thờ Phật nhắc nhở tôi ánh sáng từ bi và trí tuệ của Đức Bổn Sư. Ánh sáng nầy cũng giúp tạo một không khí trang nghiêm nhưng hiền hòa, ấm cúng trong phòng thiền. Thêm vào đó, mỗi khi tâm tôi chạy lang thang, ánh sáng từ ngọn nến giúp đưa tôi trở về hiện tại, tại nơi chốn này, nơi tôi đang ngồi thiền, theo dõi hơi thở của mình.

 

Tụng kinh

 

Buổi sáng, khi tâm trí tỉnh táo sau giấc ngủ, tôi chỉ tụng vài câu kinh ngắn rồi bắt đầu hành thiền. Vào phòng thiền, tôi quỳ xuống và bắt đầu lạy ba lạy, chậm rãi từ tốn, với bàn chân, đầu gối, tay và trán chạm mặt đất, như chúng ta thường thấy Phật tử lễ bái tại các chùa trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy. Trong tư thế quỳ, tôi chấp tay, và đọc 3 lần câu: "Namo tassa bhagavato arahato samma-sambuddhassa" (Con thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác), rồi đọc tóm tắt lời tán dương Tam Bảo và lễ lạy sau mỗi câu.Sau đó, tôi bắt đầu hành thiền.

 

Buổi tối, sau một ngày làm việc mệt nhọc, tôi thường cảm thấy buồn ngủ. Thêm vào đó, nếu phải lo nghĩ nhiều việc trong ngày, tâm tôi rất khó an định. Vì thế, tôi thường tụng kinh nhiều hơn, và thời gian dành cho hành thiền thì ngắn hơn buổi sáng – ngoại trừ vào ngày cuối tuần hay trong các ngày nghỉ, khi tâm trí thoải mái, thư dãn thì tôi có nhiều thì giờ hành thiền hơn. Tôi bắt đầu quỳ lạy và tụng câu "Namo tassa …" như khóa lễ buổi sáng, nhưng sau đó, tôi tụng đầy đủ bài kệ tán dương ân đức Tam Bảo.

 

Tiếp theo, tôi tụng đọc bài kệ quy y Tam Bảo, năm học giới của cư sĩ (Ngũ Giới), năm điều quán tưởng hằng ngày, và bài kinh Từ Bi. Đây là các bài tụng phổ thông bằng tiếng Pāli mà tôi đã học được từ cuốn băng cassette do chư Tăng thu âm và phổ biến tại chùa. Tụng kinh chậm rãi, rõ ràng từng chữ, giúp tập trung tâm trí và giúp ta tăng thêm niềm tín thành nơi Tam Bảo. Sau đó, tôi bắt đầu hành thiền.

 

Hành Thiền

 

Khi ngồi thiền, các bạn nên giữ lưng cho thẳng nhưng thư thả, nhẹ nhàng, thăng bằng, không căng thẳng. Đầu giữ thẳng, cân bằng trên vai, mặt hướng về bàn thờ, không nên gục xuống, mắt nhẹ nhàng khép lại nhưng không hoàn toàn khép hẳn. Nhiều người có thể ngồi ngay trên sàn nhà, theo tư thế kiết già hay bán kiết già như ta thường thấy qua các tượng Phật, và họ cho rằng đó là tư thế tốt nhất. Riêng phần tôi, tôi không thể ngồi được trong tư thế đó. Tôi thường ngồi trên một tọa cụ – là một cái gối nhỏ, và hai chân đặt song song như kiểu ngồi của người Miến Điện. Như thế, tôi cũng tạo được ba điểm tựa vững chắc để nâng đỡ thân thể, với bàn tọa đặt trên gối nệm và hai đầu gối chạm mặt đất. Đôi khi, chân tôi lại trở nên quá đau nhức, tôi chuyển sang dùng một cái ghế nhỏ, kê dưới mông, và ngồi trong tư thế quỳ, như kiểu ngồi của các thiền sinh Nhật Bản. Bạn có thể ngồi trên ghế cao nếu bạn không quen ngồi trên sàn đất. Điều quan trọng là bạn giữ lưng cho thẳng, không dựa vào thành ghế, để tránh ngủ gật.

 

Hai tay nhẹ nhàng đặt trên đùi, bàn tay để chồng lên nhau, với hai đầu ngón cái chỉ chạm nhẹ vào nhau. Thêm vào đó, tôi thấy rằng trong lúc hành thiền, ta nên mỉm cười, nụ cười hiền hoà như thường thấy ở các hình tượng Đức Phật. Nụ cười mỉm nầy giúp tâm trí ta được vui tươi, an lạc. Khép nhẹ đôi mắt, tôi ghi nhận cảm giác của toàn thân, từ đỉnh đầu xuống đến bàn chân, ghi nhận tư thế ngồi vững vàng, thoải mái. Rồi tự nhủ thầm: "Bây giờ, tôi sẽ bắt đầu hành thiền, chú tâm vào hành thiền, không quan tâm đến việc gì khác".

 

Bước đầu của việc hành thiền là theo dõi hơi thở. Thở tự nhiên, điều hòa, bình thường, không cố ý ép thở nhanh hoặc chậm, dài hay ngắn. Chú ý để tâm nơi lỗ mũi, theo dõi hơi thở vào… ra… vào… ra… Chú tâm đến luồng hơi khi nó vừa đến chạm lỗ mũi, và khi luồng hơi khi sắp sửa thoát ra khỏi mũi. Ghi nhận sự chạm xúc, các cảm giác, sự nóng lạnh, tiếng sột soạt trong ống mũi, nếu có.

 

Hãy chú ý ghi nhận tất cả nhưng không phân tích, bình luận hay giải thích gì cả. Chỉ đơn thuần một sự ghi nhận. Bạn sẽ thấy hơi thở từ từ mỏng dần và nhu nhuyển, nhẹ nhàng hơn, cho đến lúc bạn có cảm giác là dường như bạn không còn thở nữa. Thật ra, đó là lúc mà hơi thở đã được an định, và trở nên rất dễ chịu. Lúc đó, không còn "bạn" là người đang thở, mà chỉ có một hơi thở đang xảy ra, và một sự nhận biết, ghi nhận, theo dõi hơi thở đó.

 

Công phu hành thiền tiến triển tốt đẹp khi ta có thể giữ tâm gắn chặt vào một đề mục – ở đây là theo dõi hơi thở – trong một thời gian dài. Khi bạn có thể quán sát, ghi nhận từng hơi thở, diễn trình của luồng hơi, từ lúc sinh khởi cho đến khi tàn diệt. Khi nó đi vào cũng như đi ra. Mỗi một hơi thở là một hiện tượng mới lạ, một cảm giác mới lạ. Bạn ghi nhận, theo dõi, rồi buông bỏ khi nó tàn diệt. Rồi tiếp tục ghi nhận hơi thở khác, mới vừa sinh khởi. Tâm bạn giống như người giữ cửa, đón chào và ghi nhận người khách bước vào hay bước ra khỏi nhà, mà không cần tìm hiểu tông tích, mục đích, hay công việc của ông ta. Khách khứa ra vào liên tục. Nếu bạn trò chuyện với một vị khách nào thì bạn không thể ghi nhận kịp thời các vị khách khác.

 

Theo lời khuyên của thiền sư, tôi bắt đầu tập ngồi thiền khoảng 15 phút, đều đặn mỗi ngày trong một tuần lễ. Rồi dần dần gia tăng thêm 5, 10 phút trong các tuần lễ kế tiếp, cho đến khi tôi có thể hành thiền trong khoảng 30 đến 45 phút. Để định thời gian hành thiền, có người thắp một cây nhang và ngồi thiền cho đến khi cây nhang tàn rụi. Tôi không dùng phương cách đó vì mùi trầm hương tỏa ra rất hăng nồng, khiến tôi khó định tâm. Lúc đầu, tôi dùng đồng hồ reo để định thời gian cho buổi thiền. Nhưng dần dần thì tâm tôi quen với thời gian định sẵn và tôi không còn cần dùng đến loại đồng hồ đó nữa.

 

Thông thường, bạn sẽ thấy thay vì theo dõi hơi thở, tâm bạn không chịu ở yên một nơi mà lại hay đi lang thang đây đó, suy nghĩ vẩn vơ, rồi nhiều lời nói thì thầm, lải nhải xuất hiện trong đầu bạn. Đó là hiện tượng rất tự nhiên, người nào cũng phải trải qua. Bạn chỉ nhẹ nhàng nhận diện chúng, rồi quay về với đề mục hành thiền là luồng hơi thở tại lỗ mũi.

 

Nếu bạn cảm thấy khó chú tâm tại mũi, bạn có thể áp dụng kỹ thuật niệm. Bạn niệm chữ "Buddho" (Bút-Thô), nghĩa là Phật-Đà hay Đức Phật. Bạn đọc thầm trong tâm chữ "Bút" khi thở vào, và chữ "Thô" khi thở ra. Bút … thở vào, Thô … thở ra. Bút … Thô … Bút … Thô … Bút … Thô … Đây là một phương cách rất phổ biến của giới thiền sinh Thái Lan mà chính tôi cũng đã thử qua và thấy rất hiệu nghiệm để giúp định tâm. Có người bảo đó là pháp niệm Phật, có người bảo đó là pháp niệm chú. Tên gọi như thế nào cũng được, không hề gì. Điều quan trọng là đã có nhiều người áp dụng pháp đó và có hiệu quả định tâm rất tốt. Khi tâm tương đối được an định rồi, bạn bỏ pháp niệm đó, trở về việc theo dõi hơi thở vào ra tại lỗ mũi, lặng lẽ, đơn thuần.

 

Có thiền sinh dùng kỹ thuật đếm hơi thở, từ số 1 đến số 10. Thở vào, thở ra, đếm Một. Thở vào, thở ra, đếm Hai. Thở vào, thở ra, đếm Ba, … cho đến Mười, rồi trở về đếm Một, Hai, Ba, … Tôi đã thử áp dụng nhưng cảm thấy phương cách nầy không thích hợp cho tôi, vì nó có vẻ gượng ép, không tự nhiên.

 

Bạn không nên cho rằng thật là vô ích, phí thì giờ khi bạn bị phóng tâm, suy nghĩ vẩn vơ hay vô ý ngủ gật. Đây là những trở ngại thông thường mà thiền sinh chúng ta đều phải đối diện và nhận biết. Bạn không nên bi quan, nản chí, hay nóng nảy, buồn giận. Để thành công, chúng ta phải kiên nhẫn và có một thái độ thư thả, dịu dàng để huân tập tâm ý. Các vị thiền sư đều khuyên chúng ta phải biết nhẫn nại và kiên trì, phải cố gắng thực tập đều đặn. Mỗi buổi thiền là một bước đi trên con đường mà chư Phật đã vạch ra, dần dần đưa ta tiến đến mục đích giải thoát tối hậu của mỗi người con Phật.

 

Trải rộng lòng Từ

 

Tiếp theo phần niệm hơi thở, tôi chuyển sang pháp hành thiền tâm Từ. Có nhiều phương cách khác nhau, bạn cần phải thử nghiệm để chọn một cách thích hợp cho riêng mình.

 

Vẫn trong tư thế ngồi thư thả, với nụ cười nhẹ nhàng trên môi, với tâm an định, tỉnh thức và xả ly, tôi thầm nguyện trong tâm: "Xin cho tôi được an lạc". Với niềm vui nhẹ nhàng đó, tôi đưa tâm ghi nhận từng nơi trên thân thể, từ đỉnh đầu đến mặt, hai vai, hai tay, ngực, bụng, bắp đùi, rồi bàn chân. Thông thường, khi làm như thế, tôi thấy có một cảm giác ấm áp, an nhẹ bao trùm toàn thân thể.

 

Với cảm giác an bình như thế, tôi bắt đầu hướng tâm đến những người thân trong nhà, nguyện cho các người ấy được an lạc. Rồi hướng tâm đến những người láng giềng, cùng xóm, rồi những người cộng sự tại sở làm, những người bạn đạo, những vị tu sĩ và bạn bè quen biết, những người đang sống tại thành phố này, tại xứ sở này, trên lục địa nầy, và dần đần hướng tâm Từ đến toàn thể nhân loại, toàn thể chúng sinh trong cõi Ta-bà. Mỗi lần chuyển đối tượng, tôi dừng lại vài phút, nghĩ đến đối tượng đó với cảm giác nồng ấm, an lạc, và nguyện cho họ cũng được an lạc như thế.

 

Hành thiền tâm Từ theo phương cách nầy thường mất khoảng 10, 15 phút.

 

Xả Thiền

 

Trong tư thế ngồi, tôi từ từ mở mắt. Hướng về tượng Phật, tôi chấp tay, thành kính tạ ơn Đức Bổn Sư, tạ ơn Ngài đã ban cho tôi một pháp hành để đưa đến an tịnh và trí tuệ giải thoát. Sau đó, tôi dùng tay nhẹ nhàng xoa bóp bàn chân và toàn thân thể.

 

Chuyển sang tư thế quỳ, tôi chấp tay tụng đọc bài kinh hồi hướng công đức đến tất cả chúng sinh. Lạy ba lần rồi thong thả đứng lên trong chánh niệm, tỉnh giác.

 

Đi kinh hành

 

Trong những ngày nghỉ hoặc khi có nhiều thì giờ, bạn có thể thực tập thêm pháp thiền hành, ngay trong nhà hay ngoài sân. Có thiền sư dạy rằng chỉ nên chọn một đường đi khoảng hai mươi hoặc ba mươi bước chân là vừa đủ, vì nếu khoảng cách dài hơn thì tâm trí sẽ dễ chạy đi nơi khác, còn nếu quá ngắn thì lại không đủ thời gian để đem tâm an trú vào bước chân. Riêng tôi, ngoại trừ những lúc trời mưa, tôi thường thích đi kinh hành ngoài sân vườn.

 

Chúng tôi thiết lập mội lối đi ngoài sân, vòng quanh nhà, rộng khoảng 1 mét, lát gạch, và tôi thực tập thiền hành trên lối đi đó. Tôi bước vòng quanh nhà theo chiều kim đồng hồ, tương tự như các Phật tử thường đi nhiễu vòng quanh bảo tháp hay vòng quanh chánh điện tại chùa trong các dịp lễ lớn. Hai tay buông thỏng, chạm nhẹ vào nhau, đặt trước thân, mắt hé nhìn xuống đất, miệng mỉm cười, tôi từ tốn cất bước theo nhịp đi chậm rãi bình thường của mình. Có những thiền sinh cử động thật chậm, để theo dõi từng động tác. Tuy nhiên, mỗi người chúng ta phải tự thử nghiệm để chọn một nhịp đi thích hợp cho mình.

 

Chú tâm vào mỗi bước đi, ghi nhận từng cảm giác khi bàn chân chạm mặt đất, chân phải rồi chân trái. Cảm giác khi bàn chân vừa chạm đất, khi trọng lượng toàn thân đè lên bàn chân, khi bàn chân vừa nhấc lên … rồi nhanh chóng đưa tâm sang ghi nhận bàn chân kia. Mỗi bước chân là một tiến trình mới lạ mà bạn chỉ đơn thuần ghi nhận, không đeo đuổi giải thích hay bình luận.

 

Sau một thời gian huân tập như thế, đôi khi bạn có thể có được một cảm giác an lạc, nhẹ nhàng bao trùm toàn thân trong lúc di chuyển. Cũng có lúc bạn có thể sẽ nhận thấy không có một "người" nào đang đi, mà chỉ có cử động bước đi nhịp nhàng và một sự nhận biết, lặng lẽ theo dõi các bước di chuyển đó. Các cảm nhận nầy xảy đến đột ngột, tự nhiên, rồi cũng tan biến đột ngột, tự nhiên. Bạn không nên bám víu, đeo đuổi chúng, mà cũng không nên mong cầu, vọng mống chi cả.

Khi tâm phóng đi lang thang, tôi nhẹ nhàng kéo nó lại, đưa nó về an trú trên bước chân. Đôi khi, tôi cũng áp dụng kỹ thuật niệm "Buddho" để giữ tâm. Khi bàn chân phải chạm đất, tôi niệm "Bút". Khi bàn chân trái chạm đất, tôi niệm "Thô"Bút … phải; Thô … trái; Bút … phải; Thô … trái; Bút … Thô … Bút … Thô … Bút … Thô … Tiếp tục như thế cho đến khi tâm tương đối ổn định, tôi bỏ niệm Buddho và quay về chú ý ghi nhận cảm giác của mỗi bước đi.

 

Thông thường, cứ đi khoảng 20 bước thì tôi đứng lại vài giây, ghi nhận cảm giác toàn thân trong tư thế đứng, rồi tiếp tục bước đi. Tôi thực tập như thế khi đi ba vòng quanh nhà, hoặc nhiều hơn nếu có thì giờ. Đi kinh hành giúp máu huyết lưu thông tốt, hít thở không khí trong lành ngoài trời, giúp gia tăng tâm chánh niệm khi thân thể chuyển động trong từng bước đi, huân tập cho tâm không bị chi phối bởi ngoại cảnh, bởi tiếng động lao xao của đời sống ngoài trời.

 

Thiền trong đời sống

 

Chúng ta vẫn có thể áp dụng nguyên tắc quán niệm hơi thở trong sinh hoạt hằng ngày, khi ngồi chờ tại trạm xe buýt hay xe lửa, chờ đợi ở sân bay, chờ đợi người thân khi đi mua sắm, khi là hành khách ngồi trong xe ô tô hay máy bay trong các chuyến du hành đây đó. Thay vì có tâm trạng háo hức, bồn chồn, sốt ruột, hay tìm sự lãng quên bằng cách đọc sách báo thời sự, nghe nhạc, hoặc tìm cách trò chuyện với người chung quanh, chúng ta vẫn có thể khép mắt lại, nhẹ nhàng theo dõi hơi thở của mình, để tâm được lắng dịu, nghỉ ngơi.

 

Tôi làm việc tại một văn phòng ở trung tâm thành phố, và nơi đó có vài ngôi nhà thờ cổ kính của Ky-tô giáo. Thỉnh thoảng, vào giờ nghỉ trưa, tôi vào nhà thờ, ngồi yên lặng, khép mắt, và để tâm theo dõi hơi thở khoảng 10, 15 phút. Ngoài kia là những khách bộ hành đi ăn trưa hoặc mua sắm, nhộn nhịp, uyên náo. Trong này là cả một bầu không khí an tĩnh, trang nghiêm; quả thật là một ốc đảo tươi mát để tâm được nghỉ ngơi sau nhiều giờ căng thẳng suy nghĩ trong lúc làm việc. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể áp dụng tinh thần thiền hành, chú tâm vào mỗi bước chân, khi ta đi bộ đến sở làm hay rảo bước nhịp nhàng, thong thả đến một nơi nào đó.

 

Ngay cả trong những lúc bực bội, buồn giận, hoặc chán nản về một sự cố, một vấn đề nào đó, tôi thường cố gắng kiểm soát tâm, không cho có phản ứng tức thời, mà chỉ dừng tâm lại, đem tâm theo dõi hơi thở, thở vào, thở ra, trong vài giây. Tự nhiên, tôi cảm thấy an định hơn, các cảm xúc nặng nề khi nãy giờ đây đã biến mất, và tôi có một cái nhìn, một phản ứng, một thái độ bình tĩnh, từ tốn, xây dựng, hòa ái hơn.

*

Dần dần, tôi thấy rằng tất cả những cố gắng đơn giản và nhỏ nhoi như thế thật ra đã giúp tôi rất nhiều, để đem tâm an định nhanh hơn trong các buổi thiền tập tại nhà và trong các khóa thiền ẩn cư. Tôi cảm thấy bình thản hơn, khi phải trực diện đối phó với nhiều vấn đề khó khăn trong cuộc sống. So với ngày xưa, trước khi tôi bắt đầu tập hành thiền, đời sống gia đình chúng tôi ngày nay tương đối an hòa và hạnh phúc hơn. Cuộc sống trở nên đơn giản, giảm thiểu các nhu cầu không cần thiết, và vì thế, ít căng thẳng. Tôi có nhiều thì giờ hơn để tham gia đóng góp Phật sự và các công tác từ thiện xã hội. Dĩ nhiên là con đường đưa đến giải thoát tối hậu còn nhiều thử thách và đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn thế nữa, nhưng ít ra, tôi tin rằng tôi đã đi đúng đường, và tôi đang gặt hát được những lợi lạc quý báu cho bản thân và cho những người chung quanh.





Bình Anson trích dịch,

Tây Úc, tháng 4-2005

Nguồn: Buddha Sasana

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#62
Thiền sư Achaan Naeb




Mười hai năm sau, bà bắt đầu đi dạy, bà thành lập nhiều trung tâm cho pháp học và pháp hành ở nhiều ngôi chùa, và cuối cùng dưới sự bảo trợ của Hoàng gia, bà thành lập hội Tâm lý trị liệu và hội nghiên cứu Phật giáo ở Wat Sraket ở Thái Lan. Mặc dù ở tuổi bảy mươi vào khoảng cuối cuọảc đờiụ, bà vẫn đi dạy và những đệ tử của bà tiếp tục sứ mệnh truyền bá pháp hành.


Wat Sraket là một hòn đảo êm ả, có những phòng ốc và tịnh viện thoáng mát ở trung tâm của Thái Lan. Viếng thăm thiền sư Achaan Naeb là một cơ duyên để thính pháp rõ ràng và trực tiếp.

 

Trước tiên bà dạy hành giả ngồi thoải mái sau đó khuyên hành giả không nên nhúc nhích. Dĩ nhiên không bao lâu, hành giả tự động bắt đầu chuyển đổi oai nghi. "Hãy kiên nhẫn chịu đựng nó. Tại sao quý vị nhúc nhích, lúc này đừng có nhúc nhích". Lời dạy của thiền sư chỉ trực tiếp vào nguyên nhân đau khổ rõ nhất, thân thể chính của chúng ta. Nếu đơn thuần chúng ta vẫn duy trì và cố kiềm chế không cho thân nhúc nhích, cuối cùng thì đau nhức tăng thêm cho nên chúng ta phải thay đổi oai nghi. Suốt ngày hầu hết tất cả công việc của chúng ta diễn ra cùng hình thức với nhau. Sau khi thức giấc, chúng ta tỉnh táo và đi xuống phòng tắm vệ sinh. Sau đó chúng ta ăn sáng. Sau nữa chúng ta ngồi xuống để thư giãn và đứng lên. Tiếp theo chúng ta đọc sách hay nói chuyện hoặc xem TiVi để làm lãng quên đi niềm đau tâm phiền não của chúng ta. Tiếp theo chúng ta nhúc nhích một lần nữa để làm thư giãn sự khó chịu khác. Mỗi sự chuyển động. Mỗi việc làm đều không mang lại niềm hạnh phúc nhưng để làm thư giãn sự đau khổ, không thể tránh được mà nó sinh ra trong thân thể. Phương pháp của thiền sư Achaan Naeb giản dị, nhìn vào nhân quả của đau khổ trong công việc và đời sống hàng ngày.

 

Ý niệm rõ về phương pháp này là lối đi vào trực tiếp để chấm dứt đau khổ và đây là hạnh phúc của bậc giác ngộ.

 

Achaan Naeb sắp đặt một số vấn đề Phật pháp quan trọng khác nữa. Trước tiên, bà nhấn mạnh rằng, hành giả phải có chánh kiến trước khi thực hành. Bà dạy rằng việc thành lập con đường trung đạo thì rất khó khăn. Không có chánh kiến và sự nhận thức, thì trí huệ sẽ không phát huy được. Chánh kiến này là sự hiểu biết, làm thế nào nhận thức tâm và vấn đề cho đứng đắn. Ðiều đó cũng có thể hiểu là những phiền não phát sanh ra sao từ ái dục và có thể phân biệt giữa sự hiểu biết rõ ràng về những đề mục hiện tại, đó là thực hành đúng, và nếu hành giả tu tập cho tâm an chỉ định, đó là thực hành chưa chuẩn.

 

Bà nhấn mạnh đến sự phân biệt giữa thiền chỉ và thiền quán. Bất cứ sự dính mắc nào đến an chỉ định hay sự luyện tập không có phương pháp thì được xem đó là điều cản trở cho trí tuệ phát sinh. Chỉ có thiền quán mới đi đến sự quán chiếu trực tiếp bản chất thân tâm trong giờ phút hiện tại. Không có ráng sức quá độ mà cũng không nhập định, điều đó thì thích hợp cho người tu thiền quán. Thay vì chúng ta cố nài để nhận biết được thân tâm một cách trực tiếp khi chúng xuất hiện trong mọi oai nghi. Chúng ta sẽ thấy rõ làm sao đau nhức và khổ đau chạy khắp châu thân xuyên qua những hành động hàng ngày. Chúng ta cũng sẽ biết làm sao cho thân tâm tách rời nhau, hiện tượng rỗng tuếch thì thay đổi liên tục.


Thiền sư Achaan Naeb dạy, chỉ xuyên qua sự chú niệm trực tiếp thân và tâm thì đó là thực hành thiền quán để trí tuệ phát sanh. Bà nhấn mạnh duy nhứt chỉ có Phật giáo mới đề cập đến Tứ niệm xứ như một con đường đi đến giác ngộ. Bà nhấn mạnh rằng không có con đường nào khác phải đi cả, đơn thuần chỉ tu tập theo dõi giây phút hiện tại, đặc biệt là thân tâm, và tại sao chúng ta di chuyển khi chúng ta làm.

 

Achaan Naeb khuyến khích chúng ta lắng nghe với sự hiểu biết để chúng ta có thể đạt được trí tuệ. Bà dạy: "Nghe với sự hiểu biết nghĩa là chúng ta lắng nghe mà không có những tư duy và ý kiến nào nhận thức trước cả.

 

Nếu chúng ta lắng nghe với tâm cố chấp, thì những tư duy và ý kiến nhận thức trước của chúng ta sẽ bị che giấu, chân lý không thể hiển hiện, và đó là lý do chúng ta sẽ quên đi sự thành đạtPTVN trí tuệ. Những thứ này chúng ta nên để qua một bên, và chúng ta nên lắng nghe với tâm cởi mở và không nên suy nghĩ về những gì thầy của chúng ta đã dạy trước đây. Vả lại, chúng ta không nên suy nghĩ về người nói; anh ấy là ai, trong bất cứ trường hợp nào anh ấy là thầy chúng ta, và không cố chấp bất cứ thành kiến nào ngược lại anh ta. Chúng ta phải lắng nghe với tâm hồn cởi mở và cố tìm ra những gì người ta đã nói hợp lý, và những gì người ta nói dẫn chúng ta đi đến sự giác ngộ".

 

Một số trung tâm thiền ở Thái Lan (và cũng như Miến Ðiện) dạy theo phương pháp này, và nhiều người phương Tây đến viếng thăm và thực hành đã đạt được trí tuệ giải thoát.

 

Theo: Những vị thiền sư đương thời

Người dịch: Tỳ khưu Thích Thiện Minh

Nguồn: Buddha Sasana


http://www.phattuvietnam.net/thien-su-achaan-naeb/


May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#63
Câu chuyện Sa di Pandita


Bài thuyết Pháp của Thiền sư U Tejinda
Tối Chủ Nhật 12/4/2009,  tại Thiền Viện Nguyên Thủy 


Người tưới cây dẫn nước.

Kẻ vót tên duỗi tên.

Thợ mộc đẽo gọt gỗ.

Bậc trí biết sửa mình.

Vào những mùa hè khô hạn, nếu quý vị muốn tưới nước cho vườn tược, quý vị cần phải đào đường dẫn nước từ những sông suối gần đó.

Cũng vậy, nếu bạn muốn đạt đến Niết Bàn thì bạn cần phải khơi và giữ tâm của mình bằng Giới (Sila), Định (Samadi) và Tuệ (Panna), giống như việc khơi đường dẫn nước để tưới cho cây được tươi tốt.
 


Khi giương cung để bắn mũi tên trúng mục tiêu, thì mũi tên cần phải thật thẳng chuẩn xác. Nếu mũi tên bị cong, thì nó sẽ đi chệch mục tiêu.
 


Để có được mũi tên, người làm cung tên phải đi vào rừng đốn tre, sau đó chẻ mảnh tre ra, rồi vót cho những mảnh tre thật nhẵn, tiếp đến đem phơi dưới nắng. Rồi sau đó đem hơ lửa và dùng hai tay tì mảnh tre vào đầu gối và ra sức uốn nắn những đoạn cong và cứ lặp đi lặp lại cho đến khi đoạn tre thật thẳng.
 


Cũng vậy, quý vị có thể uốn nắn cho thẳng lại bản Tâm đã bị cong vẹo của mình do ô nhiễm Tham (Loba), Sân (Dosa), Si (Moha) bằng “lửa” của Giới (Sila), Định (Samadi) và Tuệ (Panna). Với “Tâm đã uốn thẳng”, quý vị có thể nhìn thấu suốt được 5 uẩn.
 


Thêm một ví dụ khác. Khi vào rừng, người thợ xẻ gỗ đốn hạ đủ loại cây gỗ: cao có, thấp có, cong có, thẳng có. Đối với những cây gỗ cong, sau khi hạ cho nằm trên mặt đất, sẽ có hai người thợ cầm 2 đầu sợi dây căng mực đen và họ sẽ nảy mực tạo thành đường kẻ màu đen thẳng thớm trên thân cây. Với đường kẻ này, họ xẻ cây thành những những phiến gỗ ngay thẳng để rồi làm nên những bàn ghế, nội thất bằng gỗ thật đẹp.
 


Tất cả những thứ đó đều được làm bởi bàn tay của người thợ xẻ gỗ và người thợ mộc. Cũng vậy, Tâm của quý vị giống như một “cây gỗ cong”, người thợ xẻ gỗ và người thợ mộc là Giới, Định, Tuệ sẽ làm cho quý vị trở thành những người nam và người nữ thật cao quý và đáng giá.
 


Khi ngự tại Kỳ Viên, Đức Phật đã đọc bài kệ trên liên quan đến một Sa di tên là Pandita.
 


Pandita là một chú bé con của một phú ông ở Savatth. Cậu thọ giới Sa di năm lên bảy. Cuộc sống quá khứ của cậu ta như sau:

Vào thời Phật Ca Diếp, khi Đức Phật Ca Diếp và Tăng đoàn của Ngài đến xứ Baranasi, tất cả dân chúng đều dâng thực phẩm cúng dường. Sau khi thọ thực xong, Đức Phật đã thuyết thời Pháp này.
 


Có bốn hạng người:
 


1.     Người này thực hiện việc bố cúng dường riêng mình nhưng không thuyết phục người khác bố thí cúng dường.

Bởi việc người này chỉ bố thí cúng dường cho riêng mình, cho tương lai của mình, người này sẽ trở nên giàu có và thịnh vượng.

Nhưng do không thuyết phục người khác bố thí cúng dường, cho nên người này sẽ không có được một gia đình hạnh phúc, họ hàng hạnh phúc và những điều hạnh phúc khác.
 


2.     Người này không tự mình bố thí cúng dường và chỉ đi thuyết phục người khác bố thí cúng dường.

Bởi do không bố thí cúng dường, trong tương lai của mình, người nay sẽ kém phần giàu có, nhưng có được một gia đình và họ hàng tốt lành và những điều tốt lành khác.
 


3.     Người này không tự mình bố thí cúng dường và cũng không thuyết phục người khác bố thí cúng dường. Người này sẽ trở nên rất nghèo và sau đó sẽ trở thành kẻ ăn xin.

 

4.     Hạng người cuối cùng, người này chẳng những tự mình bố thí cúng dường mà còn thuyết phục người khác bố thí cúng dường. Người ấy sẽ trở nên giàu có, thịnh vượng và có một gia đình rất hạnh phúc, họ hàng hạnh phúc cùng những điều hạnh phúc khác.
 


Có một lần dân chúng ở Baranasi thỉnh Đức Phật và các Tỳ Khưu. Họ đi vận động mọi người để hùn góp nhau trong việc trai tăng này. Có hai vợ chồng rất nghèo ở Baranasi, người chồng tên là Mahàduggata được giao trông lo một Tỳ Khưu, mặc dù hoàn cảnh họ cực kỳ khốn khó. Họ gắng sức làm việc để kiếm đủ số tiền cần thiết và chuẩn bị một bữa ăn đơn giản. Trời Đế Thích biết được sự việc xảy ra và đóng vai một người làm công để giúp họ.
 


Khi thời điểm ngày trai tăng đã cận kề, các vị Tỳ Khưu được chia ra để đến thọ dụng trai tăng ở một số nhà, riêng nhà của Mahàduggata bị bỏ qua. Mahàduggata vò đầu bứt tay và bật khóc. Nhưng có một số người mách ông rằng chưa ai thỉnh Đức Phật thọ thực cả.Thế là ông ta liền đi đến tịnh xá thỉnh Đức Phật và Ngài đã chấp nhận lời mời. Trong khi đó có rất nhiều hoàng tử và trưởng giả khác đang đứng đợi để thỉnh cầu Đức Phật đến dinh thự của mình.
 


Trong ngày hôm đó, bởi thần lực của Trời Đế Thích, mưa bảy thứ châu báu từ trên trời rơi xuống đầy nhà của Mahàduggata. Chuyện được tâu lên đức vua rằng Mahàduggata là người giàu nhất trong thành. Vua phong cho ông ta làm người coi kho báu cho vua.
 


Mahàduggata cho xây ngôi nhà mới và phát hiện ra thêm nhiều châu báu khác khi đang lúc đào móng nhà. Với số tiền này ông đã làm trai tăng cúng dường Phật và Tỳ Khưu trong bảy ngày. Sau này, khi chết ông đã được tái sanh lên cõi trời…

…Về sau, cho đến khi ông ta đi đến đạo quả A La Hán, thì ông ta đã phải thực hành thiền định…
 


Nhân đây tôi xin chuyển sang phần nói pháp thiền định trong buổi thuyết giảng tối chủ nhật này.
 


Tướng Nimitta xuất hiện trong khi thực hành chánh niệm hơi thở không phải ai cũng giống ai, mà nó tùy thuộc vào mỗi cá nhân.
 


1. Sợi vải len (uggaha-nimitta),

2. Dải lụa dài (uggaha-nimitta),

3. Luồng khí (uggaha-nimitta),

4. Ánh sáng như sao kim (uggaha nimitta and pañibhàga-nimitta),

5. Viên ngọc thạch hoặc ruby sáng (pañibhàga-nimitta),

6. Hạt ngọc trai sáng (pañibhàga-nimitta).
 


Lại có người nimitta có tướng thô như:
 


1. Thân cây bông vải (uggaha-nimitta and pañibhàga-nimitta),

2. Một mảnh gỗ sắc cạnh (uggaha-nimitta and pañibhàga-nimitta),

Ở một số người, nimitta có dạng như sau:

1. Một sợi dây dài (uggaha-nimitta and pañibhàga-nimitta),

2. Một vòng hoa (uggaha-nimitta and pañibhàga-nimitta),

3. Một làn khói (uggaha-nimitta and patibhàga-nimitta),

4. Một mạng nhện căng ra (uggaha-nimitta and pañibhàga-nimitta),

5. Một màn sương mù (uggaha-nimitta and pañibhàga-nimitta),

6. Một hoa sen (uggaha-nimitta and pañibhàga-nimitta),

7. Một bánh xe pháp (uggaha-nimitta and pañibhàga-nimiñta),

8. Một mặt trăng (uggaha-nimitta and pañibhàga-nimitta),

9. Một mặt trời (uggaha-nimiñta and pañibhàga-nimitta).
 


Đa số trường hợp một nimitta trắng tinh khiết như sợi vải len là uggaha-nimitta (học tướng), bởi vì uggaha-nimitta thông thường không sáng rõ. Khi nimitta trở nên sáng như ngôi sao mai, rực rỡ và rõ ràng, đó là pañibhàga-ni-mitta (tợ tướng).  Khi nimitta giống như viên ngọc bích hay ruby nhưng không sáng thì đó là học tướng nimitta, còn khi nó trở nên sáng chói và lấp lánh, đó là tợ tướng nimitta. Các hình dạng khác của nimitta cũng được hiểu tương tự như vậy.
 


Nimitta xuất hiện ở những người khác nhau theo những dạng khác nhau. Bởi vì nói được sinh ra bởi tưởng tri. Tưởng khác nhau của mỗi thiền giả trước khi hình thành nimitta sẽ sinh ra những dạng nimitta khác nhau. Mặc dù chánh niệm hơi thở là một đề mục duy nhất, nhưng nó làm phát sinh nhiều loại nimitta khác nhau tùy thuộc vào mỗi cá nhân.
 


Khi quý vị đạt được trạng thái này, nó có ý nghĩa rất quan trọng. Quý vị đừng đùa với nimitta của mình. Đừng để cho nó biến mất, và đừng cố ý làm thay đổi hình dáng hoặc màu sắc của nó. Nếu làm như vậy, định tập trung của quý vị sẽ không phát triển tiếp, và tiến trình thiền của quý vị sẽ bị dừng lại. Nimitta khi đó có thể sẽ không còn nữa. Do đó, khi nimitta của quý vị xuất hiện lần đầu, đừng di chuyển sự tập trung trên hơi thở sang tập trung trên nimitta. Nếu quý vị làm như vậy thì nó sẽ biến mất.
 


Nếu quý vị nhận thấy nimitta trở nên ổn định và tâm của quý vị trở nên hợp nhất với nimitta, khi đó hãy định tâm quý vị vào đấy. Nếu quý vị buộc tâm của mình rời khỏi nimitta, quý vị có thể sẽ bị mất tập trung.
 


Nếu nimitta xuất hiện ở khoảng cách xa quý vị, thì đừng để ý đến nó, điều đó có thể làm biến mất nimitta. Nếu quý vị không để ý đến nó và chỉ tập trung trên hơi thở tại điểm xúc chạm, thì nimitta tiến đến và định vị tại điểm xúc chạm này.
 


Bây giờ chúng ta sẽ dừng nói về Pháp hành thiền và tiếp tục câu chuyện của ông Mahàduggata.
 


Vào thời Đức Phật Thích Ca, Mahàduggata, trong kiếp cuối cùng của mình, mẹ ông ta là con của một thương gia giàu có ở Savatthi. Thời gian bà ta đang mang thai, bà khao khát được cúng dường 500 vị Tỳ Khưu dẫn đầu bởi Ngài Xá Lợi Phất, với những khẩu phần được tuyển chọn từ cá hồng, dâng đắp những bộ y vàng, ngồi vòng ngoài các vị Tỳ Khưu, và nhận ăn những phần thức ăn còn thừa của những vị Tỳ Khưu. Ước mơ này của bà cuối cùng được thành tựu. Và sau đó bà làm thêm bảy lần thỉnh đãi như vậy nữa.
 


Khi đứa trẻ chào đời, bà đặt tên là Pandita (người sáng suốt, trí tuệ). Bởi ngày thọ thai chú bé, những người làm trong nhà hễ ai bị đần, điếc hay câm đều trở nên bình thường. Khi lên bảy, chú bé khao khát được trở thành một vị Tỳ Khưu, và đã được ngài Xá Lợi Phất, vị Tỳ Khưu thường hay thọ thực tại đây, thu nhận. Thế là cha mẹ chú bé Pandita tổ chức lễ cúng dường bảy ngày để ăn mừng sự kiện này.
 


Cậu bé trở thành Sa di ở độ tuổi lên bảy. Ngày thứ tám sau khi trở thành một Sa di, khi chú bé đi theo Trưởng lão Xá Lợi Phất dự trai tăng, chú thấy những người nông dân đang khơi con kênh dẫn nước vào những cánh đồng và hỏi trưởng lão: “Như con nước kia không có tri giác, có thể được dẫn đến bất cứ nơi nào mà người ta mong muốn không?” Trưởng lão trả lời: “Được, nó có thể được dẫn đến bất cứ nơi nào mà người ta mong muốn.”

Khi họ tiếp tục đi, Sa di trông thấy một người vót tên đang hơ nóng những mũi tên lên ngọn lửa và duỗi chúng lại cho thẳng. Đi xa hơn nữa, chú thấy những người thợ mộc đang xẻ, cưa và bào những thanh gỗ để làm thành những bánh xe.
 


Thế rồi chú suy tư: “Nếu nước là một vật vô tri có thể dẫn đi bất cứ nơi nào người ta muốn. Nếu cây tre cong là vật vô tri, có thể uốn cho thẳng lại. Nếu thanh gỗ là vật vô tri, có thể làm ra những đồ dùng hữu ích. Tại sao, như ta đây, có đầy đủ tri giác, lại không thể thuần hóa tâm của mình bằng việc thực hành việc thiền chỉ và tuệ quán?”

Sau đó, được sự cho phép của ngài Xá Lợi Phất chú trở về tịnh xá trước và dặn Trưởng lão khi nào dự lễ thọ thực xong nhớ mang về cho chú thức ăn là những con cá hồng. Chú còn thỉnh cầu Trưởng lão cho phép chú về phòng riêng của mình trong tịnh xá. Khi vào đấy, chú bắt đầu hăng hái, nhiệt thành thực hành thiền định, chánh niệm thân. Đế Thích và các Chư Thiên khác cũng giúp chú hành thiền bằng cách giữ tịnh xá và khu vực lân cận thật tĩnh lặng. Đế Thích còn giữ mặt trời và mặt trăng vì e rằng ngày đêm sẽ quấy rầy Pandita.
 


Khi Trưởng lão Xá Lợi Phất mang thức ăn về cho Sa di. Đức Phật, bằng thần thông của mình, thấy Sa di Pandita đã chứng đạo quả A Na Hàm và nếu chú tiếp tục thiền định thì sẽ chứng đắc A La Hán. Do đó Đức Phật quyết định sẽ không cho Xá Lợi Phất vào phòng của Sa di. Đức Phật đi về phía cửa và ngăn Xá Lợi Phất lại bằng cách hỏi ông một số câu hỏi. Trong khi hỏi đáp thì Sa di đã chứng được đạo quả A La Hán. Như vậy, Sa di đã chứng đắc A La Hán vào ngày thứ tám sau khi thọ giới.
 


Nhân câu chuyện này, Đức Phật bảo các Tỳ Khưu trong tịnh xá: “Khi người ấy nhiệt thành thực hành Pháp, ngay cả Đế Thích và các hàng Chư Thiên sẽ canh phòng và bảo vệ; Ngay chính ta đây cũng giữ Trưởng lão Xá Lợi Phất ở cửa để Sa di Pandita không bị quấy nhiễu. Sa di đã trông thấy những người nông dân dẫn nước vào ruộng, thấy những người vót tên làm thẳng các mũi tên, thấy những người thợ mộc làm những bánh xe và những thứ khác, thuần hóa tâm của mình và thực hành Pháp. Giờ đây chú đã trở thành một A La Hán.”

Đức Phật đã đọc bài kệ như sau:
 


Udakañhi nayanti nettika, usukara namayanti tejanan.

Darun namayanti tacchaka, attanan damayanti pandita.”

Người tưới cây dẫn nước đến bất cứ nơi nào họ muốn, người vót tên duỗi thẳng tên; Người thợ mộc đẽo gọt gỗ, bậc trí biết tự thuần hóa tâm mình.
 


Người dịch: Tống Phước Khải
Nguồn: Thiền viện Nguyên Thủy
Reply
#64
Sống trong từng sát na: Phương pháp tu tập dựa trên kinh Tứ Niệm Xứ


[Image: pexels-photo-937465-640x427.jpeg]


Sống Trong Từng Sát Na là phương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm.

Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm (Satipatthana Sutta), còn gọi là Kinh Tứ Niệm Xứ, là bản kinh do Ngài đại đức Ananda thuật lại những lời thuyết giảng của Đức Phật lúc Đức Phật đang cư trú ở Kammasadamma, một thủ phủ của xứ Kuru.



Con đường tu tập bốn lãnh vực quán niệm là con đường độc nhất một lối đi để đạt đến đích điểm, là con đường tu tập tỉnh thức mà bản thân mình tự nỗ lực hành trì. Đó là con đường thiền quán mà Đức Phật đã giác ngộ, là con đường đưa đến mục tiêu giải thoát tâm linh, đạt tới Niết Bàn thanh tịnh ngay trong giờ phút hiện tại.



Bốn lãnh vực quán niệm là phương pháp tu trì dùng trực giác để ghi nhận và quán sát về các sự kiện đang xảy ra liên quan đến thân thể, cảm thọ, tâm thức và đối tượng tâm thức. Sự ghi nhận cần phải thật khách quan, ý thức về sự việc không dính mắc đến đề mục “ta” “của ta” trong quá trình quán niệm.



Phương pháp tu tập bốn lãnh vực quán niệm bao gồm 2 tiến trình là niệm và quán. Niệm là chú tâm ghi nhận. Ghi nhận để thấy rõ quá trình sinh và diệt của sự việc, để không bám víu vào năm uẩn. Quán là quán sát khách quan. Quán sát để trực nghiệm bản chất vô thường, khổ và vô ngã của mọi sự kiện. Như vậy, quán niệm là chú tâm ghi nhận và quán sát khách quan về các sự việc đang xảy ra liên quan đến thân thọ tâm pháp trong giờ phút hiện tại. Nó còn được hiểu là niệm xứ, hay niệm trú, có nghĩa là an trú tâm trong ý thức giác tỉnh ngay bây giờ và ở nơi đây.



– Lãnh vực đầu tiên là quán thân nơi thân. Đây là phương pháp quán niệm về hơi thở, các tư thế của thân thể, các cử động của thân thể, các bộ phận trong thân thể, bốn yếu tố cấu tạo thành thân thể, chín giai đoạn tan rã của một tử thi.

– Lãnh vực thứ hai là quán thọ nơi thọ. Đây là phương pháp quán niệm về các cảm giác khoái lạc, các cảm giác đau khổ, các cảm giác trung tính không khoái lạc cũng không đau khổ.



– Lãnh vực thứ ba là quán tâm nơi tâm. Đây là phương pháp quán niệm về tâm ý tham dục, tâm ý sân hận, tâm ý si mê, tâm ý thu nhiếp, tâm ý tán loạn, tâm ý trở thành rộng lớn, tâm ý trở thành hạn hẹp, tâm ý đạt đến trạng thái cao nhất, tâm ý có định, tâm ý giải thoát.



– Lãnh vực thứ tư là quán pháp nơi pháp. Đây là phương pháp quán niệm về năm hiện tượng ngăn che của sự giác ngộ, năm uẩn, sáu giác quan, sáu đối tượng của giác quan, bảy yếu tố của sự giác ngộ, bốn sự thật cao quý.



Tại sao gọi là quán thân nơi thân, quán thọ nơi thọ, quán tâm nơi tâm, quán pháp nơi pháp? Có nghĩa là quán thân trong thân, quán thọ trong thọ, quán tâm trong tâm, quán pháp trong pháp. Ta khách quan ghi nhận và ý thức rõ ràng về thân thể ở nơi thân thể, cảm thọ ở nơi cảm thọ, tâm thức ở nơi tâm thức, đối tượng tâm thức ở nơi đối tượng tâm thức. Ta chú tâm nhận biết về sự việc một cách giác tỉnh, không nghĩ tưởng để phân tích vấn đề. Ta trực nghiệm thân thể chỉ là thân thể, cảm thọ chỉ là cảm thọ, tâm thức chỉ là tâm thức, đối tượng tâm thức chỉ là đối tượng tâm thức. Không dựa vào nghĩ suy luận lý của tâm thức để phân tích về cảm thọ, cũng không dùng cảm thọ để phân tích về thân thể hay tâm thức hay đối tượng tâm thức, cũng không dính mắc đến đề mục “ta” “của ta” trong quá trình quán niệm.


Yếu tố cần yếu trong quá trình tu tập là sự tinh tấn. Bản thân nỗ lực tinh chuyên hành trì trong mọi phút giây. Thực tập sống tỉnh thức trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Tu tập bốn lãnh vực quán niệm mà thiếu sự tinh tấn thì khó có thể gặt hái được thành quả của sự tỉnh thức.

Còn tiếp.

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#65
Sống trong từng sát na: 
Phương pháp tu tập dựa trên kinh Tứ Niệm Xứ

(tt)

[Image: 5c82fedde3b6d.jpg]


[b]QUÁN THÂN[/b]

Lãnh vực đầu tiên là quán thân nơi thân. Phương pháp căn bản làm nền tảng cho quá trình tu tập quán thân là pháp quán niệm về hơi thở.



Trước hết, chọn một chỗ tương đối yên tịnh để hành thiền. Có thể vào một khu rừng, tìm đến một gốc cây, hoặc một nơi im vắng nào đó, ở phía sau vườn nhà, một căn phòng riêng, hay một thiền đường.



Khi tọa thiền, ngồi theo tư thế kiết già. Ngồi trên gối dầy, hai chân xếp tréo, bàn chân trái để lên đùi chân phải, bàn chân phải để lên đùi chân trái. Hai bàn tay lật ngửa xếp lên nhau và đặt nhẹ trên hai bàn chân. Bàn tay phải đặt lên bàn tay trái, đầu hai ngón tay cái chạm nhẹ vào nhau. Mắt nhắm. Miệng ngậm. Thở vào và thở ra bằng mũi. Tập trung tâm trí vào một điểm nhỏ ở đầu chót mũi. Giữ lưng, vai, cổ và đầu cho ngay thẳng. Thân tâm buông thả trong một tư thế thoải mái và vững chải.

Nếu cách ngồi kiết già quá khó khăn trong bước đầu tu tập, có thể ngồi theo tư thế bán già, một chân này xếp tréo lên đùi chân kia:

– Chân phải để lên đùi chân trái (tư thế hàng ma)

– Chân trái để lên đùi chân phải (tư thế kiết tường)



Nếu không thể ngồi bán già được, có thể ngồi theo kiểu Miến Điện. Hai chân xếp lại nhưng không cần tréo lên nhau, chân phải để phía trước chân trái.

Hoặc có thể ngồi trên ghế theo kiểu Ai Cập. Hai chân chạm mặt đất. Hai bàn tay úp xuống để nhẹ trên hai bắp đùi. Chủ yếu là giữ lưng, vai, cổ và đầu cho ngay thẳng trong một tư thế thoải mái.



Cũng có thể thực tập bằng cách nằm dài trên giường, hoặc trên ghế dài. Nằm ngửa và thẳng lưng. Hai chân duỗi thẳng. Hai tay buông xuôi để dọc theo thân, hay lật úp xuống, xếp lên nhau và để nhẹ trên bụng. Phương pháp nằm có thể được thực tập trên giường trước khi ngủ, hay khi mới thức dậy, hoặc sau những giờ làm việc mệt mỏi khi thân xác và tâm trí cần một sự nghỉ ngơi thư giãn.



Khi xả thiền trong tư thế ngồi, trước hết dùng hai tay xoa nhẹ đều hai mi mắt, xoa khắp trên mặt, hai bên vai phải trái. Sau đó xoa đều trước ngực, chà xát phía sau hông nơi cuối cột xương sống. Rồi từ từ tháo chân ra, xoa bóp từng chân cho bớt tê mỏi.



Theo tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, pháp quán niệm về hơi thở cần được thực tập trong tư thế ngồi xếp bằng. Trong giai đoạn đầu, nếu chưa thể ngồi kiết già được, ta vẫn có thể thực tập theo tư thế bán già, Miến Điện, hay Ai Cập. Điều quan trọng là ngồi trong một tư thế vững chải và thoải mái. Chủ yếu là giữ lưng, vai, cổ và đầu cho ngay thẳng.



Tư thế ngồi rất cần yếu cho việc tu tập thiền định. Nên ngồi ít nhất mỗi ngày một lần, hoặc nhiều hơn nữa. Mỗi lần ngồi từ 15 phút đến một tiếng trở lên, thời điểm ngồi tốt nhất là sáng sớm, hay lúc chiều tối trước giờ ngủ nghỉ. Tu tập thiền quán theo tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm không phải chỉ thực tập trong lúc ngồi không thôi, mà cần phải tinh chuyên hành trì trong mọi thời lúc. Pháp quán niệm về hơi thở có thể được thực tập trong bất cứ tư thế nào của thân thể. Lúc đang đứng, đang ngồi, đang nằm, hay đang đi, ngay cả khi đang làm việc, hay ngủ nghỉ, cũng đều có thể áp dụng tu tập được.

Thiền, theo tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, là thực tập sống tỉnh thức trong giờ phút hiện tại. Thiền là một phương thức sống, một nghệ thuật sống, sống giác tỉnh trong từng sát na của cuộc sống. Cố gắng không đánh mất chính mình trong những nghĩ suy về tương lai, nuối tiếc về dĩ vãng. Đừng quá loạn náo trong giờ phút hiện tại. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ở nơi đâu, bất cứ lúc nào, cố gắng nuôi giữ ý thức giác tỉnh trong từng hơi thở và dùng phương tiện hơi thở để điều hòa thân tâm, làm lắng dịu mọi sự điều hành trong thân thể.



QUÁN NIỆM VỀ HƠI THỞ



Đối tượng thiền định căn bản trong pháp quán thân là hơi thở. Trong bốn lãnh vực quán niệm, các phương thức tu tập về thiền quán đều dựa trên nền tảng là pháp quán niệm về hơi thở. Quán niệm về hơi thở là chú tâm ghi nhận và quán sát về hơi thở. Khi thở vào, ta ý thức rõ ràng về hơi thở vào trong suốt quá trình thở vào. Khi thở ra, ta ý thức rõ ràng về hơi thở ra trong suốt quá trình thở ra.



Khi quán niệm về hơi thở, ta tập trung tâm trí vào một điểm nhỏ ở đầu chót mũi, như thế sẽ dễ dàng nhận biết hơi thở vào ra và cũng dễ dàng thu nhiếp tâm ý đi vào định. Con mắt tâm chỉ biết có hơi thở, không nghĩ suy về bất cứ điều gì khác. Ở đây, chỉ có hơi thở là vấn đề trọng yếu nhất mà ta phải để hết tâm trí vào.



Khi thở, ta vẫn thở bình thường, thở một cách tự nhiên. Tâm trí chỉ cần ghi nhận tỉnh biết từng mỗi một hơi thở vào ra. Ta nhận biết rõ ràng là ta đang ở đâu, ta đang làm gì. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Điều quan trọng là tránh sự lập đi lập lại bằng từ ngữ trong tâm trí: “Ta đang thở vào”, “Ta đang thở ra”. Vấn đề quan trọng ở đây là ghi nhận khách quan để thiết lập ý thức chánh niệm: “Ta đang thở vào”, “Ta đang thở ra”, chứ không phải đọc đi đọc lại mãi những từ ngữ đó trong tâm trí.



Khi thở, đôi khi ta thở với hơi thở ngắn, đôi khi ta thở với hơi thở dài. Ta chỉ cần ghi nhận một cách rõ ràng về chiều dài của mỗi hơi thở, từ khi nó bắt đầu cho đến khi nó chấm dứt. Ta ý thức sáng suốt về từng mỗi một hơi thở vào ra trong từng mỗi sát na.



Khi thở vào một hơi thở dài, ta biết ta đang thở vào một hơi thở dài. Khi thở ra một hơi thở dài, ta biết ta đang thở ra một hơi thở dài. Ta chỉ cần ý thức khách quan về điều đó một cách đúng như thật. Tránh sự lập đi lập lại bằng từ ngữ: “Ta đang thở vào một hơi thở dài”, “Ta đang thở ra một hơi thở dài”.

Khi thở vào một hơi thở ngắn, ta biết ta đang thở vào một hơi thở ngắn. Khi thở ra một hơi thở ngắn, ta biết ta đang thở ra một hơi thở ngắn. Ta chỉ cần ý thức khách quan về điều đó một cách đúng như thật. Tránh sự lập đi lập lại bằng từ ngữ: “Ta đang thở vào một hơi thở ngắn”, “Ta đang thở ra một hơi thở ngắn”.



Trong quá trình thực tập quán niệm về hơi thở dài ngắn, ta chỉ cần ghi nhận một cách khách quan về chiều dài của hơi thở trong suốt quá trình thở vào và trong suốt quá trình thở ra. Khi hơi thở vào, ta biết là hơi thở vào. Khi hơi thở ra, ta biết là hơi thở ra. Hơi thở vào không là hơi thở ra. Hơi thở ra không là hơi thở vào. Khi hơi thở dài, ta biết là hơi thở dài. Khi hơi thở ngắn, ta biết là hơi thở ngắn.



Hãy an trú trong ý thức giác tỉnh. Tập trung tất cả tâm trí vào hơi thở trong suốt quá trình thở vào và trong suốt quá trình thở ra. Không dính mắc vào cái “ta” đang thở. Ngay lúc này và ở nơi đây, chỉ có một điều quan trọng tối yếu là chú tâm tất cả vào hơi thở và chỉ biết có hơi thở. Mỗi khi thở vào, mỗi khi thở ra, mỗi hơi thở dài, mỗi hơi thở ngắn, ta đều có sự nhận biết rõ ràng về điều đó. Thân tâm buông thả trong một tư thế thoải mái và vững chải. Hãy nhìn thẳng vào giây phút thực tại. Đừng tiếc nuối về dĩ vãng. Đừng nghĩ tưởng về tương lai. Đừng mong cầu bất cứ một điều gì. Nếu như tâm trí vẫn còn cố bám víu vào những mong cầu trong giờ phút quán niệm này, ngồi thiền để được an lạc, để đào luyện tính khí, để duy trì sức khỏe… điều đó có nghĩa là tâm trí vẫn còn bị trói buộc trong cái nhìn về tự ngã, về mục đích hành thiền trong giờ phút hiện tại. Như thế, sẽ gây nhiều chướng ngại cho sự giải thoát và buông xả mọi tưởng cầu trong lúc thiền tập.



Khi thở vào, ta thở với hơi thở tự nhiên và bình thường. Đừng chạy theo hơi thở để đi vào trong thân thể. Hãy tập trung tâm trí ở đầu chót mũi, như thế sẽ dễ dàng nhận biết được hơi thở vào ra. Thở vào, ta biết ta đang thở vào, ta ý thức về toàn hơi thở vào. Ta biết ta đang ngồi và ta đang thở. Ta ý thức về toàn hơi thở vào trong suốt quá trình thở vào, từ lúc hơi thở vào cho đến khi hơi thở vào chấm dứt để bắt đầu cho một hơi thở ra. Hơi thở đang bắt đầu đi vào thân thể, đang vào được nửa chừng, đang bắt đầu chấm dứt, đã chấm dứt, ta đều nhận biết về điều đó một cách rõ ràng đúng như thật.



Khi thở ra, ta thở với hơi thở tự nhiên và bình thường. Đừng chạy theo hơi thở từ trong thân thể để ra ngoài. Hãy tập trung tâm trí ở đầu chót mũi, như thế sẽ dễ dàng nhận biết được hơi thở vào ra. Thở ra, ta biết ta đang thở ra, ta ý thức về toàn hơi thở ra. Ta biết ta đang ngồi và ta đang thở. Ta ý thức về toàn hơi thở ra trong suốt quá trình thở ra, từ lúc hơi thở ra cho đến khi hơi thở ra chấm dứt để bắt đầu cho một hơi thở vào. Hơi thở đang bắt đầu đi ra khỏi thân thể, đang ra được nửa chừng, đang bắt đầu chấm dứt, đã chấm dứt, ta đều nhận biết về điều đó một cách rõ ràng đúng như thật.



Như người thợ tiện đang chú tâm làm việc. Trong từng mỗi phút giây, người ấy đều nhận biết về sự việc mình đang làm một cách giác tỉnh. Khi xoay một vòng dài trên món đồ đang tiện, người ấy ý thức mình đang xoay một vòng dài. Khi xoay một vòng ngắn trên món đồ đang tiện, người ấy ý thức mình đang xoay một vòng ngắn. Cũng như khi thở, ta ý thức về hơi thở bằng tất cả sự sáng suốt và tỉnh biết. Khi thở vào, ta ý thức rõ ràng về toàn hơi thở vào trong suốt quá trình thở vào, từ lúc bắt đầu thở vào cho đến lúc hơi thở vào chấm dứt. Khi thở ra, ta ý thức rõ ràng về toàn hơi thở ra trong suốt quá trình thở ra, từ lúc bắt đầu thở ra cho đến lúc hơi thở ra chấm dứt.



Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm được áp dụng để tu tập bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào, đang đứng hay đang ngồi, đang nằm hay đang đi, lúc nghỉ ngơi hay đang làm việc. Cũng như người thợ tiện ý thức về công việc mình đang làm một cách giác tỉnh trong từng mỗi sát na.



Phương pháp thực tập về hơi thở khởi đầu là chú tâm ghi nhận về hơi thở vào ra để nuôi dưỡng ý thức chánh niệm. Ta ý thức về chiều dài của hơi thở và toàn hơi thở. Khi hơi thở đã có sự lắng dịu, ta ý thức về sự an tịnh của hơi thở ở nơi hơi thở. Ta ý thức về toàn hơi thở vào và sự lắng dịu của toàn hơi thở vào trong suốt quá trình thở vào. Ta ý thức về toàn hơi thở ra và sự lắng dịu của toàn hơi thở ra trong suốt quá trình thở ra.


Khi hơi thở đã trở nên nhẹ nhàng, tưởng chừng như có như không, mọi sự vận hành trong thân thể bắt đầu tĩnh lặng. Ngay đây, ta phải dồn hết mọi nỗ lực để có thể ý thức rõ ràng về hơi thở. Hãy tập trung tất cả tâm trí vào một điểm nhỏ ở đầu chót mũi, như thế sẽ dễ dàng nhận biết được sự vào ra vi tế của hơi thở. Có sự tập trung mãnh liệt vào một điểm duy nhất như thế sẽ giúp ta an tịnh được hơi thở và đi vào sự định tâm tương đối dễ dàng hơn.

Khi thở một hơi thở vào, ta ý thức về hơi thở đang đi vào trong suốt quá trình thở vào. Ta ý thức hơi thở đang bắt đầu đi vào (sự sinh khởi của hơi thở vào). Ta ý thức hơi thở vào đang bắt đầu chấm dứt (sự hoại diệt của hơi thở vào).


Khi thở một hơi thở ra, ta ý thức về hơi thở đang đi ra trong suốt quá trình thở ra. Ta ý thức hơi thở đang bắt đầu đi ra (sự sinh khởi của hơi thở ra). Ta ý thức hơi thở ra đang bắt đầu chấm dứt (sự hoại diệt của hơi thở ra).

Ta an trú trong sự quán niệm: “Có hơi thở đây”, và hơi thở chỉ là hơi thở. Không có “ta” đang thở. Tất cả chỉ là hơi thở và là hơi thở ở nơi hơi thở. Với sự quán niệm như thế đủ để giúp ta phát khởi ý thức về hơi thở, để quán chiếu về sự vô thường của hơi thở.

Còn tiếp. 

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply