Thuật Phê Bình
#1
Để thành nhà phê bình
Nguyễn Duy Cần


“Phê bình kẻ khác là chính mình phê bình mình.”
- William Shakespeare
 
***

“Người ta luôn luôn được khen hay bị chê, nhưng không mấy ai được người ta hiểu...”
- F. Nietszche

***
"Phê bình bằng cách chế nhạo, thường là do sự nghèo nàn cằn cỗi của tâm hồn."
- La Bruyère

***

"Óc hẹp hòi là những đầu óc không thể hiểu được, hoặc không chịu tìm hiểu những gì mình không ưa thích."
- P. Masson-Oursel



NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT ĐỂ CÓ THỂ TRỞ THÀNH NHÀ PHÊ BÌNH ĐỨNG ĐẮN
 
I. “Phê bình, dễ; nghệ thuật, khó”[19]. Nói thế có đúng, mà cũng có sai. Đúng, là khi người ta phê bình theo lối các nhà phê bình cẩu thả, thiếu lương tâm, phê bình theo cao hứng của lòng ưa ghét tự nhiên: Hễ thuận với trình độ hiểu biết của mình thì cho là đúng, nghịch với trình độ hiểu biết của mình thì cho là sai. Sai, là muốn xứng đáng là nhà phê bình, phải là một kẻ sành sỏi trong nghề viết văn, một bậc “thầy”, hay ít ra là một người bạn đồng tài với tác giả mà mình muốn phê bình. Phê bình ở đây cũng ngang hàng với sáng tác.
 
Phê bình văn học là nghệ thuật phê phán một tác phẩm văn học. Phê bình gia là kẻ, sau khi đọc xong một tác phẩm văn học, có một thái độ chê khen rõ rệt về giá trị của tác phẩm ấy.
 
Vì văn hóa rất bao la, không ai có thể thông suốt được tất cả, nên phê bình mới có chia ra từng ngành chuyên môn: Phê bình văn chương, lịch sử, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, hay kịch trường...
 
II. Nhà phê bình có nhiều hạng, nhưng để được đơn giản hơn, xin tạm chia làm hai hạng:
 
Hạng phê bình nệ nguyên tắc và hạng phê bình tự do.
 
Nói rằng “tự do” không có nghĩa là phê bình không nguyên tắc, vì không sao phê bình được nếu không dựa vào một nguyên tắc nào, mà thực sự là phê bình không câu chấp theo một nguyên tắc nhất định tuyệt đối nào cả, một cách máy móc.
 
Nói đến phê bình nệ nguyên tắc, là muốn ám chỉ hạng nhà phê bình mà tiếng Pháp gọi là “critiques dogmatiques”. Đó là những nhà phê bình có sẵn một mớ nguyên tắc tiên thiên “mẫu” về văn chương cũng như về tư tưởng một chiều và tuyệt đối, nghĩa là họ đã có sẵn một mớ thành kiến cũ hay mới, hữu thần hay vô thần, duy tâm hay duy vật về luân lý, chính trị, văn chương... dùng làm điển hình. Sự phê bình của họ thường câu chấp hẹp hòi và cuồng nhiệt. Nhân danh một nguyên tắc mà họ xem là lý tưởng tuyệt đối, họ bắt buộc mọi người cùng ở trong một khuôn khổ hoạt động tư tưởng và tình cảm như họ, nếu có ai đi lạc ra ngoài khuôn khổ ấy, sẽ bị họ “chỉnh huấn” lại, và bị đàn hặc lên án, không tiếc lời mạt sát.

Lối phê bình này mà đi quá độ là lối phê bình của các nhà văn mà bao giờ cũng lấy “nghệ thuật vị nhân sinh”, “duy vật sử quan”, “giai cấp đấu tranh” làm tiêu chuẩn. Họ làm cái việc của anh chàng Procuste trong thần thoại Hy Lạp. Procuste là một tướng cướp rất lợi hại và vô cùng độc ác. Y có một cái giường mà người ta gọi là “giường của anh Procuste” (lit de Procuste). Bất cứ bắt được tù nhân nào, anh cũng đem đặt lên giường ấy: Nếu vừa vặn thì được, trái lại, nếu dài thì bị chặt bớt đi, còn nếu ngắn hơn thì bị kéo dài ra cho đúng với khuôn khổ. Bởi vậy, có một số phê bình gia thích dùng thủ đoạn kém lương thiện nầy là chuyên môn cắt xén đoạn mạch của bài văn hoặc câu văn để bắt tác giả nói lên những gì họ không có nói, để mà mỉa mai, chế nhạo, để mà xuyên tạc vu cáo và lên án đàn hặc.
 
Phần đông những nhà “phê hình nệ nguyên tắc” nầy đều có một số tác phẩm nào, hay một lý thuyết nào mà họ cho là hoàn toàn lý tưởng dùng làm điển hình tuyệt đối, nghĩa là họ không thể chấp nhận có được một quan niệm nào khác. Và mỗi khi nghiên cứu một tác phẩm nào mới ra đời, họ đem ra so sánh với những tác phẩm điển hình ấy, ký chú những dị đổng, rồi đem ra sắp xếp thành hạng loại và phê phán.
 
Những nhà phê bình nầy thường có những phê phán của một vị quan tòa xử án, của một giám khảo chấm thi để kiểm soát sự hiểu biết của thí sinh có thuộc lòng bài vở trong chương trình hay không, để rồi cho điểm thứ.
 
Nhà phê bình nệ nguyên tắc thường hay lấy sự ưa thích riêng của mình để chống đối lại sự ưa thích riêng của kẻ khác. Hoặc vì tính khí, hoặc vì bị giáo dục, bị ảnh hưởng của học thuyết nầy học thuyết nọ, họ có những hiếu ố cá nhân rất hẹp hòi câu nệ. Là vì họ có một cái vốn văn hóa rất kém, thiếu chiều rộng, nên họ không thể thưởng thức nổi những gì họ không ưa thích. Họ thường là những chiến sĩ hẹp hòi mù quáng của một chủ nghĩa hay lý thuyết nào. Tuy bị gò bó trong những thành kiến triết học hay chính trị, nhưng lắm khi nhờ đó họ cũng có can đảm thoát ly khuôn sáo của thời đại, vượt lên xa nhãn thức lầm lạc hẹp hòi của những kẻ đồng thời và dám nhìn việc đời một cách sâu xa bao quát hơn, nhờ biết suy nghĩ theo một hệ thống tư tưởng cao siêu và cách mạng.
 
Nhà phê bình nệ nguyên tắc cần phải nhớ kỹ điều này: Đời là một cuộc biến chuyển bất tận (không biết phải thật là một cuộc tiến hóa bất tận chăng, nhưng chắc chắn là một cuộc chuyển biến mới lạ mãi. Như vậy, nhà văn là kẻ sống trong dòng nước chảy và chảy mãi không ngừng. Như vậy, đừng ràng buộc họ phải lưu lại ở một bến nào.
 
Nhà phê bình tự do, không phải là nhà phê bình không nguyên tắc, mà là nhà phê bình ít bị nô lệ theo một nguyên tắc nhất định tuyệt đối nào cả. Họ là người có một cái vốn học thức cực kỳ rộng rãi, có một đầu óc tương đối, nhìn thấy được tất cả bề mặt bề trái của sự đời. Phê bình của họ là lối phê bình tương đối có tính cách lịch sử.
 
Họ không phải là vị quan tòa xử án theo một đạo luật hình thức nào, theo một tiêu chuẩn truyền thống tư pháp nào. Họ không phải là một vị giám khảo như những vị giám khảo của một cuộc thi giải thưởng văn chương mà nơi đây thể thức đã được quy định trước, để tuyên truyền hay để phê phán, lên án một chính kiến nào... Guy de Maupassant có nói: “Nhà phê bình xứng đáng với danh từ cao đẹp của nó phải là người không thuộc về khuynh hướng nào cả, không có những ưa thích riêng tư nào cả, không thiên kiến gì cả, và như nhà chuyên môn xem tranh, họ chỉ đánh giá các bức tranh theo giá trị nghệ thuật của mỗi thứ. Sự thông hiểu của họ thật rộng rãi, họ có thể tạm thời quên hẳn cá tính của họ, cái bản ngã của họ với tất cả tấm lòng ưa ghét riêng tư của họ để mà thẩm định cái chân giá trị của những tác phẩm mà họ phê bình.”

Voltaire, trong quyển Dictionnaire Philosophique, cũng có nói: “Nhà phê bình hay nhất là một nghệ sĩ có học nhiều và có nhãn thức rộng không thành kiến, cũng không tật đố. Như thế cũng khó mà tìm ra được rồi!”
 
Tóm lại, nhà phê bình tự do là người tìm hiểu và cố làm cho kẻ khác cùng hiểu, nghĩa là họ là người có một cái tài thông cảm đặc biệt, biết ra khỏi con người của mình và thoát khỏi cái bản ngã bẩn chật cùng thành kiến và lòng ưa ghét riêng mình để hiểu biết những cái hay, cái dở của kẻ khác qua tác phẩm của họ. Như vậy, nhà phê bình này phải có một khiếu lịch sử, nghĩa là một đầu óc hiểu biết vượt thời gian và không gian, không thuộc người của một nước nào, một dân tộc nào, của một thế hệ hay thời buổi nào.
 
***
 
Ngoài hai hạng trên, lại còn có một hạng mà tôi cho là ngoại hạng vì họ không có một lý thuyết nào rõ ràng vững chắc, họ lại cũng không có tài thông cảm và vượt lên trên mọi học thuyết tư tưởng.
 
Họ là hạng lầm lẫn phê bình với chống đối. Họ là hạng tật đổ, hạng bất tài chuyên dùng những thủ đoạn tiểu nhân xuyên tạc, chê dè kẻ khác để nâng cao mình lên. Họ là hạng bị tự ti mặc cảm: Bất cứ một nhà văn nào có tên tuổi hoặc có tài ba hơn họ, đều bị “nọc độc” và “búa rìu” của họ. Nếu là cùng bè, cùng nhóm thì họ khen đáo khen để; trái lại nếu không là bè phái thì họ tìm đủ thủ đoạn để dìm xuống tận bùn lầy. Những nhà phê bình này tai hại không nhỏ đối với nền văn học nước nhà đang phôi thai.

Không riêng gì ở nước nhà, và cũng không riêng gì ở đâu và ở thời buổi nào, hạng phê bình gia này là những tai họa thường xuyên mà không một nhà văn nào tài hoa trên thế giới lại thoát khỏi nanh vuốt của họ. Trước đây, tôi có lần nhắc đến Napoléon đệ nhất đã dùng biện pháp nào chặn đứng lại bọn họ: “Những tờ báo hiện nay lại không phải phê bình để làm cho người ta chán cái dở, ưa cái hay, ghét cái xấu, ưa cái tốt, không phải phê bình để hướng dẫn những kẻ còn thiếu kinh nghiệm, nâng đỡ khuyến khích những tài năng chớm nở, để phục hổi danh dự xứng đáng cho những tác phẩm đứng đắn mà bị chìm trong sự lạnh lùng và quên lãng của dân chúng; tất cả những gì họ phê bình đểu để làm nản chí, để mà phá hoại”.
 
Montesquieu, tác giả Vạn Pháp Tinh Lý, cũng phải mất bình tĩnh đối với họ: “Về những nhà văn thiếu tài kích bác tôi kia, tôi xin nói: Tôi là cây sồi to, dưới gốc có những con cóc bò đến để phun nọc độc của chúng”.
 
Chateaubriand thư cho bà de Stael thân mật bảo: “Sách của bà sắp được xuất bản, thế là bà lại sắp chịu một cơn dông tố dữ tợn”. Đó là ông muốn ám chỉ sẽ bị các nhà phê bình đang chực để mà mạt sát.
 
Racine, tâm lý hơn, nói: “Tất cả những bài phê bình ấy là của bốn năm nhà văn bất tài bất hạnh, tự mình không làm sao được người ta chú ý đến. Họ chờ cơ hội có một quyển sách nào thành công để xúm nhau công kích. Tuyệt nhiên không phải vì tật đố. Họ căn cứ vào đâu để được ganh tị chứ? Họ làm thế với lòng mong ước sẽ được người ta trả lời, và nhờ thế họ sẽ được đưa ra ánh sáng, vì bấy lâu nay sách vở của họ đã dìm họ mãi suốt đời trong bóng tối.”
 
Gustave Flaubert nói: “... Cần gì phải để ý đến những tiếng kêu ré của những con sáo ấy? Thật mất thời giờ để đọc những nhà phê bình (...) Tôi đã có đủ sức để chứng minh trong một luận đề rằng từ trước chưa có một bài phê bình nào ra hồn, rằng việc đó không lợi ích gì cho ai cả, mà chỉ cốt để quấy rầy tác giả và làm u mê người đọc, rằng người ta sở dĩ đi làm nhà phê bình khi nào người ta không làm văn nghệ được, cũng như khi người ta không làm được chiến binh, người ta đi làm cái nghề điểm chỉ.”
 
Shelley thì cho rằng: “Một nhà văn thất bại biến thành một nhà phê bình, cũng như một tay đi ăn trộm thất bại biến thành một tay đi bắt trộm”. William Shenstone lại nói: “Rượu lạt để lâu ngày biến thành giấm; nhà thơ thất bại trong nghề thường lại dễ biến thành những nhà phê bình chua chát”.
 
Jules Payot, trong quyển Le Travaiỉ Intellectuel et la Volouté, có viết: “Tôi có thể quả quyết rằng, về phần tôi, tôi đã đọc có trên mấy trăm bài phê bình sách của tôi, nhưng trừ vài ba bài có tính cách ngoại lệ, hầu hết đều chứng tỏ rằng chưa có một ai đọc kỹ sách tôi. Bởi vậy Herbert Spencer đến phải cấm nhà xuất bản của ông không cho gởi sách của ông cho các nhà báo (...). Họ (các nhà phê bình) vì phải đọc hối hả một quyển sách mà có khi công phu xây dựng có trên vài ba mươi năm, lại chỉ được đọc qua loa trong vài tiếng đồng hồ (...) Thay vì sáng tác, họ đi làm cái việc phê bình những sáng tác của kẻ khác và cũng không sao dẹp nổi lòng ganh tị ngấm ngầm của họ. Cái tính đố kỵ ấy, ngay nhà phê bình Sainte Beuve cũng còn mắc phải: Ông ta chỉ thích khen những nhà văn tầm thường, mà đối với các bậc anh tài thì ông tỏ ra rất hằn học chua chát”.
 
Mark Twain, trong quyển Tiểu Sử Tự Thuật của ông, lại còn đi quá xa, đến nỗi dám hạ một câu vô cùng cay độc này: “Cái nghề phê bình về văn thơ nhạc kịch là cái nghề hèn hạ nhất trong tất cả các nghề”.
 
Tại sao lại có hiện trạng xấu xa bỉ ổi ấy, mà phần đông nạn nhân đều là những bậc tài hoa như Racine, Montesquieu, Gustave Flaubert, Disraeli, Guy de Maupassant, Shelley, MarkTwain...?
 
Dale Carnégie trong quyển How To Stop Worrying có nói: “Địa vị càng cao bao nhiêu, thì đời càng thích mạt sát bấy nhiêu. Ông Hoàng xứ Galles, bây giờ là công tước Windsor... khoảng 14 tuổi, đang học trường Hải quân Dartmouth ở Devonshire. Một hôm, các sĩ quan thấy ông khóc, liền hỏi duyên cớ. Mới đầu ông giấu, sau ông thú rằng bị các bạn học đá đít. Sĩ quan hiệu trưởng bèn quở rầy bọn kia và bảo họ rằng hoàng tử không mách, nhưng ông muốn hiểu tại sao họ không đá đít những học sinh khác mà lại nhè hoàng tử mà xử như vậy?... Họ thú rằng họ làm vậy là để sau này giữ chức thuyền trưởng trong hải quân của Hoàng gia họ có thể khoe rằng hồi nhỏ đã đá đít Hoàng đế. Ông lại nói: “Schopenhauer trước kia đã viết: “Những kẻ hèn kém thấy thỏa thích vô cùng khi họ vạch ra được những lỗi lầm cùng những tật nhỏ của hạng người xuất chúng”.
 
Muốn trở thành một nhà phê bình đứng đắn, cần nên tránh xa lối phê bình ganh tị này do “tự ti mặc cảm gây ra”. Sainte Beuve một phê bình gia trứ danh của văn học giới Pháp, có một sức học rất rộng, một nhãn thức sâu sắc tinh tế, dẫn đầu một cuộc cách mạng về một nghệ thuật phê bình thế kỷ thứ 19, thế mà cũng không tránh được lòng ganh ghét, nhỏ nhen, thiên lệch, ích kỷ trước sự thành công rực rỡ của những bè bạn của ông mà một số tác phẩm phê bình của ông đã đánh giá sai lầm về Musset, Balzac, Stendhal, Baudelaire... Thật đáng tiếc không biết chừng nào!


Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
Reply
#2
"Sự thù ghét sẽ giúp cho ta giải phẫu và phân tích rõ một tác phẩm hơn, nhưng chỉ có lòng thương mới có thể giúp ta thông cảm được cái hay của tác phẩm mà thôi."
- André Siegfried

***

"Một câu nói mỉa mai, châm biếm, dù hay ho đến đâu cũng chưa từng cải thiện được một ai cả!"
- Victor de Laprade

***


III. Giờ đây, xin bàn rộng hơn và sâu hơn về những điều kiện thiết yếu để có thể trở thành một nhà phê bình xứng đáng.
 
Nhà phê bình, trước hết, phải là người rất thích đọc sách, đọc sách thật nhiều, đọc sách đủ loại, và hơn nữa, phải là người rất sành phép đọc sách, để có thể hướng dẫn kẻ khác cách đọc sách. Đó là sứ mạng quan trọng và chính yếu của nhà phê bình. Sainte Beuve nói: “Nhà phê bình là người biết đọc sách và dạy kẻ khác cách đọc sách”.
 
Hàn Dũ cũng nói: “Việc được, thì gièm pha nổi lên; đức cao, thì chê bai kéo đến”. Bởi vậy, “lời chỉ trích mà bất công, thường là lời khen gián tiếp”, bởi có tài mới có được người người ghen tị, Dale Carnegie kết luận: “Được người ta chỉ trích bất công, không nên buồn mà cần xem đó là một điều nên hãnh diện”

Xét đoán một bậc vĩ nhân, cũng như xét đoán một tác phẩm vĩ đại, không nên quá lo “vạch lá tìm sâu” tìm kiếm những khía cạnh nhỏ nhặt... “không đâu”! Vì một biển rộng chứa cả bọt, bèo nhơ bẩn, mà không bao giờ dơ.
 
Goethe nói rất đúng: “Người ta nói rằng không có ai là bậc anh hùng đối với anh bồi phòng của mình. Thật vậy, chỉ có bậc anh hùng mới biết được kẻ anh hùng, chứ anh bồi phòng thì chắc chắn chỉ biết rõ hạng người bồi phòng như họ mà thôi”. Một văn hào khác cũng nói: “Phê bình kẻ khác, chính là phê bình mình đấy!”[21] Hạng tầm thường không làm sao hiểu nổi hạng người vĩ nhân phi thường, nên họ thường chỉ thấy được những tiểu tiết, những cái tầm thường giống họ mà thôi. Không thể dùng một thứ tầm thường chung để đo lường và đánh giá những bậc vĩ nhân hay những tác phẩm vĩ đại với những bậc tầm thường hay những tác phẩm tầm thường.
 
Người biết đọc sách là người biết tạm quên mình, quên cả những thành kiến cùng lòng ưa ghét của mình, nghĩa là phải có một cơ sở học vấn càng rộng càng hay, nhãn thức càng sâu càng tốt, để có thể thưởng thức và đánh giá một cách công bằng tất cả mọi hình thức văn nghệ phẩm đủ các loại khác nhau, nghĩa là phải có một chân học thức và một nhãn thức rộng rãi và bao trùm.
 
Nếu gặp phải những nhà văn đang “tập sự”, họ sẽ không bao giờ dùng lời mỉa mai chế nhạo để làm mất lòng tự tin, giết chết mọi ý kiến mới mẻ, đang rụt rè phát hiện, mà trái lại họ nâng đỡ, hướng dẫn, vỗ về bằng những lời khuyên khéo léo, thiết thực và thích đáng.

Không có gì khó bằng biết quên mình, tạm thời biết dẹp bỏ thành kiến cùng lòng ưa ghét riêng tư của mình, để đi vào tâm hồn kẻ khác. Vì vậy Tăng Xán mới khuyên ta: “Đem những điều mình ưa thích đi chống lại với những gì mình không ưa thích, đó là căn bệnh trầm trọng nhất của tâm hồn”. Óc hẹp hòi là điều cấm kỵ nhất đối với nhà phê bình: “Kẻ hẹp hòi là người không thể thưởng thức được những gì họ không ưa thích”[22]. Brunetière cũng nói: “Đức đầu tiên của nhà phê bình là biết tìm cách thông cảm những gì ta không ưa thích”. Đó là điều kiện cần thiết nhất để được công bằng.
 
Nhà phê bình muốn được đứng đắn, cần phải có đủ ít nhất những yếu tố sau đây:
 
1. Phải có một hoặc nhiều tác phẩm của nhà văn mình định phê bình.
 
2. Phải có một hoặc nhiều tác phẩm của nhà văn khác cùng loại để có thể so sánh. Trong số các tác phẩm này, có thể chia ra làm hai loại: tác phẩm của các bậc danh gia có thể xem là những tác phẩm điển hình, - và tác phẩm của các văn sĩ khác và đồng thời để cân nhắc sự hơn kém đồng dị.
 
3. Phải biết thật rành rẽ những nguyên tắc làm văn, những phương pháp để xây dựng một quyển sách về loại mà mình định phê bình.
 
4. Phải biết rõ những nguyên tắc chung về phép phê bình.
 
***

Tôi không dám cho đây là bài học đầy đủ về phép phê bình, vì nó là một sự hiểu biết mà có khi công phu của suốt cả một đời người chưa đủ. Theo La Bruyère thì đó là “công trình của nhiều năm nghiên cứu, học hỏi và quan sát”.
 
Tôi chỉ xin đưa ra một số nguyên tắc tối thiểu để giúp cho các bạn thanh niên chưa từng nghiên cứu về vấn đề này một ý niệm khái quát về một nhà phê bình xứng đáng với danh từ ấy mà thôi.
 
***
 
Tôi xin trở lại bốn nguyên tắc chính đã nêu trên.
 
Theo nguyên tắc, nhà phê bình có quyền lựa chọn sách để phê bình, dĩ nhiên có quyền lựa chọn sách để phê bình theo khả năng của mình. Sách xuất bản phần nhiều là tiểu thuyết, thi ca rồi mới đến các sách thuộc về nghiên cứu phê bình và văn chương thuần túy. Như vậy, ta phải để ý đến sự phát hành chung tương đối của các tác phẩm để có thể nhận định sự quan trọng của từng tác phẩm trong hạng loại của nó.
 
Muốn phê bình một quyển tiểu thuyết, một quyển thi văn, một quyển văn chương hay biên khảo và phê bình, cần nhất là phải có một cái gì để so sánh. Nghĩa là, để có được một ý niệm rõ ràng về giá trị của một tác phẩm, ta phải có biết qua những tác phẩm đồng loại với nó để so sánh. Về phép so sánh, phải đem so sánh những gì đồng loại, đồng tính với nhau. Đừng đem những sách thuộc về loại tình cảm như thi ca so sánh với những sách thuộc về loại tư tưởng và biên khảo. Tôi có thấy một nhà phê bình chê quyển Kim Vân Kiều của Nguyễn Du dở hơn quyển Nho Giáo của Trần Trọng Kim. Đó là bắt con ngựa mà so sánh với con voi...
 
Muốn so sánh, trước hết đem so sánh với những tác phẩm của các bậc có thể gọi là bậc thầy trong văn học giới hay là những tác phẩm có thể gọi là danh tiếng nhất để làm cái mẫu tận thiện tận mỹ. Rồi đến lượt so sánh với các tác phẩm cùng loại, tuy không phải là kiểu mẫu, ít ra cũng có ít nhiều giá trị. Và để được cụ thể, cần phải trích ra một vài đoạn tiêu biểu nhất của các tác phẩm để giải rõ những điểm dị đồng. Nhưng trích, không có nghĩa là cắt xén văn mạch hay đoạn mạch của tác phẩm.
 
Như vậy, nhà phê bình văn học phải có một sự hiểu biết rộng rãi và sâu xa về các tác phẩm đồng loại với tác phẩm của mình đang phê bình; biết rõ các tác phẩm điển hình của các bậc thầy, các bậc đàn anh; biết rõ những tác phẩm chính cùng loại của bất cứ thời buổi nào, xưa cũng như nay, dù là những tác phẩm rất tầm thường...
 
Nhưng, như thế cũng chưa đủ. Nhà phê bình lắm khi cũng phải biết truy nguyên đến nguồn gốc tư tưởng ngược lại trong thời gian và không gian, tôi muốn nói nguồn hứng trong nền cổ học. Nghĩa là ít ra họ phải có một cái vốn học cổ điển tạm gọi là “thông kim bác cổ”. Nếu biết được văn học ngoại quốc nhiều thì lại càng hay.
 
Ta thấy rằng sự hiểu biết của nhà phê bình không được hời hợt nông cạn. Nhà phê bình phải biết rõ tác giả, chẳng những về tác phẩm hiện thời của họ, bởi nếu tác giả trước đây là một nhà văn tên tuổi, có nhiều tác phẩm xuất bản trước, thì nhà phê bình cũng phải đọc hết để đặt lại địa vị của tác phẩm hiện thời trong “hệ thống tư tưởng và tình cảm chung của tác giả”, để đánh dấu sự tiến triển, sự dừng lại, hay sự thoái hóa của tác phẩm trong hệ thống tư tưởng của tác giả, nếu có. Nhà phê bình cũng phải dò theo những khuynh hướng thâm sâu, những biến chuyển bất thường trong tâm hồn của tác giả ngay trong những cuộc bút chiến mà tác giả có nhúng tay vào hoặc tự mình gây ra, nếu có. Nghĩa là nhà phê bình phải hiểu rõ những tác phẩm của tác giả với tất cả những đề tài, những nhân vật, những tính tình cùng văn chương của tác giả.
 
Như trên đây đã nói, nhà phê bình chẳng những phải cần hiểu biết một cách sâu sắc tư tưởng của tác giả, lại cũng cần biết sành phương thuật xây dựng một tác phẩm giá trị. Villemain nói: “Muốn thành một nhà phê bình giỏi, phải có thể là một nhà văn hay”.
 
Jules Janin, phê bình gia trứ danh của Journal des débats lại còn đi xa hơn nữa: “Kẻ nào làm công việc phê bình mà chính mình không viết được một tác phẩm nào cả là một kẻ không liêm sỉ”. Lời nói thật cũng có phần quá đáng, nhưng tựu trung đều có ý muốn nhấn mạnh về điểm quan trọng này: nhà phê bình phải thật sành về môn loại của mình phê bình.
 
***
 
Tuy vậy, muốn thành một phê bình gia đứng đắn, chẳng những phải hiểu biết nhiều về tác phẩm mà mình định phê bình, đọc qua những tác phẩm khác của tác giả, soát lại những tác phẩm đổng loại của các danh gia xưa và nay, sành sỏi những nguyên tắc làm văn và những phương thuật xây dựng một tác phẩm giá trị... mà còn phải có được cái khiếu đặc biệt này là “khiếu phê bình”. Với cái khiếu đặc biệt này ta có thể thoáng qua là nhận thấy được liền giá trị độc đáo của tác phẩm, thấy rõ những ưu khuyết điểm và cả giá trị sau này của tác phẩm mà ít có người thấy được.
 
“Khiếu phê bình” thường được xem như là một thiên tư, chưa dễ ai ai cũng đều có được. Nhưng sự thực thì nó là một thứ linh cảm, một thứ trực giác do công phu đào luyện lâu ngày theo một lề lối phê bình có nguyên tắc vững vàng.


 
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
Reply
#3
IV.  Dưới đây xin liệt kê một vài nguyên tắc chính để có thể viết được một bài phê bình đứng đắn
 
A - Bài phê bình đứng đắn, xứng đáng với danh từ tốt đẹp của nó, trước hết, phải có một giọng tao nhã, dễ thương và hoạt bát.
 
Lễ độ và tinh túy của văn minh, dù ở bất cứ trường hợp nào, nhất là văn chương, theo cái nghĩa của danh từ, thì trước hết phải thật là thanh lịch. Lời mà thô lỗ, cộc cằn, mất dạy không còn phải là văn chương nữa. Joubert nói: “Một ít hiền lành nhã nhặn cũng phải có, dù là trong bài phê bình công kích; nếu tuyệt nhiên thiếu nó thì không còn phải là văn chương nữa (...) Ở đâu mà không có sự thanh nhã gì cả là không có văn chương”. Huống chi tác phẩm của một nhà văn là sinh mạng của họ. Không phải muốn chửi mắng là chửi mắng, muốn bôi lọ là bôi lọ, muốn xuyên tạc là xuyên tạc, muốn vu cáo là vu cáo cho hả cái lòng oán ghét ganh tị của mình. Họ nào có biết làm thế là tự họ làm nhục lấy mình, làm nhục lây đồng nghiệp. Chẳng những đó là một việc làm bất chính đối với lương tâm của mình, không liêm sỉ đối với độc giả phần đông quá tin cậy nơi lòng lương thiện của mình.

Bài phê bình cũng phải là một tác phẩm văn chương, cần phải tránh những gì có thể làm chướng ngại cho một tài hoa sắp nở hay đang nở, có thể làm giảm lòng tự tin hoặc giết chết một cao vọng chân chính nhưng còn vụng về, cần được nhiều nâng đỡ. Giết chết những mầm sống đang đâm chồi nẩy lộc là một tội ác đối với tiền đồ văn học.
 
B - Phê bình phải tỏ ra chính đáng, căn cứ vào những lý lẽ vững vàng, chứ không nên vu vơ ngụy biện. Đừng bao giờ phê phán một điều gì mà không có đủ lý lẽ để chứng minh.

C - Nhãn quang của nhà phê bình phải cho rộng rãi; phải tỏ ra có những tài lực ngang hàng với tác phẩm của mình phê bình. Phê bình một tác phẩm về Phật học phải ít ra là người uyên thâm về Phật học hoặc có sở đắc về cái học ấy ít nhiều.
 
D - Bài phê bình phải đi sâu vào tinh thần của tác phẩm, nắm cho kỳ được cái ý chính, tức là cái hồn duy nhất của tác phẩm, đừng hời hợt nhìn cái vỏ của nó bên ngoài: Đó là việc làm quan trọng nhất của nhà phê bình. Phân tích là để mà đi đến sự tổng hợp, chứ phân tích để mà phân tích, thì sự phê bình chỉ có công dụng “phá” mà không có “xây”.
 
E - Phê bình cũng phải tỏ ra nhân đạo hơn là công bình. François Mauriac nói: “Cái điều ghê tởm nhất trong đời, là công lý rời với nhân đạo”.
 
Lắm khi sự quá công bình lại biến thành sự quá bất công: “Summum jus, summa injuria”[23]. Nhân đạo, từ thiện, thành thật, là ba đức tính cần thiết để cho sự phê bình được xây dựng và đứng đắn. Dù có chỉ trích những chỗ sai lầm hay vụng về, cũng chỉ nên chỉ trích với những lời lẽ ôn tồn trang nghiêm, không mỉa mai, không hằn học... Đừng bao giờ tỏ ra mình là kẻ bị “tự ti mặc cảm” mà có cái giọng “móc lò”.
 
Tuy nhiên, nhân đạo, từ thiện không có nghĩa là thiên tư, dễ dãi. Bài phê bình không nên có cái giọng quá thân mật bè bạn như giọng ăn nói sỗ sàng giữa “bồ bịch”, mà phải trang nghiêm, mực độ, tỏ ra có một tinh thần cương quyết, độc lập, không ai có thể ảnh hưởng và mua chuộc.
 
G - Bài phê bình phải nhắm vào mục đích duy nhất này là “phá” để mà “xây”, sửa chữa những lỗi lầm, giúp cho tác phẩm được hay hơn, hoàn hảo hơn, hợp lý hơn.
 
Bổn phận của nó là dẫn dắt dư luận, giúp cho độc giả biết yêu những tác phẩm hay, biết chống lại với những cái dở dang tồi tệ. Như Napoléon đệ nhất đã nói: “Phê bình là để làm cho người ta chán cái dở, ưa cái hay, ghét cái xấu, ưa cái tốt”, “hướng dẫn những nhà văn còn thiếu kém kinh nghiệm, nâng đỡ khuyến khích những tài năng chớm nở, để trả lại danh dự xứng đáng cho những tác phẩm có giá trị mà bị thời nhân vô tình bỏ rơi hay khinh bạc”.
 
***
 
Trở lên là nói về những điều kiện phải có của một bài phê bình.

Nhà phê bình xứng đáng với danh từ tốt đẹp này, dĩ nhiên phải gồm các đức tính sau đây:
 
1. Có nhãn thức rộng rãi;
2. Có học thức cao thâm;
3. Thật thông minh nhạy cảm;
4. Thật sâu sắc tế nhị;
5. Và có óc độc lập tân kỳ.
 
Nhà phê bình phải tỏ ra là người ham mê văn nghệ dưới mọi hình thức, có óc tò mò ham hiểu biết, nhạy cảm đối với bất cứ phong trào tư tưởng mới nào, có óc so sánh và phân tích.
 
Nhất định không nên có tính đố kỵ, nhỏ nhen, nóng nảy, bất công và tự phụ về sự hiểu biết của mình, mà trái lại, phải lễ độ, liêm sỉ, trung thành với nghệ thuật và biểu diễn tư tưởng mình một cách thanh nhã, khéo léo và mực độ.

***
 
Nói về sự liêm sỉ, cần phải phân biệt hai thứ liêm sỉ này:
 
Liêm sỉ đạo đức, tức là biết vượt lên khỏi cái bản ngã của mình, tức là những hiếu ố riêng tư để thông cảm kẻ khác.
 
Liêm sỉ trí thức, là sự thành thực, hễ biết thì gọi là biết, không biết thì nhận là không biết, không xuyên tạc, không vu cáo, không làm cái việc cắt xén đoạn mạch hay văn mạch để bắt tác giả nói những gì người ta không có nói. Liêm sỉ trí thức bắt buộc ta phải thật khách quan và công bình trong khi trình bày tư tưởng trong các tác phẩm, không được trích sai, trích thiếu. Trong quyển Les Techniques de la Critique, Gustave Rudler có viết: “Văn mạch là cần thiết nhất (...) Các nhà bút chiến thường có tật chặt bớt một câu trong một đoạn, để thay đổi ý nghĩa chung của nó và bắt tác giả nói những gì họ không có nói. Hãy đưa cho tôi hai hàng chữ một người nào, tôi sẽ làm cho hắn bị xử giảo cho xem... Cái thủ đoạn thô thiển và bất lương ấy thường “ăn” độc giả lắm. Nhưng nhà phê bình cũng có thể sa vào sai lầm ấy một cách chân thành, nếu họ không để ý đến văn mạch.”
 
Sở dĩ tôi nhấn mạnh về đức liêm sỉ này bởi nó là tất cả nền tảng của một công trình phê bình đứng đắn có tính cách khoa học của ngày nay, lối phê bình sử học: Phê bình sự thành thực và chính xác của một tài liệu. Thiếu tư cách này, không thể làm một nhà phê bình lương thiện và chân chính được.
 
***
 
Và như trước đây có nói, trong các đức tính chính của nhà phê bình, khó nhất là biết giữ được sự độc lập của tinh thần. Nhà phê bình mà có tinh thần độc lập, không bao giờ để cho một học thuyết, một chế độ, một nghệ thuật, một phong trào tư tưởng, chính trị hay văn nghệ nào lung lạc, cám dỗ, làm mất sự bình tĩnh sáng suốt và cá tính đặc biệt của mình, làm cho mình chạy theo một thị hiếu nhất thời nào của quần chúng và a dua một quyền thế bất cứ do phía nào đến.
 
“Phê bình là một nghệ thuật tổng hợp; nó đòi hỏi hai điều kiện dường như mâu thuẫn này mà thật sự không mâu thuẫn, là một mặt phải có cái thiên tư nhạy cảm biết vượt ra khỏi cái người của mình để theo dõi mà không làm méo mó tư tưởng kẻ khác; mặt khác, là bao giờ cũng giữ được mãi dấu vết của một bản ngã tân kỳ độc đáo của mình mặc dù trong lúc mình buông lỏng tâm hồn theo tư tưởng kẻ khác”[24].
 
Jules Lachelier khuyên ta: “Muốn biết rõ một học thuyết nào, điều kiện đẩu tiên là phải vào trong đó, và điều kiện kế đó là phải ra khỏi đó”. Có “nhập” rồi phải có “xuất”, đó là chỗ khó khăn và uyển chuyển nhất của nhà phê bình.
 
***
 
Phê bình là để chống lại cái nạn “máy móc tâm hồn” của độc giả thường sống vô tâm và quá máy móc theo những thành kiến, chỉ chịu nhận những gì hạp với lòng ưa thích riêng tư của mình thôi. Nhà phê bình là người luôn luôn sáng suốt, có bổn phận đánh thức độc giả để giới thiệu, làm cho họ hiểu được những việc hết sức tấm thường của cuộc đời. Sự ưa thích của quần chúng thiếu học thường là sự ưa thích một chiều và hạn định trong một hệ thống tư tưởng nào. Nhà phê bình làm nới rộng nhãn quan của họ, hướng dẫn họ vào những chân trời mới lạ...


***

Nhưng, trước khi tự mình làm được công việc giải thoát con người ra khỏi sự “máy móc tâm hồn”[25] thì trước nhất phải chống lại với “máy móc” ngay chính ở tâm hồn của mình. Nghĩa là hãy chống lại với thành kiến của mình, nhất là cái thành kiến tự tôn tự đại cho rằng “chỉ có mình là có lý mà thôi”. “Cái thói cho mình là có lý, cái hình ảnh méo mó và đẩy kiêu căng của thứ con người luôn luôn cho mình là có lý: có lý khi đứng, có lý khi nằm, có lý khi uống, ai cùng một ý với ta là phải, ai không cùng một ý với ta là quấy (...). Nhà phê bình chỉ đem những gì kẻ khác đã nói để mà bàn trong vài trăm hàng chữ một công trình mà tác giả của nó đã phải cần cù nhẫn nại làm việc suốt trên hai ba năm, hoặc năm mười năm mới xong. Họ phê phán theo những gì mà tác giả đã chỉ dạy cho họ biết, họ leo lên vai người ta để mà giảng dạy lại, lên giọng thầy đời; nhờ ở địa thế đó (nhờ đứng trên vai người) mà họ đã làm cho ai ai cũng tưởng dường như họ là người cao lớn hơn, hiểu biết hơn, có thể làm còn giỏi hơn nhiều”[26]. Nói thế, Albert Thibaudet muốn bảo rằng những nhà phê bình có thói cho rằng mình bao giờ cũng có lý và thích làm “thầy đời” ấy, bắt chước “thằng lùn leo lên vai người cao lớn” lại còn vỗ vào đầu anh khổng lồ mà bảo: “Tao cao hơn và ngó xa hơn mày!”
 
Đối với hạng nhà phê bình trên đây, học lỏm những điều nghiên cứu học hỏi của người, để rồi lên mặt thầy của người mà sửa dạy lại, Socrate đã phải mắng họ như thế này: “Này anh bạn! Anh dốt đặc lại còn đi dạy ai nữa, cái học mà anh đã phải đi học của người ta! Anh đi dạy người thông thái ư? Hay đi dạy người dốt nát? Cái việc mà anh có thể giúp được kẻ dốt nát hơn anh đó là anh dạy họ dốt thêm bằng ba cái dốt của trước kia. Là vì trước hết, họ cũng vẫn dốt; kế đó, tưởng rằng anh đã biết, họ đâu có dè là anh cũng dốt như họ; và sau cùng, tưởng rằng anh đã dạy họ được điều gì thì té ra họ cũng vẫn còn là dốt”.
 
Montesquieu, trong bài tựa quyển Vạn Pháp Tinh Lý (l‟Esprit des lois), có viết: “Tôi xin mọi ân huệ mà tôi sợ người ta không ban cho tôi: là đừng có phê phán một công trình hai mươi năm bằng sự chỉ đọc qua trong một lúc”.
 
Chính nhà phê bình Brunetière, trong tờ Le Temps, ngày 5 tháng 2 năm 1905, cũng tự thú một cách ngạo nghễ rằng: “Tôi đọc sách nhiều lắm, tôi đọc mau và tôi lại nhớ dai lắm. Như sáng này... tôi đã đọc trong hai tiếng đồng hồ tác phẩm của ông Anatole France vừa xuất bản chiều hôm qua, tên là Sur la Pierre Blanche. Tôi đã đọc nó để có thể kịp trình bày, nghĩa là để phân tích nó, bình giảng nó, phê bình nó”.
 
Khủng khiếp chưa?
 
***
 
Mặc dù, cũng có nhiều nhà phê bình văn nghệ tinh thâm lắm, chỉ trong một cái nhìn qua là đã nhận thấy ngay chỗ hay, chỗ dở cùng những khiếm khuyết của một tác phẩm như các nhà phê bình hội họa, chúng ta không nên quá tin tưởng nơi cái “khiếu phê bình” nhạy cảm phi thường ấy của các nhà nghệ sĩ lão luyện. Ta cần nhiều thận trọng, để đừng bất công đối với bất cứ một tác phẩm nào. Muốn có được luồng mắt sâu sắc tinh tế, các nhà phê bình lão luyện đã tốn không biết bao nhiêu công phu mới đến mức sành sỏi như thế. Một nhà phê bình thơ, ít ra phải là người rất thích làm thơ và đã vất vả nhiều trong nghề làm thơ. Vậy muốn làm nhà phê bình, trong khi tập sự, không nên có những thái độ ngạo nghễ tự thị như những kẻ lành nghề.
 
***

Lại còn một vấn đề nữa mà nhà phê bình không nên xem thường: Vấn đề thành công. Nghĩa là tác phẩm có được người đồng thời hoan nghênh hay không? Có nhiều tác phẩm tầm thường, thế mà vừa xuất bản là bán chạy rất mau, trái lại, có nhiều quyển sách giá trị lại bị kẻ đồng thời không ai để ý.
 
Không thể vịn vào lẽ bị kẻ đồng thời thờ ơ lãnh đạm mà vội cho rằng tác phẩm không giá trị gì cả.
 
Cũng không thể vịn vào việc sách bán chạy mà cho rằng tác phẩm là hay. André Maurois nói: “Được hoan nghênh hay không được hoan nghênh cũng không chứng minh rằng tác phẩm ấy là hay hoặc dở gì cả”. Như trường hợp của Stendhal (1783-1842). Ông viết: “Tôi sẽ có độc giả vào khoảng 1880”, là lối 50 năm về sau. Nhưng sự thật đến nay, sau hơn một thế kỷ, độc giả của ông vẫn càng ngày càng tăng vùn vụt. Quyển Le Rouge et le Noir của ông bị kẻ đồng thời “im hơi lặng tiếng” đâu phải vì nó là một tác phẩm dở, không giá trị gì cả, mà trái lại là khác!
 
Francisque Sarcey, trong Quarante ans de Théâtre có viết: “Đối với tôi, một tác phẩm được hoan nghênh không đủ chứng minh nó có giá trị, nhưng ít ra nó cũng chỉ cho ta thấy rằng giữa tác phẩm và lòng ưa thích của quần chúng có nhiều quan hệ bí mật mà ta cẩn phải chú ý để tìm ra”. Nghĩa là sự được hoan nghênh của một tác phẩm ít ra cũng chứng tỏ cho ta biết rõ trình độ độc giả của đương thời hoặc xu hướng chung của thời buổi là như thế nào. Một quyển sách mà bán chạy là vì nó đã “đáp đúng những câu hỏi cấp thời của quần chúng”, và có lẽ cũng chỉ có thế mà thôi. Muốn đánh giá nó, phải đứng về một khía cạnh khác.
 
***
 
Nhà phê bình cần phải biết vượt lên những ưu thích riêng tư của mình để xét đoán những tác phẩm mà mình không ưa thích, nghĩa là nhà phê bình không nên đọc sách như một độc giả thường kia. Độc giả thường chỉ chịu đọc những gì họ thích; họ không bao giờ có đủ can đảm đọc những gì họ không ưa.
 
Nhà phê bình đứng đắn và xứng đáng với danh từ ấy không nên quan niệm sự tận thiện của một tác phẩm tiểu thuyết theo những loại tiểu thuyết mà mình ưa thích, và căn cứ vào sự ưa ghét riêng của mình về một loại tiểu thuyết nào đó để chống đối một văn nghệ sĩ có một quan niệm mới lạ. Lòng thông cảm của họ phải mở rộng đối với tất cả mọi văn phẩm, và phải biết khen những tác phẩm mà riêng họ tuy không thích, nhưng có giá trị thực sự.
 
Có nhiều nhà phê bình lại đi làm cái việc của một độc giả thường kia thôi, nghĩa là nếu họ không thích thì họ “rầy rà” đủ điểu: Chê nào là lạc hậu, là phong kiến, là phản tiến hóa, là không kịp thời... vân vân và vân vân. Người đọc sách mà chỉ tìm những gì mình ưa thích theo cái chiều hướng tự nhiên của tâm hồn mình, dĩ nhiên sẽ đòi hỏi nhà văn phải đáp ứng với lòng nguyện ước của họ: họ sẽ khen đáo để những quyển sách nào thỏa mãn được họ, và chê không tiếc lời những sách họ không ưa thích.
 
Nhà phê bình không nên đọc sách như thế, mà cần đòi hỏi nơi tác giả phải cho ta những tác phẩm hợp với thiên tài, hợp với lập trường tư tưởng và tính khí của họ một cách tài hoa. Nhà phê bình phải biết thưởng thức cái đẹp của mỗi loài hoa và đòi hỏi cây nào phải trổ hoa nấy với những mùi thơm và màu sắc đặc biệt của chúng với cả những “gai nhọn” của chúng nếu có.
 
Tóm lại, nhà phê bình văn học không phải là một vị quan tòa; cũng không phải là một nhà giáo, thích dạy học và cho điểm tốt những học sinh nào vừa lòng hợp ý mình và rẩy la mắng chửi nếu chúng tỏ ra cứng đầu, khó dạy. Sự thật, “sứ mạng của họ là phục vụ, và có thể tóm lại trong ba điểm này: hiểu biết, soi sáng và truyền bá”[27].

Bấy nhiêu cũng đủ thấy làm được một nhà phê bình đứng đắn đâu phải là một chuyện dễ, và ai ai cũng có thể làm được. Mà trái lại, nó phải là “công phu quan sát và học hỏi của suốt một đời người”, thành công rất ít mà thất bại rất nhiều. Là vì, muốn xứng đáng là một nhà phê bình, chẳng những phải có tài cao mà cũng cần đức rộng.

---------------------------------
(còn tiếp)
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
Reply
#4
Tôi nhớ Kim thánh Thán phê bình trong Thuỷ Hử, từ đầu đến cuối toàn là phê phán, không 1 lời nói tốt   :78: 

Lol
Reply
#5
(2018-06-27, 10:53 PM)RungHoang Wrote: Tôi nhớ Kim thánh Thán phê bình trong Thuỷ Hử, từ đầu đến cuối toàn là phê phán, không 1 lời nói tốt   :78: 

Lol

RungHoang đọc sách cũng nhiều quá ha.
KTT hình như được xếp number one trong 7 nhà văn nổi tiếng thời đó phải không?
Cheer
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
Reply
#6
MỘT VÀI BÀI PHÊ BÌNH MẪU

 
Để các bạn ý thức được thế nào là phê bình đứng đắn, xin chép lại sau đây một vài bài phê bình có thể xem là tiêu biểu, giúp các bạn tham khảo thêm.
 
***
 
1. Phê bình bài Thời Gian của thi sĩ Xuân Diệu.
 
Thời Gian
 
Dưới thuyền nước trôi;
Trên nước thuyền chuồi,
Và nước, và thuyền
Xuôi dòng đi xuôi.
 
Nước không vội vàng
Cũng không trễ tràng.
Thuyền không chậm chạp
Nhưng không nhẹ nhàng.
 
Nước trôi, vô tri
Vô tình, thuyền đi.
Nước không biết thuyền,
Thuyền biết nước chi?
 
Cứ thế luôn ngày,
Trôi mà như bay
Nước thuyền đi mãi
Luôn trong đêm dài.
 
Trăng thu gió hè,
Đổi bờ thay đê,
Nước, thuyền xuống biển
Thuyền không trở về...
 
Nước cũng mất luôn...
Nhưng nước còn nguồn:
Thuyền chìm trong lúc,
Đêm ngày nước tuôn...
 
Xuân Diệu
 
 
Cảm sinh tình. Tình cảm khởi mà ý thức nối theo. Ý thức hoặc có khi chìm lặn, lặng lẽ trong lúc tình cảm dồn dập, bập bùng. “Xuôi dòng đi xuôi” theo tình cảm, cảm lại người, thời là Thơ. Trấn áp tình cảm đi, đừng biểu lộ tình cảm chi, thì tất nhiên lặng.
 
Nguyệt giọi vào song, rằng: Nguyệt giọi vào song là ý thức khởi, mà tình cảm chìm. Cầm ý thức lại, đưa tình cảm ra, nhà thi sĩ sẽ coi trăng có linh động, có tâm hồn, cũng như tâm hồn thi sĩ, mà nguyệt giọi vào song lại hóa ra “nguyệt dòm song”.
 
Thơ điên đảo cả liên quan của vũ trụ. Thơ cũng tình cảm nhịp nhàng.
 
Nhà thơ cười nhà triết học khô khan. Nhà triết học kinh dị cho nhà thơ luống thụ động.
 
Cái sức gắng gượng để tự mình cầm bắt lấy mình, tôi thấy thi sĩ Xuân Diệu triển diễn ra trong bài thơ Thời Gian.
 
Thời gian như nước, “xuôi dòng đi xuôi”. Thời gian như thuyền, trên nước nhẹ nhàng chuồi. Nước xuôi thuyền xuôi liên liên bất phục phản (irréversible).
 
Nhưng mà thời gian vô hình. Nó lẳng lặng âm thầm. Chỉ cảm giác mà lặng nghe nó trôi xuôi, rồi chìm mất luôn, để lại trong ký ức một cái nhớ bùi ngùi buồn tẻ.
 
Hoặc nữa, nó để lại nơi vạn vật những vết điêu tàn, khêu gợi mối u hoài, làm cho thi sĩ cảm thán ra lời xếp lại thành vần thành điệu. “Trăng thu gió hè, đổi bờ thay đê”, đều là ngấn tích của thời gian, đều là sự vô tri vô tình, chỉ nhờ lồng qua cảm giác của thi sĩ mà diễn ra hình ảnh diêu động (mouvant) cảm kích.
 
Thời gian như đêm ngày nước tuôn, tuôn mãi rồi bao nhiêu những cái dấu vết cũng lần lượt tiêu tan, cho đến một cái nhớ cũng không tìm đâu thấy được, khác nào thuyền chìm, mất dầm mất dạng.
 
Thời gian như thế, mọi người đều có thể trực giác mà nhận ra. Duy nói ra, thời không phải mọi người đều nói được.
 
Thi sĩ Xuân Diệu đã đưa lại cho tôi mấy phút say sưa với bài Thời Gian âm điệu nhẹ nhàng, hình ảnh huyền diệu. Ngâm bài Thời Gian tự khắc nhận thấy thi sĩ làm cho thời gian ở chốn mơ màng lờ lệt biểu lộ ra rõ rệt mà lưu động như có tâm hồn.
 
Thơ Xuân Diệu tuyệt ở chỗ ấy.
 
Không muốn đem thời gian của tri lý triết học, hay là của động lực khoa học ra mà so sánh với thời gian trực giác của nhà thơ, tôi chỉ xin tái nhắc chỗ mà nhà thi sĩ trấn áp ý thức để làm cho nổi tình cảm. Nơi nhà thơ Xuân Diệu thì cái cảm tình dấu cho man mác đến đâu cũng không khỏa lấp hẳn ý thức, mà thơ lại vẫn hay, mà tứ lại vẫn dồi dào, khiến nhà triết học không thể ngăn được tâm hồn rung động.
 
Thi sĩ Xuân Diệu nếu đưa cảm tình lên cõi ý thức, hay ngược lại, biết với ý thức xuống khu vực cảm tình, thời cái kỷ nguyên thi ca triết học sau này không ai mở ra mà là ai nữa?
 
Tôi thường phải chê chán với những thơ tình tứ, với những vần thay đổi để thở than ca tụng một cái ái tình không đổi không dời.
 
Nếu không phải anh hờn trách em bội bạc, thời là em buồn tủi duyên phận hẩm hiu, hoặc nữa em em, anh anh càng san sớt cho nhau những nỗi hổi hộp sung sướng của đôi tim hòa nhịp. Cái “để” của phần nhiều bài thơ bấy lâu chỉ là thế.
 
Thi sĩ Xuân Diệu đã xin hướng nghệ thuật thi ca về một đường mới mà khách tài hoa chưa để lại một vần thơ, một nét chữ nào cho nền văn quốc ngữ.
 
Chớ chi tôi có quyền khuyên tôi sẽ trân trọng khuyên thi sĩ Xuân Diệu hãy vững lèo vững lái giong buồm thẳng chốn không người mà thi sĩ đã biết hướng rồi.
 
Phan Văn Hùm
(Giở Chồng Báo Cũ)

***

Ghi chú: Bài "Để Trở Thành Nhà Phê Bình" và "Bài Mẫu Phê Bình" được trích ra từ quyển Để Thành Nhà Văn của cụ Nguyễn Duy Cần.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
Reply